You are on page 1of 28

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ..........................................6

1.1 Cuộc đời và tư tưởng của Hàn Phi Tử...................................................................6

1.1.1 Bối cảnh xã hội Trung Hoa thời Hàn Phi Tử...................................................6

1.1.2 Cuộc đời Hàn Phi Tử.......................................................................................8

1.1.3 Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi................................10

1.2 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử:......................................................................11

1.2.1 Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng Pháp gia...............................11

1.2.2 Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử......................11

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ LÊN
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.....................................................................................................14

2.1 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử ở Việt Nam thời phong kiến........................14

2.2 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử ở Việt Nam thời hiện đại..............................15

2.2.1 Bối cảnh xã hội ngày nay..............................................................................15

2.2.2 Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay..................................16

2.2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực.........................................................................16

2.2.2.1 Những ảnh hưởng tiêu cực.........................................................................19

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀO CÔNG
TÁC QUẢN LÝ XÃ HỘI.............................................................................................22

3.1 Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành đất nước......22

3.1 Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý doanh nghiệp..............................24

3.2.1 Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp......................................24

3.2.2 Nhìn từ góc độ nội bộ doanh nghiệp.............................................................25

KẾT LUẬN...................................................................................................................26

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................27

1
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: So sánh thời Xuân Thu và Chiến Quốc.............................................................7

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 1: Hình phát họa chính trị gia Hàn Phi Tử.............................................................9
Hình 2: Bản đồ các nươc thất hùng thời Xuân Thu - Chiến Quốc………...………….10

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TCN: Trước công nguyên

2
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tư tưởng Pháp gia, tư tưởng đóng vai trò quan trọng giúp Tần Thủy Hoàng trong
sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương
dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong thời
gian ngắn vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Bất kì một quốc
gia, dân tộc nào trong lịch sử từ cổ đại đến hiện đại muốn tồn tại và phát triển vững
bền đều phải dựa vào pháp luật và phải thực thi pháp luật một cách có kỷ luật. Và pháp
luật luôn là điều cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội và tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi
Tử luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại.

Việc quản lý tốt hay không, luôn là vấn đề có ảnh hưởng đến sự tồn vong của
một quốc gia, xã hội... Nhưng để quản lý tốt cần phải có những yếu tố nào? Quá trình
phát triển các học thuyết quản lý trải qua hàng nghìn năm những gì tích luỹ của quá
khứ là của cải cho tương lai. Đặc biệt với phong thái quản lý phương Đông, phong thái
rất gần gũi với người Việt Nam. Nổi bật nhất là tư tưởng pháp trị vang bóng một thời
của Hàn Phi Tử. Nhằm mục đích giải thích, giới thiệu tư tưởng Hàn Phi Tử và tìm hiểu
xem tư tưởng đó ảnh hưởng như thế nào trong xã hội cũng như vận dụng vào việc
quản lý chung. Tác giả quyết định chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Pháp trị của Hàn
Phi Tử vào công tác quản lý xã hội”.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Pháp gia với những tư tưởng tiến bộ vượt bậc về phép trị nước, đề cao vai trò của
pháp luật trong quản lý xã hội… đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu lịch sử triết học. Liên quan đến đề tài này, có thể kể đến tác phẩm điển
hình về Hàn Phi Tử đặc biệt của Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi. Mặc khác, do tư liệu ít,
phạm vi bài viết rộng tác giả không đủ khả năng khái quát hoặc đưa ra nhận xét hợp lý
khi kinh nghiệm thực tiễn không nhiều. Tác giả luôn cố gắng hoàn thành đề tài này
một cách rõ ràng nhất, hy vọng có thể đem đến một cái nhìn khác về tư tưởng này
trong công tác quản lý xã hội.

3
3. Mục đích, nhiệm vụ, và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu và hệ thống lại, làm sáng tỏ những phạm trù cơ
bản và những nội dung cốt lõi của Pháp gia, đặc biệt là tư tưởng pháp trị. Và qua đó,
bài viết rút nhận định vào công tác quản lý xã hội, doanh nghiệp ngày nay.
Để đạt được mục đích trên, bài viết thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát lịch sử thời Xuân Thu – Chiến Quốc và cơ sở tiền đề ra đời của
phương pháp Pháp trị của Hàn Phi Tử
- Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Hàn Phi Tử
- Nhận xét và rút ra bài học quản lý trong công tác xã hội Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các
phương pháp phổ biến khác: so sành - đối chiếu, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử…

5. Những đóng góp của đề tài


Bài tiểu luận góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản của tử tưởng Pháp gia
thông qua việc ứng dụng thực tế tư tưởng này vào công tác quản lý xã hội, doanh
nghiệp…
6. Kết cấu tiểu luận
Vào thời kỳ Trung Quốc cổ, các nhà triết học xuất sắc đã đưa ra những giải pháp
khác nhau trong vấn đề quản lý nhà nước. Trong bối cảnh đó, học thuyết Pháp trị của
trường phái Pháp gia, đặc biệt là tư tưởng của Hàn Phi Tử đã được Tần Thủy Hoàng
sử dụng có hiệu quả trong việc thống nhất Trung Quốc và có vai trò rất to lớn trong
việc trị đất nước trong những năm sau đó của nhà Tần.
Tư tưởng pháp trị của Pháp gia tuy có những hạn chế hình thành bởi điều kiện
lịch sử và sự chi phối của lợi ích giai cấp, nhưng nếu biết cách vận dụng thì vẫn có ý
nghĩa để vận dụng vào quản lý đất nước, xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp.
Nội dung tiểu luận gồm 3 chương:

Chương 1: Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử

4
Chương này giới thiệu về bối cảnh lịch sử Trung Hoa, các học thuyết chính trị,
và bối cảnh ra đời của học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử.

Chương 2: Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử lên đời sống xã hội

Chương này giới thiệu tư tưởng Pháp trị lên đời sống xã hồi phong kiến đến xã
hội ngày nay. Mặt tích cực và tiêu cực của tư tưởng Pháp trị trong đời sống xã hội.

Chương 3: Vận dụng tư tưởng Pháp Trị của Hàn Phi Tử vào công tác quản lý xã hội và
quản lý doanh nghiệp

5
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
“Người chết đầy đống, thây chất đầy thành” (Mạnh Tử). Câu nói của Mạnh Tử
nói lên thời kỳ loạn loạn và đau thương chưa từng thấy với hơn năm trăm năm chiến
tranh. Loạn lạc thời nào cũng có, từ đó cũng là tiền đề xuất phát điểm cho những
đường lối chính trị - những phương thuốc nhanh chóng dứt điểm căn bệnh chiến tranh.
Và trong khoảng thời gian này, học thuyết Pháp trị đã xuất hiện, với tư cách là đường
lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, nhanh chóng trở thành ngọn
cờ tư tưởng góp phần đưa sự nghiệp thống nhất nhà Tần đi đến thắng lợi.

1.1 Cuộc đời và tư tưởng của Hàn Phi Tử

1.1.1 Bối cảnh xã hội Trung Hoa thời Hàn Phi Tử

Trong lịch sử Trung Hoa, sự tồn tại của nhà Chu lâu hơn bất kỳ một triều đại
nào. Nhà Chu khởi nguồn ở sông Vị, phía tây nền văn minh Thương. Quan niệm của
nhà Chu khá kì lạ, những đất đai mà họ sở hữu, họ coi tất cả thuộc về thần thánh, còn
họ là những đứa con của thần thánh, vì vậy tất cả đất dai và dân cư đều thuộc về họ. Vì
quan niệm đó, họ sở hữu rất nhiều đất đai, rộng lớn đến nỗi không thể khai thác hết
những đặc điểm vùng miền, dẫn đến các vua nhà Chu đã chia đất đai thành những
vùng riêng biệt và chỉ định những người thân, những người tin tưởng để cai trị vùng
đó, và những người này được gọi là chư hầu. Chư hầu xuất hiện từ thời nhà Chu. Giai
đoạn Đông Chu bắt đầu từ khoảng năm thế kỷ thứ VII (TCN) tới năm (TCN) (Có
nhiều tài liệu ghi chép giai đoạn Đông Chu từ năm 722 TCN tới 256 TCN). Giai đoạn
này có thể chia thành hai thời kỳ:

- Thời Xuân Thu (700 - 403 TCN) từ đời Chu Bình Vương tới gần cuối đời
Chu Uy Liệt Vương.
- Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương tới khi Tần
diệt Tề và thống nhất Trung Quốc.

Sự so sánh về hai thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc (Bảng 1) cho ta thấy công cụ
sắt, ngề canh nông, thuế và đặc biệt là các nhà chính trị lỗi lạc với các tư tưởng xuất
sắc xuất hiện từ rất sớm.

6
Bảng 1: So sánh thời Xuân Thu và Chiến Quốc

Thời Xuân Thu Thời Chiến Quốc


Năm 700 – 403 TCN 403 – 221 TCN
- Ba đại phu nước Tấn: Hàn Kiều,
- Tập trung hóa vào các vua Triệu Tích, Ngụy Tư được vua
Quyền lực nhà Chu. Chu phong hầu (do đó mà sau
Tấn tách ra thành ba nước Hàn,
Triệu, Ngụy).
- Canh nông nhờ đó cũng phát
triển. Thực hiện khuếch trương
canh nông nghĩa là phải vừa cải - Chế độ tỉnh điền được bãi bỏ,
Kinh Tế tiến phương pháp canh tác vừa đồng thời cũng bỏ luôn phép đánh
khuyến khích khai phá đất đai thuế.
mới.
- Đánh thuế người dân.
- Phát triển thêm đồ sơn, đồ thuỷ
- Sắt trở nên thông dụng được
tinh, kỹ thuật đồ gốm, kỹ thuật
Công nghệ đưa vào sản xuất binh khí.
dệt và nhuộm, chế tạo hợp kim,
gương soi.
- Đất đai thì phải chia cắt để - Giai cấp quý tộc cũ lần lần tan
phong cho các chư hầu công rã, không nắm quyền hành nữa,
khanh, nên mỗi ngày mỗi thu và một giới hữu sản mới lên thay:
hẹp lại, chỉ còn trông cậy vào họ là những người khai phá
Chính trị sự cống hiến của các chư hầu những đất mới, những thương
- Vì cái danh nghĩa thiên tử, đôi nhân làm giàu rồi mua đất và
khi còn phải giúp lương thực thành những tân địa chủ
cho chư hầu những năm họ mất - Tư tưởng tiến bộ hơn, và một số
mùa hoặc có chiến tranh. có tài ra làm chính trị.
Nhà chính trị - Quản Trọng, Bách Lý Hề, - Tô Tần, Trương Nghi, Cam
tiêu biểu Ninh Thích … Mậu, Phạm Tuy, Ngô Khởi, Bạch

7
Khởi, Lã Bất Vi, Lý Tư…

Thời đại nào cũng có thịnh suy, sự thay đổi triều đại là một điều không thể tránh
khỏi. Số chư hầu của nhà Chu trước kia còn rất nhiều tới thời Đông Chu (Xuân Thu)
chỉ còn lại trên một trăm, qua thời Chiến Quốc, giảm xuống nữa và chỉ tồn tại chủ yếu
“thất hùng” gồm Tề, Tần, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên mạnh nhất là Tần, Sở, Tề vì đất
đai đã rộng (nhất là Sở) mà tài nguyên lại nhiều. Khi bảy nước này đã phát triển đến
mong đợi thì việc phục tùng nhà Chu là điều không cần thiết nữa, các nước này không
chịu xếp mình vào bậc chư hầu mà tự họ đã xưng vương, tức coi mình ngang hàng với
nhà Chu. Chính điều này đã làm chiến tranh diễn ra liên miên, mục đích chính nhằm
tranh giành đất đai, xưng Đế.

Càng về cuối thời Chiến Quốc, chiến tranh càng tàn khốc, tình hình dân chúng
điêu đứng. Hơn nửa dân phải đi lính, Người ở nhà phải nộp thuế. Những năm được
mùa, dân cũng không được hưởng vì triều đình thu hết lúa để nuôi lính, những năm
mất mùa thì kẻ già, người bệnh chết hàng loạt trên đường, trong ruộng. Chiến tranh
trong hai năm cuối cùng thời Chiến Quốc liên miên bất tuyệt, chỉ tạm dừng ở nước này
hay nước khác để chuẩn bị cho một chiến tranh khác.
Kết thúc giai đoạn Chiến Quốc, Trung Hoa cổ đại được quy về một mối, Tần
Thủy Hoàng thống nhất đất nước và lập ra nhà Tần. Ông là vị vua đầu tiên trong lịch
sử nước Trung Hoa, chiến thắng của Tần Thủy Hoàng không thể không nói đến học
thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, chính học thuyết này đã góp phần to lớn trong việc
giúp Tần Thủy Hoàng tạo ra một đế chế hùng mạnh.

1.1.2 Cuộc đời Hàn Phi Tử

Hàn Phi Tử sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang
thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn. Chân dung Hàn Phi Tử
được (Hình 1.1) được các nhà chính trị theo tư tưởng Pháp gia khắc họa khá rõ.

8
Hình 1. Hình phát họa chính trị gia Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
Trong bảy nước thời Chiến Quốc, nước Hàn của của Hàn Phi Tử “vốn là nước nhỏ,
phải chống sự công kích ở bốn phía, chúa nhục, tôi khổ” (Tồn Hàn, Hàn Phi Tử). Láng
giềng lại có cường Tần hung bạo nên tình hình đã khổ càng thêm khổ, theo Hợp Tung
thì bị Tần đánh, theo Liên Hoành lại bị các nước đánh. Hình 1.2 là bản đồ các nước
thất hùng, nước Hàn là nước khá nhỏ bị cô lập bởi các nước lớn.

Hàn Phi Tử muốn phò vua Hàn nhưng không được trọng dụng, nhiều lần dâng kế
sách nhưng không được sử dụng. Sự đóng góp không được trọng dụng khiến Hàn Phi
Tử rất thất vọng, đây cũng là nỗi niềm chung của các nhà quân sư tài ba nhưng chủ
không thể hiểu thấu.

Hình 2: Bản đồ các nươc thất hùng thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Nhìn thấy sự tài hoa của Hàn Phi nên nhân lúc Vua Hàn sai Hàn Phi Tử đi sứ qua
Tần đã mời Hàn phi ở lại Tần để giúp Thủy Hoàng thực hiện việc thống nhất thiên hạ.

9
Nhưng Hàn Phi chỉ giúp vua Tần được ít lâu. Theo lịch sử, do sự hãm hại của tể tướng
Lý Tư nên Hàn Phi Tử đã bị hãm hại và được vua Tần ban thuốc độc để tự tử.

Hàn Phi Tử thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi
gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa, viết các tác
phẩm Cô Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội
Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Làm,
Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết), tất cả hơn mười vạn chữ. Ông cũng tổng
hợp tư tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết
bộ sách Hàn Phi Tử.

1.1.3 Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi

Các học thuyết “Nhân trị”, "Đức trị", "Vô vi trị"… Tất cả đều được xem xét và
áp dụng nhưng tất cả đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc thời
Xuân Thu - Chiến Quốc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết Pháp trị đã xuất
hiện cứu rỗi thời cục với tâm điểm là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp luật làm
công cụ chủ yếu.

Học thuyết được xây dựng với sự phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho
Gia của Lão Tử. Hàn Phi Tử cho rằng cách cai trị dựa trên tinh thần nhân đức của nhà
cầm quyền là trái với thực tế và nếu áp dụng quan điểm đó sẽ làm loạn đất nước. Đối
với ông, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là sự kỷ luật, một vị vua nắm giữ
chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Hàn Phi Tử cho
rằng nhà vua cũng là người bình thường như bao người khác, cái làm cho đất nước trị
hay loạn không phải do vua mà là do pháp luật của đất nước đó như thế nào. Việc xây
dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật, có pháp luật được thi hành một
cách phổ biến và đúng đắn thì xã hội mới được ổn định, đây là một tiền đề quan trọng
để xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân yên bình.

Với tư tưởng: « Không có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào
luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu ». Vì những suy
nghĩ như vậy ông đã đề xuất tư tưởng « trị nước bằng pháp luật » với chủ trương là
luật pháp không phân biệt sang hèn ». Ông hết sức coi trọng pháp luật và cố gắng xây

10
dựng một lý luận hoàn chỉnh, trong đó lấy « Pháp » làm hạt nhân, và kết hợp chặt chẽ
với Pháp, Thế, Thuật.

1.2 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử


1.2.1 Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng Pháp gia
Học thuyết Pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những nhà chính trị kiệt xuất: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.

Cuối thời Chiến quốc, người có công tổng kết và hoàn thiện tư tưởng trị nước của
pháp gia đã kể trên là Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN). Chủ trương đề cao vai trò của
pháp trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn
theo "Đạo đức" của Nho, "Kiêm ái" của Mặc, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước,
mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi Tử cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình
tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng.
Vì thế, không có một phương pháp cai trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp
luật luôn luôn đúng trong hệ thống chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát
triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và
thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.

1.2.2 Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử
Ba cơ sở của thuyết Pháp trị của Hàn Phi:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội: Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên xã hội. Ông yêu cầu con
người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động phù hợp.
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: Do không có chế độ xã hội nào
bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, người thống
trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà
lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Ông cho rằng
không có thứ pháp luật nào là luôn luôn đúng trong mọi thời đại mà nó luôn có sự thay
đổi.
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: Do bản tính con người là ác và trong
xã hội, số người tốt là ít. Với nhiều kẻ xấu như vậy, để xây dựng được một xã hội bình
11
yên không nên trong chờ vào số ít hay mong họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số
đông ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
Nhưng nội dung cơ bản của thuyết Pháp trị: Pháp – Thê – Thuật

Pháp:

Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước.
Nghĩa hẹp "Pháp" là những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Khi lập pháp
vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính như:
- Pháp luật phải hợp thời.
- Pháp luật phải được soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành.
- Pháp luật phải công bằng.
- Pháp luật có tính cách phổ biến.
Với Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận,
phải trái, tốt, xấu, thiện, ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn, và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, "Pháp" trở
thành cái gốc của thiên hạ. Chủ trương của Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân
theo đúng pháp luật
Thế:
“Thế” là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Thế tức là quyền thế, địa vị,
thế lực, quyền uy của người đứng đầu. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng
minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". Trọng
Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: Dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung.
- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu
nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ
không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia, trong đó dựa
theo nguyên tắc: Thưởng thì phải tín, phạt thì phải tất, thưởng thì phải trọng hậu, phạt

12
thì phải nặng; Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư; Vua phải
nắm hết quyền thưởng phạt.
Thuật
“Thuật” được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc,
khiến người khác triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như
thế nào. Nhiệm vụ chính của thuật cai trị là phân biệt quan lại trung thành, tận tâm và
những quan lại ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của
họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ
chuyên chế.

Ngoài các yếu tố "Pháp", "Thế", "Thuật", tư tưởng Pháp gia còn coi trọng việc
xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia
cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời
sống của xã hội no đủ.

Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại. Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ
đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong
một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư
tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và
nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì
vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy
Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất được
đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.

13
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

2.1 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử ở Việt Nam thời phong kiến
Trong lịch sử Việt Nam gắn với các triều đại từ Ngô đến Nguyễn, tư tưởng về
đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện của bộ máy
nhà nước phong kiến.

Thời nhà Lý, đường lối Đức trị với tinh thần từ bi bác ái của nhà Phật được các
vua nhà Lý thể hiện rất rõ ràng, các công trình Phật giáo, chùa chiền được các vua nhà
Lý đặc biệt quan tâm.

Thời đại tiếp theo, nhà Trần đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc về
lĩnh vực đấu tranh bảo vệ đất nước, làm nên hào khí “Đông A” vẻ vang. Đường lối trị
nước ở thời Trần so với thời Lý là một bước phát triển mạnh mẽ. Đó không còn đơn
thuần là đường lối Đức trị, mà là sự kết hợp hoàn hảo của cả Đức trị và Pháp trị. Được
thể hiện rõ khi Lê Thái Tông lên ngôi vua, vài năm sau ông đã lập tức cho “khảo xét
các luật lệ của triều trước soạn thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật lễ nghi,
gồm 20 quyển”. Sau đó, Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn được vua Trần Dụ
Tông giao nhiệm vụ biên soạn bộ Hình thư. Ngoài ra, nhà Trần còn quan tâm đến việc
hoàn chỉnh các cơ quan chuyên trách về tư pháp và thể lệ xét xử. Ở trung ương, nhà
Trần còn lập ra viện Thẩm hình là cơ quan chuyên xét việc kiện tụng, còn có viện
Đăng văn Kiểm pháp làm nhiệm vụ xét hỏi của các cơ quan xét xử. Cùng với việc làm
đó là sự tuyển chọn và bổ nhiệm những quan lại thanh liêm vào các cơ quan pháp luật.
Những người được lựa chọn vào làm việc ở các cơ quan luật pháp phải thông qua thi
cử, trong đó có thi về hình luật (thi thủ phân, hỏi về phép đối án).

Nếu ở nhà Trần đường lối Đức trị là chủ đạo có sự hỗ trợ của Pháp trị thì đến
thời Lê sơ là một bước phát triển vượt bậc trong lĩnh vực chính trị - xã hội, vai trò của
Pháp trị đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố Đức trị. Vua Lê Thái Tổ khẳng định:
“Từ xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên
học tập đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng
trăm họ, biết thế nào là thiện ác, điều thiện thì làm, chẳng lành thì tránh, chớ để đến

14
nỗi phạm pháp”. Vì vậy, khi lên ngôi Lê Thái Tổ việc lập pháp được ông ưu tiên hàng
đầu. Nổi bật trong đường lối Pháp trị của Lê Thái Tổ là việc đề cao pháp luật mà trọng
tâm là việc thưởng phạt nghiêm minh. Bộ luật khét tiếng Quốc triều hình luật được
biên soạn và được áp dụng trong thời đại của ông. So với bộ Hình thư ở nhà Trần thì
Quốc triều hình luật - Bộ luật Hồng Đức có sự phát triển cả về qui mô, nội dung, tính
nghiêm khắc lẫn tính thực tiễn của nó. Tuy nhiên, dù bộ Quốc triều hình luật là bộ luật
nghiêm khắc, song bộ luật vẫn chứa đựng những yếu tố đạo đức như những nguyên tắc
nhân đạo, được vận dụng khi xử lý một số đối tượng, như phụ nữ, người già, trẻ em,
người tàn tật

Đường lối trị nước kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị dưới thời Lê sơ được các
triều đại sau kế thừa. Nhà Mạc đã kế thừa gần như các chủ trương, đường lối của thời
Lê Thánh Tông về tổ chức bộ máy nhà nước quan liêu cũng như hệ thống giáo dục
khoa cử.(15)

Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ngay từ khi
nắm quyền cai trị đất nước, đã thực hiện sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai, thể hiện sự
tiếp tục phát triển đường lối trị nước của nhà Lê sơ, bởi khi đó nhà Nguyễn, đứng đầu
là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây Sơn, nhưng không vì thế
mà học tập và xây dựng mô hình nhà nước phương Tây. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho
các quần thần biên soạn bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long) trên cơ sở kế thừa Luật
Hồng Đức và tham khảo luật lệ nhà Thanh cho thấy ảnh hưởng của đường lối trị nước
thời Lê sơ đối với triều Nguyễn là rất lớn. Những thay đổi ở một số điều khoản của
Luật Gia Long so với Luật Hồng Đức cũng là điều dễ hiểu, bởi ý chí và chủ trương về
đường lối trị nước của bất kỳ triều đại nào cũng đều bị quy định bởi sự tồn tại của xã
hội và của chính triều đại đó.

2.2 Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử ở Việt Nam thời hiện đại

2.2.1 Bối cảnh xã hội ngày nay


Sự vật sự việc trên đời đều liên tục biến đổi, thịnh suy rồi suy thịnh. Từ thời kỳ
đồ đá, chuyển sang thời kỳ phong kiến, thời kỳ phong kiến suy vong rồi chủ nghĩa tư
bản ra đời, thống trị thế giới, và cuối cùng lại đến với xã hội chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ xã

15
hội, mỗi quá trình có những thành tựu và khó khăn nhất định, cái mới đi lên thay thế
cho cái cũ không phù hợp, tuy nhiên, những chân lý luôn luôn tồn tại và được học hỏi
không ngừng. Khác với bối cảnh xã hội thời thời Xuân Thu – Chiến Quốc, xã hội loạn
lạc, việc phát hiện sắt đã tạo ra một bước phát triển mới của loài người, đem đến sự
phồn vinh về mặt kinh tế, tuy nhiên điều đó tạo ra sự giao tranh giữa các vương triều
lúc bấy giờ, các nước chư hầu thâu tóm nhau, chư hầu nào cũng muốn độc lập xưng
vương. Thời đại ngày nay thì khác, không còn có sự thống trị của chế độ phong kiến,
Pháp trị không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần như chân lý khoa học, đạo đức.
Pháp trị chỉ có ý nghĩa tương đối, nội dung một phần nào đó được quyết định bởi
những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Tuy nhiên, Pháp trị lại có ý nghĩa
to lớn trong việc ổn định, quản lý xã hội ngày nay.

Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hóa, sự tương thích của pháp luật quốc gia với pháp lý quốc tế, thì
pháp luật ngày càng phải cải thiện để phù hợp. Bên cạnh đó, xã hội phát triển theo
hướng tự do, dân chủ, pháp luật càng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết
các mối quan hệ của xã hội, bảo vệ lợi ích quyền lợi của nhà nước, của xã hội và mỗi
cá nhân. Điều này cho thấy, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử không chỉ có ích cho
Trung Quốc trong khoảng thời gian đó, mà còn đem lại nhiều giá trị tư tưởng bổ ích
đến tận ngày hôm nay.

2.2.2 Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay

2.2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực


Thứ nhất, Pháp trị hạn chế sự độc đoán của nhà nước và củng cố quyền lực.

Nhà nước và pháp luật, luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, những quyền lực đó chỉ có
thể được triển khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và
đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền, và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn
tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực Nhà nước.

16
Nhà nước quản lý tốt những vấn đề nảy sinh trong tất cả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, bắt kịp được với trình độ phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với
các quan hệ xã hội. Một khi xã hội vận hành tốt trong khuôn khổ hệ thống pháp luật
ấy, vai trò, quyền lực của nhà nước sẽ được tăng cường và củng cố. Ngoài ra, trong bối
cảnh nước ta khi mà nhiều thế lực thù địch tăng cường việc chống phá chế độ, phá
hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa như hiện nay thì phải cần đến sự nghiêm
minh của pháp luật để ngăn chặn và ngăn ngừa những hành động phá hoại đó.

Bên cạnh đó, pháp trị ngày nay gắn liền với nhà nước pháp quyền mà theo đó,
không có một ai kể cả Nhà nước, được đứng trên pháp luật. Hoạt động của Nhà nước
cũng phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật mà nó ban hành. Điều này giúp
kiểm soát những hoạt động của Nhà nước.

Thứ hai, Pháp trị hỗ trợ việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức và định
hướng ứng xử.

Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn
nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực
khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng
chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao,
khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một
cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người và con
người, giữa con người với xã hội.

Trong một xã hội mà ngoài những giá trị truyền thống, đồng tiền và lối sống thực
dụng đang được đề cao, thì sự suy đồi về mặt đạo đức là không thể tránh khỏi. Vì đồng
tiền, con người sẵn sàng làm tất cả mọi thứ, bất chấp tất cả để có được nó. Vì đồng
tiền, tình cảm cha-con, anh-em, chồng-vợ, bạn bè… bị đặt xuống hàng thứ yếu, anh
em dắt tranh giành đất đai. Quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội cũng bị hạ
thấp đến mức báo động. Văn hóa ứng xử nơi công cộng cũng bị lãng quên, người trẻ
bất kính với người lớn tuổi đáng tuổi cha tuổi chú mình, con người sẵn sàng lao vào
đấu đá nhau chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ ở trên đường, …Thậm chí còn nguy hại hơn,
con người ngày càng dửng dưng trước nguy hiểm, trước sự an nguy tính mạng của

17
đồng loại. Mới đây, đất nước Trung Hoa đã phải chứng kiến hình ảnh một em bé gái
hai tuổi gặp tai nạn nguy hiểm đến tính mạng trước ánh mắt thờ ơ của nhiều người qua
đường. Và ngay ở xã hội Việt Nam cũng rất nhiều những chuyện như vậy. Đó là, câu
chuyện một người đàn ông trong lúc giằng co với tên cướp làm túi tiền của mình
quăng ra đường và ngay lập tức nhiều người đi đường thay nhau “hôi của”; đó là câu
chuyện một “hiệp sĩ” bắt cướp, sau khi đánh nhau, tóm gọn tên cướp, quay ra thì mới
biết chiếc xe máy của mình đã biến mất.

Hành vi, ứng xử của con người là những vấn đề thuộc về phạm trù đạo đức,
thuộc về lương tri của mỗi người. Nhưng một khi đạo đức xuống cấp, lương tri không
còn sẽ dẫn đến một lối sống lệch lạc và vô cùng nguy hiểm. Thế nên những hành vi,
ứng xử này cần phải được luật hóa và quy định rõ ràng, kèm theo những chế tài thích
hợp để mang tính răn đe, buộc con người phải tuân theo những quy tắc ứng xử đã được
đề ra, dần dần góp phần củng cố những giá trị đạo đức. Một ví dụ là đòi hỏi của thực tế
những năm qua. Điều 102 Bộ Luật Hình sự quy định “Người nào thấy người khác
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp
dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm
hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.

Thứ ba, chế độ pháp trị là nền tảng của hòa bình, trật tự và công bằng trong xã
hội hiện đại.

Mặc dù không thể phủ nhận rằng, với tiềm lực hùng mạnh về kinh tế, tài chính,
quân sự cũng như ảnh hưởng chính trị to lớn của mình, các cường quốc như Hoa Kỳ,
Trung Quốc,… đang cố gắng áp đặt cộng đồng quốc tế theo đường lối của mình, và
mặc dù ở một mức độ nhất định nào đó các nước này đã thành công; nhưng cộng đồng
quốc tế, thông qua các diễn đàn quốc tế đã góp phần ngăn cản sự bành trướng, áp đặt
của các quốc gia này. Chẳng hạn Trung Quốc, vì những mưu lợi kinh tế-chính trị,
muốn biến Biển Đông trở thành “sân sau” của mình, liên tục gây bất ổn trong khu vực
bất chấp những quy tắc ứng xử về Biển Đông đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Rồi đến Hoa Kỳ, với sự hậu thuẫn của NATO, đã liên tục gây ra chiến tranh ở khắp
nơi trên thế giới để tìm kiếm các lợi ích kinh tế…

18
Việc tăng cường ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế thông qua các diễn đàn quốc
tế, đảm bảo cho những nguyên tắc, luật lệ quốc tế được tôn trọng và thực thi đầy đủ sẽ
giúp tạo ra quy tắc ứng xử chung cho các nước, ngăn cản tham vọng bá quyến, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của các cường quốc, tạo ra môi trường bình đẳng cho tất cả các
nước trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì hòa bình và ổn định chính trị, xã hội trên
thế giới.

Đó là trên phương diện chính trị, còn trong lĩnh vực thương mại, việc gia nhập
vào Tổ chức thương mại thế giới hay các liên kết kinh tế khu vực đã tạo ra môi trường
cạnh tranh bình đẳng giữa các nền kinh tế, giữa các doanh nghiệp của các quốc gia
thành viên.

Thứ tư, xét trong lĩnh vực kinh tế, hệ thống pháp luật giúp xây dựng và bảo vệ
các hoạt động, các mối quan hệ kinh tế.

Đứng trên góc độ doanh nghiệp, pháp luật quy định tất cả các doanh nghiệp được
quyền hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, được quyền tiến hành những
hoạt động mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, để bảo vệ các doanh nghiệp, luật pháp
cũng quy định ngăn cấm các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng
đến doanh nghiệp khác. Từ đó, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích
các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động của mình.

Đứng trên góc độ người tiêu dùng, pháp luật có những quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi của họ. Ở các nước phát triển, cùng với sự ra đời các Hiệp hội bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng, Pháp luật có những quy định đầy đủ và chi tiết về vấn đề này.
Còn ở Việt Nam, chúng ta cũng dần dần cố gắng tiếp cận theo hướng đi này.

2.2.2.1 Những ảnh hưởng tiêu cực


Thứ nhất, tình trạng lạm quyền, lợi dụng pháp luật

Hiện nay, bất cứ đất nước nào Pháp luật cũng được đặt lên hàng đầu, không ai
đưng trên Pháp luật kể cả Nhà nước. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho Pháp luật một
sự tôn trọng cao nhất và để tránh tình trạng lạm dụng pháp luật của một bộ phận cán
bộ, cơ quan nhà nước.

19
Tuy nhiên trong thực tế, do nhận thức sai về điều này, cộng với sự thiếu hiểu
biết, e ngại pháp luật của một bộ phận người dân, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ,
cơ quan nhà nước hành xử vượt quá phạm vi quyền hạn của mình, dùng pháp luật như
một công cụ phục vụ cho những mục đích không chính đáng. Đây là thực trạng mà hầu
hết các nước gặp phải, từ các nước chậm và đang phát triển cho tới các nước phát
triển.

Đây cũng là những vấn đề nhức nhối của nước ta trong những năm qua. Cùng với
sự suy đồi về đạo đức, một số cán bộ đã lợi dụng pháp luật như một công cụ để đe dọa
nhân dân hay dùng vào mục đích mưu cầu lợi ích cá nhân.

Thứ hai, pháp luật đôi khi mang tính áp đặt.

Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, và trong nhiều trường hợp giai
cấp cầm quyền không đại diện cho tất cả người dân. Nhiều nước trên thế giới có nhiều
đảng chính trị, sự lên ngôi của một đảng nào đó thường sẽ dẫn đến những thay đổi
trong đường lối hoạt động và ngay cả trong các chính sách pháp luật, phản ánh ý chí,
nguyện vọng của một bộ phận cầm quyền và những người ủng hộ và do đó cũng “bỏ
rơi” một bộ phận còn lại.

Ở Việt Nam, mặc dù có duy nhất một Đảng nhưng không phải lúc nào những
chính sách, văn bản pháp luật ban hành cũng nhận được sự đồng tình từ tất cả người
dân. Sự áp đặt của pháp luật là tất yếu vì nó không thể phản ánh được nguyện vọng
của tất cả người dân.

Thứ ba, cai trị đất nước đơn thuần bằng pháp luật, trong nhiều trường hợp dẫn
đến sự cứng nhắc và đôi khi không thể hiện tính nhân văn.

Trong một xã hội đề cao nguyên tắc sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật thì
tất cả mọi người phải hành xử dựa vào những quy định đã được đặt ra. Những quy
định này áp dụng cho tất cả mọi người, trong mọi trường hợp, và như vậy nhiều khi sẽ
dẫn đến những vận dụng cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong những tình huống cụ thể.
Cùng là những tình huống và sự kiện giống nhau, nhưng chịu tác động của những yếu
tố khác nhau thì phải được xem xét riêng, theo những cách thức không hoàn toàn

20
giống nhau, việc vận dụng pháp luật trong thực tế mà không xem xét đến những yếu tố
đó sẽ khó có thể tạo ra sự thuyết phục và đồng tình từ dư luận.

21
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀO
CÔNG TÁC QUẢN LÝ XÃ HỘI.

3.1 Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành đất nước

Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc
biệt là đổi mới hệ thống chính trị Xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chúng ta đổi mới phương thức và nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư
tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi
vì những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương Đông và phương Tây,
đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Chúng
có giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu để xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Trong đó, thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư tưởng chính
trị - xã hội nổi bật trong thời kỳ Trung quốc cổ đại, đã để lại nhiều kinh nghiệm lịch sử
to lớn đối với quá trình thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước.

Pháp trị là pháp luật của người thống trị xây dựng theo ý chí của mình. Bao gồm
định ra pháp luật, nguyên tắc, quy phạm hành động và trạng thái trật tự làm việc dựa
theo chế độ pháp luật. Pháp trị gắn bó và không tách rời dân chủ. Nó có chung hàm
nghĩa với nền chính trị lập hiến, sinh ra đồng thời với hiến pháp. Hiến pháp, do công
dân định ra, bảo đảm dân quyền, hạn chế chính phủ. Điểm cơ bản của pháp trị là lấy
pháp để hạn chế quyền lực của chính phủ, bảo đảm quyền lợi công dân.“Quyền lực
thuộc về nhân dân”, “Chính phủ phải giữ luật” là bố cục cơ bản của pháp trị. Do vậy,
tiêu điểm chính mà pháp trị quan tâm là hạn chế có hiệu quả vận dụng hợp lý quyền
lực công cộng.

Theo Hàn Phi Tử, mấu chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa
vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát, đúng đắn và
22
nghiêm minh thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây
dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc.

Hàn Phi Tử xem pháp luật với dây mực, cái quy, cái củ... tức là những đồ dùng
làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi Thế và Thuật
mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi viết: “Thời
thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì
nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công” điều khiển hành vi của
mọi người.

Thực tế tư tưởng Pháp gia là một trong những tư tưởng chủ yếu và chi phối đời
sống chính trị Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã giành độc lập với sự lãnh
đạo tài ba của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sau đó, Hiến Pháp lần lượt được ban ra và sửa đổi
để hoàn chỉnh theo thời thế, theo xã. Cho đến hôm nay, nhờ sự có mặt của luật pháp
mà Việt Nam đã duy trì được chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa, duy trì được sự ổn định
chính trị tạo đà cho kinh tế phát triển. Cũng chính điều này, Việt Nam được đánh giá là
nước có nên chính trị ổn định.

Trong công tác quản lý, chúng ta còn đạt được nhiều thành tụ trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng. Nhân dân ta đoàn kết một lòng, xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nếp sống tốt đẹp. Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ
hóa xã hội được mở rộng. Nhân dân là người bỏ phiếu để bầu ra lực lượng đại diện cho
mình.

Sự công bằng của pháp luật được áp dụng ở mọi quốc gia, không riêng gì Việt
Nam. Trong môi trường công bằng của pháp luật, mọi người dân đều có quyền phát
triển tự do và bình đẳng. Yếu tố này không những duy trì sự ổn định chế độ mà còn
khiến nhiều nhân tài cống hiến cho đất nước.

23
3.1 Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý doanh nghiệp

3.2.1 Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp.

Theo Tuân Tử “Nhân chi sơ, tính bổn ác”. Mục đích của một doanh nghiệp nào đó
khi thành lập là tối đa hóa lợi nhuận. Mục tiêu duy nhất của họ là tiền, càng nhiều tiền
càng tốt. Để đạt được mục đích đó, doanh nghiệp sẽ tìm đủ mọi cách, thậm chí là mọi
thủ đọan để thực hiện. Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vì lợi đã đi ngược lại lợi ích
của người dân, và vì lợi ích của mình, doanh nghiệp sẵn sàng, đôi khi là vô tình hoặc
cố ý, giẫm đạp lên những giá trị cơ bản nhất, cạnh tranh không lành mạnh với các
doanh nghiệp khác, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm kém chất lượng làm ảnh hưởng đến
người tiêu dùng, xả chất thải ra môi trừơng ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng,
gian lận, trốn thuế làm thất thu ngân sách nhà nước, …

Vì “bản tính ác”, chúng ta không thể trông chờ hay kêu gọi sự thay đổi của họ, mà
phải dùng “Pháp” để ngăn chặn họ lại. Nhà nước cần ban hành những bộ luật, quy
định hoạt động của các doanh nghiệp, kèm theo đó là những chế tài, hình phạt thích
đáng dành cho những vi phạm. Học trò của Tuân Tử là Hàn Phi Tử cho rằng đời sống
xã hội là không ngừng biến đổi, nên những luật này cần phải liên tục thay đổi và cập
nhật cho phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội. Thực tế trong những năm
qua, chính phủ và nhà Việt Nam liên tục ban hành và sửa đổi những bộ lụât, quy định
điều chỉnh trong lĩnh vực này để làm cơ sở cho việc quản lý hoạt động của các doanh
nghiệp.

Nhưng để những quy định, pháp luật trên được tôn trọng và thực thi bởi các
doanh nghiệp, ngoài yếu tố minh bạch, rõ ràng và tính khả thi thì pháp luật ấy cần phải
có “Thế”. Đó là sự cưỡng chế thi hành. Sự cưỡng chế là một yếu tố không thể thiếu
trong các văn bản luật. Pháp luật quy định những điều mà các doanh nghiệp được làm
và không được phép làm, và kèm theo là những hình thức xử phạt tương ứng.

Hành vi của một doanh nghiệp ảnh hưởng bởi hai khía cạnh. Thứ nhất, xuất phát
từ chính bản thân của doanh nghiệp. Đó là phương châm, đường lối họat động mà
doanh nghiệp đã xác định từ khi mới thành lập và trong quá trình họat động. Thứ hai,
đó là những ràng buộc pháp lý, đó là “Pháp” buộc doanh nghiệp phải tuân theo. Một

24
khi doanh nghiệp làm ăn chân chính, vì lợi ích của chính mình và vì lợi ích cộng đồng
thì lúc đó “Pháp” đóng vai trò hỗ trợ, bảo vệ doanh nghiệp. Còn ngựơc lại, doanh
nghiệp làm ăn thiếu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến cộng đồng, đến xã hội thì “Pháp”
sẽ đóng vai trò như một công cụ trừng phạt doanh nghiệp.

3.2.2 Nhìn từ góc độ nội bộ doanh nghiệp


Một doanh nghiệp trước khi thành công bên ngoài, thì phải quản lý được nội bộ.
Hay nói cách khác, một doanh nghiệp trước khi muốn đạt được thành công bên ngoài
thì cần phải xây dựng nội bộ của mình thành một tập thể vững mạnh, gây dựng một
hình ảnh tốt đẹp trong mắt khách hàng, đối tác bên ngoài.

Doanh nghiệp là một tập hợp của những con người cùng làm việc với nhau để
đạt đến mục tiêu chung đã được đặt ra. Nếu theo thuyết tính ác thì mỗi con người bản
chất vốn đã là ác. Như vậy có nghĩa là bên trong mỗi con người, mỗi một nhân viên
trong doanh nghiệp, ngoài lợi ích chung của doanh nghiệp thì luôn tồn tại những suy
nghĩ về lợi ích riêng, và những lợi ích riêng đó đôi khi lại làm ảnh hưởng đến lợi ích
chung. Những xung đột về lợi ích riêng của các nhân viên có nguy cơ làm cản trở việc
đạt đến mục tiêu tổ chức. Vì vậy, theo tư tưởng Hàn Phi Tử thì không thể trông chờ
vào việc họ sẽ hy sinh hay nhượng bộ lợi ích riêng, mà cần phải có những biện pháp
để ngăn chặn họ lại. Đó là sự cần thiết của việc cần phải có những nội quy của doanh
nghiệp để hướng các nhân viên đến những nguyên tắc ứng xử chung.

Để những nội quy, quy tắc ứng xử đó được tuân thủ và thực hiện đầy đủ thì
không thể trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của mỗi nhân viên, mà cần phải có
một sự áp đặt, cưỡng chế thi hành, tức là phải có “Thế”. Những quy định ấy phải được
tuân thủ một cách triệt để và phải có những hình thức thưởng/phạt nghiêm minh áp
dụng cho tất cả nhân viên.

Việc quản lý con người trong doanh nghiệp thì phải được thực hiện trên hai
khía cạnh. Thứ nhất là tư tưởng mỗi người trong tập thể. Đó là ý thức mỗi người về
trách nhiệm, lợi ích chung, từ việc phải biết hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích tập thể.
Thứ hai, một khi ý thức chưa đủ mạnh thì doanh nghiệp phải có những quy định chặt
chẽ và chế độ thưởng phạt thích đáng.

25
KẾT LUẬN

Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - học trò Tuân Tử không chỉ đã giúp Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa cổ đại, mà tư tưởng này còn giúp nhân loại có được cái
nhìn mới trong việc xây dựng kỷ cương và quản lý đất nước. Pháp trị đã xuất hiện
trong lịch sử như một vì sao sáng, tuy rằng sau đó khuất chìm sau ánh sáng của Đức
trị. Nhưng tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý nhà nước và xã
hội, cũng như những quan điểm và nguyên tác pháp lý như trên của Pháp trị thực sự là
tiến bộ lịch sử, trở thành niềm tự hào và là nét đặc sắc của tư tưởng phương Đông đến
mãi sau này.

Học thuyết pháp trị do phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được
yêu cầu của lịch sử. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì xây dựng hệ thống pháp luật
thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội là
yêu cầu hết sức quan trọng.

Mặc dù, Pháp luật của chúng ta lại thiếu tính ổn định và sự cụ thể chặt chẽ; ý
thức pháp luật của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp dẫn đến việc coi thường
trong chấp hành hoặc áp dụng pháp luật tùy tiện… là những nguyên nhân của kỷ
cương phép nước không nghiêm. Những hạt nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị của
Hàn Phi Tử chắc chắn sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ trong công tác xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật hiện nay.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lương Minh Cừ và cộng sự, 2015. Triết học. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bùi Văn Mưa, 2016. Triết học. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bùi Văn Nam Sơn, 2020, Trò chuyện Triết học. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tri
Thức.

4. Phùng Hữu Lan, Lược sử Triết học Trung Quốc. Dịch từ tiếng Trung. Người
dịch Lê Anh Minh, 2013. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học – Xã hội.

5. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, 1994. Tuân Tử. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn
Hóa.

6. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, 1994. Hàn Phi Tử. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản
Văn Hóa.

7. Phương Kỳ Sơn, 2001. Lịch sử triết học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại Học Quốc
gia.

8. Hàn Phi. Hàn Phi Tử. Dịch từ tiếng Trung. Người dịch Phan Ngọc, 2018. Hồ
Chí Minh: Nhà xuất bản Văn Học.

9. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi, 2018, Chiến Quốc Sách. Hồ Chí Minh: Nhà xuất
bản Hồng Đức.

10. Lã Bất Vi, Lã Thị Xuân Thu. Dịch từ tiếng Trung. Người dịch Phan Văn Các,
1999. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn Học.

11. Lê Ngọc Tân, 2019. Triết học. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Dân Trí.

12. Nguyễn Hồng Nhung, 2019. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử (281TCN –
233TCN) và vận dụng nó trong việc xây dựng nhà nước Pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn Tiến sĩ. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

13. Dương Thị Hoa, 2016. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa của nó đối
với việc xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

14. http://triethoc.edu.vn/

27
15. http://luathoc.cafeluat.com

16. http://vientriethoc.com

17. http://www.icevn.org

18. http://www.diendanphapluat.vn

28

You might also like