Professional Documents
Culture Documents
thuyết trình
thuyết trình
Thuyết nhận thức nằm trong danh sách những loại học thuyết tâm lý phổ
biến nghiên cứu về con người. Học thuyết này có dòng lịch sử phát triển
rất lâu đời. Với những thành công mà học thuyết mang lại, con người đã
có thể ứng dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau khi muốn tìm hiểu, đánh
giá hay nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhận thức.
Thuyết nhận thức tập trung nghiên cứu quá trình diễn ra của hệ thần
kinh con người bao gồm: ngôn ngữ, khả năng xử lý thông tin, trí nhớn,
quyết định. Nhờ vào việc hiểu được quá trình này, người ta có thể dễ
dàng lý giải những hình thức suy nghĩ sẽ ảnh hưởng đến hành vi của con
người.
Thuyết nhận thức tồn tại có thể giúp nghiên cứu sâu sắc hơn về tư duy,
hành động của con người trong từng tình huống cụ thể. Ở nhiều phương
diện khác nhau, những tư duy, hành động này sẽ dẫn đến những kết quả
khác nhau theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại. Quá trình thu nạp
thông tin, xử lý thông tin thường sẽ dẫn đến sự thay đổi, chuyển hóa trong
tư duy, hành vi của con người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu càng tỉ mỉ thì
những phán đoán càng có tỷ lệ chính xác cao hơn.
II. Các thành tố căn bản của thuyết nhận thức Jean Piaget
Jean Piaget sinh ngày 9 tháng 8 năm 1896 – mất 16 tháng 9 năm 1980. Piaget là
một nhà tâm lý học người Thụy Sĩ nổi tiếng với công trình nghiên cứu về sự phát
triển của trẻ em. Lý thuyết của Piaget về sự phát triển nhận thức vàquan điểm nhận
thức luận được gọi chung là " nhận thức luận di truyền ". Ông Piaget rất coi trọng
việc giáo dục trẻ em. Với tư cách là Giám đốc Văn phòng Giáo dục Quốc tế , ông
tuyên bố vào năm 1934 rằng "chỉ có giáo dục mới có khả năng cứu xã hội của chúng
ta khỏi sự sụp đổ có thể xảy ra, dù là bạo lực hay dần dần." Lý thuyết của ông về sự
phát triển của trẻ được nghiên cứu trong các chương trình giáo dục tiền công vụ.
Các nhà giáo dục tiếp tục kết hợp các chiến lược dựa trên kiến tạo. Piaget đã tạo ra
Trung tâm quốc tế về di truyền Nhận thức luận trong Geneva vào năm 1955 trong
khi trên giảng viên của Đại học Geneva và đạo Trung tâm cho đến khi ông qua đời
vào năm 1980. Số lượng các hợp tác mà thành lập đã có thể, và tác động của
chúng, cuối cùng dẫn Trung tâm được gọi trong các tài liệu học thuật là "nhà máy
của Piaget".
Các thành tố căn bản của lý thuyết nhận thức Piaget như sau:
1. Cấu trúc sơ khai (Schema)
Cấu trúc sơ khai là những khối xây dựng căn bản của các mẫu hình nhận thức như
thế, chúng cho ta năng lực tạo thành một biểu trưng tâm trí của thế giới. Piaget định
nghĩa Cấu trúc sơ khai là: “một chuỗi hành động lặp lại tương liên chặt chẽ và được
cai quản bởi một nghĩa nòng cốt”.
Piaget gọi cấu trúc sơ khai là khối xây dựng căn bản của hành vi trí khôn – một cách
tổ chức kiến thức. Thật vậy, ta thường nghĩ Cấu trúc sơ khai như “các đơn vị” kiến
thức, mỗi đơn vị liên quan đến một khía cạnh của thế giới, bao gồm đồ vật, hành
động, và khái niệm trừu tượng (như mang tính lý thuyết).
Wadsworth (2004) gợi ý rằng các Cấu trúc sơ khai là những “thẻ chỉ dẫn” chứa trong
óc, mỗi thẻ nói cho một cá nhân biết cách phản ứng với kích thích hay thông tin
đang đến. Khi Piaget nói về sự phát triển của một tiến trình tâm trí của một người, là
ông nói những sự tăng tiến về số lượng và tính phức hợp của những Cấu trúc sơ
khai mà người đó đã thu nạp được.
Khi các Cấu trúc sơ khai đang hiện hữu của một đứa trẻ có đủ năng lực giải thích
những gì mà trẻ có thể tri giác, thì ta nói là trẻ ở trạng thái cân bằng về nhận thức
(tâm trí). Piaget nhấn mạnh tầm quan trọng của các Cấu trúc sơ khai trong sự phát
triển nhận thức và mô tả việc chúng được phát triển hay thu nạp được như thế nào.
Một Cấu trúc sơ khai có thể được định nghĩa như một bộ các biểu trưng tâm trí về
thế giới được kết nối với nhau, mà ta sử dụng để hiểu và cũng để đáp ứng với các
tình huống. Ông cho rằng chúng ta lưu giữ những biểu trưng tâm trí ấy và sử dụng
chúng khi cần.
Với những cấu trúc sơ khai mà Piaget mô tả có chiều hướng đơn giản hơn thế – đặc
biệt là những cấu trúc sơ khai mà các ấu nhi sử dụng. Ông mô tả khi một đứa trẻ
lớn hơn thì cấu trúc sơ khai của bé trở nên có số lượng nhiều hơn và tinh khéo hơn
như thế nào.
Ông Piaget tin rằng các bé mới đẻ đã có một ít cấu trúc sơ khai bẩm sinh – ngay cả
trước khi chúng có nhiều cơ hội trải nghiệm thế giới. Những cấu trúc sơ khai tiền
sinh này là những cấu trúc nhận thức cơ sở của các phản xạ bẩm sinh. Những phản
xạ này được chương trình hoá qua di truyền. Chẳng hạn, bé có phản xạ mút, được
kích phát bởi sự va chạm của môi. Một em bé sẽ mút một núm vú, một núm vú giả
hay ngón tay người. Do vậy, Piaget cho rằng bé có một “Cấu trúc sơ khai mút”.
Tương tự, phản xạ cầm nắm xảy ra khi có vật nào đó chạm vào lòng bàn tay bé, hay
phản xạ quay, một đứa bé sẽ quay đầu về một vật gì đó chạm vào má. Lắc một quả
lắc sẽ là sự kết hợp của hai Cấu trúc sơ khai, cầm nắm và lắc.