You are on page 1of 31

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................................
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................................
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................................................................
5. Kết cấu của tiểu luận....................................................................................................................
NỘI DUNG.......................................................................................................................................5
Chương I: Một số khái niệm liên quan đến thủ lĩnh chính trị......................................................5
1.1 Khái niệm thủ lĩnh chính trị.......................................................................................................
1.2 Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị...................................................................................
1.3 Vai trò của thủ lĩnh chính trị....................................................................................................
Chương II: Các phẩm chất của Chủ tịch nước Tập Cận Bình.............................................................
2.1 Tóm tắt tiểu sử của Tập Cận Bình....................................................................................13
2.2 Phẩm chất chính trị của Chủ tịch Tập Cận Bình.............................................................15
Chương III: Những ảnh hưởng, tác động của Chủ tịch nước Tập Cần Bình đến Trung Quốc
và thế giới và bài học...............................................................................................................................
3.1 Đối với Trung Quốc...........................................................................................................23
3.2 Đối với thế giới..................................................................................................................24
3.3 Từ hình ảnh của Chủ tịch Tập Cận Bình, Việt Nam rút bài học kinh nghiệm về phương
hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chính trị trong thời kỳ mới................................26
KẾT LUẬN.....................................................................................................................................29
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................................30

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong bất kỳ xã hội nào có giai cấp được tổ chức thành nhà nước
mà hệ thống tổ chức quyền lực giữ vai trò quyết định trong việc thực thi
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị thì ở đó vai trò của thủ lĩnh
chính trị - người đứng đầu là đặc biệt quan trọng, thậm chí quy định cả
tính chất nội dung chiều hướng vận động của quyền lực chính trị.
Nghiên cứu, nhận thức đúng đắng về vai trò, phẩm chất của người thủ
lĩnh chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy vai trò tích cực của
họ đối với tiến trình phát triển của một quốc gia hay thậm chí là thế
giới.

Theo báo cáo của Tập đoàn tư vấn quản lý McKinsey & Co cuối
năm 2021, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành quốc gia giàu nhất thế
giới với tài sản ròng ước tính là 120.000 tỷ USD. Một Trung Quốc ngày
một khổng lồ và vững mạnh như hiện nay không thể không nhắc đến
những đóng góp to lớn của Chủ tịch Tập Cận Bình sau 2 nhiệm kỳ đảm
nhiệm.

Là một quốc gia cũng theo con đường Chủ nghĩa xã hội với mục
tiêu phát triển toàn diện trong tương lai như Việt Nam, chúng ta cần
phải có một đội ngũ lãnh đạo thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có khả năng đưa đất nước tiến tới những mục tiêu đó. Do đó, việc
nghiên cứu những phẩm chất chính trị, những đóng góp và ảnh hưởng
của Chủ tịch Tập Cận Bình có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc rút
ra bài học kinh nghiệm, phát hiện và thay đổi hợp lý phương hướng,
công tác đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp cao tại Việt Nam trong điều
kiện mới của thế giới như hiện nay.

2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích những phẩm chất chính trị, quan điểm lãnh đạo, vai
trò và ảnh hưởng của Chủ tịch nước Tập Cận Bình đến với sự phát triển
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và thế giới từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo tại Việt Nam.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa các khái niệm, nội dung liên quan đến thủ lĩnh chính trị
- Phân tích những đóng góp, đánh giá vai trò và ảnh hưởng của Chủ tịch
Tập Cần Bình đến Trung Quốc và thế giới
- Rút ra bài học kinh nghiệm về công tác, đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo
tại Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề lý luận về thủ lĩnh chính trị và hình ảnh, bản lĩnh chính trị của
Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình.
Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, đề tài tập trung nghiên cứu một
số nội dung cơ bản liên quan đến thủ lĩnh chính trị như khái niệm,
những phẩm chất và vai trò của thủ lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, thông
qua việc nghiên cứu những phẩm chất chính trị và quan điểm lãnh đạo
của Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, tiểu
luận cũng chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế trong quan điểm lãnh
đạo của ông từ đó ta có thể rút ra những bài học giá trị cho quốc gia
cũng đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa như Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở tham khảo các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này, việc nghiên
cứu đề tài áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
3
chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp so sánh, quy
nạp diễn dịch, thống kê, logic.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm có 3 chương
Chương I: Một số khái niệm liên quan đến thủ lĩnh chính trị
Chương II: Phẩm chất chính trị và quan điểm lãnh đạo của Chủ tịch Tập
Cận Bình
Chương III: Những ảnh hưởng, tác động của Chủ tịch nước Tập Cần
Bình đến Trung Quốc và thế giới và bài học cho các thủ lĩnh chính trị ở
các quốc gia theo con đường Xã hội chủ nghĩa.

4
NỘI DUNG

Chương I: Một số khái niệm liên quan đến thủ lĩnh chính trị
1.1 Khái niệm thủ lĩnh chính trị

Nhắc tới xã hội có giai cấp thì không thể không nhắc tới thủ lĩnh chính
trị - người được nghiên cứu với tư cách là hiện tượng đặc biệt của quyền lực
chính trị và thực thi quyền lực chính trị, với tư cách là người đứng đầu trong
hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Với vị thế đấy, người thủ lĩnh chính trị
được xem như là người quan trọng nhất khi là người có thể quy định, tính
chất, nội dung, chiều hướng vận động của quyền lực chính trị. Dù được nghiên
cứu theo nhiều khía cạnh khác nhau, song quan niệm về thủ lĩnh chính trị với
vị trí, vai trò, những phẩm chất của người thủ lĩnh suy cho cùng vẫn mang
những mẫu số chung. Do đó việc lựa chọn thủ lĩnh chính trị với những phẩm
chất cần có vẫn là một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến sự phát
triển nền chính trị của bất kỳ quốc gia nào.

Xét theo khía cạnh lịch sử thì người đầu tiên đưa ra quan niệm về “thủ
lĩnh chính trị” là một nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại tên Xênôphôn. Theo nhà sử
học phương Tây này, bắt nguồn từ việc xem việc cai trị nhà nước là công việc
hệ trọng nhất, ông quan niệm rằng thủ lĩnh chính trị trước hết phải là một
người biết chỉ huy. Người thủ lĩnh chính trị được xem như là người cầm lái
trên con tàu đang gặp nguy hiểm, như người thầy thuốc đang ở đầu giường,
bởi họ chính là những người có thể quyết định đến vận mệnh của một người
hay một vài người và thủ lĩnh chính trị sẽ là người quyết định đến vận mệnh
của hàng triệu người. Thủ lĩnh chinh trị không chỉ là người mang vương
trượng bên mình, là người chỉ biết dùng đến bạo lực hay mưu mẹo để giành
lấy quyền lực mà còn phải là người chỉ huy giỏi, giỏi kỹ thuật, khéo léo trọng
thuyết phục và khiến người khác rung cảm trong diễn thuyết. Hơn hết, dù ở
5
thời đại nào thì theo ông, thủ lĩnh chính trị phải là người biết hướng đến lợi
ích chung, tận tậm phục vụ quần chúng và bảo vệ lợi ích của nhân dân, là
người biết hợp nhất và nhân lên sức mạnh của mọi người. Sự thiên tài của thủ
lĩnh chính trị không phải tự nhiên mà có, mà nó sinh ra từ sự kiên nhẫn lâu
dài, từ khả năng chịu đựng với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh
liêm, biết kiềm chế, thích lao động và phải luôn rèn luyện, tu dưỡng bản thân.
Với quan điểm biện chứng mà Xênôphôn đưa ra đã xóa bỏ quan điểm cho
rằng thủ lĩnh chính trị là người đại diện cho một thế lực khác, là sự định đoạt
của số phận. Đây cũng chính là quan điểm về nhà lãnh đạo trong thời buổi
hiện nay.

Còn theo nhà triết học người Athen, Platon- người theo quan điểm
“chính trị là sự cai trị” thì ông lại đặc biệt chú ý tới “trí tuệ” và “nghệ thuật”
trong cai trị: chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, nếu thiếu trí tuệ chính
trị chỉ còn là bạo lực cưỡng chế thô thiển. Vì chính trị quyết định các vấn đề
của toàn xã hội nên nó phải là một khoa học và một nghệ thuật cai trị. Do đó,
phải lựa chọn thủ lĩnh - những người có phẩm chất ưu tú để cầm quyền và
lãnh đạo chính trị. Và nghệ thuật mà Platon nói đến ở đây chính là là nghệ
thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Quan điểm này của
Platon cũng nhận được sự ủng hộ của Ralph W. Emerson, một nhà tư tưởng
người Mỹ thế kỷ XIX khi ông cũng cho rằng: “Một cộng đồng chỉ cần có một
người thông thái thì tất cả mọi người sẽ trở nên thông thái nhờ sức cảm hóa
của người đó.” Từ hai nhận định của Xênôphôn và Planton trên ta thấy rằng
trở thành một thủ lĩnh chính trị tốt không là một người chỉ có trí tuệ, có năng
lực lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng mà còn phải là một người có sức ảnh
hưởng, lan tỏa tích cực đến người khác, đặc biệt là đến cộng động của mình.

6
Với nhà bác học thiên tài Arixtot, người coi cơ cấu giai cấp - tầng lớp là
cơ sở để đưa ra đánh giá về các loại hình thể chế coi trọng vai trò của tầng lớp
các công dân sung túc cho rằng họ là người duy nhất quản lý thành ban, theo
ông thủ lĩnh chính trị phải là người thuộc tầng lớp trung lưu (không giàu, cũng
không nghèo), vì như thế, họ sẽ không bị cuốn hút bởi của cải cũng không bị
đè nén bởi nghèo nàn và âu lo và những người đứng ở trung điểm sẽ uốn mình
theo lời khuyên của trật tự và lí trí.

Còn đứng dưới góc nhìn của một luật sư, một nhà chính trị hùng biện
thì với Xixeron, người làm chính trị trước hết phải được xem xét từ nghĩa vụ
đạo đức, bởi vì quyền lực không chỉ được sinh ra từ cá nhân thực hành nó mà
bởi người dân.Theo ông, giữ trách nhiệm trong đời sống công cộng là chức
năng tốt đẹp nhất, nó cần sự thông thái, kinh nghiệm và sự cao thượng nhất
của phẩm hạnh. Vì thế, chính trị là công việccủa những con người thống nhất
trong mình tài năng và quyền uy, có uy thế tinh thần vàphẩm chất đạo đức.
Thủ lĩnh chính trị khi nắm trong tay quyền lực và bộ máy thực thi quyền lực
nếu không tiết chế bản thân sẽ rất dễ dẫn đến sự tha hóa quyền lực. Nếu không
“có tâm hồn hướng thượng, biết hy sinh vì lợi ích chung, bỏ qua lợi ích tiền
bạc không chính đáng” thì thì chính trị trở thành một công việc “không thích
thú, rất nặng nề, dễ có hậu quả xấu cho bản thân”.

Đối với các quốc gia phương Đông trong lịch sử tư tưởng chính trị thì
Thủ lĩnh chính trị chính là người đứng đầu trong hệ thống bộ máy nhà nước
phong kiến, hay chính là vua (thiên tử). Mạnh Tử quan niệm mối quan hệ vua-
nước- dân theo quan niệm dân vi quý - xã tắc thứ chi - quân vi khinh, ngôi vua
không của riêng bất kỳ dòng tộc nào mà là của thiên hạ, vì thiên hạ, và đặt ai
vào vị trí đó là do dân. Kế thừa quan điểm này, Tuân Tử nói trong Đại lược:
“trời sinh ra dân không phải vì vua, mà ngược lại, trời sinh ra vua là vì dân.”

7
Xét trong bối cảnh lúc bấy giờ , có thể thấy, những tư tưởng nêu trên đã đi
ngược lại những quan điểm được coi là chính thống thời đó như vua là con
trời, là người thay trời hành đạo, ý vua là ý trời hay việc chuyển giao quyền
lực được thực hiện theo hình thức cha truyền, con nối, và không tồn tại việc
lựa chọn thủ lĩnh chính trị. Mặc dù không vậy song đó được xem chính là
những tư tưởng dân chủ sơ khai trong tư tưởng chính trị phương Đông thời kỳ
cổ đại.

Còn với Khổng Tử, ông đã đưa ra học thuyết chính trị bằng đạo đức.
Theo ông, muốn cai trị trước hết phải chính danh - nghĩa là mọi việc cần phải
hợp với cái danh nó mang, và cai trị bằng đạo nhân – là những chuẩn mực ứng
xử giữa người với người. Đánh giá cao vai trò của Chính danh, ông cho rằng
“làm vua phải cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi”, “bề trên thích lễ, thì dân cung
kính, bề trên thích tín thì dân không dám nói sai”.

Từ quan điểm của Mạnh tử, Tuân Tử và Khổng tử ta rút ra kết luận
theo quan điểm của phương Đông vua là nguồn gốc nảy sinh mọi việc, là
khuôn mẫu để dân chúng noi theo, vua là người biết tập hợp, tạo nên sức
mạnh quốc gia, muốn tập hợp được thì vua phải có trí, có nhân. Ai đủ tiêu
chuẩn thì được trời trao. Để đáp ứng yêu cầu đó, một vị vua cần phải có phẩm
chất và phương pháp cai trị để thu phục lòng dân “vui cái vui của thiên hạ, lo
cái lo của thiên hạ”. Để được lòng dân, trước hết phải hiểu dân, phải biết nhu
cầu chính đáng của dân.

Còn Lênin lại cho rằng để đấu tranh thủ tiêu chế độ tư hữu, xây dựng
một xã hội mới nơi nhân dân lao động làm chủ thì thủ lĩnh chính trị, người
lãnh đạo gánh vác một vai trò vô cùng quan trọng. Ông khẳng định:“ Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị (thủ lĩnh

8
chính trị) những đại biểu tiên phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào.”

Mặc dù, những quan điểm nêu trên đều xuất phát từ những lập trường
khác nhau, những đức tính, khả năng, vai trò của người thủ lĩnh chính trị trong
mỗi thời đại khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau nhằm phù hợp với
nhiệm vụ lịch sử của từng giai đoạn. Song ở một vài điểm nào đó, những yêu
cầu đối với người đứng đầu bộ máy nhà nước cũng có nét tương đồng. Từ tất
cả các quan điểm trên ta có thể khẳng định rằng thủ lĩnh chính trị là người có
vai trò đặc biệt quan trọng với những phẩm chất đặc biệt để có thể đáp ứng
được yêu cầu của một hoạt động vừa khoa học vừa nghề thuật như làm chính
trị. Đặc biệt, trong bối cảnh của thế giới hiện đại ngày nay, khi các quốc gia
luôn tồn tại gần gũi và tác động qua lại với nhau thì việc chọn ra được một thủ
lĩnh chính trị càng phải đặc biệt chú trọng vì lúc này thủ lĩnh chính trị không
chỉ ảnh hưởng đến một dân tộc, một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến trật tự
khu vực, trật tự thế giới. Do đó qua một số khía cạnh cơ bản, ta có thể quan
niệm như sau: Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị.
Đó là nhân vật xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong
những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, lý
tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và sử dụng quy luật, có năng lực tổ
chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch
sử đặt ra.

1.2 Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị

Dù đặt ở chế độ xã hội nào và trong bất cứ thời đại nào thì các thủ lĩnh
chính trị cũng đạt được những yêu cầu nhất định về phẩm chất, đó chính là có
trí tuệ, có năng lực đạt tới mục tiêu chính trị đã đề ra, có khả năng cai trị. Thế
nhưng khi đánh giá phẩm chất chính trị của một thủ lĩnh cụ thể, ta không thể

9
áp đặt thước đo chung mà phải xét đến tổng quan toàn diện bức tranh, đó là
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tổ chức xã hội lúc đó và giai cấp mà thủ lĩnh ấy đại
diện vì cho cùng thì thủ lĩnh chính trị là người thể hiện rõ nhất, tiểu biểu nhất
cho lợi ích giai cấp.

Ta có thể đánh giá phẩm chất của một thủ lĩnh chính trị dựa theo 5
nhóm sau

Thứ nhất, về trình độ hiểu biết: người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải
là người thông minh, có trình độ hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nắm vững
được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình làm chính trị, làm
chủ được khoa học và nghề thuật lãnh đạo, quản lý.

Thứ hai, về phẩm chất chính trị: Thủ lĩnh chính trị phải là người giác
ngộ lợi ích giai cấp, thể hiện tập trung, tiêu biểu cho lợi ích giai cấp; trung
thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn; dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai
cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những bước phát triển phức tạp,
quanh co của lịch sử

Thứ ba, về năng lực tổ chức: Thủ lĩnh chính trị là người có khả năng
về công tác tổ chức, nghĩa là, biết đề ra mục tiêu đúng; phân công đúng chức
năng cho cấp dưới và cho từng người, biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính
trị; có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động; có khả năng
kiểm soát, kiểm tra công việc.

Thứ tư, về đạo đức, tác phong: Thủ lĩnh chính trị phải là người có tính
trung thực, công bằng, không tham lam vụ lợi; cởi mở và cương quyết, có
chính kiến; có lối sống giản dị, có khả năng giao tiếp và tạo mối quan hệ tốt
với mọi người; biết lắng nghe ý kiến của người khác, có lòng tin vào chính

10
bản thân mình; có khả năng tự kiểm tra bản thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ
uy tín của mình; có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới.

Thứ năm, về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc
cao; có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo, nhạy cảm và năng
động; biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.

1.3 Vai trò của thủ lĩnh chính trị

Khác với những nhân vật chính trị khác như người công dân, người hoạt
động chính trị chuyên nghiệp, vai trò của những thủ lĩnh chính trị có tác động
rất lớn đến tiến trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, theo điều kiện lịch sử,
vị thế của giai cấp hay tầng lớp sản sinh ra người cầm đầu mà vai trò của thủ
lĩnh chính trị có thể là tích cực hay tiêu cực.

Vai trò tích cực: vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị chỉ xuất hiện khi
giai cấp sản sinh ra thủ lĩnh là tiến bộ, hoạt động của thủ lĩnh phù hợp với
quy luật khách quan, với tiến trình phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện
vọng và lợi ích của quần chúng. Đó chính là lãnh tụ của quần chúng vì có như
vậy.

Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị được thể hiện ở những điểm sau:

- Nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ lĩnh
có vai trò quyết định trong việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức quyền lực mà
chính họ là linh hồn của hệ thống đó, hướng hệ thống quyền lực phục vụ việc
thỏa mãn nhu cầu của xã hội, của giai cấp, góp phần tạo động lực thúc đẩy xã
hội phát triển.

- Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần
chúng thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu

11
tranh chính trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù hợp với
nhu cầu xã hội và lợi ích giai cấp.

- Với tầm nhìn xa, trông rộng cho nên người thủ lĩnh chính trị không những có
khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào; mà còn có khả năng
đưa phong trào vượt qua những khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi
mục tiêu chính trị đã đề ra như Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản
Việt Nam đưa nước ta vượt qua tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” năm 1946,
giành thắng lợi trước thực dân Pháp.

- Thủ lĩnh chính trị giữ vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại
hiệu quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng. Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ của thời đại đặt ra, thủ lĩnh chính trị đi vào lịch sử,
sống trong tâm tưởng của thời đại sau.

Điều kiện thực tế để trở thành một thủ lĩnh chính trị
- Có một chương trình, cương lĩnh chính trị có thể mang lại một sự
thay đổi có lợi cho nhóm, giai cấp mà mình đại diện và biết đấu
tranh để thực hiện nó.
- Biết thu hút quần chúng, làm cho quần chúng biết đến
- Có thời gian và cơ hội để chứng tỏ phẩm chất, năng lực thủ lĩnh
của mình,
- Biết thay đổi hành vi, tính cách cá nhân theo yêu cầu của nhóm
nhưng không làm mất đi cá tính, nhân cách độc đáo và tính tích cực
chính trị riêng của mình

Vai trò tiêu cực: vai trò tiêu cực của thủ lĩnh được thể hiện qua việc

- Thiếu tài, kém đức, không có khả năng lãnh đạo phong trào, không biết
“chớp thời cơ, vượt thử thách”, bối rối trước những bước ngoặt lịch sử, thậm

12
chí trở thành phản động ví dụ như lịch sử ghi nhận sự phản bội của
Goócbachốp không chỉ ảnh hưởng đến Liên Xô mà còn khiến chủ nghĩa xã
hội thoái trào.

- Không xuất phát từ mục tiêu chung mà là vì tư lợi riêng, động cơ không
trong sáng, gây mất đoàn kết hệ thống, làm giảm hiệu quả giải quyết nhiệm
vụ, mục tiêu, vai trò sức mạnh của tổ chức.

- Phong cách làm việc độc đoán, chuyên quyền, năng lực hạn chế dẫn đến các
nguyên tắc dân chủ trong tổ chức bị tước bỏ, vi phạm nhân quyền, phong trào
thiếu động lực và sinh khí để phát triển.

Chương II: Các phẩm chất của Chủ tịch nước Tập Cận Bình
2.1 Tóm tắt tiểu sử của Tập Cận Bình
Tập Cận Bình sinh năm 1953 là con trai của Tập Trọng Huân- nguyên
Phó Thủ tưởng Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông. Năm 1962, cha ông
bị buộc tội là thành phần chống Đảng, năm 1969, sau khi cha bị đưa vào tù,
chàng thanh niên 16 tuổi không có sự bảo bọc của cha mẹ đã bị đưa về nông
thôn theo phong trào “Lên núi- xuống quê”. Lúc này phần lớn các sinh viên
đều có thái độ tiêu cực đối với sự sắp đặt xuống nông thôn tiếp nhận việc cải

13
tạo dưới bàn tay của nông dân và người lao động cho nên có lần Tập Cận
Bình cũng tự ý quay về Bắc Kinh, thế nhưng cuối cùng ông lại quay trở lại
Diên An, Thiểm Tây, cố gắng rèn luyện và sau lần ứng tuyển thứ 10 năm
1974, ông được kết nạp vào Đảng Trung Quốc. Năm 1975 ông trở thành sinh
viên của trường đại học Thanh Hoa ngành kỹ thuật hóa học, sau khi tốt
nghiệp cũng là lúc thời đại mới bắt đầu, phần tử tri thức bắt đầu có vị thế,
ông được chọn để trở thành thư ký cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cảnh Tiêu-
đây cũng chính là một nấc thang chính trị rất quan trọng trong sự nghiệp của
ông. Năm 1982, Tập Cận Bình quyết định đi lên từ cơ sở bằng việc rời Quân
ủy Trung ương đến một thành cổ vừa nghèo, vừa xa xôi hẻo lánh và ông khởi
đầu sự nghiệp chính trị của mình tại đây. Càng nghiên cứu về cuộc đời Tập
Cận Bình càng cho thấy những trải nghiệm tuổi thơ đã đóng vai trò rất quan
trong trong việc hình thành tính cách và phẩm chất chính trị của người thủ
lĩnh này.

Con đường trở thành thủ lĩnh chính trị

Sau khi tốt nghiệp đại học Thanh Hoa năm 1979, ông trở thành thư ký
cho Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, sau đó ông giữ chức Phó bí thư huyện Chính
Định tỉnh Hà Bắc năm 1982. Tại đây, ông lập nên chính tích quan trọng cho
Chính Định trong 3 năm bằng việc phát triển điểm du lịch “Vinh Quốc Phủ”.

Năm 1985 ông Tập được điều đến tỉnh Phúc Kiến giữ vai trò là quản lý
đặc khu kinh tế thành phố Hạ Môn với chức vụ Ủy viên Thường vụ kiêm Phó
thị trưởng thành phố. Sau Hạ Môn, ông trở thành Bí thư huyện ủy ở Ninh
Đức, một thành phố tương đối nghèo ở miền đông bắc Phúc Kiến.

Từ 1990 - 1993, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Bí


thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch HĐND thành phố Phúc Châu.

14
Từ 1993 - 1995, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Bí
thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch HĐND thành phố Phúc Châu.

Từ 1995 - 1996 Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến,  kiêm Bí thư TP.
Phúc Châu Và Chủ tịch HĐND TP. Phúc Châu

Từ 1996 - 1999, Tập Cận Bình giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc
Kiến

Từ 1999 – 2000, ông là Chủ tịch lâm thời tỉnh Phúc Kiến

Từ 2000 – 2002, ông là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng tỉnh Phúc Kiến

Năm 2002, ông đạt tấm bằng tiến sĩ luật và hệ tư tưởng tại đại học
Thanh Hoa

Từ 2002 - 2003, ông là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng tỉnh Chiết
Giang

Từ 2003 – 2007, ông là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Chiết
Giang

Năm 2007, ông là Bí thư Thành ủy Thành phố Thượng Hải. Tháng 10
cùng năm, tại Đại hội 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông được bầu làm Ủy
viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương kiêm nhiệm Hiệu
trưởng Trường Đảng Trung ương

Ngày 15 tháng 03 năm 2008, Tập Cận Bình được Đại hội Đại biểu
nhân dân toàn quốc bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa.

15
Ngày 18 tháng 10 năm 2010, Tập Cận Bình được bầu làm Phó Chủ tịch
Quân Ủy Trung ương - đây là cơ quan chỉ đạo và quyết định mọi đường lối
quân sụ của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí thư
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban Quân sự
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Ngày 14 tháng 3 năm 2013, Tập Cận Bình được bầu làm Chủ tịch nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa.

2.2 Phẩm chất chính trị của Chủ tịch Tập Cận Bình
a. Trình độ hiểu biết
Thời tiểu học, Tập Cận Bình học tại trường tiểu học 101 Bắc Kinh, sau
sự việc của cha và ảnh hưởng của cách mạng văn hóa làm thời gian học trung
học của ông đã bị gián đoạn. Từ 1975 đến 1979, ông theo học ngành công
nghệ hóa học tại Đại học Thanh Hoa trong “lớp học công nông binh đầu tiên”.
Lúc đấy ông dành thời gian nghiên cứu Chủ nghĩa Mac-Lenin, Tư tưởng Mao
Trạch Đông, làm việc đồng áng và học hỏi Quân đội Giải phóng nhân dân. Từ
năm 1998 tới 2002, Tập Cận Bình đã học lý thuyết chủ nghĩa Marx và tư
tưởng giáo dục tại Đại học Thanh Hoa và nhận tấm bằng tiến sĩ luật và hệ tư
tưởng vào năm 2002

b. Phẩm chất chính trị


Những sáng tạo mới về lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc trong tư tưởng Tập
Cận Bình:

Trong điều lệ ĐCS Trung Quốc đã ghi nhận: “Tư tưởng Tập Cận Bình
về CNXH đặc sắc Trung Quốc thời đại mới là sự kế thừa và phát triển của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Mao Trạch Đông, Lý luận Đặng Tiểu Bình,

16
Tư tưởng quan trọng Ba đại diện, Quan điểm phát triển khoa học; là thành
quả mới nhất của Trung Quốc hóa Chủ nghĩa Mác; là kết tinh trí tuệ tập thể
và kinh nghiệm thực tiễn của Đảng và nhân dân; là bộ phận hợp thành quan
trọng của hệ thống lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc, là chỉ nam hành động
toàn Đảng và nhân dân toàn quốc phấn đấu thực hiện phục hưng vĩ đại dân
tộc Trung Hoa, cần phải kiên trì lâu dài và không ngừng phát triển” . Tập
Cận Bình đã kế thừa những nội dung đã được các thế hệ lãnh đạo trước đây đề
cập đến, bổ sung và hoàn thiện hơn, thêm 2 chữ “tươi đẹp” vào mục tiêu phấn
đấu hiện đại hóa của Trung Quốc, thêm nội dung “văn minh sinh thái” trong
xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc và nâng lên thành Bố cục tổng thể “Ngũ
vị nhất thể ” (Năm trong một) cùng với Bố cục chiến lược “Bốn toàn diện”
thành hệ thống lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc trong giai đoạn mới; lần
đầu tiên đặt vấn đề xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại; đặc biệt
coi trọng công tác xây dựng Đảng, đặt xây dựng chính trị vào địa vị trọng yếu
của xây dựng Đảng. Hai nội dung hạt nhân “Tám điều cần làm rõ” và “Mười
bốn điều kiên trì” của Tập Cận Bình chính là “phương lược cơ bản” của ĐCS
Trung Quốc trong việc kiên trì và phát triển CNXH đặc sắc Trung Quốc thời
đại mới

Tư tưởng Tập Cận Bình có hạt nhân là “lấy nhân dân làm trung tâm”;
với hai trụ cột là “cường Đảng, cường quân”; ba chỗ dựa quan trọng là sự tự
tin dân tộc, sự tự tin của bản thân và sự tư vấn của một đội ngũ chuyên gia có
trình độ cao. Đặc biệt, việc ông quyết đoán khi thực hiện không có vùng cấm
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã nhận được sự ủng hộ của người
dân. Sự ủng hộ của nhân dân đã giúp ông có được uy tín, tạo được thế và lực
khi xử lý những vấn đề khó khăn, thách thức cả trong lĩnh vực đối nội và đối
ngoại đang diễn biến hết sức phức tạp hiện nay.

17
c. Năng lực tổ chức
Tập Cận Bình là nhà lãnh đạo táo bạo và độc đoán khi dám giương cao
ngọn cờ cải cách và chống tham nhũng với chiến dịch đả hổ diệt ruồi, nỗ lực
để cán bộ không dám, không thể và không muốn tham nhũng; củng cố đảng
mạnh mẽ và siết chặt quản lý quân đội với mong muốn chấp dứt sự thống trị
của Mỹ tại châu Á, thúc đẩy toàn đảng giúp gần 100 triệu người Trung Quốc
sống ở các vùng nông thôn thoát khỏi tình trạng nghèo đói cùng cực kể từ khi
ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012. Ông cũng chủ động với nhiều sáng
kiến mới mẻ, hiện đại và có nhiều kế sách để luôn trong tư thế sẵn sàng ứng
phó trước cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung do Washington châm ngòi.

d. Đạo đức tác phong


Có lẽ những ký ức về một tuổi thơ đầy biến cố: bị thẩm vấn nhiều lần,
bị đưa vào trại giáo dưỡng, bị bỏ đói, đi lang thang ngoài phố đã góp phần rất
lớn tôi luyện nên một Tập Cận Bình như ngày hôm nay. Sáng kiến đầu tiên
của Tập Cận Bình là thành lập một lò rèn giúp cho người nông dân từ những
kiến thức về hầm biogaz được ông chúi đầu nghiên cứu trong những cuốn
sách ở chiếc họp gỗ cũ kỹ sau những giờ làm việc mệt nhọc ở Thiểm Tây. Sự
kiên trì hay là “lì lợm” nhường như chưa bao giờ dừng lại với người thanh
niên này khi ông không ngại kể cả khi bị Phong trào Liên minh cộng sản trẻ
Trung Quốc từ chối 7 lần, và chỉ được gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc ở
lần ứng tuyển thứ 10. Chàng thanh niên nghi lực luôn khát khao được học tiếp
và nhường như hoàn cảnh không những không thể làm chùn bước “anh” mà
càng làm “anh” mạnh mẽ và sáng tạo hơn.

Khi là một phó Bí thư của một huyện nhỏ Chính Định, Tập Cận Bình đã
ghi điểm trong mắt người dân bởi lối sống giản dị, chân thật và nghiêm
nhường. Ông sống trong một căn căn hộ tập thể, đứng xếp hàng lấy thức ăn tại
nhà bếp như mọi người, rồi ngồi xuống ghế, lấy đũa, vừa ăn vừa nói chuyện
18
với những người xung quanh, thích đi lại trong huyện bằng xe đạp và trò
chuyện với người dân địa phương. “Nhân duyên tốt” là những lời đánh giá từ
trên đến dưới dành cho ông và có lẽ ông đã sống chan hòa với mọi người như
cách ông đã nói “đoàn kết là tiền đề của thành công”. Đến tận khi đã có địa vị
trong xã hội, ông vẫn giữ một thái độ rất kín tiếng và ôn hòa. Ông đã từng từ
chối lời đề nghị phỏng vấn cá nhân hơn 100 lần, có thể thấy đây là kiểu người
“tân quan nhậm chức ba đốm lửa”, không muốn “chơi trội”, không muốn nổi
bật, khiêm tốn làm người. Chuyện hôn nhân và gia đình của ông cũng được
giấu kín trên các phương tiện truyền thông. Làm quan hơn 2 thập kỷ, không
phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”, song ông vẫn giữ quan điểm “từng
bước một, không theo đuổi sự hoàn hảo”.

Trong công việc Tập Cận Bình thể hiện sự tự tin trong các quyết định,
quyết đoán trong các hành động, điềm tĩnh khi xử lý các công việc trong bối
cảnh tình hình thế giới, khu vực, đất nước và ĐCS Trung Quốc đã và đang có
những biến đổi mới sâu sắc. Chính những phẩm chất, tính cách này đã góp
phần tạo nên thành công của vị thủ lĩnh chính trị này.

e. Khả năng làm việc


Những chính sách, cải cách đặc sắc Trung Quốc mang dấu ấn Tập Cận Bình

Hồi sinh và mở rộng việc truyền bá, thúc đẩy văn hóa truyền thống Trung
Hoa, thắt chặt những văn hóa phẩm “không lành mạnh”:

Tiếp tục phục hồi những đặc tính triết học truyền thống Trung Quốc
thành xu hướng chủ đạo của tư tưởng mới tại Trung Quốc, kêu gọi tinh thần
ca ngợi văn hóa truyền thống quốc gia và sự thành lập của văn hóa Đảng cộng
sản Trung Quốc, hồi sinh lại Hán phục. Bên cạnh đó, ông cũng lên án gay gắt
những hiện tượng văn hóa không đẹp trong giới nghệ sĩ. Sẵn sàng ra lệnh
“phong sát”, đóng băng hoạt động của những nghệ sĩ không làm trọn nghĩa vụ
19
công dân như đóng thuế (VD: Phạm Băng Băng, Trần Luân,...), đời tư bê bối (
VD: Trịnh Sảng, Lý Tiểu Lộ, Ngô Diệc Phàm...). Tập Cận Bình cũng xiết chặt
sự ảnh hưởng của nền văn hóa ngoại lai, đặc biệt là làn sóng Hallyu, tất cả
những phim ảnh, bài báo nào có mục đích cổ vũ đồng tính luyến ai, chuyển
đổi giới tính đều bị nghiêm cấm vì lý do “thô tục, vô đạo đức, không lành
mạnh” làm băng hoại văn hóa truyền thống của đất nước và dân tộc.

Không những thế sau khi đã gia tăng được "sức mạnh cứng", cả trên
bình diện kinh tế và quân sự, Trung Quốc đang dành mối quan tâm lớn hơn
cho "sức mạnh mềm" của mình, đặc biệt là sức mạnh văn hóa, tăng cường
giao lưu đối ngoại, thúc đẩy văn hóa Trung Hoa hướng ra thế giới: thành lập
Học viện Khổng Tử; thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các nước;
xuất khẩu các sản phẩm văn hóa như truyền hình, phim ảnh, âm nhạc… ra
toàn thế giới.

=> sự gia tăng sức hấp dẫn văn hóa sẽ khiến cho các nước khác không thấy
Trung Quốc là “một mối đe dọa”. Thứ hai, thông qua sự lan tỏa ngày càng sâu
rộng của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là các giá trị mang tính phổ quát cao
của Nho gia, nước này sẽ từng bước tạo thành một loại quyền lực giúp gia
tăng hơn sức cạnh tranh quốc tế.

Cải cách giáo dục với tư tưởng Tập Cận Bình

Kể từ khi nhậm chức vào năm 2012, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình luôn tìm cách củng cố vai trò của đảng Cộng sản Trung Quốc trong mọi
lĩnh vực của xã hội, bao gồm doanh nghiệp, trường học và các cơ sở văn hóa
khác. Giáo dục lý tưởng và niềm tin không chỉ được phát động trong đảng
viên, cán bộ mà phải được phát động trong toàn xã hội. Các trường Đảng, học
viện cán bộ, học viện khoa học xã hội, học viện giáo dục đại học, trung tâm

20
nghiên cứu lý luận,... đều đưa chủ nghĩa Mác trở thành môn học bắt buộc, trở
thành chiến trường quan trọng để học tập, nghiên cứu và tuyên truyền chủ
nghĩa Mác.Năm 2017, Đại hội 19 đảng Cộng sản Trung Quốc nhất trí đưa tư
tưởng Tập Cận Bình vào Điều lệ đảng, nâng vị thế của ông Tập ngang Mao
Trạch Đông, Tư tưởng Tập Cận Bình được đưa vào hiến pháp Trung Quốc
năm 2018. Năm 2021, Bộ giáo dục thông báo đưa Tư tưởng Tập Cận Bình vào
giảng dạy từ cấp tiểu học nhằm tăng cường "quyết tâm lắng nghe và làm theo
đảng Cộng sản Trung Quốc", "vun đắp tình yêu nước" và dạy cách “đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết” cho giới trẻ. Phần mềm dạy "Tư tưởng Tập Cận Bình"
Xuexi Qiangguo đã trở thành phần mềm phổ biến nhất trên điện thoại trong
Trung Quốc thậm chí là trội hơn hẳn những phần mềm truyền thông xã hội
như Weixin và Douyin

Chiến dịch “đá hổ diệt ruồi”

Từ đổi mới chính trị tạo động lực cho đổi mới kinh tế để những góc
khuất của kinh tế không thể được che lấp bằng quyền lực chính trị, tạo ra động
lực thúc đẩy phát triển đất nước. Sự quyết liệt trong phòng chống tham nhũng
và lạm quyền đã làm trong sạch bộ máy công quyền với chính sách tái cơ cấu
nền kinh tế. Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” đã giúp cho việc minh bạch hoá
những “của chìm” - một đặc tính riêng có của những nền kinh tế kế hoạch tập
trung từ đó giúp cho chính quyền trung ương kiểm soát được chính quyền địa
phương, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.

Chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình được thực hiện từ cuối
năm 2012 đến năm 2019 được mở rộng thành chiến dịch "Lưới trời 2019" để
bắt giữ các quan chức tham nhũng trốn chạy ra nước ngoài. Hơn 1,34 triệu
quan chức bị trừng phạt, hơn 3.339 nghi phạm lẩn trốn tại hơn 90 nước và khu
vực, trong đó 628 người là cựu quan chức. Những con số khổng lồ đã phản

21
ánh sự nghiêm túc và quyết đoán của Tập Cận Bình trong việc chống tham
nhũng.

Sáng kiến Vành đai và Con đường

Năm 2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công bố Sáng kiến
Vành đai và Con đường (BRI) nhằm thu gọn khoảng cách nối con đường tơ
lụa cổ đại Trung Quốc với châu Âu qua Nam Á và Trung Đông với nội dung
hướng đến 5 phương diện: chính sách, kết cấu hạ tầng, thương mại, tài chính
và kết nối con người. BRI được coi là một đại dự án của Trung Quốc, hay theo
một số chuyên gia, đây còn là một chiến lược toàn cầu khi mà Sáng kiến này
sẽ là mạng lưới kết nối các tuyến đường bộ, đường biển, đường sắt của
khoảng 65 quốc gia với nhau với tổng GDP khoảng 23.000 tỷ USD, tương
đương 1/3 GDP toàn cầu, liên kết 62% toàn bộ số dân thế giới. So với Kế
hoạch Mác-san mà Mỹ thực hiện nhằm tái thiết châu Âu sau Chiến tranh thế
giới thứ hai thì quy mô và phạm vi của BRI lớn hơn rất nhiều lần.

22
Chương III: Những ảnh hưởng, tác động của Chủ tịch nước Tập Cần
Bình đến Trung Quốc và thế giới và bài học
3.1 Đối với Trung Quốc
a) Những ảnh hưởng tích cực của Tập Cận Bình đến Trung Quốc

Tập Cận Bình chú trọng đến công tác tuyên truyền, tư tưởng, chấn
hưng tinh thần của nhân dân, lấy nhân dân làm trung tâm, gắn phục vụ quần
chúng với giáo dục, hướng dẫn quần chúng, tuyên truyền nhiều hơn các bài
báo về những gương mặt điển hình, những việc làm cảm động trong nhân dân,
kể câu chuyện tốt và xây dựng hình ảnh đẹp của Trung Quốc ở các kênh thông
tin, phương tiện truyền thông đa dạng không chỉ làm phong phú thêm thế giới
tinh thần của nhân dân, tăng cường tình yêu, lòng tự tôn dân tộc mà con lan
tỏa tiếng nói hay, xây dựng hình ảnh tốt đẹp của Trung Quốc trong mắt bạn bè
thế giới. Hơn thế nữa công tác tuyên truyền trở nên sáng tạo, có cảm xúc và
lan truyền mạnh mẽ hơn khi đổi thông điệp từ “chúng tôi muốn nói” thành
“khán giả muốn nghe”.

Đặc biệt chú ý đến giúp đỡ các hộ gia đình thu nhập thấp nhằm chấm
dứt tình trạng nghèo cùng cực, thu nhập khả dụng của cư dân thành thị hiện
nay cao hơn 160% so với dân nông thôn, giảm so với mức 190% năm 2012,
xóa bỏ chính sách 1 con nhằm giảm sự mất cân bằng giới tính lớn tại Trung
Quốc, bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế
cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân

Kể từ khi ông Tập Cận Bình lãnh đạo Trung Quốc vào năm 2012, kinh
tế nước này đã có bước nhảy vọt, với quy mô GDP danh nghĩa đã tăng khoảng
70%, với thu nhập khả dụng bình quân đầu người tăng gấp đôi kể từ 2012. Sau
gần hai nhiệm kỳ, TCB đã đưa Trung Quốc vượt Mỹ và trở thành quốc gia
giàu có nhất thế giới hiện nay.

23
b) Những tác động tiêu cực của Tập Cận Bình đến Trung Quốc

Sai lầm trong công tác truyền thông khi cường điệu quá mức “Giấc
mộng Trung Hoa”, “bóp nghẹt tự do ngôn luận”, “thúc đẩy thói sùng bái cá
nhân xung quanh Tập Cận Bình”, “đối ngoại gây hấn”, “thúc đẩy chiến tranh
lạnh” trong cuộc chiến thương mại với Mỹ. Bên cạnh đó, việc can thiệp quá
mức trong lĩnh vực giải trí như cấm sóng nghệ sĩ nam có hình tượng được cho
là “ẽo lã” cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều vì bị cho rằng vi phạm quyền “tự
do” và tự nhiên của con người.

Kinh tế phát triển nhanh càng kéo dài khoảng cách bất bình đẳng về thu
nhập, giờ đây không chỉ là vấn đề vùng miền mà còn ngay trong chính thành
phố khi rất nhiều người hiện nay làm lùng cả đời vẫn không thể mua được
nhà. Bên cạnh đó, chiến lược Made in China của Tập Cận Bình đứng trước
nguy cơ đổ bể khi ông sử dụng “luật chơi mới” với hành động "khai thác" và
"ép buộc chuyển giao" công nghệ khiến Trung Quốc phải chịu chỉ trích trước
những cáo buột siết chặt thị phần, làm "tê liệt" hoạt động kinh doanh của các
công ty nước ngoài.

Việc Tập Cận Bình xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ đã gây ra làng sóng tranh
cãi dữ dội không chỉ giới trí thức, tầng lớp trung lưu mà còn đối với toàn xã
hội vì đây được cho là hành động tôn sùng quá mức cá nhân, có nguy cơ dẫn
đến chế độ “độc tài”.

Việc thẳng tay trấn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương và nôn nóng
triển khai “hệ thống tín nhiệm xã hội” của Tập Cận Bình bị chỉ trích dữ dội vì
bị cho rằng đây là là tội ác chống nhân loại và là hành vi vi phạm nhân quyền.

3.2 Đối với thế giới


a) Những ảnh hưởng tích cực của Tập Cận Bình đến thế giới và khu vực

24
Ở thế giới, với sáng kiến “Vành đai và Con đường”, Tập Cận Bình đã
mở ra hướng đi mới cho hợp tác quốc tế trong việc xây dựng quan hệ quốc tế
kiểu mới và xây dựng một cộng đồng chung vận mệnh nhân loại; khai thác
động lực mới và mở ra không gian mới cho tăng trưởng kinh tế thế giới; tạo ra
một diễn đàn và cơ hội mới để phát triển quan hệ với các nước. Ông cũng
khẳng định Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động kinh
doanh thêm nhiều lĩnh vực ở mức giữ cổ phần kiểm soát hoặc toàn bộ doanh
nghiệp, tăng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ với quy mô lớn, giảm thuế nhập
khẩu.

Tập Cận Bình đã đề xuất về Sáng kiến An ninh Toàn cầu để thúc đẩy an
ninh trên toàn thế giới. Với sáng kiến này châu Á trở thành điểm tựa cho hòa
bình thế giới, động lực của tăng trưởng toàn cầu và là một mô hình mới cho
hợp tác quốc tế. Ông lưu ý các nước, kể cả trong hay ngoài khu vực, cần theo
đuổi con đường hòa bình và phát triển, tìm kiếm hợp tác cùng thắng và đóng
góp xây dựng một châu Á đoàn kết, cùng nhau tiến bộ.

Đối với khu vực Đông Nam Á, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề
cao các chuẩn mực trong quan hệ quốc tế, hợp tác cùng có lợi, quan tâm chân
thành và chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau và cùng đẩy mạnh hợp tác đa phương khu
vực và thế giới; khẳng định Trung Quốc nhất quán coi trọng ASEAN như một
trọng tâm trong chính sách đối ngoại láng giềng, ủng hộ ASEAN đóng vai trò
trung tâm, có vai trò và vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên thế giới.

b) Những tác động tiêu cực của Tập Cận Bình đến thế giới

Chủ nghĩa dân tộc “thái quá” của Tập Cần Bình dẫn đến sai lầm trong
quan hệ với các nước khi Trung Quốc luôn ỷ vào “sức mạnh” của mình để
thực hiện các cuộc đàm phán ở thế “bề trên”.

25
Với chiến lược “Ngoại giao bẫy nợ” mà Trung Quốc đang áp dụng đối
với một số quốc gia trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã khiến họ rơi
vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” khi cho các nước này vay những khoản
tiền lớn và vượt ngoài khả năng chi trả sau đó lợi dụng nó để giành thế chủ
động gây áp lực cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao và quân sự.

Ngoại giao cơ hội: Trong thời gian dịch Covid bắt đầu bùng phát, Tập
Cận Bình đã cố tình trì hoãn tuyên bố sự lây lan virus từ người sang người,
tiếp đến là việc gây sức ép lên Tổ chức y tế thế giới (WHO) để trì hoãn việc
ban bố tình trạng khẩn cấp y tế công cộng toàn cầu, đã làm dấy lên nhiều chỉ
trích và ngờ vực cũng như làm trầm trọng thêm ảnh hưởng của Covid đến các
nước khu vực và thế giới.

3.3 Từ hình ảnh của Chủ tịch Tập Cận Bình, Việt Nam rút bài học kinh
nghiệm về phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chính trị
trong thời kỳ mới
Là nước láng giềng có nhiểu điểm tương đồng với Trung Quốc, Việt
Nam một mặt tôn trọng mọi sự tìm tòi lý luận và lựa chọn con đường phát
triển phù hợp với tình hình đất nước của ĐCS Trung Quốc; mặt khác, có thể
nghiên cứu tham khảo để hoàn thiện hơn hệ thống CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2030 và công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN vào
năm 2045. Một trong những cách để hiện thực hóa điều đó là nghiên cứu, học
hỏi một cách chọn lọc, rút ra bài học kinh nghiệm về phương hướng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chính trị của Trung Quốc cụ thể từ hình ảnh của
Chủ tịch Tập Cận Bình, ta rút ra những bài học sau:

- Thứ nhất việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo phải xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ của Việt Nam thời đại hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhằm thực hiện thắng lợi
26
mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục
tiêu này cũng chính là tiền đề, điều kiện, yêu cầu môi trường thực tiễn để rèn
luyện, tuyển chọn và đào tạo, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị.

- Thứ hai, cán bộ lãnh đạo phải là người quán triệt quan điểm giai cấp
công nhân của Đảng, biết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thông của
dân tộc Việt Nam, thấm nhuần chủ nghĩa Mac- Lenin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, có tổ chức, tính kỷ luật, phẩm chất chính trị và tác phong nghiêm túc.

- Thứ ba, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị với xây
dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử
dụng cán bộ lãnh đạo chính trị gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng tổ chức
Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ
chế chính sách

- Thứ tư, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng, nâng
cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục và rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chính trị một cách bài bản, chính quy, có hệ thống, đặc biệt
cần quan tâm đào tạo và bồi dưỡng những cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc
trong công cuộc đổi mới, thường xuyên đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn người
có năng lực và tác phong phù hợp nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, bảo đảm
sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của các lãnh đạo chính trị.

27
28
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về thủ lĩnh chính trị nói chung hay bản lĩnh chính trị của
Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nói riêng để làm rõ vai trò và
tầm quan trọng của người thủ lĩnh chính trị đến sự phát triển và tồn tại của
một quốc gia, thế giới. Một người thủ lĩnh chính trị, một người lãnh đạo có
xuất sắc, hội tụ đầy đủ phẩm chất sẽ giúp cho xã hội được phát triển vững
mạnh và người dân tại quốc gia đó được hưởng một cuộc sống ấm no hạnh
phúc. Do vậy, chúng ta cần triển khai nhiều đề tài nghiên cứu các khía cạnh
khác nhau về thủ lĩnh chính trị, không chỉ ở các nước đang theo đuổi con
đường Xã hội chủ nghĩa giống Việt Nam như Trung Quốc mà còn ở các nước
khác trong khu vực và thế giới để quan sát, học hỏi, rút ra được nhiều bài học
trong công tác xây dựng, phương hướng phát triển việc đào tạo các thủ lĩnh
chính trị của đất nước Việt Nam trong tương lai, hướng tới một Việt Nam tươi
sáng, sẵn sàng sánh vai với bạn bè năm châu.

Lời cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng viên
Trần Thị Hoa Lê- người đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt cho chúng em
những kiến thức bổ ích về môn Chính trị học. Do vẫn còn chưa có nhiều kinh
nghiệm và kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận không tránh khỏi những thiết
sót, em rất mong nhận được những lời nhận xét, đóng góp của cô để em ngày
một hoàn thiện hơn. Em xin kính chúc cô có thật nhiều sức khỏe, niềm vui
trong cuộc sống và gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp giảng dạy
của mình.

29
Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt


1. Ban Bình luận, Nhân dân nhật Báo (2020) , Tập Cận Bình kể chuyện,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội
2. GVCC.TS. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), Nhập môn chính trị học, Nxb.
Thời đại, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, “Sửa lối làm việc”, Nxb Sự Thật, Hà Nội
4. PGS.TS. Lưu Văn An (2016). Giáo trình chính trị học nâng cao, Nxb.
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. PGS.TS. Trần Thành (2005), “Sự thống nhất biện chứng giữa năng lực
lãnh đạo quản lý với bản lĩnh chính trị trong hoạt động của người cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở nước ta”, Học viện chính trị quốc
gia
6. Tham vọng siêu cường - được, mất của ngoại giao Trung Quốc trong
“thời đại Tập Cận Bình”, Bộ Công An Học viện Chính trị Công an
Nhân dân. 18/12/2021
7. ThS. Mai Đình Chiến (1996). Chính trị học đại cương, Nxb. Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
8. PGS.TS.Nguyễn Viết Thảo (2020), “Nghiên cứu tổng kết lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin về giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong lịch sử và thời đại ngày nay; đề xuấ bổ sung, phát
triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới, Nxb Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh

30
31

You might also like