Professional Documents
Culture Documents
Bài 4. Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Bài 4. Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
54 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
1. Liệu trường có thể tính được chi phí kinh doanh phát sinh tại lớp Quản trị
kinh doanh tổng hợp 43A ở trường cho 1 buổi học của môn học tính chi phí
kinh doanh?
2. Muốn tính được trường cần phải làm gì?
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 55
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
TT Tiêu thức Đơn vị tính Số lượng Đơn giá (đồng) Thành tiền (đồng)
10 Trả lương 350.000.000
Do chi phí kinh doanh chung, như phân tích ở trên, phát sinh ở nhiều điểm chi phí
khác nhau, liên quan đến nhiều đối tượng tính khác nhau nên không thể tập hợp
trực tiếp được cho bất kỳ đối tượng tính toán cụ thể nào. Để tính chi phí kinh
doanh gián tiếp cho các đối tượng tính toán cụ thể thì:
Trước hết, như đã trình bày ở bài trước, bạn phải tập hợp chúng theo từng loại.
Chẳng hạn, với số liệu ở bảng 4.1, chi phí kinh doanh trả lương tháng 12/2008 của
doanh nghiệp X là 350.000.000 đồng.
Sau đó (và trên thực tế có thể làm đồng thời với công việc trên), bạn phải tính toán
tập hợp hoặc phân bổ chi phí kinh doanh gián tiếp vào các điểm mà nó “phát sinh”.
Chẳng hạn ở ví dụ bảng 3 với 350.000.000 đồng tiền lương ở doanh nghiệp X chưa
cho bạn biết thông tin mà bạn cần. Để biết các thông tin cụ thể hơn, bạn sẽ cần
thêm tài liệu để biết thêm, chẳng hạn tiền lương ban giám đốc là 16.000.000 đồng,
tiền lương phòng kinh doanh 18.000.000 đồng, tiền lương ban quản đốc phân xưởng 1
56 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
là 9.000.000 đồng… Tiền lương ban giám đốc phải được ghi ở chính nơi nó đã
phát sinh (điểm chi phí – ban giám đốc); tiền lương phòng kinh doanh phát sinh tại
điểm chi phí – phòng kinh doanh, tiền lương ban quản đốc phân xưởng 1 phát sinh
tại điểm chi phí – phân xưởng 1…
Thông tin trên vẫn chưa làm “thoả mãn” nhu cầu thông tin của bạn. Bạn còn cần phải
biết chi phí kinh doanh trả lương ở một nơi làm việc cụ thể nào đó và chi phí kinh
doanh trả lương cho 1 đơn vị sản phẩm cụ thể nào đó là bao nhiêu. Vì sao vậy? Vì như
đã trình bày ở phần nhiệm vụ của tính chi phí kinh doanh, các thông tin đó mới là các
thông tin bạn cần có khi ra các quyết định có liên quan. Muốn thế, bạn phải từ kết quả
bước trên để tiếp tục phân bổ cho các đối tượng cần phân bổ.
Sở dĩ bạn phải phân bổ vì chẳng hạn chi phí kinh doanh trả lương của ban giám đốc
không gắn trực tiếp với bất kỳ hoạt động nào của doanh nghiệp, tiền lương của phòng
kinh doanh không gắn trực tiếp với việc bán bất cứ loại hàng hoá cụ thể nào do phòng
kinh doanh đảm nhiệm và hoàn toàn tương tự, tiền lương của ban quản đốc phân
xưởng không gắn trực tiếp với bất kỳ loại sản phẩm nào mà gắn với mọi loại sản phẩm
được sản xuất tại phân xưởng đó.
Những phân tích trên cho bạn một hình ảnh: với chi phí kinh doanh chung bạn sẽ phải
tập hợp tại nơi phát sinh thích hợp rồi tìm cách phân bổ chúng cho đối tượng tính toán.
Hãy xem ví dụ dưới đây minh họa về chi phí kinh doanh trực tiếp và chi phí kinh
doanh chung.
Ví dụ: Ngoài bộ phận quản trị, Công ty May M có 1 tổ thiết kế thời trang, 1 tổ cắt và
3 tổ may theo mặt hàng (mỗi tổ may 1 mặt hàng). Tất cả đều nằm gọn trong 1 tòa nhà.
Công ty trả lương cho bộ phận quản trị theo tháng; trả lương cho nhân viên từng tổ
sản xuất theo giờ. Tháng 2/2015 phát sinh các loại chi phí:
Chi phí kinh doanh trả lương = 267 triệu đồng.
Chi phí kinh doanh trả tiền điện = 45 triệu đồng.
Chi phí kinh doanh sử dụng các loại vật liệu = 200 triệu đồng.
Chi phí kinh doanh khấu hao nhà = 50 triệu đồng.
Với kỳ tính toán là ngày, khoản chi phí nào là chi phí kinh doanh trực tiếp?
Theo đặc điểm của công ty may M, ta có thể trực tiếp tập hợp chi phí kinh doanh trả
lương cho điểm chi phí thiết kế, điểm chi phí may hoặc điểm chi phí cắt bởi lương của
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 57
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
nhân viên ở ba điểm này được trả theo giờ, từ lương theo từng giờ và số giờ làm việc
trong ngày chúng ta sẽ tính được ngay chi phí kinh doanh trả lương của ngày. Vì thế,
chi phí kinh doanh trả lương cho điểm chi phí thiết kế, điểm chi phí may hoặc điểm
chi phí cắt sẽ là chi phí kinh doanh trực tiếp của ngày.
Chìa khóa
phân bổ
Các điểm (nơi phát sinh)
chi phí kinh doanh
Sơ đồ 4.2. Vị trí của tính chi phí kinh doanh theo điểm
(Olfert,K. – Kostenrechnung – 8.Aufl., Kiel–Verlag 1991, S. 145)
58 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Ở cả hai ví dụ trên bạn đều nhận thấy không thể thiết lập được bất kỳ mối quan hệ nào
giữa chi phí kinh doanh chung phát sinh ở cấp toàn doanh nghiệp cần phân bổ và chi
phí kinh doanh sẽ phải phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Song nhiệm vụ tính
chi phí kinh doanh buộc bạn vẫn phải nghĩ đến tìm ra cách nào đó khả dĩ có thể chấp
nhận được để phân bổ chi phí kinh doanh chung cho các đối tượng chịu chi phí trong
doanh nghiệp. Trong trường hợp này, bạn hãy nghĩ đến đại lượng thứ ba: một đại
lượng nào đó có thể làm cầu nối giữa chi phí kinh doanh chung phát sinh cần phân bổ
và đối tượng chịu chi phí.
Đại lượng đảm đương nhiệm vụ “cầu nối” giữa chi phí kinh doanh chung cần phân bổ
và đối tượng chịu chi phí được gọi là đại lượng phân bổ hay đại lượng đóng vai trò
làm chìa khoá phân bổ.
Chìa khoá (đại lượng) phân bổ là đại lượng có quan hệ với cả hai đại lượng là chi phí
kinh doanh gián tiếp cần phân bổ và đối tượng được phân bổ chi phí kinh doanh. Đại
lượng này được coi là đại lượng trung gian, thiết lập mối quan hệ gián tiếp giữa chi
phí kinh doanh chung cần phân bổ và đối tượng được phân bổ chi phí kinh doanh.
Để đại lượng phân bổ dẫn đến kết quả phân bổ chính xác nhất có thể, đại lượng này
phải thoả mãn các yêu cầu:
Có mối liên hệ trực tiếp với loại chi phí kinh
doanh chung cần phân bổ. Loại chi phí kinh
doanh chung cần phân bổ có thể là loại chi phí kinh
doanh sơ cấp, có thể là loại chi phí kinh doanh thứ
cấp và cũng có thể là chi phí kinh doanh thứ cấp đã
được phân bổ cho một điểm chi phí cụ thể. Dù là
bất cứ loại chi phí kinh doanh chung cụ thể nào
cũng cần có quan hệ với đại lượng phân bổ. Ví dụ nếu chi phí kinh doanh chung
cần phân bổ là chi phí kinh doanh tiêu thụ điện thì đại lượng phân bổ là công suất
và thời gian sử dụng của các thiết bị điện vì đơn giản là giữa chúng có quan hệ
trực tiếp: công suất và thời gian sử dụng của các thiết bị điện càng lớn, tiêu thụ
điện năng càng nhiều thì chi phí kinh doanh sử dụng điện càng lớn và ngược lại.
Có mối liên hệ trực tiếp với đối tượng được phân bổ. Đối tượng được phân bổ
có thể là điểm chi phí hay cũng có thể là đối tượng tính chi phí cụ thể. Đại lượng
phân bổ cũng phải có quan hệ trực tiếp với đối tượng chịu chi phí. Ở ví dụ chi phí
kinh doanh sử dụng điện trên công suất và thời gian sử dụng của thiết bị điện cũng
có quan hệ trực tiếp với từng điểm chi phí: ở đâu có nhiều thiết bị, công suất lớn
và thời gian sử dụng nhiều, ở đó tiêu hao nhiều điện năng và do đó phải chịu chi
phí kinh doanh sử dụng điện lớn và ngược lại.
Phải đơn giản: càng đơn giản, càng dễ phân tích và nhận thức mối quan hệ giữa
đại lượng này với chi phí kinh doanh chung cần phân bổ và đối tượng được phân
bổ. Chẳng hạn ở ví dụ chi phí kinh doanh sử dụng điện bạn đang phân tích, đại
lượng công suất thiết bị điện tại từng điểm chi phí có thể có quan hệ với chi phí
kinh doanh chung cần phân bổ và đối tượng cần phân bổ chi phí kinh doanh nhưng
mối quan hệ này chưa chặt vì công suất thiết bị chưa gắn bó chặt chẽ với chi phí
kinh doanh sử dụng điện: công suất có thể lớn nhưng nếu thời gian sử dụng ít thì
chi phí kinh doanh sử dụng điện cũng không lớn. Vì thế, không có đại lượng nào
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 59
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
đơn giản hơn đại lượng công suất/thời gian sử dụng thiết bị mà vẫn cho phép tính
đúng chi phí kinh doanh sử dụng điện cho từng đối tượng chịu chi phí.
Phải được sử dụng nhất quán trong suốt quá trình tính chi phí kinh doanh ở
một thời kì đủ dài nào đó. Sử dụng nhất quán là điều kiện để bạn so sánh thông
tin về chi phí kinh doanh ở các thời kỳ khác nhau. Liệu bạn có thể đưa ra kết luận
chính xác khi so sánh số liệu về chi phí kinh doanh của 2 tháng liền kề nếu tháng
này bạn sử dụng đại lượng này, sang tháng sau bạn lại chọn đại lượng khác làm
chìa khoá phân bổ cùng 1 loại chi phí kinh doanh chung cho cùng 1 đối tượng?
Có nhiều loại đại lượng phân bổ khác nhau song tựu trung có thể tập hợp chúng ở hai
loại là đại lượng hiện vật và đại lượng giá trị.
Các đại lượng hiện vật được đo bằng các đơn vị đo thích hợp như số lượng người, giờ
hoạt động (người, máy), khối lượng, diện tích, thể tích hay các đơn vị đo vật lí khác.
Để phân bổ chính xác, trong nhiều trường hợp người ta thường tìm đến các đại lượng
“kép” như người – ngày, tấn – km, kw – h, m2 – h, m3 – h… Sử dụng các đại lượng
hiện vật làm chìa khoá phân bổ có ưu điểm là tính chính xác cao song có hạn chế là
phải sử dụng nhiều loại chìa khoá phân bổ khác nhau nên quá trình phân bổ phức tạp.
Các đại lượng giá trị đo lường bằng đơn vị tiền tệ như
chi phí kinh doanh trực tiếp, chi phí kinh doanh sử
dụng lao động trực tiếp, mức lãi thô… Đặc trưng
chung của các đại lượng giá trị là phụ thuộc vào sự
thay đổi của giá cả thị trường nên dễ làm thay đổi kết
quả dù kết quả bằng đơn vị hiện vật không đổi. Do đó
khi sử dụng các đại lượng giá trị làm đại lượng phân
bổ phải biết cố định chúng trong thời kỳ tính toán.
Song sử dụng các đại lượng giá trị làm chìa khoá phân
bổ lại có ưu điểm lớn là làm đơn giản hoá quá trình
phân bổ.
Khi đã có rất nhiều đại lượng khác nhau có thể sử dụng làm chìa khoá phân bổ thì việc
phân tích để lựa chọn đại lượng phân bổ thích hợp là hoàn toàn cần thiết. Việc lựa
chọn đại lượng phân bổ phải thoả mãn yêu cầu đơn giản nhưng đảm bảo độ chính xác
cần thiết.
Cần chú ý rằng càng phân biệt chi phí kinh doanh theo loại ở mức khái quát bao
nhiêu, càng sử dụng ít đại lượng phân bổ bao nhiêu sẽ càng dẫn đến kết quả tính toán
kém chính xác bấy nhiêu và ngược lại.
Từ nhận thức này, đứng trước mỗi chi phí kinh doanh chung cần phân bổ bạn hãy cân
nhắc và lựa chọn chìa khoá phân bổ thích hợp nhất.
60 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
khi phân tích, so sánh, đánh giá chi phí kinh doanh phát sinh ở các thời kỳ tính toán
khác nhau. Bạn hãy tưởng tượng xem bạn sẽ kết luận thế nào nếu phân tích số liệu về
chi phí kinh doanh ở 2 thời kỳ tính toán khác nhau mà ở mỗi thời kỳ người ta lại phân
bổ theo mỗi cách khác nhau?
Có thể có nhiều nguyên tắc phân bổ chi phí kinh doanh, dưới đây trình bày các nguyên
tắc chủ yếu:
Thứ nhất, nguyên tắc phân bổ theo quan hệ
nhân quả: Theo nguyên tắc này, việc phân bổ chi
phí kinh doanh chung chỉ được phân bổ cho các
điểm (đối tượng chịu) chi phí nếu xác định rõ ràng
mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Theo bạn, thế
nào là quan hệ nhân quả giữa chi phí kinh doanh
chung phát sinh và đối tượng chịu chi phí? Để trả
lời câu hỏi này, bạn hãy chú ý đến các dấu hiệu sau:
o Sự thay đổi của chúng phải cùng chiều: cái này tăng, cái kia cũng tăng và
ngược lại, cái này giảm thì cái kia cũng phải giảm.
o Sự tăng giảm phải gần như giống nhau.
Ví dụ, trường hợp phân bổ chi phí kinh doanh sử dụng điện của toàn doanh nghiệp
cho các điểm chi phí – bộ phận có sử dụng điện là thực hiện được vì giữa chúng có
quan hệ nhân quả: nếu sử dụng điện ở từng điểm chi phí tăng lên (công suất, thời
gian) thì chi phí kinh doanh sử dụng điện ở toàn doanh nghiệp cũng tăng lên và
ngược lại; mặt khác, nếu sử dụng điện ở các điểm chi phí tăng (giảm) bao nhiêu thì
chi phí kinh doanh sử dụng điện ở toàn doanh nghiệp cũng tăng (giảm) tương ứng.
Rõ ràng, nguyên tắc này đáp ứng tốt nhất tính chính xác của tính chi phí kinh
doanh. Nói cách khác, nếu áp dụng nguyên tắc này trong mọi quá trình phân bổ chi
phí kinh doanh chung thì không ai nghi ngờ gì về tính xác thực của các kết quả
phân bổ. Chính các hệ thống tính chi phí kinh doanh bộ phận tuân thủ nguyên tắc
này một cách triệt để nhất nên đã chỉ phân bổ chi phí kinh doanh có tính chất
biến đổi.
Thứ hai, nguyên tắc phân bổ theo “mức lãi thô” (Một số tài liệu ở nước ta gọi
phạm trù này là số dư đảm phí).
Mức lãi thô đơn vị sản phẩm là đại lượng phản ánh sự chênh lệch giữa giá bán sản
phẩm và chi phí kinh doanh biến đổi bình quân sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản
phẩm đó. Mức lãi thô một thời kỳ tính toán của doanh nghiệp là đại lượng phản
ánh sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí kinh doanh biến đổi ở thời kỳ tính
toán đó. Theo đó, sẽ có:
o Mức lãi thô từng đơn vị sản phẩm:
πtj = Pj – AVCj
o Mức lãi thô từng loại sản phẩm được xác định tương ứng:
Πt = TR – VCKD
o Mức lãi thô sản xuất các loại sản phẩm được xác định tương ứng:
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 61
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Với:
Pj – Giá cả loại sản phẩm thứ j.
TR – Doanh thu bán hàng.
AVCj – Chi phí kinh doanh biến đổi bình quân đơn vị sản phẩm j.
VCKD – Chi phí kinh doanh biến đổi sản xuất sản phẩm.
Qj – Sản lượng sản phẩm j.
Như thế, mức lãi thô là phạm trù hàm chứa mức lãi ròng và chi phí kinh doanh cố
định. Theo nguyên tắc này, việc phân bổ chi phí kinh doanh chung được phân bổ
theo một tỉ lệ nhất định với mức lãi thô.
Chẳng hạn người ta có thể phân bổ chi phí kinh doanh cố định cho từng loại sản
phẩm hay nhóm loại sản phẩm theo mức lãi thô tính được cho loại (nhóm loại) sản
phẩm đó. Ví dụ ở bảng 4.1, chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định của tháng
12/2008 của doanh nghiệp X là 450.000.000 đồng. Nếu doanh nghiệp này tính chi
phí kinh doanh đầy đủ, sẽ phải phân bổ chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố
định. Giả sử doanh nghiệp X sản xuất và tiêu thụ 3 loại sản phẩm là A, B và C và
đã xác định được mức lãi thô của sản phẩm A là 250.000.000 đồng, của sản phẩm
B là 200.000.000 đồng và của sản phẩm C là 300.000.000 đồng sẽ có:
CPKDKH A = 450.000.000 × 250.000.000/750.000.000 = 150.000.000 đồng
CPKDKH B = 450.000.000 × 200.000.000/750.000.000 = 120.000.000 đồng
CPKDKH C = 450.000.000 × 300.000.000/750.000.000 = 180.000.000 đồng
Vì trong mức lãi thô có chi phí kinh doanh cố định mà chi phí kinh doanh cố định
lại không có quan hệ tỉ lệ với kết quả nên áp dụng nguyên tắc này sẽ dẫn đến độ
chính xác của các kết quả phân bổ không cao như nguyên tắc nhân quả. Người ta
chỉ áp dụng nguyên tắc mức lãi thô để phân bổ chi phí kinh doanh chung nếu
không áp dụng được nguyên tắc nhân quả.
Cần chú ý rằng phân bổ chi phí kinh doanh theo nguyên tắc này mang tính áp đặt
nên tính thuyết phục không cao.
Thứ ba, nguyên tắc trung bình
Theo nguyên tắc trung bình người ta phân bổ chi phí kinh doanh chung cho các đối
tượng cần phân bổ một cách bình quân. Chẳng hạn người ta có thể phân bổ chi phí
kinh doanh cho hoạt động văn hoá, thể thao, mua sách báo cho thư viện, chi phí
kinh doanh cho ăn ca… theo số lao động ở từng điểm chi phí.
Rõ ràng cách phân bổ bình quân đem lại kết quả không chính xác nên chỉ áp dụng
nguyên tắc này nếu quan hệ giữa chi phí kinh doanh và đối tượng phân bổ không
chặt hoặc không xác định được.
Như thế, mỗi nguyên tắc phân bổ đều có ưu, nhược điểm khác nhau; đồng thời,
mỗi nguyên tắc lại đòi hỏi phải thỏa mãn các điều kiện nhất định khi áp dụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu và lựa chọn nguyên tắc phân bổ sẽ áp dụng trong các
trường hợp phân bổ cụ thể là hoàn toàn cần thiết nhằm vừa đảm bảo tính chính xác
cao nhất, lại vừa phù hợp nhất với đối tượng được phân bổ.
62 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 63
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Bộ phận Bộ phận
sửa chữa khuôn mẫu
Sơ đồ 4.3. Mối quan hệ cung cấp dịch vụ giữa các điểm chi phí cho nhau
Để phân bổ chi phí kinh doanh chung cho các điểm chi phí theo phương pháp đại số
thì việc đầu tiên là phải xác định được các kết quả mà các điểm chi phí đó trao đổi cho
nhau. Chẳng hạn theo sơ đồ 4.3 bộ phận Sửa chữa cung cấp dịch vụ sửa chữa các loại
(sửa chữa lớn, sửa chữa vừa, sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng… nhà xưởng, từng
loại thiết bị) cho các bộ phận sản xuất khác như Bộ phận Khuôn mẫu cũng như các bộ
phận sản xuất khác… Bộ phận Khuôn mẫu lại tạo ra và cung cấp các khuôn mẫu cần
thiết (các loại khuôn mẫu khác nhau tuỳ theo yêu cầu của nơi nhận khuôn mẫu) cho
các bộ phận khác sử dụng như bộ phận Sửa chữa, các bộ phận sản xuất chính…
Ở dạng khái quát có thể giả sử tại một doanh nghiệp có m phân xưởng. Phân xưởng 1
cung cấp các kết quả kí hiệu x1, x2, …, xi, …, xn với i = 1,n cho các phân xưởng và bộ
phận khác với số lượng là a11, a12, …, a1i, …, a1n.
Nếu tổng chi phí kinh doanh phát sinh ở phân xưởng 1 là C1 thì sẽ có phương trình
bậc nhất: a11x1 + a12x2 + … + a1ixi + … + a1nxn = C1. Hoàn toàn tương tự như vậy,
phân xưởng 2 cung cấp các kết quả kí hiệu x1, x2, …, xi, …, xn với i = 1,n cho các
phân xưởng và bộ phận khác với số lượng là a21, a22, …, a2i, …, a2n. Nếu tổng chi phí
kinh doanh phát sinh ở phân xưởng 2 là C2 thì cũng sẽ xây dựng được phương trình
bậc nhất: a21x1 + a22x2 + … + a2ixi + … + a2nxn = C2. Cứ như thế, sẽ có hệ phương
trình tuyến tính sau:
a11x1 + a12x2 + … + a1ixi + … + a1nxn = C1
a21x1 + a22x2 + … + a2ixi + … + a2nxn = C2
…
ai1x1 + ai2x2 + … + aiixi + … + ainxn = Cj
…
am1x1 + am2x2 + … + amixi + … + amnxn = Cm
xi ≥ 0 i
64 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Giải hệ phương trình trên sẽ xác định được giá trị chi phí kinh doanh phát sinh gắn với
các kết quả mà các phân xưởng và bộ phận cung cấp lẫn cho nhau x1, x2, …, xi, …, xn.
Từ các giá trị cụ thể có được sau khi giải hệ phương trình trên, bạn sẽ căn cứ vào số
lượng từng dịch vụ mà bộ phận này cung cấp cho bộ phận khác mà xác định chính xác
giá trị chi phí kinh doanh cụ thể mà mỗi bộ phận nhận của các bộ phận khác.
Mặc dù đã tính đến sự phân bổ chi phí kinh doanh cho mọi kết quả mà các điểm đó
cung cấp lẫn cho nhau song áp dụng phương pháp này cũng đã phải dựa trên giả định
là hoặc không có, hoặc nếu có thì số kết quả dở dang là ổn định nên đã bỏ qua nó khi
tính toán. Trong trường hợp nhất thiết phải đề cập đến các kết quả dở dang ở mỗi
điểm chi phí thì phải tìm cách qui đổi các sản phẩm dở dang theo kết quả hoàn thành
mà điểm chi phí này cung cấp cho điểm chi phí khác.
Đây là phương pháp phân bổ phức tạp nhất và cũng là phương pháp đem lại kết quả
phân bổ chính xác nhất có thể.
Sơ đồ 4.4 mô tả mối quan hệ cung cấp kết quả giữa bộ phận Sửa chữa của doanh
nghiệp (điểm chi phí sửa chữa) và bộ phận Sản xuất khuôn mẫu của doanh nghiệp
(điểm chi phí khuôn mẫu). Trong thực tế cung cấp dịch vụ lẫn nhau sẽ có:
Khi máy móc thiết bị, tài sản cố định ở bộ phận sản xuất khuôn mẫu hư hỏng; bộ
phận Sửa chữa có nhiệm vụ sửa chữa chúng. Như thế, bộ phận sửa chữa cung cấp
các dịch vụ sửa chữa lớn, vừa và nhỏ cho bộ phận khuôn mẫu.
Khi bộ phận sửa chữa cần có khuôn mẫu phục vụ cho công việc sửa chữa của
mình; bộ phận sản xuất khuôn mẫu có nhiệm vụ cung cấp cho bộ phận sửa chữa.
Người ta căn cứ vào quan hệ trực tiếp mà điểm chi phí sửa chữa cung cấp cho điểm
chi phí khuôn mẫu để phân bổ chi phí kinh doanh phát sinh từ điểm chi phí sửa chữa
cho điểm chi phí khuôn mẫu. Ngược lại, người ta lại căn cứ vào kết quả dịch vụ mà
điểm chi phí khuôn mẫu cung cấp cho điểm chi phí sửa chữa để phân bổ chi phí kinh
doanh phát sinh từ điểm chi phí khuôn mẫu cho điểm chi phí sửa chữa.
Tuy nhiên, khác với phương pháp phân bổ đại số, ở phương pháp phân bổ trực tiếp
bạn hãy nghĩ đến việc phân bổ từng loại chi phí kinh doanh chung phát sinh chứ
không tính tổng thể các loại chi phí kinh doanh chung phát sinh cho từng đối tượng
được phân bổ chi phí kinh doanh như điểm chi phí, bán thành phẩm hoặc dịch vụ. Với
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 65
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
mỗi loại chi phí kinh doanh chung phát sinh bạn hãy phân tích mối quan hệ giữa
chúng với đối tượng cần phân bổ để tìm chìa khoá phân bổ thích hợp. Sau đó, bạn hãy
phân bổ trên cơ sở chìa khoá phân bổ mà bạn đã lựa chọn.
Về nguyên tắc, tính phức tạp của phương pháp phân bổ trực tiếp hoàn toàn phụ thuộc
vào việc bạn chia nhỏ các loại chi phí kinh doanh đến mức độ nào: càng phân chia chi
phí kinh doanh thành nhiều loại cụ thể bao nhiêu, bạn sẽ càng phải lựa chọn nhiều
chìa khoá phân bổ và thực hiện nhiều phép phân bổ bấy nhiêu song cũng đem lại độ
chính xác càng cao bấy nhiêu và ngược lại.
Mặt khác, vấn đề là ở chỗ, chi phí kinh doanh phát sinh để tạo ra kết quả mà điểm chi
phí phụ cung cấp cho điểm chi phí chính bao giờ cũng phải phân bổ song không phải
lúc nào cũng cần phân bổ chi phí kinh doanh phát sinh ở các điểm chi phí phụ hoặc ở
các điểm chi phí chính cho nhau.
Phương pháp phân bổ trực tiếp có ưu điểm rất lớn là không quá phức tạp như phương
pháp phân bổ đại số song lại đem lại kết quả tương đối chính xác. Vì thế, phương
pháp phân bổ trực tiếp đang được áp dụng khá phổ biến. Khi phân bổ chi phí kinh
doanh chung sơ cấp (phát sinh ban đầu) trong bảng tính chi phí kinh doanh người ta
hay sử dụng phương pháp phân bổ này.
66 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Phù hợp nguyên tắc này và để đảm bảo chỉ phân bổ kết quả của hoạt động phụ, phù
trợ cho hoạt động chính bắt buộc phải sắp xếp vị trí các điểm chi phí trong các bảng
tính chi phí kinh doanh theo nguyên tắc các điểm chi phí chung phải xếp ở vị trí trước
các điểm chi phí khác, các điểm chi phí phụ phải đặt trước các điểm chi phí chính.
Bạn cần đặt câu hỏi vậy nếu có từ hai điểm chi phí phụ trở lên thì làm thế nào? Bạn
hãy đặt tất cả các điểm chi phí phụ trước tất cả các điểm chi phí chính, thứ tự đặt các
điểm chi phí phụ sẽ tuỳ bạn chọn vì điều này không làm ảnh hưởng đến độ chính xác
của kết quả phân bổ. Chẳng hạn, ví dụ mô tả ở sơ đồ 4.6 bạn có thể đặt điểm chi phí
sửa chữa trước điểm chi phí sản xuất khuôn mẫu hoặc điểm chi phí sản xuất khuôn
mẫu trước điểm chi phí sửa chữa đều được.
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 67
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh
điểm sửa chữa điểm tạo khuôn điểm chính 1 điểm chính 2
Sơ đồ 4.6. Phân bổ chi phí kinh doanh theo nguyên tắc dòng chảy
Phương pháp phân bổ này đơn giản song độ chính xác không cao. Mặc dù vậy, đây là
phương pháp thích hợp nhất với yêu cầu ưu tiên tính toán nhanh trên cơ sở đảm bảo
độ chính xác cần thiết.
Vấn đề là ở chỗ tuỳ theo đặc điểm kinh tế – kĩ thuật mà doanh nghiệp có thể lựa chọn
phương pháp phân bổ thích hợp để thực hiện phân bổ chi phí kinh doanh chung cho
từng điểm chi phí cụ thể.
4.2.2. Thiết kế hệ thống các điểm chi phí trong doanh nghiệp
4.2.2.1. Thiết kế điểm chi phí – chức năng
Mỗi chức năng hoạt động hình thành một điểm chi phí.
Hình thành các điểm chi phí chủ yếu:
o Điểm chi phí nguyên vật liệu bao gồm các bộ phận tổ chức mua sắm, vận
chuyển và lưu kho nguyên vật liệu.
o Điểm chi phí sản xuất bao gồm các bộ phận:
68 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
Điểm chi phí sản xuất chính nếu ở đó trực tiếp chế biến.
Điểm chi phí sản xuất phù trợ nếu không trực tiếp sản xuất mà phục vụ trực
tiếp các điểm sản xuất chính.
o Điểm chi phí quản trị bao gồm các bộ phận quản trị doanh nghiệp.
o Điểm chi phí tiêu thụ bao gồm các bộ phận lưu kho thành phẩm, vận chuyển và
bán hàng.
o Điểm chi phí chung bao gồm các bộ phận cung cấp dịch vụ cho hầu như toàn
bộ các điểm chi phí cùng cấp khác của doanh nghiệp.
Hãy xem ví dụ dưới đây minh họa về hình thành các điểm chi phí trong doanh nghiệp.
Ngoài bộ phận quản trị, Công ty May M có 1 tổ thiết kế thời trang, 1 tổ cắt và 3 tổ
may theo mặt hàng (mỗi tổ may 1 mặt hàng). Tất cả đều nằm gọn trong 1 tòa nhà.
Công ty trả lương cho bộ phận quản trị theo tháng; trả lương cho nhân viên từng tổ
sản xuất theo giờ. Hỏi công ty này nên hình thành mấy điểm chi phí theo chức năng?
Dựa theo chức năng của từng bộ phận, ta thấy công ty M có thể hình thành 6 điểm chi
phí dưới điểm chi phí cấp doanh nghiệp, đó là điểm chi phí quản trị, điểm chi phí thiết
kế, điểm chi phí cắt và 3 điểm chi phí may.
Điểm chi phí tiêu thụ Điểm chi phí tiêu thụ
trong nước ngoài nước
Điểm chi phí Điểm chi phí Điểm chi phí Điểm chi phí
Hoa Kỳ Nhật Bản Châu Âu ngoài nước khác
Sơ đồ 4.7. Các điểm chi phí – tiêu thụ ở một doanh nghiệp may mặc
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 69
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
oBên ngoài doanh nghiệp dựa vào sự chia cắt không gian và khối lượng nhiệm vụ.
o Bên trong doanh nghiệp hình thành điểm chi phí dựa vào sự chia cắt không gian.
Hãy xem ví dụ dưới đây về hình thành điểm chi phí theo không gian hoạt động.
Ví dụ: Một dây chuyền sản xuất gạch với 10 công nhân. Nhiệm vụ trộn đất (bằng máy
trộn) do 5 công nhân phục vụ ở khu vực trộn. Cắt và phơi gạch (máy cắt và tự động
chuyển gạch ra khu vực phơi) do 5 công nhân phục vụ. Như vậy, ta có thể hình thành
ở dây chuyền sản xuất gạch 2 điểm chi phí theo không gian, là điểm chi phí trộn và
điểm chi phí cắt và phơi.
Doanh nghiệp
Sơ đồ 4.8. Các điểm chi phí – trách nhiệm ở một doanh nghiệp
70 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 71
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
72 TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225
Bài 4: Thiết kế các điểm chi phí trong doanh nghiệp
TXQTTH05_Bai4_v1.0015108225 73