Professional Documents
Culture Documents
TLHPT
TLHPT
Tuổi sơ sinh là lứa tuổi có những biến đổi đặc biệt quan trọng. Việc trẻ chuyển từ trong bào thai trở thành một
thực thể người về mặt sinh học được coi là một bước nhảy vọt trong việc tạo tiền đề cơ sở vật chất cho toàn bộ quá
trình phát triển sau này.
1. Tiền đề phát triển tâm lý ở tuổi sơ sinh
a Sự phát triển sinh lý
Trẻ sơ sinh mới có những cơ sở ban đầu, những điều kiện sinh vật của sự phát triển tâm lý. Khi ở trong bụng mẹ đầu
là bộ phận tăng trưởng nhanh nhất của cơ thể. Khi chào đời, đầu chiếm một phần tư chiều dài cơ thể và đạt được ba
phần tư kích thước đầu lúc trưởng thành. Khi chào đời phần phát triển nhất của não là thân não và não giữa. Não bộ
của trẻ mới sinh nặng khoảng 400gram, lượng tế bào thần kinh khá đầy đủ, nhưng các sợi dây thần kinh chưa được
nhiễm chất myêlin nên hoạt động của trẻ còn rất hạn chế. Trẻ vận động ngay sau khi chào đời.
Vận động quan trọng nhất của trẻ là phản xạ. Phản xạ không điều kiện của trẻ sơ sinh bao gồm:
Phản xạ nháy mắt (chớp mắt), hắt hơi, nôn ọe giúp trẻ đáp ứng những kích thích của môi trường xung quanh.
Phản xạ định hướng: ngoái cổ khi có ai chạm vào một bên má trẻ hay khi có tiếng động, tiếng gọi...
Phản xạ mút mỗi khi đưa một vật gì vào miệng trẻ
Phản xạ cầm, nắm thật chặt khi đưa bất kỳ một vật gì vào tay trẻ. Những phản xạ này giúp trẻ có được những cách đáp
ứng thích hợp và thích nghi được với môi trường bên ngoài.
b. Sự thay đổi môi trường sống
Trẻ sinh ra chỉ là một sinh vật non nớt, thụ động, bất lực, vì vậy trẻ rất cần sự chăm sóc của người lớn (đặc biệt là
người mẹ). Sự chăm sóc có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự sống còn và sự phát triển tâm lý của trẻ.
2 Một số đặc điểm tâm lý đặc trưng của tuổi hài nhi
b Các phản xạ
Hầu hết trẻ sơ sinh được chuẩn bị tốt để tương tác với thế giới xung quanh thông qua một tập hợp các phản xạ không
điều kiện đa dạng như:
Ngón chân xòe ra khi bàn chân bị cù từ gót đến ngón Có thể là tàn dư của sự tiến
Phản xạ Babinski
chân (Trẻ bị tổn thương cột sống không có phản xạ này) hóa
Chớp mắt Mắt bé nhắm khi quá sáng hoặc quá ồn Bảo vệ mắt
Bé duỗi thẳng cánh tay ra ngoài rồi sau đó hướng vào bên
Phản xạ Moro Giúp bé bám chặt mẹ
trong (như ôm) để phản ứng với tiếng ồn
Lòng bàn tay Bé nắm chặt đồ vật khi người khác đặt vào lòng bàn tay Dấu hiệu nắm bắt tự ý
Phản xạ cơ bản Khi khều má bé, bé ngoảnh mặt sang bên má bị khều rồi Giúp bé tìm núm vú
Tên Phản xạ Ý nghĩa
Phản xạ bú Bé bú khi người khác đưa đồ vật vào miệng Cho phép nuôi ăn
Bé rút bàn chân khi lòng bàn chân bị người khác dùng
Bảo vệ bé tránh kích thích
Phản xạ rút chân kim gút cù nhẹ. (Trẻ bị tổn thương dây thần kinh hông
khó chịu
không có phản xạ này)
Nếu bé không có được những phản xạ cơ bản trên, người chăm sóc phải để ý và tìm hiểu nguyên nhân để có
hướng can thiệp càng sớm càng tốt.
c. Nhu cầu tiếp nhận các ấn tượng về bên ngoài và nhu cầu gắn bó với người khác
Thông qua những tín hiệu phát ra từ mẹ và con, nhiều công trình đã tổng kết được 4 kiểu quan hệ mẹ con:
- Kiểu thứ nhất: Tín hiệu phát ra ở cả mẹ và con đều mạnh, nghĩa là nhu cầu gắn bó mẹ con điều tỏ ra bức thiết, mối
quan hệ gắn bó mẹ con được thiết lập dễ dàng (kiểu này phổ biến ở những cặp mẹ con sinh nở bình thường, xuất phát
từ lòng ước ao mong đợi của người mẹ đón chờ sự ra đời của đứa con). Kiểu này thuận lợi cho sự phát triển tâm lí của
trẻ sau này.
Kiểu thứ hai: Tín hiệu phát ra từ mẹ thì mạnh, nhưng từ con lại yếu. Thường đây là những trẻ thiếu tháng hoặc khuyết
tật bẩm sinh. Người mẹ không nên giao tiếp với con quá mạnh mẽ hoặc hối hả, mà nên nhẹ nhàng, từ tốn, nên thường
xuyên trò chuyện với trẻ, kiên trì chờ tín hiệu con đáp lại.
Kiểu thứ ba: Tín hiệu của con mạnh, nhưng của mẹ lại yếu. Kiểu này thường xảy ra ở những người mẹ mang tâm
trạng riêng tư, phiền muộn chán chường dẫn đến thái độ thờ ơ với con, không muốn âu yếm vỗ về nó. Theo đó tín hiệu
của đứa con phát ra cũng yếu dần đi, có khi mất hẳn, trẻ rơi vào trạng thái ủ ê mệt mỏi, thu mình lại.
Kiểu thứ tư: Tín hiệu phát ra đều yếu ở mẹ và con. Đây thực sự là tai họa, cần có sự tác động của thầy thuốc và những
người xung quanh. Tạo được sự gắn bó mẹ con ngay từ những ngày đầu trẻ mới ra đời là cách phòng ngừa tốt nhất,
tránh cho trẻ nguy cơ chậm phát triển và những lệch lạc về sinh lí cũng như tâm lý sau này. Nhu cầu gắn bó mẹ - con
là cơ sở cho nhu cầu giao tiếp về sau của trẻ với những người xung quanh. Mẹ là nguồn gây ấn tượng và là người tổ
chức ấn tượng bên ngoài cần thiết cho sự phát triển thần kinh và các giác quan tâm lí cho trẻ. Nhiều nghiên cứu cho
thấy những đứa trẻ thiếu sự yêu thương của người mẹ từ nhỏ thường sống trong tình cảnh cô đơn, lo lắng và sợ hãi sẽ
mặc cảm trong giao tiếp với người khác.
Khủng hoảng tuổi sơ sinh là một bước chuyển biến giữa hình thức sống kí sinh trong bụng mẹ - một môi trường tương
đối ổn định, sang hình thức sống bên ngoài trong môi trường với vô số kích thích.
Đối với trẻ, ra đời là một cú sốc, mặc dù chúng không có một ý thức nào về việc này. Các nhà phân tâm học gọi đó là
tổn thương đầu tiên mà trẻ phải chịu đựng và nó có tác động rất mạnh đến cả cuộc đời sau này của con người. Đó là
một sự đảo lộn hoàn toàn sự cân bằng, kéo theo sự biến đổi sâu sắc. Không chỉ chịu mọi sức ép và những những cơn
co thắt, mà trẻ còn chịu một trạng thái nặng nề đột ngột từ một môi trường chất lỏng qua môi trường không khí, cũng
như đột ngột bị nhiễm lạnh. Nhu cầu oxy làm cho hoạt động hô hấp bắt đầu, việc hít không khi lần đầu có lẽ là đau
đớn, kèm theo tiếng khóc đầu tiên
c. Rút ra điều gì trong tham vấn trị liệu lứa giai đoạn từ 0-1 tháng tuổi
Vì thế sau khi ra đời, trẻ cần một giai đoạn thích nghi, cần được ở trong bầu không khí tâm lý bình yên, được bảo vệ,
che chở ấm áp tình cảm của người mẹ. Thiếu sự an toàn, cảm xúc của trẻ sẽ bị rối loạn. Cần lưu ý, trong tháng đầu
tiên, nên hạn chế cho trẻ tiếp xúc với người lạ để tránh bất an và vi khuẩn cho trẻ.
B. Giai đoạn hài nhi (1-3) (B. Theo thầy dạy thì từ 1 - 3 tuổi là giai đoạn tuổi nhà trẻ.
Giai đoạn sơ sinh (0 - 2 tháng tuổi)
Giai đoạn hài nhi (2- 12 tháng tuổi)
(trích slide trên LMS, chương 1 - tuần 3, trang 13, 14)
Sự phát triển của trẻ trong năm đầu tiên song song với việc tiến tới độc lập về mặt sinh học của trẻ. Giai đoạn này
chủ yếu là tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để sau này hình thành nên những chức năng tâm lý của con
người.
1. Điều kiện phát triển tâm lý ở tuổi hài nhi
a. Sự phát triển thể chất
Trong năm đầu tiên, trẻ khỏe mạnh cao lên khoảng 1,5 lần và nặng gấp khoảng 3 lần. Trẻ gái 1 tuổi thường nhẹ hơn
trẻ trai. Não trẻ đạt được 50% thể trọng não lúc trưởng thành. Bộ xương của trẻ dần cứng lên theo thứ tự: họp sọ và
tay cứng trước, chân cứng sau. Thân mình tăng trưởng nhanh hơn các bộ phận khác. Các nhà nghiên cứu đưa ra một
số thời điểm mà trẻ có khả năng thực hiện thành công những vận động quan trọng trong năm đầu tiên. Tuy nhiên, các
mốc thời gian này không giống nhau, có sự xê dịch khá lớn ở những trẻ khác nhau
* Sự phát triển vận động thô
Sự vận động thô ở trẻ được diễn tiến như sau:
Trẻ 4 - 7 tháng, xuất hiện hành động dịch chuyển, lay động đồ vật, gõ lắc tạo ra âm thanh. Khoảng 7 - 10 tháng, hình
thành các động tác phối hợp: cầm nắm hai vật cùng một lúc, đẩy chúng ra xa. Cuối thời kỳ hài nhi (10 - 11 tháng đến
14 tháng) xuất hiện hành động chức năng: đặt cạnh, xếp chồng, lồng hộp, xâu chuỗi, xỏ các vật. Cầm nắm, hướng tới
đồ vật, là những hành động kích thích tư thế ngồi của trẻ. Khi trẻ ngồi được, trước mắt trẻ xuất hiện nhiều đồ vật khác
nhau. Trẻ bị lôi cuốn, nó với tới đồ vật, nhưng để chạm đến đồ vật được, nó phải nhờ sự giúp đỡ của người lớn. Nhờ
vậy, giao tiếp có được sắc thái mới, nó trở thành sự giao tiếp có chủ đích (vì đồ vật)
b. Sự phát triển tư duy (Mục b nhỏ thuộc "hành động và tư duy" - đặc điểm tâm lý đặc trưng của TUỔI
NHÀ TRẺ.
Tài liệu tham khảo: Lưu Song Hà (2019). Tập bài giảng tâm lý học phát triển, tr 58, 59).
Ở trẻ ấu nhi tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hành động. Những biểu hiện tư duy gắn rất chặt với hành
động trong những tình huống cụ thể. Trẻ biết sử dụng mối liên hệ giữa đối tượng để đạt tới mục đích. Chẳng
hạn trẻ kéo cái rổ để lấy quả cam đựng trong đó, kéo cái khăn trải bàn để lấy cái ly. Trẻ cũng khám phá ra
rằng những đối tượng khác nhau có thể được sử dụng bằng cách thức giống nhau.
c. Sự phát triển ngôn ngữ
Giai đoạn ấu nhi là giai đoạn ngôn ngữ ở trẻ phát triển rất nhanh theo hướng tăng vốn từ, và hiểu cấu trúc
ngữ pháp qua giao tiếp với người lớn và qua các hoạt động với đồ vật. Từ vựng của trẻ vừa có ý nghĩa chỉ
đối tượng cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát hóa. Tạo hình và đồ chơi có vai trò lớn trong quá trình này. Trong
tạo hình, trẻ chỉ hình vẽ thay cho đồ vật thật, trong vui chơi trẻ gọi ghế là ngựa... Ngôn ngữ làm phát triển trí
tuệ, giải phóng trẻ khỏi sự phụ thuộc vào tri giác. Ngôn ngữ tham gia vào quá trình trí nhớ, tư duy và tưởng
tượng của trẻ.
d. Sự phát triển cảm xúc (Như đã nêu trong nội dung, "cái tôi" xuất hiện khi trẻ từ 20 - 24 tháng, mà giai
đoạn hài nhi chỉ từ 2 - 12 tháng. Tức là cái tôi không xuất hiện trong giai đoạn này, cái tôi xuất hiện trong
giai đoạn tuổi nhà trẻ).
Quá trình xuất hiện "Cái tôi" và tiền đề của sự hình thành nhân cách của trẻ ấu nhi
Theo Lewis (1987) sự phát triển cái tôi xuất hiện khi trẻ 20 - 24 tháng. Chúng bắt đầu nhận ra ảnh của mình
trong ảnh đám trẻ con cùng tuổi. Trẻ 28 tháng bắt đầu xác lập chủ sở hữu trên đồ chơi khi chơi chung với
bạn. Nếu nó lấy máy bay chơi trước mà bạn đến gần định lấy thì nó vội giằng lấy và nói: "Cái này của tôi
mà". Cuối tuổi ấu nhi, trẻ bắt đầu nhận biết được mình là ngôi thứ nhất. Trẻ trò chuyện đúng ngôi, ngay cả
khi ở trong tình huống có nhiều ngôi khác nhau (lúc này trẻ xưng con, xưng em và cả xưng tao). Đối với
người lớn, sự xuất hiện cái tôi của trẻ còn biểu hiện ở thái độ trẻ bắt đầu “bướng”, đòi nằng nặc để theo ý
mình, có ý chống đối (không chịu ăn, chịu ngủ...). Tuy nhiên, các nhà tâm lý cho rằng tính chống đối của trẻ
có chọn lọc, chỉ xảy ra đối với người lớn độc đoán, muốn hạn chế sự tự do, tính độc lập của trẻ. Nếu biết
khuyến khích tính độc lập của trẻ một cách hợp lý thì những khó khăn trong quan hệ giữa trẻ và người lớn sẽ
được khắc phục, khủng hoảng sẽ nhanh chóng qua đi.
Cùng với sự hình thành của "cái tôi", tính tự ý thức cũng manh nha ở thời kỳ này. Trẻ thường tự cố gắng
trong hành động để được người lớn khen thưởng. Trẻ mong muốn người lớn thừa nhận, khen ngợi những nỗ
lực của nó. Lời ngợi khen và tán thưởng của những người xung quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp trẻ
hình thành tình cảm tự hào, sự tự khẳng định mình. Chúng còn giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với những chuẩn mực mà người lớn qui định. Từ đó, trẻ phát triển cái tốt, cái đúng và hạn chế cái
xấu, cái sai. Đây là điều kiện góp phần hình thành nhân cách sau này của trẻ.
- Tri giác
Trẻ thích nhìn các hình ảnh mới mẻ, phức tạp, thích nhìn khuôn mặt của con người, đặc biệt là khuôn mặt mẹ.
Trẻ 2 tháng tập trung nhìn vào đôi mắt, 4 tháng thích nhìn ngắm khuôn mặt đẹp, 5 tháng trẻ nhìn vào miệng người nói
chuyện, 7 tháng trẻ nhìn vào toàn bộ khuôn mặt của người nói chuyện.
Trẻ có thể dõi theo những vật chuyển động, vừa dõi theo, vừa đập chân đập tay, vừa phát ra những âm thanh sung
sướng.
Trẻ có thể phân biệt vật mới với vật quen thuộc, phân biệt được màu sắc, hình dáng, độ phức tạp... của vật.
Trẻ bắt đầu có khả năng tri giác không gian, tri giác độ sâu.
Trẻ có khả năng bắt chước các biểu hiện nét mặt khác nhau của người lớn. Đây là yếu tố quan trọng của sự phát triển
và gìn giữ mối liên hệ tình cảm giữa trẻ và cha mẹ.
- Trí nhớ
4 tháng: Trẻ thích nhìn các đồ vật mới hơn, nhận ra người quen và người lạ, điều này chứng tỏ trẻ nhớ các vật và
người mà trẻ được nhìn thấy trước đó.
6 tháng: Trẻ đưa mắt nhìn theo đồ chơi rơi xuống sàn nhà. Vì trước đó trong trí nhớ của mình, trẻ đã lưu giữ hình ảnh
của đồ chơi đó và trẻ dõi mắt nhìn theo xem nó lẫn đi đâu.
9 tháng tuổi: Trẻ biết lật chiếc hộp đậy kín ra để tìm đồ chơi trong đó vì trẻ nhớ là trước đó mẹ đã để đồ chơi vào đó,
trẻ biết lật gối tìm điện thoại của mẹ....
12 tháng tuổi: Trẻ nhớ được những chỉ dẫn đơn giản và tự biết cách làm.
Tóm lại, trong giai đoạn này, trẻ nhận thức được tính ổn định của sự vật, có khả năng nhận biết, ghi nhớ được các đồ
vật quen thuộc, có hành vi tìm kiếm khi đồ vật không còn trước mắt trẻ. Hoạt động bắt chước người lớn cho thấy, trẻ
đã ghi nhớ được các âm thanh do người lớn tạo ra và các hành động của người lớn, như vậy ghi nhớ hình tượng được
hình thành. Trẻ có khả năng hình dung các sự vật, hiện tượng dưới dạng các hình ảnh, có khả năng tái hiện các sự vật,
hiện tượng khi chúng không còn tồn tại trực tiếp trước mắt.
- Ngôn ngữ
Khóc: Khi mới sinh, trẻ thường khóc khi khó chịu. Tiếng khóc gần như giống nhau với các tình huống khác nhau.
Khoảng 2 tháng, trẻ có những khuôn mẫu kêu và khóc khác nhau để báo đói, đau và khó chịu. Tiếng khóc là phương
tiện giao tiếp của trẻ.
Bập bẹ (4 - 7 tháng): Trẻ tập phát âm, các âm tiết, nguyên âm, phụ âm và các từ đơn giản như: ma ma, pa pa, ba ba.
Bi bô (9 - 10 tháng): Trẻ bắt chước âm thanh của người lớn và lặp đi lặp lại âm thanh của mình. Đây là giai đoạn giao
tiếp bằng lời. Lúc này, trẻ tích cực tìm tòi, khám phá các vật xung quanh, trẻ quan tâm không chỉ “đây là cái gì”, mà
còn “có thể làm gì với nó”.
Bắt chước hay lặp lại (9 – 10 tháng): Trẻ bắt chước có ý thức những âm thanh nghe được và được phụ trợ bằng những
hành vi phi ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ... Giai đoạn tiền ngôn ngữ.
Cuối năm thứ nhất: Trẻ có thể nhắc lại lời nói của người lớn bằng những âm thanh tương tự.
+ Giai đoạn hình thành ngôn ngữ nói
Vào cuối giai đoạn, trẻ bắt đầu xuất hiện tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ. Chính hoạt động giao tiếp với người lớn
một cách mạnh mẽ làm nảy sinh đặc điểm này.
Cuối tuổi sơ sinh, mối liên hệ giữa tên đối tượng và chính bản thân đối tượng trở nên rõ ràng và phong phú hơn. Đó là
hình thức đầu tiên của thông hiểu ngôn ngữ. Lúc này trẻ có thể chỉ ra đúng đối tượng mà người lớn hỏi.
2 tháng: Phức cảm hớn hở khi thấy khuôn mặt của mẹ và được no nê.
3 – 4 tháng: Ở trẻ xuất hiện cảm xúc ngạc nhiên trước một kích thích bất ngờ.
4 – 5 tháng. Trẻ cười với người quen, nghệt mặt khi nhìn thấy người lạ. Nếu người lạ nói cười thân thiện thì trẻ lại tỏ
ra lo lắng, lạ lẫm.
7 – 8 tháng: Trẻ lo lắng khi người lạ xuất hiện. Nếu ở một mình với người lạ thì sợ sệt, một số trẻ cố gắng bò ra xa.
7 – 11 tháng: Ở trẻ xuất hiện nỗi “sợ bị rời xa". Trẻ biết khóc hay phản ứng khi bị cướp đồ chơi, lắc lư theo các bài
hát trẻ thích
+ Diễn tả có chủ định. Trẻ 2 tuổi đi từ sự đặt tên cho nét vẽ nguệch ngoạc (vẽ xong mới đặt tên) đến dùng lời nói để
diễn đạt cái nó định vẽ. Đây chính là khởi điểm của hành động tạo hình của đứa trẻ. VD, trẻ nói con vẽ ông mặt trời
tức là nó đã nhìn thấy hình ảnh họa đồ mà nó đã biết (những hình ảnh mà nó biểu thị một đối tượng nào đó). Tuy
nhiên, nét vẽ của trẻ cũng chưa giống đối tượng (làm trẻ không hài lòng).
Trẻ 3 tuổi: vẽ họa đồ một cách say sưa, có thể do ngẫu nhiên, hoặc do bắt chước người lớn - trẻ vẽ người (hình người
dạng: đầu - chân). Cũng có một số trường hợp khi trẻ vẽ mà không nhìn ra được hình ảnh của đối tượng (do không
được người lớn chỉ dẫn). -> Để hình thành được hoạt động tạo hình đúng nghĩa, trẻ phải rèn luyện “kĩ năng” vẽ các
đường, làm phong phú tri giác và các biểu tượng. Mặt khác cần phải hình thành những hình ảnh họa đồ dưới sự hướng
dẫn của người lớn