You are on page 1of 17

ÔN TẬP THEO ĐỀ CƯƠNG MÔN TÂM LÍ

Câu 1: Trình bày khái quát thuyết phân tâm của S.Freud về sự phát triển tâm lý con người?
 Freud (1856-1939) dựa vào sự phát triển sinh lý, tính dục phân chia ra làm 5 giai đoạn phát triển:
0- 1 tuổi: Giai đoạn môi miệng
1-3 tuổi: Giai đoạn hậu môn
3-6 tuổi: Giai đoạn niệu đạo – dương vật
6-12 tuổi: Giai đoạn ẩn tàng
12-18 tuổi: Giai đoạn dậy thì.
Câu 2: Trình bày khái quát 8 giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của E.Erikson. Phân tích 1 giai đoạn lứa
tuổi mà anh/chị đã trải qua?
 E. Erikson (1902-1994) đánh giá cao tác nhân xã hội đối với sự phát triển tâm lý của con người. Ông
chia đời người thành 8 giai đoạn. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi 1 dạng khủng hoảng tâm lý xã hội
xuất phát từ sự xung đột giữa nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội. Nếu khủng hoảng này được
giải quyết, nó sẽ là tiền đề cho sự phát triển tâm lý của cá nhân trong giai đoạn tiếp theo. Ngược lại, nếu
con người thất bại trong việc giải quyết xung đột đó thì sự thất bại này sẽ gây nên những rối loạn trong
những giai đoạn về sau của con người.

0-1 tuổi Tin tưởng – không tin tưởng

1-3 tuổi Tự lập – Xấu hổ, nghi ngờ

3-6 tuổi Chủ động – Cảm thấy có lỗi

6-12 tuổi Yêu thích lao động – cảm xúc thiếu hụt

12-18,19 tuổi Đồng nhất – Lẫn lộn vai trò

19,20-35,40 tuổi Gần gũi, thân tình – Cô đơn, cô lập

35,40 – 60,65 tuổi Tạo giá trị - Trí tuệ

Câu 3: Trình bày khái quát. thuyết phát triển nhận thức của J.Piaget về sự phát triển tâm lý người.
Ứng dụng trong nhận diện những khó khăn về nhận thức ở trẻ?
 J.Piaget(1896-1980), dựa vào sự phát triển nhận thức, phân chia lứa tuổi theo các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn giác động (từ 0 đến 2 tuổi), là giai đoạn trẻ nhận biết thế giới thông qua sự phối hợp cảm giác
và vận động.
2. Giai đoạn tiền thao tác (từ 2 đến 6,7 tuổi). Lúc này trẻ đã có thể nhận biết thế giới qua các biểu tượng,
đặc biệt là biểu tượng bằng ngôn ngữ.
3. Giai đoạn thao tác cụ thể (từ 6,7 tuổi đến 11,12 tuổi): Trẻ có thể hiểu được thế giới theo cách lý luận hơn
là tri giác đơn giản thông qua các ý niệm về đối tượng bên ngoài.
4. Giai đoạn thao tác hình thức hay tư duy lôgic (từ 11,12 tuổi trở đi). Trong giai đoạn này, trẻ có khả năng
khái quát hoá các ý tưởng và cấu trúc các điều trừu tượng. Chúng có khả năng đưa ra kết luận từ những
giả thuyết hơn là dựa hoàn toàn vào quan sát thực tế. Trí tuệ của đứa trẻ đã đạt mức phát triển hoàn
chỉnh.
 Các giai đoạn phát triển nhận thức 0-2 tuổi theo Piaget:
1. Giai đoạn 1: Các phản xạ (từ lọt lòng tới một tháng). Trong tháng thứ nhất sau khi ra đời, khả
năng của bé chỉ giới hạn trong phạm vi các phản xạ đã được chương trình hoá. Mức phát triển
trong giai đoạn này chỉ là “tinh luyện” các phản xạ đó, không xuất hiện hành vi nào thực sự mới.
2. Giai đoạn 2: Các phản ứng vòng tròn sơ cấp (1 đến 4 tháng): Là phản ứng chỉ diễn ra trên thân
thể của trẻ mà không liên quan gì tới một vật ở bên ngoài. Cử chỉ mút ngón tay cái của bé được
coi là phản ứng vòng tròn sơ cấp (cũng như đưa nắm tay vào miệng để mút).
3. Giai đoạn 3: Các phản ứng vòng tròn thứ phát (4 đến 8 tháng): Bé thích thú nhận thấy tác dụng
của các hành vi của mình đối với các đồ vật bên ngoài. Do ngẫu nhiên mà trẻ có được cảm giác
thích thú do hậu quả của hành vi đã diễn ra. Nhưng sau đó, trẻ sẽ lặp lại hành vi này để tạo ra kết
quả đó một lần nữa (như khua bàn tay để làm cho cái lúc lắc phát ra tiếng động).
4. Giai đoạn 4: Phối hợp các hành động (8 đến 12 tháng): Trẻ bắt đầu ghép nối các hành động với
nhau thành các chuỗi hành vi có mục đích. Chúng làm một việc không phải là để làm cho chính
việc đó mà coi như phương tiện để thực hiện một việc khác nữa (thí dụ: đưa tay ra để cầm lấy
một đồ vật nào đó).
5. Giai đoạn 5: Các phản ứng vòng tròn bậc ba (12 đến 18 tháng): Bắt đầu xuất hiện khi một hành
động nào đó tình cờ đem lại hiệu quả thú vị. Những cách làm khác nhau nhằm mục đích “làm
thử và sửa sai” giúp cho trẻ bé nhanh chóng phát hiện ra các quan hệ nhân quả mới nữa.
6. Giai đoạn 6: Bắt đầu phát tiển tư duy biểu tượng (18 đến 24 tháng): Kiểu bắt chước có trì hoãn
(không thực hiện ngay) minh hoạ một trong những khả năng nói, dấu hiệu của trí thông minh của
trẻ ở giai đoạn 6. Khả năng hình thành và lưu giữ trong đầu cảnh tượng như vậy là một trong
những tiến bộ rất quan trọng về nhận thức Piaget coi giai đoạn 6 là bước khởi đầu từ tư duy cảm
giác vận động chuyển qua tư duy biểu tượng (hoặc tư duy hình tượng);
Câu 4: Anh/Chị hãy nêu các giai đoạn phát triển trong bào thai?
 Quá trình phát triển trong bụng mẹ thường chia ra làm ba thời kỳ chính: thời kỳ nảy mầm, thời kỳ tạo
phôi và thời kỳ thành thai.
1. Thời kì nảy mần: từ khi thụ thai tới hết hai tuần đầu.
- Khoảng 30h sau khi thụ tinh, tế bào của hợp tử chia làm hai - quá trình này gọi là sự phân bào.
- Khoảng 60h sau khi thụ tinh hiện tượng phân bào diễn ra một lần nữa, hai tế bào của hợp tử tách ra
thành bốn tế bào có cấu trúc vẫn giống hệt nhau.
- Sau từng khoảng thời gian ngắn, quá trình phân bào tiếp diễn cho tới cuối một tuần lễ, đã có hơn một
trăm tế bào bám chặt vào nhau thành hình một quả cầu rỗng, gọi là nang phôi (blastocyst).
- Đến cuối tuần lễ thứ hai, cái phôi đã được gắn chặt vào tử cung, hấp thụ các chất dinh dưỡng và khí oxy
từ các mạch máu của tử cung.
2. Thời kì tạo phôi: ( 3-8 tuần):
- Khi nang phôi đã bám chặt, sẽ gọi là phôi.
- Thời kỳ phát triển của phôi từ cuối tuần thứ hai sau khi thụ thai tới hết tuần thứ tám là thời gian phân
bào và biệt hoá rất nhanh. Trong thời kỳ này tất cả các bộ phận quan trọng và các cấu trúc chính thức
khác của cơ thể được hình thành, quá trình này gọi là quá trình hình thành các cơ quan.
3. Thời kì thành thai. (9-38 tuần)
- Thời kỳ này các bộ phận lớn lên nhanh chóng và được cấu trúc tinh vi hơn.
- Sau tuần thứ 12, thai có cử động chân tay một cách tự nhiên.
- Sau tháng thứ 8, thai đã biết đáp ứng với các tiếng động lớn vừa. Những biến đổi này cho thấy một cơ
thể lúc ban đầu chỉ là thụ động, dần dần đã biến thành một đứa bé hoạt động và thích nghi được.
4. Dinh dưỡng của mẹ qua từng giai đoạn:
- Giai đoạn đầu, mẹ bầu nên ăn những thức ăn lỏng chẳng hạn như cháo thịt, cháo cá, cháo ngũ cốc, súp
gà, súp cua, súp hải sản… Và kết hợp uống thêm sữa. Lưu ý tránh ăn các loại thức ăn: rau răm, rau ngót,
trái khổ qua, trái đu đủ chín và xanh, trái thơm vì những loại thức ăn này sẽ gây động thai.
- Trong hai giai đoạn sau, mẹ có thể ăn tất cả các loại thức ăn để đảm bảo đầy đủ thành phần dinh dưỡng:
chất đạm, chất béo, tinh bột, chất xơ, muối khoáng và Vitamin. Nên ăn thức ăn tươi, sạch, không nên
dùng những loại thức ăn để lâu, đồ ăn hộp, các loại thức ăn có phẩm màu. Sau khi chế biến thức ăn nên
ăn ngay, không nên để qua đêm.

Câu 5: Anh/chị hãy cho biết những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bào thai và trẻ sơ sinh?

Một số chất gây sự Tình hình dinh


Các bệnh Stress của dưỡng của người Tuổi của
phát triển bất thường
tật người mẹ mẹ người mẹ
của thai nhi

1. Một số chất gây sự phát triển bất thường của thai nhi:
- Các thứ thuốc: Vì nhiều loại thuốc chưa biết rõ tác dụng phụ, do đó phụ nữ mang thai nên tránh dùng
các loại thuốc trong thời gian mang thai, trừ khi biết chắc chắn là an toàn.
- Rượu: Có tới 1/3 số con cái của những người nghiện rượu nặng bị mắc nhiều vấn đề gọi là hội chứng
thai nhiễm rượu.
- Thuốc lá: Phụ nữ mang thai mà hút thuốc thì dễ bị đẻ non hơn người không hút và đứa con sinh ra bị
thiếu cân.
- Hêroin và mêtađon: Các chất này thấm qua nhau thai ngấm vào phôi hoặc vào thai. Sau khi sinh ra,
những đứa trẻ này có các triệu chứng lên cơn nghiện như khó thở, nôn mửa, run rẩy và co giật.
- Côcain: Phụ nữ có thai nếu dùng côcain sẽ có nguy cơ cao hơn mức trung bình về các chuyện sảy thai,
thai chết lưu trong bụng mẹ và đẻ non. Trẻ sinh ra có khả năng thiếu cân và đầu nhỏ hơn cỡ trung bình.
- Các chất nội tiết (hooc môn): Các chất này đều gây ra dị tật bẩm sinh. Vấn đề phát sinh thường gặp nhất
do trị liệu hocmôn gây ra khi dùng thuốc diethylstilbestrol (DES) là một loại hocmôn nữ tổng hợp.
2. Các bệnh tật: Nhiều loại vi rút có thể đi qua nhau thai và một số có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho
phôi hoặc thai.
- Rubêôn: Thí dụ, nếu người mẹ mắc bệnh rubêôn khi mới có thai thì đứa bé sinh ra có nhiều khả năng bị
mù, điếc, thiểu năng trí tuệ và có tật về tim. Bệnh rubêôn nguy hại tới mức nào trong bụng mẹ là tuỳ
theo thời điểm bị vi rút tấn công.
- HIV: Vi rút HIV làm giảm khả năng suy giảm khả năng miễn dịch của con người, là vi rút gây ra bệnh
AIDS, cũng là một mối đe doạ cho các thai nhi. Trong trường hợp HIV, nguy cơ không phải là các dị tật
bẩm sinh mà là do nhiễm vi rút.
3. Stress của người mẹ: Nếu khi mang thai mà bị stress cao độ sẽ có thể bị đẻ non, sinh con thiếu cân, đứa
bé hay quấy khóc. Stress của người mẹ tác hại đến thai nhi hoặc đến phôi là do sự kích thích chức năng
tiết ra chất adrenaline, làm cho máu lưu thông khó khăn.
4. Tình hình dinh dưỡng của người mẹ: Sự đảm bảo chế độ dinh dưỡng tốt trước và trong thời kỳ mang
thai là điều kiện quan trọng để sinh được đứa con khoẻ mạnh. Việc có đủ hoặc thiếu một số chất dinh
dưỡng nào đó có thể gây ra ảnh hưởng khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn.
5. Tuổi của người mẹ: Tỷ lệ đẻ non, thai chết lưu và trẻ sơ sinh chết yểu là cao nhất với các bà mẹ ở tuổi
vị thành niên và trên 35 tuổi
Câu 6: Anh/Chị hãy phân tích cơ chế hình thành và phát triển các cấu trúc tâm lí chủ yếu của trẻ em từ
sơ sinh đến 3 tuổi.
- Sự phát triển tâm lí con người diễn ra theo cơ chế lĩnh hội. Có thể nói 3 cơ chế lĩnh hội của con người,
đó là tập nhiễm, bắt chước và học tập.
 Tập nhiễm là sự tiếp nhận và ảnh hưởng diễn ra một cách tự nhiên không có chủ định. Nhiều đứa trẻ
nhanh chóng tập nhiễm những thói quen tốt cũng như những thói hư tật xấu của những người xung
quanh mà không cần ai dạy.
 Bắt chước: Là sự lặp lại những hành vi, cử chỉ của người khác mà cá nhân tri giác được. Trẻ thường bắt
chước những hành vi quan sát được mà không hiểu những ý nghĩa của chúng. Ví dụ trẻ bắt chước mẹ
quét nhà mà không hiểu ý nghĩa của việc quét nhà, hay khi nghe người lớn nói bậy trẻ lập tức bắt chước
theo mà không hiểu đó là hành vi xấu.
 Học tập: Là hình thành những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới ở cá nhân một cách có mục đích và phương
pháp.
Câu 7: Anh/ chị hãy phân tích sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo và ứng dụng hiểu biết trong
việc nhận diện những khó khăn tâm lí của trẻ.
I. Đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo: Trí nhớ, Tri giác, Tư duy, Tưởng tượng.
1. Trí nhớ:
- Trí nhớ của trẻ mẫu giáo phần lớn là trí nhớ không chủ định. Trẻ không đặt mục đích phải ghi nhớ,
không đặt nhiệm vụ phải nhớ, cũng chưa biết cách sử dụng các phương pháp ghi nhớ. Tất cả các hiện
tượng, hành động, hình ảnh, lời nói mà trẻ cảm thấy thích thú hoặc gây ấn tượng mạnh mẽ đều được trẻ
ghi nhớ một cách rất tự nhiên. Ví dụ: Trẻ dễ dàng ghi nhớ lời bài thơ, bài hát ngộ nghĩnh, câu chuyện
cổ tích hấp dẫn hay lời thoại thú vị của một bộ phim nào đó.
- Trí nhớ có chủ định bắt đầu phát triển từ khoảng 4, 5 tuổi. Một số nghiên cứu cho thấy rằng trẻ ghi nhớ
có chủ định tốt hơn khi mục đích ghi nhớ lồng ghép vào trong các tình huống trò chơi. Ví dụ khi trong
vai người bán hàng trong trò chơi đồ hàng thì trẻ có thể nhớ được các loại thực phẩm hay các loại hàng
hóa khác nhau khi cần thiết.
2. Tri giác:
- Một thành tựu rất quan trọng của trẻ em ở giai đoạn lứa tuổi này là khối lượng biểu tượng của các em
tăng lên rất nhanh.
+ Trước 3 tuổi, trẻ đã có những biểu tượng đơn giản về màu sắc, đồ vật, con vật, con người.
+ Từ 3-6 tuổi, ở trẻ bắt đầu hình thành nhiều loại biểu tượng phức tạp hơn. Đó là những biểu tượng:
 Khối lương (nặng, nhẹ)
 Kích cỡ (To, nhỏ, lớn, bé)
 Quan hệ không gian (trên, dưới, trước, sau, trong, ngoài)
 Hiện tượng thiên nhiên (mưa, nắng, sáng, tối)
 So sánh khối lượng, kích thước (Ít hơn, nhiều hơn, to hơn, bé hơn)
 Chuẩn mực xã hội (hư, ngoan, tốt, xấu)
 Thông qua việc tri giác các hiện tượng cụ thể và dưới sự chỉ dẫn của người lớn.
+ Ví dụ: Chào ông, chào bà là ngoan; khóc nhè, nghịch bẩn, đánh bạn là hư.
3. Tư duy:
- Giai đoạn 3 – 6 tuổi đặc trưng bởi sự xuất hiện chức năng biểu tượng, đó là khả năng sử dụng các từ
ngữ, các động tác hay vật nào đó để diễn tả hay biểu thị sự vật, hiện tượng.Trẻ sử dụng các biểu tượng
trong mọi tình huống. Ví dụ: Trẻ dùng tranh vẽ để mô tả mặt trời; cái que để làm xe máy; giấy vụn để
làm thức ăn; búp bê làm em bé, các khúc gỗ làm đoàn tàu hay cho búp bê ăn cháo “giả vờ”.
- Trẻ ở lứa tuổi này thường có xu hướng gán cho những sự vật xung quanh tâm hồn và cảm xúc như sinh
vật sống. Ví dụ: Trẻ tin là đánh mạnh búp bê sẽ đau và khóc. Đây là hiện tượng nhân cách hóa đồ vật.
- Ở lứa tuổi 3-6 tuổi trẻ bắt đầu có khả năng tư duy hình tượng. Tư duy trực quan hình tượng giúp trẻ có
nhiều sáng kiến trong các giải quyết vấn đề, trẻ nhìn ra cách làm trong đầu dưới dạng hình ảnh, thao tác
trong đầu rồi mới bắt tay vào hành động. Nó giúp trẻ nhìn nhận thế giới một cách vô cùng sinh động và
ngộ nghĩnh. Tuy nhiên chính vì tư duy của trẻ ở giai đoạn này chỉ dựa trên những hình ảnh trực quan
bên ngoài nên cảm tính và chưa chính xác nên theo Piaget gọi tư duy của trẻ 2 – 4 tuổi là tư duy tiền
khái niệm; tư duy của trẻ 4 – 6 tuổi là tư duy cảm tính.
+ Gọi tư duy của trẻ 2 – 4 tuổi là tư duy tiền khái niệm vì trẻ chưa có khả năng phân biệt các dấu hiệu bên
ngoài và bản chất thật sự bên trong của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ:
 Một màn đối thoại giữa trẻ em và người lớn khi đi dọc bờ biển như sau:
Tại sao ném hòn đá xuống nước thì nó chìm – Vì nó nặng ạ
Thế tại sao cái tàu kia lại nổi – Vì nó to ạ
Tại sao mặt trời lại không rơi – Vì nó cao tít
 Một ví dụ khác, nếu người anh đeo mặt nạ có khuôn mặt đáng sợ của một con vật nào đó thì khi trẻ nhìn
thấy sẽ thật sự sợ hãi như sợ một con thú dữ tợn nhưng không nhận thức được rằng đằng sau mặt nạ đó
là người anh yêu quý của mình.
+ Gọi tư duy của trẻ 4 – 6 tuổi là tư duy cảm tính vì nó thường chỉ dựa trên những dấu hiện trực quan bên
ngoài chứ chưa dựa vào những suy luận logic. Các thí nghiệm về bảo toàn khối lượng chất lỏng, bảo
toàn số lượng hạt cườm của Piaget đã minh họa rất rõ nét tư duy cảm tính của trẻ ở giai đoạn này.
- Một đặc điểm đặc trưng cho tư duy của trẻ ở giai đoạn này là trẻ thường nhìn thế giới xung quanh dưới
góc nhìn của riêng mình mà chưa có khả năng hiểu góc nhìn, quan điểm của người khác. Ví dụ: Cho trẻ
quan sát mô hình 3 ngọn núi từ hai phía, sau đó cho rẻ ngồi 1 phía, nhà nghiên cứu ngồi 1 phía. Khi
được hỏi: Cháu nhìn thấy gì?, trẻ sẽ vui vẻ, phấn khởi kể lại những con vật, cây cối mà trẻ nhìn thấy.
Sau đó khi được hỏi “Thế cô nhìn thấy gì?” thì trẻ lại tiếp tục liệt kê những thứ bản thân đã nhìn thấy từ
góc nhìn của mình mà không tính đến chuyện cô đang ngồi phía đối diện mình,
4. Tưởng tượng:
- Một thành tựu và biểu hiện quan trọng của giai đoạn 3 – 6 tuổi là sự nở rộ của trò chơi đóng vai. Trẻ có
thể biến thành bất kì ai, có thể dùng bất cứ đồ vật gì để biến nó thành bất cứ thứ gì.
- Ở giai đoạn này, trẻ có khả năng tưởng tượng sáng tọa. Chúng có thể bịa ra một câu chuyện không có
thật, kể cho nhau nghe và cười vô cùng thích thú. Cũng như trí nhớ hay các hiện tượng tâm lí khác,
tưởng tượng của trẻ cũng bắt đầu từ không chủ định đến có chủ định.
II. Ứng dụng hiểu biết trong việc nhận diện những khó khăn tâm lí của trẻ

Câu 8: Anh/Chị hãy tóm lược các thành tựu chính về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ tuổi mẫu giáo và
ứng dụng trong quá trình giáo dục trẻ?
I. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ:
1. Vốn từ :
- Trẻ em tuổi mẫu giáo đã tích luỹ được vốn từ khá phong phú, đến năm thứ 3 trẻ đã sử dụng được 1300
từ, đến 6 tuổi trẻ có thể sử dụng khoảng từ 3000 đến 4000 từ.
- Đến 3- 4 tuổi, về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đủ các loại từ, tuy nhiên ,tỉ lệ danh từ và tính từ cao
hơn nhiều. Tuy vậy, trẻ sử dụng từ mang đậm tính cá nhân và coi đồ vật cũng giống như con người.
- Giai đoạn 5- 6 tuổi : câu nói của trẻ phức tạp hơn, chứa đựng nhiều thông tin hơn.Vốn từ của trẻ đã
phong phú và trẻ sử dụng từ ngữ một cách chủ động song khi sử dụng từ ngữ, trẻ hường mắc một số lỗi
như: Sử dụng từ chưa chính xác, nói ngọng, nói lắp
2. Ngữ pháp:
- Đến 3 tuổi, trẻ đã biết đặt nhiều loại câu hỏi. Loại câu hỏi đầu tiên là câu có- không, sau đó câu hỏi ai,
cái gì, ở đâu. Đến 5- 6 tuổi, trẻ có thể sử dụng được hầu hết các quy tắc ngữ pháp và nói đúng, Các kiểu
câu nói của trẻ cũng ngày càng phức tạp hơn .
- Trẻ mẫu giáo vẫn còn có một số hạn chế về ngữ pháp trong lời nói như trẻ thường nói ngược chủ ngữ
và vị ngữ hoặc bổ ngữ. Các dạng câu mở rộng trong lời nói của trẻ còn nghèo nàn.
3. Phát âm:
- Từ 3 - 5 tuổi, trẻ phát đúng nhiều âm vị, phát âm từ, câu rõ nét hơn, bắt đầu biết điều chỉnh tốc độ,
cường độ của giọng nói phù hợp. Trẻ vẫn còn phát âm sai một số âm khó như: s, tr, ch, l, qu, kh.
- Từ 5 – 6 tuổi: trẻ đã nắm được và phát âm đúng các âm vị của tiếng mẹ đẻ, phát âm đúng hầu hết các
thanh điệu, phát âm đúng và rõ các từ, câu; biến đổi cường độ, sử dụng các phương tiện biểu cảm phát
âm phù hợp.
4. Sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống
- Từ 3 tuổi, trẻ tiếp nhận được rất nhiều kỹ năng hội thoại. Những kỹ năng này giúp trẻ giao tiếp hiệu quả
hơn. Trong quan hệ với bạn bè, trẻ có thể đổi lượt vai, đáp ứng thích hợp với yêu cầu của các bạn và có
thể duy trì hội thoại. Khả năng luân phiên trong giao tiếp cũng tăng theo lứa tuổi.
- Đến 5 tuổi, ngôn ngữ đã trở thành công cụ chủ yếu để trẻ học tập. Trẻ cũng đã biết sử dụng ngôn ngữ
như một kỹ năng xã hội chủ chốt. Trẻ ở tuổi này đã sử dụng tiếng mẹ đẻ rõ ràng, mạch lạc, từng bước
thể hiện tốt các sắc thái cảm xúc hợp lí trong hành vi lời nói. Đến tuổi này, tính địa phương và tính cá
nhân trong lời nói thể hiện ngày càng rõ.
II. Ứng dụng trong quá trình giáo dục trẻ:
- Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc là điều kiện quan trọng để trẻ chuẩn bị bước vào lớp 1. Nếu trẻ em ở
giai đoạn lứa tuổi này vẫn còn nói ngọng, phát âm sai, nói sai ngữ pháp hoặc không hiểu lời người khác
nói thì có thể coi là chậm phát triển ngôn ngữ cần có những biện pháp can thiệp và hỗ trợ kịp thời.
- Để phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ em, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên giao tiếp
với mọi người, tích cực tham gia các hoạt động tập thể . Sự tương tác, giao tiếp trực tiếp giữa trẻ và
những người xung quanh trong các trò chơi, các tình huống cụ thể của cuộc sống có vai trò quan trọng
trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ. Trẻ cần phải cảm nhận được sắc thái cảm xúc của người nói trực
tiếp đáp lại câu nói đó thì mới được coi là hiểu ngôn ngữ và nói ngôn ngữ một cách mạch lạc.
- Một số cha mẹ vì bận công việc hay bật ti vi cho con xem hoặc bận đi làm xa gọi điện về nói chuyện
với con thì cả hai dạng ngôn ngữ đều không có khả năng phát triển ngôn ngữ tích cực ở trẻ em.
Câu 9: Anh/Chị hãy phân tích đặc điểm học tập của học sinh tiểu học. So sánh với hoạt động chơi của
trẻ tuổi mẫu giáo?
1. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học:
- Học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ em 6-11 tuổi, là sự hình thành những tri thức kĩ năng, kĩ xảo mới
ở cá nhân một cách có mục đích, có phương pháp và phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, đứa trẻ chỉ thật sự trở thành học sinh khi hoạt động học tập có ý nghĩa nhất định đối
với bản thân chúng.
- Vào lớp 1, sự ham chơi dần nhường chỗ cho việc hình thành động cơ học tập. Trẻ hành động để lĩnh
hội những kiến thức, kĩ năng mới. Kết quả học tập tốt khiến trẻ nhận được những lời khen ngợi của
thầy cô, cha mẹ, bạn bè. Điều này càng khích lệ trẻ cố gắng học tập.
- Trẻ em đầu tiểu học phải thích ứng với hoạt động học tập và các mối quan hệ mới. Quá trình thích ứng
của trẻ em diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự chuẩn bị sẵn sàng về mặt
tâm lí của trẻ trước khi đến trường có vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài ra còn các yếu tố khác như: sự
quan tâm đúng cách của cha mẹ, phương pháp sư phạm của người giáo viên, nội dung và chương trình
cũng ảnh hưởng tới nhu cầu, hứng thú và tính tích cực học tập của các em.
- Sự chuyển dạng hoạt động chủ đạo từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập làm cho các em học
sinh bước vào lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn có thể kể đến là: Trẻ phải giữ kỉ luật lớp
học, trẻ phải học chương trình nặng hơn so với chương trình ở mẫu giáo, trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu
yếm hơn, trẻ gặp khó khăn trong quan hệ giao tiếp với giáo viên, ... Trẻ nào vượt qua được những khó
khăn này sẽ học tập tốt, trẻ nào không vượt qua được sẽ dẫn đến tình trạng chán học, kết quả học tập
không cao.
- Vì hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh tiểu học cho nên nếu những đứa trẻ đạt được
kết quả học tập tốt thì chúng sẽ có những biểu tượng tốt về bản thân và ngày càng chăm học. Trẻ hiểu
rằng nếu chăm học sẽ đạt được những kết quả như mong muốn và mong muốn bản thân đạt được thành
tựu lớn. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh như:
+ Những đứa trẻ có sức khỏe yếu hoặc ăn uống không đầy đủ hay lo lắng về các vấn đề trong gia đình
hoặc tự ti thường không hoàn thành tốt được các nhiệm vụ học tập được giao.
+ Tự đánh giá cũng có ảnh hưởng đến kết quả học tập. Những em có tự đánh giá cao thường có động cơ
đạt thành tích trong học tập cao hơn.
+ Giá trị gia đình cũng có ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. Gia đình đặt giá trị thành tích học
tập của con cái cao hơn thì con cái họ thường có động cơ thực hiện nhiệm vụ học tập mạnh hơn.
+ Giới tính cũng có thể tác động đến kết quả học tập của học sinh. Công trình nghiên cứu của JACKLIN
đã đi đến kết luận con gái có khả năng hơn con trai về các kĩ năng ngôn ngữ, trong khi đó con trai có kết
quả học tập tốt hơn về tính toán và vận dụng các khái niệm trong không gian.
+ Yếu tố cuối cùng là vai trò của cha mẹ: Trẻ con thường học tập tốt hơn nếu cha mẹ luôn ủng hộ và đưa
ra cho chúng những lời khuyên bảo.
2. So sánh với hoạt động chơi của trẻ mẫu giáo
- Ở mẫu giáo, hoạt động trò chơi của trẻ phát triển dần, trẻ 3-5 tuổi thích thú bởi quá trình của trò chơi.
Trẻ 5 – 6 tuổi không chỉ thích quá trình mà còn thích cả kết quả của trò chơi (thắng, thua). Động cơ
giành phần thắng trong trò chời phát triển dần và sau này trở thành động cơ thi đua trong học tập.
- Hoạt động học khác hoạt động chơi ở chỗ: Hoạt động học có quy định bắt buộc chung về giờ giấc, nội
dung, công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục đích xã hội nhất định. Những hoạt động ở mẫu giáo
chưa phải là các buổi học nghiêm túc như ở tiểu học nhưng cũng có các tri thức và phương pháp vừa
học vừa chơi phù hợp với trẻ tạo tiền đề hình thành các yếu tố của hoạt động sau này.
- Trò chơi đóng vai là hoạt động chủ đạo của trẻ em tuổi mẫu giáo, đó là hoạt động của trẻ em nhằm mô
phỏng những hiện tượng đa dạng trong cuộc sống mà các em được chứng kiến. Mỗi em sẽ diễn tả vai
trò của một nhân vật nào đó bằng những hành động và đồ vật tượng trưng. Những cảnh tượng, hiện
tượng, hay tình huống mà trẻ nhận thấy được và cảm thấy thú vị sẽ được diễn lại trong trò chơi đóng
vai một cách tự do, sáng tạo. Bên cạnh trò chơi đóng vai, các hoạt động như chạy, nhảy, vẽ, nặn, ghép
hình cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ.
Câu 10: Anh/Chị hãy nêu những biểu hiện, nguyên nhân và biện pháp ứng xử với trẻ ở giai đoạn
khủng hoảng tuổi lên 3?
1. Biểu hiện:
- Vào cuối tuổi lên 3, có thể thấy thường bùng lên những phản ứng cảm xúc mạnh với những khó khăn
mà trẻ gặp phải khi làm một việc gì đó một mình không được hay những cơn hờn dỗi, khóc lóc khi đòi
một thứ gì đó mà không được người lớn đáp ứng. Đó là những biểu hiện của khủng hoảng tuổi lên 3.
2. Nguyên nhân
- Đứa trẻ đã phát triển đến trình độ mới nhưng cha mẹ và người lớn vẫn chưa thay đổi cách ứng xử và
những yêu cầu đối với trẻ.
- Sự thay đổi các dạng hoạt động và việc chưa thích ứng được với những dạng hoạt động mới cũng là
một nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tuổi lên ba.
3. Biện pháp ứng xử với trẻ giai đoạn khủng hoảng lên 3:
- Khi có một số việc để tự làm gây nguy hiểm cho trẻ như: cầm dao gọt hoa quả, bật bếp ga, rót nước chè
nóng, ... Trong những trường hợp này cha mẹ không nên giận dỗi, giành lấy đồ vật từ tay trẻ và quát
mắng trẻ “không được”, “con hư quá” thì trẻ sẽ rất dễ bị hụt hẫng không hiểu vì sao mình bị quát mắng
một cách vô lí như thế. Trong những trường hợp như vậy trẻ sẽ đòi lại quyền của mình bằng cách khóc
thật to. Mà trong trường hợp này cha mẹ cần: Trước hết là nên tỏ ra quan tâm đến trẻ không để trẻ hờn
khóc quá lâu. Mặt khác không nên đáp ứng mọi yêu cầu của trẻ chỉ để chấm dứt cơn hờn dỗi. Lợi dụng
việc trẻ ở tuổi này rất dễ bị “đánh lạc hướng” không nhớ gì lâu và chỉ phản ứng với những gì trẻ trực
tiếp tri giác, người lớn nên bình tĩnh, nhẹ nhàng hướng trẻ sang một đồ chơi yêu thích khác hay đề nghị
trẻ làm việc gì đó thú vị, thế là trẻ sẽ quên những đòi hỏi không hợp lí của mình, quên những khó chịu
vừa xảy ra và sẵn sàng bắt tay vào việc mới.
- Người lớn cần tôn trọng, khích lệ tính tích cực, tính tự lập của trẻ. Không nên dập tắt tính tích cực và
hạn chế nguyện vọng độc lập của trẻ bằng cách mệnh lệnh như: ngồi yên, bỏ xuống, tránh ra.
- Người lớn nên tổ chức không gian an toàn và thoải mái cho trẻ tự do vận động, tìm tòi, khám phá
những đồ vật trong nhà.
Câu 11: Anh/chị hãy tóm lược các thành tựu chính về sự phát triển lĩnh vực xã hội - động cơ của
trẻ tuổi mẫu giáo?
1. Giới tính và cái "Tôi" của trẻ
- Giới tính là một khía cạnh quan trọng bậc nhất trong ý thức về bản thân của trẻ trước tuổi học đang mới
hình thành. Những thay đổi cách ứng xử theo giới tính:
+ Khi mới hai tuổi, trẻ nhỏ đã thể hiện ý thích chọn các đồ chơi theo giới tính (con trai: ô tô; con
gái: búp bê). ở tuổi còn nhỏ này, trẻ chỉ biết rất ít các hành vi có liên quan đến giới tính.
+ Khi đã 3 đến 4 tuổi, trẻ nhỏ đã hiểu nhiều về các đồ vật và các hoạt động của từng giới và cũng
đã thể hiện các dạng ứng xử theo giới tính nhiều hơn.
+ Từ 5 – 7 tuổi, trẻ bắt đầu hiểu giới tính là đặc tính không thay đổi suốt cuộc đời và nhận dạng về
giới của bản thân một cách chắc chắn
- Phát triển ý thức về "mình": Những tiến bộ về nhận thức trong thời kỳ trước tuổi học có ảnh hưởng sâu
sắc tới hướng phát triển của ý thức về "mình" ở trẻ nhỏ. Trong thời kỳ này, trẻ nhỏ bắt đầu có khả năng
quan sát và biết được mình là một con người. Trẻ hiểu được là con người có tâm trí, và là một con
người riêng biệt.
- Những thay đổi trong cách hiểu về bản thân.
+ Tới cuối thời kỳ chập chững, trẻ nhỏ đã có thể hình dung được "mình" là thế nào, tức là biết là
mình tồn tại.
+ Chỉ tới thời kỳ 2 – 6 tuổi, trẻ mới có thể hình dung ra nhiều dạng của các sự việc trải qua và đan
xen các sự việc đó với nhau. Chúng có thể tách riêng những mặt khác nhau của sự việc đã trải
nghiệm, có thể nhìn chính mình trong gương và biết "đó là mình"
+ Nhưng trẻ ở tuổi này chưa hiểu còn khó thấy ra được rằng chúng vẫn là cùng một con người khi
mà chúng cảm nhận trong những tình huống khác nhau.
+ Trẻ hai tuổi vẫn đồng nhất bản thân với người khác nên khi xưng hô vẫn dùng ở ngôi thứ ba. Gần
đến 3 tuổi, trẻ mới nhận ra cái tôi của mình, do đó khi xưng hô mới nhận biết mình ở ngôi thứ
nhất
2. Sự phát triển tình cảm xã hội:
- Trẻ từ 2 tuổi rưỡi đến 5 tuổi đã thấy được thế giới đang rộng mở: nhà trẻ, trường mẫu giáo và vườn trẻ
ngày càng đưa chúng rời xa gia đình.
- Thời kỳ này, trẻ phát triển đáng kể về khả năng tự kiềm chế và tự điều hoà. Trẻ nhỏ đã có thể chịu đựng
được những lúc bị trì hoãn và bị hẫng hụt.
- Trẻ có khả năng tự lập và tin ở bản thân trong quan hệ với cha mẹ, đồng thời dễ kết bạn với trẻ cùng
trang lứa.
- Trẻ khao khát sự yêu thương, trìu mến và lo sợ trước thái độ lạnh nhạt của mọi người. Chúng cũng biết
quan tâm đến mọi người, quan tâm đến em nhỏ, bộc lộ tình cảm với những nhân vật trong truyện kể,
thông cảm với những bất hạnh của các nhân vật.
- Trẻ còn thể hiện tình cảm với động vật, cây cỏ, đồ chơi, hiện tượng thiên nhiên và gắn cho chúng
những sắc thái tình cảm của con người. Trẻ dễ đồng cảm và xúc cảm với con người và cảnh vật xung
quanh. Thời kỳ này, trẻ cũng rất dễ rung động với cái đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật
3. Sự hình thành và phát triển động cơ hành vi
- Trong thời kỳ mẫu giáo, trẻ có một chuyển biến căn bản về hành vi: từ hành vi bột phát sang hành vi
mang tính xã hội. Đó là nảy sinh động cơ. Khi hành động, trẻ bị kích thích bởi những động cơ sau:
Động cơ gắn liền với ý thích muốn được làm người lớn; với quá trình chơi thúc đẩy mạnh mẽ hành vi
của trẻ; nhằm làm người lớn vui lòng. Những động cơ này đóng vai trò thúc đẩy trẻ thực hiện những
hành động tích cực.
- Đến tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện đều được phát triển mạnh mẽ. Những động cơ này
gắn liền với việc lĩnh hội có ý thức chuẩn mực về quy tắc đạo đức hành vi trong xã hội.
- Hành vi của trẻ mẫu giáo không chỉ thể hiện ở nội dung động cơ mà xuất hiện nhiều động cơ mới, được
gọi là hệ thống thứ bậc động cơ. Các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng đối với trẻ. Hệ
thống thứ bậc động cơ hình thành khiến hành vi trẻ mẫu giáo nhằm theo một xu hướng nhất định và
mang tính xã hội rõ nét
4. Sự phát triển tự ý thức và ý thức xã hội
- Tuổi mẫu giáo bé là điểm khởi dadàu hình thành ý thức bản ngã, nên trong ý thức của trẻ vấn mang
đậm tính duy kỷ, chưa phân biệt được ý múôn chủ quan với tính chất khách quan của sự vật, quy tắc
trong xã hội.
- Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới hiểu được mình là người như thế nào, có phẩm chất gì, người xung
quanh đối xử như thế nào, tại sao mình lại hành động như vậy.
- ý thức bản ngã thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá và thành công hay thất bại của bản thân, khả năng
và bất lực của bản thân.
- Trẻ mẫu giáo thường lĩnh hội những chuẩn mực quy tắc hành vi là thước đo để đánh giá người khác và
đánh giá bản thân, đến cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh mình với người khác.
- ý thức bản ngã giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với chuẩn mực, quy tắc xã
hội, cho phép trẻ hành động có chủ tâm hơn, quá trình tâm lý mang tính chủ định rõ rệt
5. Sự hình thành các phẩm chất đạo đức
- Tình cảm tự hào: 3 tuổi, trẻ hình thành tình cảm tự hào khi được người khác khen ngợi, tán thưởng và
cổ vũ, nhờ đó trẻ luôn làm việc tốt để đựoc khen ngợi.
- Tình cảm xấu hổ : trẻ cũng bắt đầu xuất hiện tình cảm xấu hổ mỗi khi hành động của chúng không
được người lớn mong mỏi hoặc bị chê trách.
- Bản lĩnh và lòng tự trọng : Bằng cách nhập tâm những quy tắc của cha mẹ đề ra, không thừa nhận các
quy tắc đó ( và cảm thấy mình có lỗi) và sau đó khi đã hoà hợp trở lại với cha mẹ, các trẻ trước tuổi học
cảm nhận được một điều gọi là ý thức về bản lĩnh của mình.Các trẻ trước tuổi học cũng bắt đầu biết
nghĩ là bản thân chúng có những tính khí-tức là cách đối xử -không thay đổi theo thời gian. Trong số
các trẻ nhỏ này, đa số nghĩ rằng "mình" tốt, dễ mến, đáng mến và có khả năng, có hiệu lực trên cõi đời
này.
- Lòng tự trọng : Những ý nghĩ và cảm xúc dương tính về "mình" . Những điều đánh giá tốt về mình có
thể phát sinh từ một tiền sử các quan hệ tốt với người khác, đặc biệt là với những người chăm sóc. Khi
người lớn có nhiệt tình, thấu cảm và quan tâm tới trẻ nhỏ sẽ khuyến khích trẻ biết tự trọng hơn
Câu 11: Với hiểu biết của mình, anh/chị hãy trình bày những đặc trưng trong sự phát triển nhận
thức và ngôn ngữ cho trẻ từ 6 – 11 tuổi? Lấy ví dụ ứng dụng hiểu biết về những đặc trưng này
trong giáo dục trẻ ở trường tiểu học?
I. Sự phát triển về nhận thức: Tri giác, Chú ý, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy
1. Tri giác:
- Tri giác của học sinh đầu tiêủ học mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ động,
do đó, các em phân biệt những đối tượng còn chưa chính xác, dễ sai lầm, có khi còn lẫn lộn.
- Các lớp đầu bậc tiểu học, tri giác của trẻ em thường gắn với hành động,với hoạt động thực tiễn của trẻ.
Tính cảm xúc thể hiện rất rõ khi các em tri giác. Tri giác trước hết là những sự vật, những dấu hiệu,
những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em xúc cảm.
- Tri giác và đánh giá thời gian và không gian của học sinh tiểu học còn có hạn chế.
2. Chú ý:
- Lứa tuổi học sinh tiểu học, chú ý có chủ định của các em còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý một cách
có ý chí chưa mạnh. Sự chú ý của học sinh đòi hỏi một động cơ gần thúc đẩy. Học sinh các lớp cuối
bậc học chú ý có chủ định được duy trì ngay cả khi chỉ có động cơ xa, học sinh các lớp đầu bậc học
thường bắt mình chú ý khi có động cơ gần.
- Sự chú ý của học sinh lớp một, lớp hai còn yếu, thiếu bền vững. Ví dụ: Trong giờ học về môi trường tự
nhiên và xã hội, cô giáo nói tới gia súc, gia cầm thì trong đầu óc những cậu bé, cô bé ấy liền hiện lên
hình ảnh về đàn vịt ở quê và những kỉ niệm cùng gia đình, anh em, bạn bè, cứ thế suy nghĩ này nối tiếp
suy nghĩ kia mà chả có gì liên quan đến lời cô giáo giảng. Sự chú ý của học sinh tiểu học còn phụ thuộc
vào nhịp độ học tập. Nhịp độ học tập quá nhanh hoặc quá chậm đều không thuận lợi cho tính bền vững
và sự tập trung chú ý.
- Khối lượng chú ý của học sinh tiểu học hẹp, sự phân phối chú ý kém.
3. Trí nhớ:
- Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định
nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Học sinh lớp một và lớp hai có khuynh hướng ghi nhớ máy móc
bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần. Ghi nhớ có ý nghĩa kém do học sinh còn chưa biết tổ chức việc ghi
nhớ có ý nghĩa , chưa biết sử dụng sơ đồ logic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng
dàn ý tài liệu cần ghi nhớ .
4. Tưởng tượng:
- Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so với trẻ em tuổi mẫu giáo, đặc biệt
là tính có chủ định tăng lên rõ rệt. Nó dược hình thành và phát triển trong hoạt động học và các hoạt
động khác của các em. Khuynh hướng chủ yếu trong sự phát triển của tưởng tượng ở học sinh tiểu học
là tiến dần đến phản ánh một cách đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan trên cơ sở những tri thức
tương ứng. Đây là lứa tuổi thơ mộng giúp cho phát triển tưởng tượng.
- Lớp 1 – lớp 2 : Tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít có tổ chức. Hình ảnh của tưởng tượng còn đơn
giản, hay thay đổi, chưa bền vững, nghèo chi tiết
- Lớp 4 – 5 : Nảy sinh nhiều sáng tạo biểu tượng, tưởng tượng tái tạo từng bước được hoàn thiện gắn liền
với những hình tượng đã tri giác trước hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với những điều mô tả. Số
liệu dấu hiệu và hình ảnh tăng lên nhiều, khá trọn vẹn và cụ thể.
5. Tư duy:
- Trong quá trình nhận thức ở trẻ 6 – 11 tuổi thì sự phát triển tư duy là mạnh mẽ nhất. Ở trẻ bắt đầu xuất
hiện khả năng lí giải logic, sử dụng các thao tác trí tuệ như cộng trừ nhân chia, thao tác bảo toàn, phân
loại, xếp hạng, ... Ví dụ: Ở độ tuổi này khi giải bài toán ảo toàn khối lượng chất lỏng của Piaget thì trẻ
em đã có khả năng chú ý đến 2 yếu tố là độ cao và thiết diện rộng hẹp của 2 cốc nước.
- Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc
điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. J.Piagiê cho rằng tư duy của trẻ từ 7 đến 10
tuổi về cơ bản còn ở giai đoạn thao tác cụ thể,trên cơ sở đó có thể diễn ra quá trình hệ thống hoá các
thuộc tính, tài liệu trong kinh nghiệm trực quan. Trẻ không còn bị đánh lừa bởi hình dạng bên ngoài mà
bắt đầu chú ý tới bản chất bên trong. Trẻ hiểu rằng thay đổi hình dạng bên ngoài và thay đổi cách sắp
xếp một số vật không làm thay đổi khối lượng hay số lượng của chúng.
- Khi khái quát hoá, học sinh tiểu học (lớp 1 và lớp 2) thường quan tâm đến dấu hiệu trực quan, bề ngoài
có liên quan đến chức năng của đối tượng tức là công dụng và chức năng.Nhờ hoạt động học tập, trình
độ nhận thức phát triển, học sinh lớp 3, lớp 4 đã biết xếp bậc các khái niệm, phân biệt khái niệm rộng
hơn, hẹp hơn, nhìn ra các mối liên hệ giữa các khái niệm về loài về giống loài. Trên cơ sở này học sinh
biết phân loại và phân hạng trong nhận thức.
- Họat động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, học sinh các lớp đầu tiểu học chủ yếu tiến hành hoạt động
phân tích- trực quan- hành động khi tri giác trực tiếp đối tượng. Học sinh cuối bậc học này có thể phân
tích đối tượng mà không cần tới những hành động thực tiễn đối với đối tượng đó. Học sinh các lớp học
này có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn
ngữ.
II. Sự phát triển về ngôn ngữ
- Khi đi học, trẻ nắm được hình thức ngôn ngữ mới, đó là ngôn ngữ viết. Nắm ngôn ngữ viết và tiếp tục
phát triển ngôn ngữ có tính lô gíc, truyền cảm, bảo đảm cho trẻ khả năng để nhận thức thực tế và giao
tiếp rộng rãi.
- Ngôn ngữ của trẻ tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, ngữ pháp và vốn từ: Trẻ 6 tuổi hiểu được gần
10.000 từ và tiếp tục mở rộng vốn từ tăng với khoảng 20 từ mỗi ngày. Đến năm 10 tuổi trẻ có thể hiểu
được khoảng 40.000 từ.
- Học sinh tiểu học cũng thông thạo hơn trong việc hình thành những suy diễn ngôn ngữ, cho phép chúng
thể hiện nhiều hơn. Từ 9 -11 tuổi, trẻ có khả năng suy diễn ngôn ngữ tốt.Học sinh các lớp cuối bậc đã
nắm được ngữ âm, nhưng hiện tượng phát âm sai vẫn còn phổ biến ở học sinh lớp 1, lớp 2 nhiều hơn.
- Các em nắm được quy tắc ngữ pháp cơ bản khi nói và viết. Tuy nhiên vẫn còn sai ngữ pháp
III. Ứng dụng hiểu biết về những đặc trưng này trong giáo dục trẻ ở trường tiểu học
- Vì tri giác của trẻ ở giai đoạn này thường gắn với hành động,với hoạt động thực tiễn của trẻ nên giáo
viên cần thường xuyên tổ chức cho các em làm việc trực tiếp với các đối tượng nhận thức dưới dạng
các vật thật hoặc mô hình, hướng dẫn các em quan sát đầy đủ đối tượng theo nhiều góc độ, nhiều trạng
thái, sau đó để các em tự mô tả, giải quyết vấn đề và trả lời các câu hỏi được đặt ra.
- Trong các tiết học của mình, giáo viên thay vì dạy học bằng những lời giảng đơn điệu, những con số
khô khan, các bài tập và các bài kiểm tra thì giáo viên nên dẫn học sinh đi tham quan công viên, bảo
tàng, ... Ví dụ: Khi học về các loài chim giáo viên yêu cầu học sinh học thuộc tên và đặc điểm của các
loài chim được ghi trong sách. Thay vào đó, giáo viên dẫn học sinh đi tham quan vườn chim và chỉ cho
các em các loại chim muông sẽ giúp các em dễ ghi nhớ hơn nhiều.
- Hiện nay nhiều học sinh tiểu học vẫn còn có xu hướng ghi nhớ bằng cách nhắc đi, nhắc lại tài liệu
nhiều lần, nhiều trẻ học thuộc một đoạn thơ hay một bài văn nào đó mà không hiểu nội dung thực chất
của nó. Giáo viên cần dạy cho trẻ những các ghi nhớ hiệu quả bằng cách chia tài liệu ra thành nhiều
đoạn, giúp các em hiểu ý nghĩa logic của từng đoạn rồi sau đó mới tổng hợp chúng lại.
- Khả năng đọc, viết của học sinh phụ thuộc nhiều vào phương pháp dạy đọc và viết của giáo viên nên
giáo viên cần lựa chọn phương pháp cho phù hợp và điều chỉnh phương pháp khi cần thiết.
Câu 12: Anh/chị hãy phân tích đặc điểm phát triển thể chất của trẻ em tuổi thiếu niên. Ảnh hưởng
của nó tới sự phát triển tâm lí của các em lứa tuổi này.?
I. Đặc điểm phát triển thể chất
- Tuổi thanh niên là thời kỳ từ khoảng 12 tuổi cho tới 20 tuổi là thời gian có những thay đổi mạnh mẽ và
có ảnh hưởng sâu sắc. Ở tuổi này, các em mau lớn, lớn nhanh hơn nhiều so với những thời kỳ còn bé.
Cùng với đà phổng phao, có nhiều sự thay đổi về hình vóc và tỷ lệ trong cơ thể. Đồng thời, bộ não cũng
có những thay đổi quan trọng về cấu trúc về chức năng, có tầm quan trọng đáng kể đối với quá trình
phát triển nhận thức.
- Tuổi dậy thì là thời kỳ trong đó đứa trẻ từ chỗ còn chưa phát triển về giới tính đã trở thành có khả năng
sinh con. Đối với con gái, dấu hiệu rõ nhất của sự thay đổi này bắt đầu có kinh nguyệt (trung bình là ở
12 tuổi rưỡi). Đối với con trai, sự thay đổi quan trọng đánh dấu tuổi dậy thì là lần xuất tinh đầu tiên (ở
vào khoảng 14 tuổi). Con gái thường dậy thì sớm hơn con trai hai năm. Ngay trong cùng một giới, cũng
có sự chênh lệch khá rõ về thời điểm dậy thì. Thời điểm này chịu ảnh hưởng của di truyền, của chế độ
dinh dưỡng, mức độ stress và của việc luyện tập
- Vai trò của các chất nội tiết ở tuổi dậy thì: Dậy thì không phải là sự biến đổi diễn ra ở một bộ phận nào
đó mà là giai đoạn sau cùng của một quá trình phát triển khá dài về giới tính. ở con trai, khi lượng nội
tiết nam tăng cao sẽ có tác dụng sản ra tinh dịch và phát triển các đặc điểm như mọc râu và giọng nói
trầm hơn. Nội tiết nữ (estrogen) gây ra các thay đổi khác ở con gái như thấy kinh, phát triển hai vú....
- Các tác động của những thay đổi ở tuổi dậy thì.
 Tuổi dậy thì và hình ảnh thân thể: Hình ảnh thân thể chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tuổi dậy thì và thời
điểm có chuyển biến. Khi chớm bước vào tuổi thanh niên, những trẻ nào đã phát triển về thể chất hơn
thường có một hình ảnh tốt đẹp về thân thể: nở nang về thân thể, hấp dẫn hơn...
 Tuổi dậy thì và các quan hệ xã hội:
Tuổi dậy thì thường đi đôi với thái độ quan tâm nhiều hơn đến người khác giới và thích hò hẹn,
thích chuyện ái ân.
Khi con cái đến tuổi dậy thì thường hay xung đột với mẹ. Đến cuối tuổi dậy thì, thanh niên cảm
thấy mình tự chủ nhiều hơn về các mặt cảm xúc và ứng xử, không còn phụ thuộc vào cha mẹ.
ở tuổi dậy thì thường xuất hiện nhiều vấn đề hơn: sớm như chốn học, lơ đãng chuyện học tập, sử
dụng rượu và ma tuý, bỏ đi và ăn cắp ở các cửa hàng.
II. Ảnh hưởng của nó tới sự phát triển tâm lí của các em lứa tuổi này
- Các em ở lứa tuổi này cảm nhận rất rõ sự biến đổi của cơ thể và rất nhạy cảm với vẻ bề ngoài của mình.
Chúng thường so sánh bản thân với những người khác để rồi xem xét lại chính mình. Cả hai giới đều
cảm thấy lo lắng khi mình không giống các thần tượng mình gặp trong phim ảnh. Những ý nghĩa như: “
Mình béo quá”, “ Mũi to quá”, “Mặt ngắn quá”, “Chân to quá”, “Lùn quá” có thể làm cho các em nghĩ
răng mình rất xấu, cả thế giới đều quan tâm đến làn da của mình, những lo lắng về việc nhiều mụn và
trứng cá trên mặt.
- Ở lứa tuổi, trẻ này rất quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình. Sự mất cân đối giữa các phần của cơ thể, sự
lóng ngóng, vụng về, khuôn mặt không thanh tú, da nổi trứng cá, béo hay gầy, cao hay thấp, tất cả đều
dẫn tới cảm giác không hoàn thiện của bản thân. Nhiều em trở nên khép kín, thậm chí là âu sầu.
- Việc quan tâm thái quá đến vẻ bề ngoài làm thiếu niên luôn thường nghĩ rằng những người xung quanh
luôn để ý đến ngoại hình của chúng. Hiện tượng khán giả tưởng tượng này thể hiện ở cảm giác thường
trực ở thiếu niên là Mọi người đang đánh giá mình trong như thế nào. Điều này làm tăng tính dễ bị tổn
thương ở trẻ.
- Những phản ứng cảm xúc nặng nề về vẻ bề ngoài của trẻ có thể được làm dịu đi bằng những mối quan
hệ thân thiện, ấm áp của những người thân thiết, đặc biệt là những người lớn tế nhị và thông hiểu trẻ.
Câu 13: Anh/Chị hãy trình bày quan điểm của Vygotxki về các giai đoạn phát triển tâm lý. Cơ sở tâm
lý học của việc phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý cá nhân?
1. Quan điểm Vygotxki về các giai đoạn phát triển tâm lý
- Nguồn gốc của sự phát triển là môi trường xã hội. Tuy nhiên, ảnh hưởng của môi trường xã hội lên trẻ
em khác nhau ở mỗi giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Vygotxki đưa ra 2 đơn vị phân tích “môi trường xã
hội của sự phát triển”, đó là hoạt động và sự trải nghiệm của cá nhân. Hoạt động tích cực của trẻ có thể
dễ dàng quan sát nhưng sự trải nghiệm, cảm nhận là thế giới riêng của trẻ. Ví dụ cùng một tình huống
trong gia đình nhưng với mỗi đứa trẻ khác nhau lại có những cảm nhận khác nhau. Chẳng hạn như sự
xung đột, cãi cọ giữa bố mẹ có thể ảnh hưởng không đáng kể với đứa trẻ này nhưng lại làm chấn động
những đứa trẻ khác.
- Xem xét các bước chuyển từ giai đoạn lứa tuổi này sang giai đoạn lứa tuổi khác thì các nhà nghiên cứu
cho thấy rằng: Sự chuyển biến trong tâm lí trẻ diễn ra lúc nhanh, lúc chậm, lúc từ từ, lúc đột ngột.
Tương ứng với những biến đổi đó có thể chia ra thành các giai đoạn phát triển ổn định và khủng hoảng.
Theo Vygotxki các giai đoạn khủng hoảng xen lẫn những giai đoạn phát triển ổn định tạo nên sự phát
triển tâm lí cá nhân.
- L.X Vygotsky (1896-1934) phân chia lứa tuổi theo khủng hoảng giai đoạn:
2 tháng-1 tuổi Giai đoạn tuổi sơ sinh (Khủng hoảng 1 tuổi)
1-3 tuổi Giai đoạn tuổi ấu thơ (Khủng hoảng 3 tuổi)
3- 7 tuổi Giai đoạn tuổi trước khi đến trường (Khủng hoảng 7 tuổi)
7-13 tuổi Giai đoạn tuổi học sinh PT (Khủng hoảng 13 tuổi)
13-17 tuổi Giai đoạn tuổi bắt đầu lớn, dậy thì (Khủng hoảng 17
tuổi)
2. Cơ sở tâm lý học của việc phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý cá nhân?
- Tiêu chuẩn để phân chia các giai đoạn phát triển tâm lí cá nhân là những cấu trúc tâm lí mới đặc trưng
cho bản chất mỗi lứa tuổi. Các tác giả đưa ra các mốc phân chia trong lí thuyết của mình đều dựa vào
các mốc hình thành các cấu trúc tâm lí mới. Tuy nhiên mỗi tác giả lại quan tâm đến những mặt khác
nhau trong đời sống tâm lí con người và các cấu trúc tâm lí tương ứng. Freud quan tâm đến cấu trúc
tâm lí tính dục mới, Ẻickson quan tâm đến những cấu trúc tâm lí mới hướng tới sự hình thành bản sắc
cá nhân, Piaget quan tâm đến các cấu trúc trí tuệ, các nhà tâm lí học hoạt động quan tâm đến hoạt động
chủ đạo mới, .....
Câu 14: Anh/Chị hãy nêu đặc điểm và vai trò của tự đánh giá đối với sự phát triển tâm lý trẻ em.
Những yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá của trẻ 6 – 11 tuổi?
1. Vai trò của tự đánh giá đối với sự phát triển tâm lí trẻ em:
- Tự đánh giá có vai trò quan trọng đối với sự phát triển tiếp theo của học sinh. Những em tự đánh giá
cao thường tin vào sự thành công của bản thân vì vậy thường nỗ lực phấn đấu nhiều hơn. Những em tự
đánh giá thấp không muốn cố gắng vì cho rằng mình kém cỏi không giỏi như các bạn được.
2. Yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá của trẻ em:
- Nhà trường: Kết quả học tập, sự đánh giá của thầy cô có ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm, động cơ, tự
đánh giá của trẻ: Những em được điểm cao, thường xuyên được khen sẽ thường tự đánh giá cao, những
trẻ bị điểm kém và hay bị thầy cô phê thường tự đánh giá thấp bản thân. Thầy cô không chỉ đơn thuần
là người chấm điểm cho học sinh mà còn cần giải thích cho học sinh tại sao điểm lại thấp như thế. Thầy
cô cần tỏ rõ sự tin tưởng vào mỗi học sinh, làm các em tin tưởng rằng mình có thể đạt được kết quả học
tập tốt. Thầy cô cần xây dựng cho mỗi học sinh một phông nền tình cảm tích cực. Thầy cô chỉ nên cho
điểm bài làm cụ thể chứ không nên đánh giá nhân cách học sinh, so sánh các học sinh với nhau, không
kêu gọi học sinh bắt chước các bạn học giởi mà hướng tới để học sinh đạt tới thành tựu riêng của mình.
Trẻ định hướng theo đánh giá của thầy cô và tự xếp mình vào nhóm giỏi, khá hay trung bình.
- Sự hình thành và phát triển của “tự đánh giá” còn phụ thuộc yếu tố gia đình:
+ Phong cách giáo dục của cha mẹ, những giá trị được coi trọng trong gia đình và trong giáo dục
có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành tự đánh giá của trẻ em.Những em được giáo dục
theo kiểu là trung tâm của sự chú ý, luôn được nuông chiều thường tự đánh giá cao nhưng dễ trở
nên ngạo mạn ích kỉ và coi thường người khác. Ngược lại nếu trẻ bị mắng mỏ, chê bai hay bị
coi là không được tích sự gì thì thường tự đánh giá thấp. Những đứa trẻ ở những gia đình không
quan tâm đến nhau, không quan tâm đến con cái, không quan tâm đến việc học hành cẩm xúc,
suy nghĩ của con thì tự đánh giá cũng thấp. Nếu người lớn luôn quan tâm đến sở thích, nhu cầu
và các mối quan hệ của trẻ, tôn trọng trẻ, không chê bai những nhược điểm của trẻ mà khen
những gì trẻ đạt được thì trẻ sẽ tự đánh giá cao và biết tôn trọng người khác.
+ Những giá trị được coi trọng trong gia đình, những câu chuyện, quan niệm của bố mẹ thể hiện
qua các câu chuyện gia đình, các câu hỏi đối với con như: “Hôm nay con được mấy điểm”, “
Bạn nào giỏi nhất lớp con”, “Sao bạn được 10 mà con được 8”, ... đều ảnh hưởng đến quá trình
tự đánh giá của trẻ.
+ Nếu cha mẹ không quan tâm đến việc học ở trường của con. Thuê người đưa đi đón về, thỉnh
thoảng mới hỏi con một câu trước khi đi ngủ “Ở trường thế nào” thì khi đó trẻ chỉ thường trả lời
cho qua chuyện “Dạ bình thường ạ”
 Như vậy gia đình và nhà trường là những yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình tự đánh giá của trẻ.
Câu 15: Anh/chị hãy phân tích những đặc điểm nổi bật trong hoạt động học tập, sự phát triển nhận
thức và trí tuệ của tuổi thanh niên?
1. Hoạt động học tập:
- Hoạt động học tập, sáng tạo là hoạt động cơ bản và quan trọng của thanh niên sinh viên. Hoạt động học
tập trong trường đại học mang tính chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn, sâu hơn nhằm đào tạo những
chuyên gia thuộc các ngành các lĩnh vực khác nhau cho đất nước.
- Có người cho rằng học đại học là tự học. Bởi kho tàng tri thức nhân loại thật khổng lồ và ngày càng
tăng lên, chỉ ai biết tự học tự chiếm lĩnh tri thức thì người đó mới có kiến thức.
- Nghiên cứu khoa học là hoạt động tự học cấp cao của sinh viên. Sinh viên là người phát hiện ra vấn đề
và tìm cách giải quyết vấn đề bằng các phương pháp khoa học. Các chuyên gia có kinh nghiệm sẽ là
người cố vấn để giúp đỡ mỗi khi sinh viên cần.
2. Sự phát triển nhận thức:
- Sự hoàn thiện các quá trình tâm lí
+ Ngày nay đã có nhiều chứng cứ cho thấy là song song với các thay đổi khác về thể chất diễn ra
trong tuổi dậy thì. Bộ não cũng có những thay đổi quan trọng. Những thay đổi này một phần là do
các thay đổi về nội tiết ở tuổi dậy thì và một phần do các trải nghiệm của các thời kỳ phát triển vừa
qua.
+ Những thay đổi của bộ não khi trưởng thành là kém tính mềm dẻo, tức là khả năng có thể thêm
chức năng mới ở các vùng của não.
+ Một nguyên nhân gây ra phần nào hiện tượng mất khả năng đặt lại chương trình là do các bán cầu
não đã chuyên biệt hoá là quá trình trong đó các chức năng được đặt ở phần bên phải hoặc phần bên
trái của vỏ não. Quá trình này có thể là đã bắt đầu từ khi còn bé nhưng mãi đến gần thời kỳ dậy thì
mới hoàn thành. Người lớn khác nhau ở mức chuyên biệt hoá các bán cầu não.
+ Một thay đổi nữa cũng góp phần làm cho não kém tính mềm dẻo là mức độ sụt giảm số lượng các
khớp thần kinh nối các tế bào não với nhau (synapse). Mức giảm số lượng các khớp thần kinh
không phải là hiện tượng mất chức năng hoạt động của não mà lại khiến cho các khớp thần kinh
còn lại tăng thêm hiệu lực hoạt động.
- Sự phát triển tư duy
+ Đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhận thức của giai đoạn này là tư duy phát triển trên một trình
độ mới – tư duy trừu tượng. Hình thức mới này của tư duy có tính khái quát, lôgic, không còn phụ
thuộc vào môi trường hay tình huống cụ thể.
+ Cách tư duy lôgic giờ đây được vận dụng không chỉ vào cái có thực (tồn tại thực sự) mà còn vào cả
cái có thể có (có thể tồn tại).
+ Khả năng suy nghĩ về các mối quan hệ xây dựng trong tâm trí.
+ Tư duy của thanh niên đã có tính lôgic hơn trước. Việc sử dụng các khả năng mới để suy nghĩ có
thể có cũng như về cái có thật và biết lý luận về các quan hệ giữa các khái niệm trừu tượng đã giúp
cho thanh niên có thể có kiểu lý luận giả định suy diễn.
+ Tính phê phán của tư duy phát triển, các em không dễ tin tưởng, biết nhận xét lời nói của thầy cô,
biết đề ra những thắc mắc và muốn được giải đáp đến cùng.
+ Tính độc lập và sáng tạo trong tư duy được hình thành và phát triển cũng là một đặc điểm quan
trọng trong sự phát triển tư duy của thiếu niên. Các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn giải
quyết bài tập, nhiệm vụ theo những quan điểm, lập luận, cách diễn đạt riêng, không thích rập
khuôn.
+ Xuất hiện tính duy kỷ ở tuổi thanh niên. Trong tuổi thanh niên, các thanh niên đã có thể suy nghĩ về
cách suy nghĩ của bản thân và xem xét được các khả năng trừu trượng. Những khả năng này đã làm
xuất hiện một kiểu duy kỷ mới vì thanh niên đã có thể suy ra các ý nghĩ của người khác nên cũng có
thể nghĩ rằng người khác nghĩ những gì về mình. Kiểu duy kỷ này cho thấy tại sao thanh niên
thường thích sự riêng, hành động một cách cục mịch và ầm ĩ nhằm làm cho người khác thực sự chú
ý đến mình
- Sự phát triển năng lực chung và riêng
+ Trong giai đoạn cuối của tuổi thanh niên, mức phát triển của cái “Tôi” đã đạt tới điểm hình thành
bản sắc cá nhân rõ rệt hơn là quan niệm về bản thân trước đó.
+ Qúa trình hình thành bản sắc cá nhân đòi hỏi các thanh niên phải thống nhất các trải nghiệm đã qua
của mình lại thành một khối cùng với các thay đổi của bản thân đang diễn ra và ác đòi hỏi và mong
chờ của xã hội về tương lai của bản thân.
+ Bản sắc của một con người bao gồm những giá trị, những nguyên tắc và những vai trò mà người đó
đã chấp nhận, coi là của mình. Quá trình hình thành bản sắc của con người thường có các bước:
chọn lựa và chuẩn bị là một nghề; đánh giá lại các niềm tin về tôn giáo và đạo đức; đi theo một ý
thức hệ chính trị và thực hiện những vai trò xã hội, bao gồm những vai trò có liên quan đến tính
dục, hôn nhân và nhiệm vụ làm cha mẹ.
+ Trong vấn đề này có những quan hệ hỗ trợ trong đó có sự phê bình lẫn nhau và cả hai phái đều có
thể hiểu rõ và được thừa nhận các vai trò đang có của mình. Cả cha mẹ và bạn cùng trang lứa đều
mang lại cho thanh niên những quan hệ cần thiết để thực hiện quá trình này.

3.1.2. Sự phát triển về nhận thức


3.1.2.1. Sự phát triển các quá trình nhận thức
 Tri giác
- Tri giác của học sinh đầu tiêủ học mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và mang tính không chủ động,
do đó, các em phân biệt những đối tượng còn chưa chính xác, dễ sai lầm, có khi còn lẫn lộn.
- Các lớp đầu bậc tiểu học, tri giác của trẻ em thường gắn với hành động,với hoạt động thực tiễn của trẻ.
Tính cảm xúc thể hiện rất rõ khi các em tri giác. Tri giác trước hết là những sự vật, những dấu hiệu,
những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em xúc cảm.
- Tri giác và đánh giá thời gian và không gian của học sinh tiểu học còn có hạn chế.
 Chú ý:
- Lứa tuổi học sinh tiểu học, chú ý có chủ định của các em còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý một cách
có ý chí chưa mạnh. Sự chú ý của học sinh đòi hỏi một động cơ gần thúc đẩy. Học sinh các lớp cuối
bậc học chú ý có chủ định được duy trì ngay cả khi chỉ có động cơ xa, học sinh các lớp đầu bậc học
thường bắt mình chú ý khi có động cơ gần.
- Sự chú ý của học sinh lớp một, lớp hai còn yếu, thiếu bền vững. Sự chú ý của học sinh tiểu học còn phụ
thuộc vào nhịp độ học tập. Nhịp độ học tập quá nhanh hoặc quá chậm đều không thuận lợi cho tính bền
vững và sự tập trung chú ý.
- Khối lượng chú ý của học sinh tiểu học hẹp, sự phân phối chú ý kém
 Trí nhớ
- Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định
nghĩa, những lời giải thích dài dòng. Học sinh lớp một và lớp hai có khuynh hướng ghi nhớ máy móc
bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần. Ghi nhớ có ý nghĩa kém do học sinh còn chưa biết tổ chức việc ghi
nhớ có ý nghĩa , chưa biết sử dụng sơ đồ logic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng
dàn ý tài liệu cần ghi nhớ .
 Tưởng tượng:
- Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so với trẻ em tuổi mẫu giáo, đặc biệt
là tính có chủ định tăng lên rõ rệt. Nó dược hình thành và phát triển trong hoạt động học và các hoạt
động khác của các em. Khuynh hướng chủ yếu trong sự phát triển của tưởng tượng ở học sinh tiểu học là
tiến dần đến phản ánh một cách đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan trên cơ sở những tri thức
tương ứng. Đây là lứa tuổi thơ mộng giúp cho phát triển tưởng tượng.
- Lớp 1 – lớp 2 : Tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít có tổ chức. Hình ảnh của tưởng tượng còn đơn
giản, hay thay đổi, chưa bền vững, nghèo chi tiết
- Lớp 4 – 5 : Nảy sinh nhiều sáng tạo biểu tượng, tưởng tượng tái tạo từng bước được hoàn thiện gắn liền
với những hình tượng đã tri giác trước hoặc tạo ra những hình tượng phù hợp với những điều mô tả. Số
liệu dấu hiệu và hình ảnh tăng lên nhiều, khá trọn vẹn và cụ thể.
 Tư duy :
- Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc
điểm trực quan của những đối tượng và hiện tượng cụ thể. J.Piagiê cho rằng tư duy của trẻ từ 7 đến 10
tuổi về cơ bản còn ở giai đoạn thao tác cụ thể,trên cơ sở đó có thể diễn ra quá trình hệ thống hoá các
thuộc tính, tài liệu trong kinh nghiệm trực quan.
- Nhờ ảnh hưởng của việc học tập, học sinh tiểu học dần dần chuyển từ nhận thức các mặt bên ngoài của
các hiện tượng đến nhận thức được những thuộc tính và dấu hiệu bản chất của hiện tượng vào tư duy.
Điều đó tạo khả năng tiến hành những khái quát đầu tiên, so sánh đầu tiên, xây dựng suy luận sơ đẳng.
- Khi khái quát hoá, học sinh tiểu học (lớp 1 và lớp 2) thường quan tâm đến dấu hiệu trực quan, bề ngoài
có liên quan đến chức năng của đối tượng tức là công dụng và chức năng.Nhờ hoạt động học tập, trình
độ nhận thức phát triển, học sinh lớp 3, lớp 4 đã biết xếp bậc các khái niệm, phân biệt khái niệm rộng
hơn, hẹp hơn, nhìn ra các mối liên hệ giữa các khái niệm về loài về giống loài. Trên cơ sở này học sinh
biết phân loại và phân hạng trong nhận thức.
- Họat động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, học sinh các lớp đầu tiểu học chủ yếu tiến hành hoạt động
phân tích- trực quan- hành động khi tri giác trực tiếp đối tượng. Học sinh cuối bậc học này có thể phân
tích đối tượng mà không cần tới những hành động thực tiễn đối với đối tượng đó. Học sinh các lớp học
này có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn
ngữ.

You might also like