Professional Documents
Culture Documents
chương 6 học tập
chương 6 học tập
A. Sự quen
- Phản ứng của chúng ta đối với những kích thích ổn định (đều đều không thay đổi) sẽ giảm dần
theo thời gian. Phương diện này là một dạng cơ bản của học tập, gọi là sự quen, còn có thể gọi là
sự thích ứng với những kích thích vô hại, không thay đổi.
- Sự quen (habituation) là sự suy giảm của các phản ứng hành vi sau khi tiếp xúc nhiều lần với một
kích thích lặp đi lặp lại. Chúng ta có xu hướng để ý tới những điều mới mẻ xung quanh mình,
những gì có lợi, hoặc những điều gây nguy hiểm. Nếu có thứ gì đó vừa không hữu ích lại cũng
không gây hại, sự thích ứng sẽ khiến chúng ta lờ nó đi. Gần giống với sự thích ứng của cảm giác,
chúng ta sẽ không phản ứng lại các kích thích đó vì đã học được rằng chúng không quan trọng.
VD: Nhờ sự quen (hay khả năng thích ứng), chúng ta sẽ không còn chú ý là mình đang đeo
kính; hay sau khi ở trong phòng một lúc, chúng ta sẽ không còn ngửi thấy mùi nước hoa hoặc
nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ.
Sự hình thành thói quen đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thích nghi với những sự
kiện vô hại (mặc dù lúc đầu chúng có thể gây ra sự ngạc nhiên, ví dụ như những ánh đèn màu
nhấp nháy trên cây trước một nhà hàng). Dạng học tập này xuất hiện ở tất cả các dạng động
vật, từ các loài sên biển đơn giản cho tới loài người (Pinel, 1993).
- Sau khi phản ứng của chúng ta tới 1 kích thích không đổi đã trở thành thói quen, nó giảm xuống
nhưng có thể tăng trở lại nếu kích thích thay đổi. Sự gia tăng phản ứng với sự thay đổi của
những điều quen thuộc khiến chúng ta mất đi sự quen (dishabituation). Sự tái xuất hiện
của phản ứng ban đầu của bạn khi một kích thích thay đổi gọ là sự biến mất của
thói quen.
Quá trình này rất quan trọng để tồn tại trong thế giới động vật.
VD: chim có thể ngừng hót khi chúng bỗng nhiên nhìn thấy một con diều hâu gần đó. Việc
một kích thích nào đó trong môi trường sống đột ngột thay đổi giống như một sự cảnh báo
với các loài về sự bất an hay nguy hiểm có thể xảy ra.
Với con người, việc giảm dần phản ứng với một kích thích không đổi đã trở thành quen
thuộc, nhưng phản ứng có thể nhanh chóng thiết lập lại nếu kích thích đó bỗng nhiên thay
đổi. Ví dụ, nếu tiếng nói chuyện ồn ào của mọi người trong căn phòng đột nhiên dừng lại,
chúng ta có thể sẽ trở nên thận trọng vì bây giờ, có thứ gì đó trong môi trường của chúng ta
đã thay đổi. (Đây cũng chính là một dạng đơn giản khác của học tập về các kích thích riêng
lẻ, được gọi là sự nhạy cảm.)
B. Sự nhạy cảm
- Sự nhạy cảm (sensitization) là sự gia tăng cường độ phản ứng với kích thích mới lạ, sau khi tiếp
xúc nhiều lần với một kích thích không đổi.
+ VD: con người hay động vật phản ứng mạnh mẽ với những dấu hiệu, âm thanh bất chợt hay
mối nguy hiểm tiềm tàng.
- Vậy điều gì là cơ sở cho những khả năng học hỏi đơn giản để nhận biết các kích thích đơn lẻ này?
Carew và cộng sự (1972) đã khám phá ra rằng sự thay đổi trong chức năng của synap đã dẫn đến
sự quen và sự nhạy cảm. Với cả hai trường hợp, các neuron trước khớp thần kinh thay đổi cách
giải phóng chất dẫn truyền thần kinh. Sự suy giảm chất dẫn truyền thần kinh dẫn đến sự quen,
còn tăng chất dẫn truyền thần kinh tạo nên sự nhạy cảm. Hiểu về nền tảng thần kinh của sự
quen và sự nhạy cảm đã giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về quá trình học tập của con người
cũng như của các loài động vật khác.
- Sự quen và sự nhạy cảm đóng vai trò quan trọng để con người thích ứng với môi trường xung
quanh, nhưng phương thức học này mới chỉ giúp con người học về các kích thích đơn lẻ, chứ
chưa học được về sự kết hợp giữa một sự kiện với một sự kiện khác, như kiểu chúng ta đã học
được rằng, mây đen kéo đến là sắp có mưa. Vì thế loại học tập này còn được gọi là học tập
không liên kết.
III. Phần 3: Điều kiện hóa cổ điển: Nhận biết tín hiệu và các mối liên kết
Khái niệm chung:
- Điều kiện hóa cổ điển là một dạng thức học tập có ảnh hưởng lớn lên lên thuyết hành vi trong
tâm lý học. Được phát hiện bởi nhà sinh lý học người Nga Ivan Pavlov.
- Điều kiện hóa cổ điển: một quá trình học tập xuất hiện qua hình thức liên tưởng giữa tác nhân
kích thích từ môi trường và một tác nhân kích thích xuất hiện tự nhiên
VD: khi đang làm việc riêng mà bị cô giáo gọi trả lời câu hỏi hoặc trả bài -> tim đập nhanh
Để khám phá hiện tượng này một cách khách quan, Pavlov đã thiết kế một loạt các thí nghiệm được
kiểm soát cẩn thận để xem những kích thích nào sẽ khiến chó tiết nước bọt. Để tiến hành thí nghiệm của
mình, ông đã huấn luyện những con chó tiết nước bọt để đáp lại những kích thích rõ ràng không liên
quan đến thức ăn, chẳng hạn như âm thanh của chuông, ánh sáng và tiếng bước chân. Thông qua các thí
nghiệm của mình, Pavlov nhận ra rằng một sinh vật đều có hai loại phản ứng với môi trường xung quanh:
(1) phản xạ không điều kiện và (2) phản xạ có điều kiện (học được).
Trong các thí nghiệm của Pavlov, những con chó chảy nước bọt mỗi khi ông cho chúng ăn thịt. Thịt trong
tình huống này là một kích thích không điều kiện (viết tắt là UCS - unconditioned stimulus): một kích
thích tạo ra phản xạ ở một sinh vật. Sự tiết nước bọt của chó là một phản xạ không điều kiện (viết tắt là
UCR - unconditioned response): một phản ứng tự nhiên (không cần học) đối với một kích thích nhất
định. Sơ đồ dưới đây thể hiện kích thích và phản ứng của chó như sau:
Trong điều kiện hóa cổ điển, một kích thích trung tính được thể hiện ngay trước một kích thích không
điều kiện. Pavlov sẽ phát ra âm thanh (giống như rung chuông) và sau đó cho chó ăn thịt. Âm báo là kích
thích trung tính (viết tắt là NS - neutral stimulus) và là kích thích không tự nhiên nhằm tạo ra phản ứng.
Trước khi tiến hành thí nghiệm, những con chó không tiết nước bọt khi chúng vừa nghe thấy âm báo bởi
vì giai điệu này không có sự liên kết nào với chó.
Khi Pavlov kết hợp âm thanh với thịt lặp đi lặp lại, kích thích trung tính trước đó (giai điệu) cũng bắt đầu
khiến chó tiết nước bọt. Do đó, kích thích trung tính trở thành kích thích có điều kiện (viết tắt là CS -
conditioned stimulus) và là kích thích tạo ra phản ứng sau nhiều lần được ghép đôi với kích thích không
điều kiện. Cuối cùng, những con chó bắt đầu chảy nước bọt theo giai điệu, giống như trước đó chúng đã
chảy nước bọt khi nghe tiếng bước chân của trợ lý. Hành vi do tác nhân kích thích có điều kiện gây ra
được gọi là phản ứng có điều kiện (viết tắt là CR – conditioned response). Trong trường hợp của những
chú chó của Pavlov, chúng đã học được cách liên kết giọng điệu (CS) với việc được cho ăn, và chúng bắt
đầu tiết nước bọt (CR) trước thức ăn.
- Giai đoạn đầu tiên này cần đến một kích thích xuất hiện tự nhiên để tự động tạo ra một phản
ứng. (VD: kích thích tự nhiên = mùi thức ăn)
- Trong suốt giai đoạn này, kích thích không điều kiện (KTKĐK – đồ ăn) tạo nên một phản ứng
không điều kiện (PƯKĐK – nhỏ dãi)
- Vào lúc này, một kích thích trung tính xuất hiện, kích này hiện vẫn chưa tạo ra phản ứng nào cho
đến khi nó được đi kèm với KTKĐK vốn sẽ tạo ra một phản ứng.
- Trong suốt giai đoạn 2 của quá trình điều kiện hóa cổ điển, kích thích trung tính trước đó được
lặp lại kèm theo KTKĐK để hình thành nên mối liên hệ giữa 2 loại kích thích này. Khi đó, kích
thích trung tính trở thành kích thích có điều kiện (KTCĐK)
- Đối tượng hiện đã bị điều kiện hóa để phản ứng với kích thích này.
- KTCĐK chính là kích thích trung tính trước đó, sau khi được liên kết với KTKĐK cuối cùng cũng
gây ra một phản ứng, phản ứng này gọi là phản ứng có điều kiện (PƯCĐK).
B. Phản xạ có điều kiện qua thời gian: sự dập tắt và sự hồi phục tự nhiên:
- Khi liên tục cho KTCDK và KTKDK đi đôi với nhau, cường độ của phản ứng có điều kiện sẽ tăng
mạnh.
- Sự dập tắt: khi các kích thích không điều kiện chỉ được thỉnh thoảng đi kèm, hoặc không đi kèm
với các kích thích có điều kiện, phản xạ có điều kiện sẽ dần dần biết mất
- Sự hồi phục: sự học lại nhanh chóng (thường chỉ sau một hoặc 2 lần lặp lại) của phản ứng có
điều kiện sau khi đã bị dập tắt (bằng cách cho kích thích có điều kiện và kích thích không điều
kiện đi đôi với nhau một lần nữa)
Sự dập tắt không xóa bỏ hoàn toàn mối liên hệ đã học được
- Sự hồi phục tự nhiên: sau một thời gian trì hoãn, phản ứng có điều kiện bị dập tắt tạm thời xuất
hiện trở lại khi kích thích có điều kiện được lặp lại lần nữa (không đi kèm với KTKDK)
Khoảng thời gian giữa sự dập tắt và sự tái xuất hiện của kích thích có điều kiện càng dài, thì sự
phục hồi của phản xạ có điều kiện lại càng mạnh ( VD: khi còn nhỏ, trong lúc tranh luận với bố,
bạn A không giữ được bình tĩnh và chạy về phòng đóng sầm cửa lại, bố của bạn A lúc đó cũng
tức giận nên có to tiếng và đạp mạnh vào cửa phòng của bạn. Nhiều năm sau, trong lúc đang nói
chuyện với nhau, bố của bạn có hơi cao giọng hơn một chút và bạn A đã lập tức bị kích thích
khóc ngay lập tức)
C. Sự khái quát hóa các kích thích và sự phân biệt các kích thích:
- Khái quát hóa các kích thích là hiện tượng những kích thích gần tương tự như kích thích có điều
kiện có thể gây nên phản ứng có điều kiện. Trong đó, kích thích càng giống với kích thích có điều
kiện thì mức độ phản ứng càng mạnh hơn.
Ví dụ: Nếu một người bị một con chó lông xù màu đen cắn thì những con chó khác sẽ gây ra
phản ứng có điều kiện sợ hãi ở người đó. Và những con chó có màu đen sẽ gây ra sợ hãi lớn
hơn những con chó có màu khác.
Sự khái quát hóa kích thích mang lại lợi ích thích nghi, rất có ý nghĩa đối với sự tồn tại của
một cá thể (Vd: biết dã thú nguy hiểm, có khả năng cắn chết người không tùy tiện lại gần
chúng) nhưng cũng trở thành chướng ngại nếu không có giới hạn (1 lần bị rắn cắn, mười
năm sợ dây thừng).
- Sự phân biệt kích thích: con người và động vật có khả năng phân biệt những kích thích tương tự
nhau (vd: nhận ra tiếng xe máy của người thân về nhà)
Giả sử 2 con chó, Mốc và Đen, có những đặc điểm tính cách khác nhau. Khi Mốc gầm gừ, có lần nó cắn
người khác, có lần không. Còn Đen, nó chỉ gầm gừ trước khi cắn người. Phản ứng sợ hãi của bạn với
những tiếng gầm gừ của Mốc có thể sẽ xảy ra rất chậm chạp, bởi vì tiếng gầm gừ của nó là một kích thích
không chắc chắn về việc nó sẽ cắn bạn. Nhưng bạn sẽ rất có thể nhanh chóng thành lập một phản xạ có
điều kiện (sợ hãi) khi thấy Đen gầm gừ, bởi vì điều kiện hóa cổ điển xảy ra nhanh nhất khi kích thích có
điều kiện luôn luôn báo hiệu một kích thích không điều kiện duy nhất mà không phải kích thích nào khác.
Vì vậy ngay cả khi hai con chó đều cho ta các cặp kích thích có điều kiện (tiếng gầm gừ) và kích thích
không điều kiện (hành động cắn người), thì chỉ có tiếng gầm gừ của Đen, một kích thích có điều kiện
đáng tin cậy (chắc chắn nó sẽ cắn người), có khả năng dự báo trước cho kích thích không điều kiện.
Trong trường hợp điều kiện hóa có sau, kích thích có điều kiện nào có khả năng dự đoán chính
xác hơn thì sẽ gây ra phản ứng có điều kiện nhanh hơn.
3. Cường độ của tín hiệu
- Phản ứng có điều kiện sẽ hoạt động tốt hơn nếu những kích thích có điều kiện mạnh hơn. Vì vậy
nếu một tín hiệu mang tính dự báo (phóng tia điện) liên kết với một kích thích không điều kiện
có cường độ mạnh (như bị giật điện), sẽ làm gợi lên sự sợ hãi nhiều hơn so với một kích thích
yếu.
- Giống như việc định thời gian hay khả năng dự báo, ảnh hưởng của cường độ tín hiệu trong điều
kiện hóa cổ điển cũng mang ý nghĩa thích nghi: nó đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị
cho một sự kiện trọng đại nào đó hơn là những sự kiện ít tác động đến ta. Chúng ta có thể học
được một phản xạ có điều kiện nhanh hay không còn phụ thuộc vào cường độ của kích thích đó
tác động lên chúng ta. Như đã nói trong chương Tri giác, tiếng nhạc to, ánh sáng chói gắt, những
kích thích có cường độ cao có xu hướng gây chú ý hơn, vì vậy chúng được liên hệ một cách
nhanh chóng với các kích thích không điều kiện, miễn là các kích thích này là tín hiệu mang tính
dự báo đáng tin cậy.
Trẻ bị đau do tiêm – nhìn thấy áo blouse là biết sắp bị tiêm = sắp bị đau áo blouse báo hiệu cho chuyện bị tiêm, cho
nên trẻ em sợ áo blouse thực chất là sợ cảm giác đau)
- Ám ảnh sợ là sự sợ hãi ở mức độ cao của các đối tượng hoặc trong những tình huống mà hoặc là
không có sự nguy hiểm một cách khách quan (việc nói trước đám đông) hoặc là ít nguy hiểm
hơn so với suy nghĩ của người bị chứng ám sợ.
- Trong một số trường hợp, chứng ám ảnh sợ này có thể làm gián đoạn đời sống của người bệnh
một cách nghiêm trọng. Ví dụ: đứa trẻ sợ hãi khi nhìn thấy những con chó to có thể mắc chứng ám ảnh sợ chó, từ đó mà nó
đều né tránh dù nhìn thấy bất kì con chó nào, ở đây chứng bệnh này có mức độ cao và tổng quát hơn về đối tượng làm trẻ ám ảnh
sợ. Một trường hợp nguy hiểm tương tự, trường hợp này có thể tạo ra điều kiện hóa cổ điển cho một nỗi sợ hãi lâu dài. Nhiều thập
kỉ sau khi trải qua những năm tháng chiến tranh, nhiều quân nhân vẫn phản ứng sợ hãi với các kích thích như âm thanh của trận
chiến (súng đạn, bom, tiếng nổ, tiếng đất cát rơi) với sự thay đổi lớn về nhịp tim, huyết áp cũng như các biến đổi cảm xúc khác.
- Điều kiện hóa cổ điển có thể được sử dụng trong việc điều trị chứng ám sợ, kể cả chứng rối loạn
stress sau sang chấn. Liệu pháp giải trừ mẫn cảm có hệ thống dựa trên điều kiện hóa cổ điển liên
quan đến hai hợp phần: (1) sự dập tắt của điều kiện hóa cổ điển mang lại sự sợ hãi thông qua sự
tiếp xúc vô hại với các kích thích gây sợ hãi và (2) điều kiện hóa cổ điển của một phản xạ mới, ví
dụ như: một cảm giác thư giãn thoải mái với một kích thích gây sợ hãi. Ví dụ, khi một người mắc chứng ám
ảnh sợ hãi, bác sĩ lâm sàng có thể cho bệnh nhân tiếp xúc với vật hay tình huống gây sợ hãi, ban đầu tiếp cận ở mức ít nhất với các
khía cạnh của vật gây sợ, rồi dần dà tiếp xúc nhiều hơn và ngày càng gần hơn nữa, trong khi đang tham gia/ trải nghiệm một hoạt
động mà người đó thích. Kỹ thuật này, được gọi là điều kiện phản ứng ngược, có thể giúp người bệnh vượt qua chứng ám ảnh sợ hãi.
Khi các hậu quả sợ hãi do việc tiếp cận với vật hay tình huống gây sợ biến mất, thì các ám ảnh sợ hãi được coi là đã bị loại trừ.
Nghiên cứu gần đây nhất trên động vật đã chứng minh rằng, ở những động vật tổn thương hồi hải mã,
một cấu trúc của não bộ có liên quan mật thiết với trí nhớ thường bị tổn thương ở thời kì tiền Alzheimer,
rất khó hình thành loại phản xạ có điều kiện này. Dựa vào đó, các nhà khoa học thấy rằng, những người
cao tuổi có số lượng phản xạ có điều kiện chớp mắt giảm đi sẽ có nguy cơ cao bị mắc chứng Alzheimer
trong một, hai hoặc ba năm tiếp theo. Việc dự đoán được người nào sẽ có nguy cơ cao mắc chứng
Alzheimer có vai trò rất quan trọng bởi chúng giúp bác sĩ có thể đưa ra kịp thời các loại phương pháp trị
liệu nhằm trì hoãn các triệu chứng của bệnh Alzheimer.
Edward Thorndike là người sáng tạo ra hộp Puzzle để nghiên cứu về khả năng giải quyết vấn đề
của con vật và Burrhus Frederic Skinner là người đã mở rộng và phát triển thành hộp Skinner, để
phân tích cách thức mà phản ứng hành vi bị thay đổi bởi kết quả mà nó tạo ra. Trong đó, sự học
của con vật diễn ra theo quy luật hiệu quả. Đánh giá sự học dựa vào việc con vật có hoàn thành
trong một lần thử hay không và mất bao nhiêu thời gian để làm.
Cả hai hộp Puzzle và hộp Skinner đều có điểm chung là cho con vật vào trong hộp và con vật bị
lấy mất thức ăn, nhưng vẫn được tạo mọi điều kiện tìm hiểu hộp. Con vật có thể thực hiện các
phản xạ đã được bố trí trước theo ý đồ của nhà nghiên cứu và các kết quả phản xạ được kiểm
soát bằng quan sát khách quan. Trong các thực nghiệm này biến độc lập là kích thích củng cố,
còn biến phụ thuộc là tần số xuất hiện, tốc độ và cường độ phản ứng. Khác biệt là ở chỗ hộp
Puzzle đánh giá sự học dựa vào việc con vật có thực hiện được một lần hành vi đạp vào bàn đạp
hay không và mất bao nhiêu thời gian để thực hiện được hành vi đó, còn hộp Skinner lại đánh
giá số lần con vật thực hiện hành vi đạp bàn đạp trong một khoảng thời gian nhất định.
Từ hộp Puzzle của Edward Thorndike, có thể thấy phản ứng sẽ được củng cố khi chúng là công
cụ để nhận được phần thưởng, đây được gọi là điều kiện hoá công cụ. Hay, hành vi ngay lập tức
gây ra hệ quả tích cực sẽ có khả năng lặp lại cao hơn so với hành vi gây ra hệ quả tiêu cực. Ví dụ
như khi đi làm sớm được khen họ sẽ tiếp tục đi làm sớm và đi làm muộn bị kiểm điểm lâu dần
họ sẽ ngày càng đi làm muộn.
Hộp Skinner của Burrhus Frederic Skinner đánh giá dựa vào số lần con vật/ tỷ lệ phản ứng trong
một thời gian nhất định. Burrhus Frederic Skinner gọi đó là “điều kiện hoá từ kết quả”.
Theo Premack, sự củng cố không chỉ dựa trên các kích thích mà còn dựa vào cơ hội tham gia hoạt động
liên quan đến kích thích đó, hay sự thỏa mãn, sự hưng phấn, sự khoái cảm. Nghĩa là hành động được ưa
thích nhiều hơn có thể được sử dụng như một phần thưởng và cũng có thể làm yếu tố củng cố cho hành
động ít được ưa thích hơn.
Một số nhà nghiên cứu cũng từ đó mà phát hiện ra rằng gần như mọi hành động đều có thể trở thành
một yếu tố củng cố nếu con người hoặc động vật bị cấm thực hiện hành động đó trong một khoảng thời
gian.
Một giả tthuyết được đưa ra khi Olds và Milner phát hiện ra kích thích dòng điện nhẹ ở vùng dưới đồi có
thể trở thành yếu tố củng cố mạnh mẽ. Cùng với hướng tiếp cận sinh học, các nhà nghiên cứu cho rằng
kích thích và yếu tố củng cố có thể hoạt động bằng cách tác động vào não để tạo ra những ảnh hưởng
nhất định.
4. Sự trừng phạt:
- Sự trừng phạt là việc làm giảm tần suất phản ứng hành vi ít có cơ hội được lặp lại trong tương
lai.
Sự trừng phạt loại 1: duy trì các kích thích khó chịu.
Ví dụ: Hành vi (cắm phích điện) => Xuất hiện kích thích tiêu cực (bị điện giật) => Giảm tần số của hành vi
(không chạm tay vào phích điện).
Ví dụ: Trẻ đi chơi về muộn => Cha mẹ đánh/ mắng/ quát/ chỉ tay vào mặt => Lần sau sẽ ít đi chơi về
muộn hơn.
Sự trừng phạt loại 2: xoá bỏ kích thích dễ chịu.
Ví dụ: Hành vi (vừa chạy vừa nhảy ) => Loại bỏ một kích thích tích cực (bị ngã) => Giảm tần số của hành vi
(không vừa chạy vừa nhảy).
Ví dụ: Trẻ lười học ham chơi => Loại bỏ điều trẻ thích (không cho đi chơi, không cho dùng điện thoại) =>
Trẻ bớt lười học.
- Những hạn chế của sự trừng phạt:
Không xoá bỏ thói quen không mong muốn mà chỉ kiềm chế nó, khi sự trừng phạt không còn
thì thói quen không mong muốn sẽ trở lại.
Sự trừng phạt thỉnh thoảng cũng sẽ tạo ra những kết quả không mong muốn.
Sự trừng phạt thường không có hiệu quả với động vật và trẻ nhỏ, trừ khi nó xảy ra ngay sau
phản ứng và phải trừng phạt sau tất cả các phản ứng.
Sự trừng phạt thân thể có thể trở thành bạo lực.
Sự trừng phạt không đưa ra cái gì mới là hành vi phù hợp.
Việc sử dụng sự trừng phạt và củng cố bởi cha mẹ, thầy cô và bạn bè rất quan trọng trong việc giúp một
đứa trẻ học cái gì là được phép cái gì là không. Ngoài ra phần thưởng và trừng phạt khác nhau giữa bé
trai và bé gái là cơ sở cho sự phát triển những hành vi phù hợp với vai trò về giới được xã hội chấp nhận.
Các chương trình trị liệu nhằm thay đổi những hành vi lệch chuẩn được phát triển từ những nghiên cứu
khoa học về điều kiện hóa từ kết quả. Kết hợp việc sử dụng phần thưởng và sự trừng phạt hợp lý, để
phát triển khuôn mẫu hành vi cần thiết.
Nhiều cuốn sách cũng dạy cách áp dụng các quy tắc của quá trình củng cố thông qua việc tự thưởng cho
mình sau khi đạt được.
V. Học tập qua quan sát (observational learning)
- Học bằng cách quan sát người khác là dạng học tập mang tính hiệu quả và thích nghi
VD: Tinh tinh con học được cách lấy đá tách hạt khi nhìn thấy mẹ chúng thực hiện hành động này
- Trẻ em thường học qua quan sát và bắt chước người lớn, bạn bè cùng trang lứa để có những hành vi
thích hợp trong nhiều tình huống khác nhau
https://youtu.be/hzD8IryUjjs
Cho đứa trẻ học mẫu giáo xem một bộ phim có nhân vật là: một người lớn và một búp bê
bơm hơi ‘bobo’ vừa to, vừa có phần dưới nặng. Người trong phim sử dụng những hành vi
bạo lực với búp bê (đấm, đá, đánh vào đầu bằng búa,…………..).
Bộ phim có nhiều cái kết:
1. Kẻ hung hăng được tán thưởng như “nhà vô địch”, được thưởng nước ngọt và kẹo
3. Kẻ hung hăng không bị phạt cũng không được thưởng (cái kết trung lập)
Sau bộ phim, đứa trẻ được phép chơi một mình cùng búp bê “bobo” và trên cơ sở đó đưa
đến những kết luận quan trọng về sự học và vai trò của nhận thức với nó:
Chúng tiếp thu và áp dụng những hành vi hung hăng khi thấy những hành vi ấy được
hưởng ứng
Chúng thường bớt hung hăng hơn khi thấy hành vi đó bị phê phán nhưng chúng vẫn
học được điều gì đó thông qua quan sát. Sau khi được hưởng ứng, chúng sẽ vẫn thể
hiện ra nhiều hành động hung hăng chẳng kém gì những đứa trẻ được người lớn ủng
hộ
*Kết luận:
Học tập qua quan sát có thể diễn ra ngay cả khi không có những hậu quả gián tiếp, rất nhiều
đứa trẻ trong điều kiện trung lập cũng bắt chước sự hung hăng của hình mẫu này
Học tập qua quan sát là nguồn sức mạnh của quá trình xã hội hóa mà thông qua đó trẻ tìm
hiểu những hành vi này có hoặc không thích hợp với nền văn hóa của chúng
Trẻ em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ sau khi thấy được sự giúp đỡ của hình mẫu những người
thân thiện, mạnh mẽ
2. Chúng ta được yêu cầu phải tin hay chấp nhận điều gì?
- Nhiều ý kiến cho rằng thông qua cơ chế đã được liệt kê, việc xem các chương trình bạo lực trên
TV là nguyên nhân gây ra hành vi bạo lực cho người xem
- Một báo cáo năm 1993 của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia kết luận rằng: “về tổng thể”, phần
lớn các nghên cứu, bằng bất cứ phương pháp nào đều cho thấy việc tiếp xúc với các chương trình
truyền hình có nội dung bạo lực sẽ dẫn tới sự gia tăng hành vi hung dữ đồng thời và theo thời
gian (Reiss & Roth, 1993, tr 371)
- Hiệp hội nhà tâm lý học Mỹ điều tra về bạo lực và thanh niên cũng đưa ra kết luận tương tự (Hiệp
hội nhà tâm lý học Mỹ, 1993)
VD: Bọn trẻ con chọc mắt nhau sau khi xem phim “3 chàng ngốc” và thấy hành động đó
- Từ việc nghiên cứu theo chiều dọc về mối liên hệ tương quan giữa việc xem chương trình bạo lực
và những hành động mang tính chất kích động mạnh và bạo lực sau đó
VD: Nghiên cứu theo dõi con người từ khi 6, 7 tuổi đến khi họ dưới 20 → Những trẻ xem
chương trình bạo lực từ nhỏ thường trở nên hung hăng, thích gây hấn hơn khi trưởng thành và
nhiều khả năng phạm tội hơn (Huesmann, 1995)
Trẻ xem bạo lực nhiều khả năng hành xử hung dữ hơn những bé chỉ xem chương trình không có
yếu tố bạo lực.
4. Lỗ hổng:
1. Về các giai thoại: Có bao nhiêu phần trăm là đáng tin cậy?
2. Về sự tương quan giữa bằng chứng theo chiều dọc: cả 2 tác nhân đều có thể chịu ảnh
hưởng bởi tác nhân thứ 3 (tính cách)
3. Về các thí nghiệm: Cả 2 biến độc lập và phụ thuộc đều là nhân tạo, không ứng dụng được ở
môi trường ngoài phòng thí nghiệm
► Cha mẹ, bạn bè, môi trường, nhân cách có thể làm giảm hoặc khuếch đại ảnh hưởng
của việc xem chương trình bạo lực. Người xem có khả năng bị ảnh hưởng nhất có thể là
những người có tính cách bạo lực ngay từ đầu (quan sát từ hành vi của cha mẹ hay bạn bè
đồng trang lứa)
- Bạo lực trên truyền hình có thể gây ra một tác động nhân quả tới hành vi bạo lực.
VII. Áp dụng kết quả của nghiên cứu vào việc giúp con người học tập
B. Lớp học xuyên văn hóa.
- Các nhà tâm lí học và các nhà giáo dục hiện nay đang lưu tâm đến những nguyên lý học tập khác
có thể áp dụng nhằm hoàn thiện nền thêm giáo dục. Các bằng chứng và các thực nghiệm cho
thấy những kĩ thuật giáo dục thành công nhất đều áp dụng những nguyên lí cơ bản của điều kiện
thao tác, cung cấp các bài kiểm tra thực nghiệm thường xuyên, các củng cố tích cực nhằm sửa
chữa các lỗi và ngay lập tức phản hồi để khắc phục lỗi đó.
- Nghiên cứu trong tâm lí học nhận thức cũng cho thấy các học sinh đó có nhiều khả năng giữ lại
những điều họ đã được học hơn nếu họ tham gai vào nhiều buổi học hơn là nhồi nhét trong một
buổi tối trước khi bước vào kì thi hoặc bài kiểm tra. Và để khuyến khích mô hình “phân chia thực
hành” này, các nhà nghiên cứu khuyên các giáo viên nên đưa ra số lượng các bài kiểm tra vừa
đủ ( Trong đó có những bài kiểm tra đột xuất) để học sinh có ý thức học hơn. Việc này đã tạo cơ
hội đê học sinh ứng dụng các thông tin, kiến thức mới được học lại lặp lại nhiều lần.
VD: Trong một nghiên cứu, ở lớp 5, một nhà nghiên cứu đã dành một khoảng thời gian trong một số buổi
học chỉ cho gọi những học sinh giơ tay phát biểu, số học sinh còn lại ngồi nghe một cách thụ động.
Những ngày còn lại sau đó, mỗi học sinh được yêu cầu trả lời mỗi câu hỏi bằng việc đưa ra câu trả lời của
mình được ghi trên tấm thẻ. Kết quả của bài kiểm tra trong ngày tiếp theo và bài kiểm tra định kì 2 tuần 1
lần cho thấy các học sinh tham gia vào những ngày học chủ động nhớ bài tốt hơn những ngày học thụ
động.
Nghiên cứu tại các trường trung học, cao đẳng và đại học cũng cho thấy việc áp dụng phương
pháp học tập chủ động cho hiệu quả cao hơn việc sử dụng các kĩ thuật giảng dạy truyền thống.
VD: những học sinh chỉ thụ động nghe giảng trong giờ vật lý đạt kết quả thấp hơn những học sinh được
tham gia thực hành tại các phòng thí nghiệm mà tại đó cho phép học sinh có thể tương tác một cách chủ
động với các kiến thức đã được học trong bài giảng.
Kết quả này đã thúc đẩy sự phát triển của các chương trình giáo dục khoa học khác mà cho phép
học sinh, sinh viên có thể chủ động vận dụng và kiểm tra các giả thuyết của mình.