You are on page 1of 17

HOẠT ĐỘNG NHÓM.

TÌM HIỂU VỀ CÁC CÔNG ƯỚC VÀ LUẬT VẬN TẢI QUỐC TẾ


(ĐƯỜNG BIỂN)

NỘI DUNG TÌM HIỂU


1. Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển 1924
2. Công ước của liên hợp quốc về vận tải hàng hóa bằng đường biển 1978
3. Công ước của liên hợp quốc về hợp đồng vận tải hàng hóa hoàn toàn hoặc một phần
bằng đường biển

THÀNH VIÊN THỰC HIỆN

NHÓM 2
Trần Thùy Duyên 31201025541
Trần Nguyễn Nhật Nam 31201027053
Đoàn Thị Bích Thoa 31201024553
Phạm Minh Thuý 31201024554
Nguyễn Đức Trung 31201021106
Lê Thị Kim Yến 31201024557
NHÓM 10
Nguyễn Minh Khôi 31201020419
Nguyễn Thanh Ngân 31201020610
Nguyễn Thị Bích Trâm 31201024374
Nguyễn Minh Trí 31201025587
Trảo Chung Thúy Vy 31201020706
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ THỐNG NHẤT MỘT SỐ QUY TẮC VỀ VẬN ĐƠN
ĐƯỜNG BIỂN 1924 – CÔNG ƯỚC BRUSSELS

Giới thiệu
Công ước Brussels là Công ước quốc tế nhằm thống nhất 1 số quy tắc về vận đơn đường
biển được ký tại Brussels - thủ đô Bỉ vào 25/8/1924.
Công ước quy định về trách nhiệm của 2 đối tượng trên vận đơn là người gửi hàng
(shipper) và người chuyên chở (carrier). Ngoài ra công ước còn hoàn thiện 1 số nội dung
của vận đơn đường biển.

Phạm vi áp dụng
Điều 10. Mọi vận đơn phát hành tại bất kỳ nước nào là thành viên của Công ước.

Các quy định trong việc tham gia Công ước của các quốc gia
Điều 11 đến điều 16

Lưu ý của Công ước


Điều 1. Các thuật ngữ
Điều 9. Đơn vị tiền tệ : Những nước thành viên của Công ước không dùng đồng bảng
Anh làm đơn vị tiền tệ thì quy đổi những số tiền bằng bảng Anh trong Công ước sang thứ
tiền nước mình

Trách nhiệm và miễn trừ trách nhiệm của carrier/shipper


Trách nhiệm
Điều 2. Carrier chịu trách nhiệm theo các quy định sau đây, liên quan đến việc xếp,
chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng (gọi chung là “làm hàng”) .
Điều 3.
• Trước hành trình: đảm bảo năng lực của tàu, của trang thiết bị trên tàu nhằm đảm bảo
tình trạng hàng hóa
• Khi làm hàng, tiến hàng cẩn thận và thích hợp
• Cấp cho shipper 1 bill of lading/vận đơn đường biển
• Nếu hàng lúc xếp lên tàu không đúng về các tiêu chí trong vận đơn thì shipper chịu
trách nhiệm cho những sự cố đó
• Sau khi hàng đã xếp lên tàu, nếu shipper yêu cầu thì carrier phải cấp/đổi cho shipper
vận đơn đã xếp hàng (shipped on board bill of lading)

Miễn trừ trách nhiệm


Điều 4.
Carrier được miễn trừ trách nhiệm khi có mất mát, hư hỏng hàng hóa khi :
i. Do tàu không đủ khả năng đi biển hoặc trang thiết bị có vấn đề, nhưng carrier
phải chứng minh được là trước khi xuất phát, họ đã hết mình đảm bảo khả năng
đi biển của tàu (có sự mẫn cán thích đáng)
ii. Lỗi do sơ suất, khuyết điểm của thủy thủ đoàn
iii. Đi chệch đường để cứu trợ sinh mệnh hoặc tài sản trên biển
iv. Phát hiện hàng hóa của shipper là hàng dễ cháy nổ hay nguy hiểm, sau đó đem
tiêu hủy
v. Sự cố ngoài ý muốn khác: tự nhiên như thiên tai hay xã hội như kiểm dịch,
chiến tranh, bạo động,...
vi. Mất mát, hư hỏng quá 100 bảng Anh/đơn vị hàng nếu shipper không khai trước
tính chất và giá trị hàng đó trước khi xếp xuống tàu.

Shipper không chịu trách nhiệm khi có thiệt hại gây ra cho carrier dù bất kì nguyên
nhân nào trừ khi nó xuất phát từ lỗi của shipper hoặc nhân sự liên quan của họ.
Điều 5.
Dù có những quy định như trên nhưng carrier vẫn có quyền từ bỏ 1 phần/toàn bộ quyền
lợi và miễn trách/tăng thêm trách nhiệm, nghĩa vụ của mình như trong Công ước quy
định, miễn là những hành động đó được ghi vào vận đơn.
Thời hạn chịu trách nhiệm
Khoản 6, Điều 3.
Người chuyên chở và tàu sẽ không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng nếu việc
kiện cáo không được đưa ra trong vòng một năm kể từ ngày giao hàng hoặc kể từ ngày
đáng lẽ phải giao hàng.

Quy ước vận đơn


Vận đơn đường biển
Khoản 3, Điều 3 và Điều 5.
Người cấp: Do người chuyên chở hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở
cấp sau khi nhận trách nhiệm về hàng hóa.
Nội dung: Những nội dung về hàng hóa sẽ do người gửi hàng cung cấp trước bằng tài
liệu văn bản gồm :
• Ký mã hiệu chính cần thiết để nhận biết hàng hoá
• Số kiện, số chiếc hoặc số lượng hay trọng lượng tuỳ từng trường hợp
• Giá trị hàng hóa (không bắt buộc)
• Những quyền hạn và miễn trách từ bỏ của người chuyên chở
• Trách nhiệm và nghĩa vụ tăng thêm của người chuyên chở

Người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở không buộc phải kê
hay ghi trên vận đơn những ký mã hiệu, số hiệu, số lượng hay trọng lượng mà họ có cơ
sở hợp lý để nghi ngờ là không thể hiện đúng hàng hoá thực tế được tiếp nhận hoặc họ
không có phương pháp hợp lý để kiểm tra.
Việc người gửi hàng cung cấp chính xác thông tin hàng hóa như: ký mã hiệu, số kiện, số
lượng, giá trị … để người chuyên chở ghi vào vận đơn ảnh hưởng trực tiếp đến nghĩa vụ
bồi thường của cả 2 bên nếu hàng hóa xảy ra mất mát, hư hỏng.
Nếu xảy ra chi phí phát sinh từ việc kê khai không chính xác thông tin về hàng hóa thì
người gửi hàng sẽ đứng ra chịu toàn bộ trách nhiệm cho người chuyên chở.
Đối với hàng hóa có giá trị vượt qua số tiền 100 bảng Anh một kiện hay một đơn vị hoặc
một số tiền tương đương bằng ngoại tệ khác. Nếu người gửi hàng không khai tính chất và
giá trị hàng hóa trên vận đơn thì khi xảy ra mất mát, hư hỏng, người chuyên chở và tàu sẽ
không phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên trong trường hợp giá trị hàng hóa lớn, người gửi
hàng không muốn kê chính xác con số đó ra thì 2 bên có thể thỏa thuận về giá trị tối đa và
giá trị ghi vào vận đơn miễn là con số thỏa thuận phải lớn hơn hoặc bằng con số ghi trên
vận đơn.
Vận đơn đã xếp hàng
Khoản 7, Điều 3
Người cấp: Do người chuyên chở hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở
cấp sau khi hàng đã được xếp xuống tàu.
Chỉ cấp phát khi người gửi hàng có yêu cầu; với điều kiện là trước đó, nếu người gửi
hàng đã nhận một chứng từ có giá trị sở hữu về hàng hoá như vận đơn đường biển thì họ
phải hoàn lại chứng từ đó để đổi lấp "vận đơn đã xếp hàng"
Nội dung:
• Nội dung trên vận đơn đường biển
• Tên tàu hoặc những tàu đã xếp những hàng hoá đó và ngày hoặc những ngày đã xếp
hàng tại cảng xếp hàng.

Áp dụng Công ước Brussels với các quy định khác


Điều 6.
Dù có những quy định như trên, nhưng đối với hàng hóa có sự đặc biệt nhất định, carrier
và shipper có quyền cùng nhau ký kết bất kỳ hợp đồng nào với bất kỳ điều khoản nào về
quyền lợi, trách nhiệm của carrier miễn là điều khoản đó không trái với trật tự công cộng
hoặc liên quan đến thái độ làm việc của nhân sự thuộc carrier (sự mẫn cán khi làm việc)
Điều 7.
Carrier và shipper vẫn có thể đưa vào hợp đồng các điều khoản liên quan đến trách nhiệm
của carrier khi hàng hóa xảy ra mất mát, hư hỏng hoặc điều khoản có liên quan đến việc
“làm hàng”
Điều 8. Các quy định trong Công ước này không ảnh hưởng đến các luật lệ hiện hành liên
quan đến quyền và trách nhiệm của carrier
Khoản 8, Điều 3.
Bất cứ điều khoản giao ước hay thoả thuận nào trong một hợp đồng vận tải làm giảm nhẹ
trách nhiệm của người chuyên chở hay tàu về mất mát, hư hỏng của hàng hoá hoặc liên
quan đến hàng hoá do sơ suất, lỗi lầm hay không làm tròn nghĩa vụ quy định trong Ðiều
này hoặc làm giảm bớt trách nhiệm so với quy định của Công ước này đều vô giá trị và
không có hiệu lực.
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ VẬN TẢI HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG
BIỂN 1978 – QUY TẮC HAMBURG

Giới thiệu công ước


Công ước Hamburg 1978 là công ước của Liên hợp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng
đường biển được ký kết tại Hamburg vào ngày 31 tháng 3 năm 1978. Quy ước này quy
định các vấn đề về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển như: cách thức vận chuyển,
quyền hạn trách nhiệm của các bên, quyền tối ưu của các quốc gia tham gia.
Quy tắc
Theo thỏa thuận giữa các bên liên quan, công ước này được áp dụng trong một số trường
hợp nhất định, khi đáp ứng các điều kiện mà công ước này đưa ra. Cụ thể, công ước này
quy định như sau:
Công ước này được áp dụng với mọi hợp đồng vận tải đường biển giữa hai nước, nếu:
• Cảng bốc hàng quy định trong hợp đồng vận tải bằng đường biển nằm ở một nước
tham gia công ước.
• Cảng dỡ hàng quy định trong hợp đồng vận tải đường biển nằm ở một nước tham gia
công ước.
• Một trong các cảng dỡ hàng lựa chọn, quy định trong hợp đồng vận tải đường biển là
cảng dỡ hàng thực tế và cảng đó nằm trong một nước tham gia công ước.
• Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng vận tải đường biển được
phát hành tại một nước tham gia công ước.
• Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng vận tải đường biển quy
định rằng, những điều khoản của công ước này hoặc luật pháp của bất kỳ quốc gia
nào cho thi hành những quy định của công ước này, là luật quy định hợp đồng.
Những quy định của công ước này được áp dụng không phụ thuộc vào quốc tịch của tàu,
của người chuyên chở, người chuyên chở thực tế, người gửi hàng, người nhận hàng hoặc
bất kỳ người nào khác có liên quan.
Những quy định của công ước này không áp dụng cho hợp đồng thuê tàu. Tuy nhiên,
khi một vận đơn được cấp theo một hợp đồng thuê tàu, những quy định của công ước này
sẽ được áp dụng cho vận đơn đó, nếu vận đơn có quy định quan hệ giữa người chuyên
chở với người cầm vận đơn không phải là người thuê tàu.

Áp dụng công ước


Nội dung chính của quy tắc cũng xoay quanh đối tượng điều chỉnh là mối quan hệ trách
nhiệm giữa một bên là chủ tàu và/hoặc người chuyên chở hoặc người đại lý của họ với
một bên là chủ hàng và/hoặc người nhận hàng. Không chỉ dừng lại ở dự định cải thiện
tình hình, thay đổi một chút cán cân trách nhiệm, khắc phục các vấn đề còn tồn tại của
Quy tắc Hague và Quy tắc Hague – Visby. Bằng cách soạn ra một Quy tắc mới có tính
kế thừa và sửa đổi, những người soạn thảo ra Quy tắc Hamburg còn tham vọng làm một
cuộc cách mạng lần hai trong việc điều chỉnh mối quan hệ trên, đảo lộn một trật tự pháp
lý hàng hải đã có từ lâu đời.

Phạm vi áp dụng quy tắc


Quy tắc Hamburg mở rộng hơn so với Quy tắc Hague - Visby là cho phép áp dụng cho
một hành trình có cảng dỡ hàng là cảng của một nước tham gia Công ước.

Thời hạn trách nhiệm


Theo Công ước quy định, người chuyên chở được coi là có trách nhiệm với hàng hóa
trong khoảng thời gian kể từ lúc người chuyên chở nhận hàng hóa từ người gửi hàng
hay người thay mặt người gửi hàng là một cơ quan hay bên thứ ba cho đến lúc giao hàng
hóa cho người nhận hàng hoặc người thay mặt nhận hàng.

Cơ sở trách nhiệm
Quy tắc Hamburg xác định trách nhiệm của người chuyên chở nếu gây ra những tổn thất,
tổn hại và rủi ro của hàng hóa hoặc sự chậm trễ thời gian trong khâu giao hàng thì phải
bồi thường theo hợp đồng nếu gây ra những hư hại, tổn thất trong thời gian hàng hóa
được họ bảo quản. Người chuyên chở nếu muốn không phải chịu trách nhiệm về những
tổn thất trên thì phải chứng minh được rằng họ, những người làm công hoặc đại lý của
người chuyên chở có bằng chứng về việc mình đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết để
ngăn chặn sự cố làm thiệt hại hàng hóa hay trong những trường hợp tổn thất chung, người
chuyên chở sẽ không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về tổn thất hàng hóa nếu như họ
phải thực hiện các biện pháp sinh tồn, cứu lấy sinh mạng của mình còn nhằm mục đích
cứu tài sản trên biển thì cũng phải đưa ra những quyết định hợp lý.
Trách nhiệm của người chuyên chở và người chuyên chở thực tế:
“Người chuyên chở là bất kỳ người nào tự mình hoặc thông qua một người khác ký kết
một hợp đồng chuyên chở hàng hóa với người gửi hàng. Người chuyên chở thực tế là bất
kỳ người nào thực hiện một phần hoặc toàn bộ hành trình theo sự ủy thác của người
chuyên chở”
Theo quy định trong hợp đồng vận tải, người chuyên chở thực tế có thể được ủy thác
chuyên chở hay chuyên chở một phần tuy nhiên trách nhiệm với toàn bộ quá trình chuyển
chở vẫn phải do người chuyên chở chịu trách nhiệm. Trong những thỏa thuận đặc biệt, cả
người chuyên chở và người chuyên chở thực tế cùng chịu trách nhiệm, trách nhiệm của
họ là liên đới và riêng biệt và số tiền bồi thường không được vượt quá trách nhiệm được
quy định trong Công ước Hamburg.
Các trường hợp miễn trách nhiệm cho người chuyên chở:
Quy tắc Hamburg bãi bỏ các trường hợp miễn trách được quy định bởi Quy tắc Hague.
Người chuyên chở chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp là hư hỏng mất mát hoặc
chậm giao hàng là do hỏa hoạn gây ra. Trong trường hợp này, nghĩa vụ dẫn chứng thuộc
về người khiếu nại phải dẫn chứng là hỏa hoạn hoặc tổn thất là hậu quả do lỗi của người
chuyên chở. Ngoài ra, trừ trường hợp tổn thất chung, người chuyên chở cũng được miễn
trách nhiệm khi tổn thất hàng hóa do cứu sinh mạng hoặc tài sản trên biển. Trong trường
hợp cứu tài sản thì phải có biện pháp hợp lý.

Giới hạn trách nhiệm:


Quy tắc Hamburg đã nâng mức giới hạn trách nhiệm lên một mức phù hợp hơn với tình
hình thực tế và phù hợp với mức giới hạn của các Công ước khác về vận tải hàng hóa (ví
dụ Công ước Vacsava). Mức giới hạn mới cao hơn so với mức giới hạn được quy định tại
Nghị định thư SDR 1979 khoảng 25%.
• Hàng hóa: Người chuyên chở phải chịu trách nhiệm cả đối với hàng hóa chuyên chở
trên boong và súc vật sống.
• Danh tính của người chuyên chở: Người ký kết hoặc đứng tên ký kết hợp đồng
chuyên chở phải chịu trách nhiệm theo Quy tắc Hamburg với tư cách là người chuyên
chở. Tên và trụ sở chính của người chuyên chở phải được ghi trên mặt vận đơn. Nếu
toàn bộ hoặc một phần quá trình chuyên chở được thực hiện bởi một người khác thì
người này cũng phải chịu trách nhiệm với tư cách là người chuyên chở thực sự về
mọi tổn thất, tổn hại hay chậm trễ giao hàng theo quy định của Quy tắc.

Thời hiệu tố tụng


Theo Quy tắc Hamburg thời hiệu tố tụng chống lại người chuyên chở được nới rộng đến
hai năm.
Có những quy định đặc biệt liên quan đến những vấn đề như:
• Trách nhiệm của người gửi hàng và người nhận hàng, thư bảo đảm, thông báo tổn
thất, luật pháp áp dụng và quyền tài phán.
• Công ước Hamburg nỗ lực hoàn thiện để khắc phục những khó khăn khi áp dụng quy
tắc Hague-Visby và đơn giản hóa quy chế trách nhiệm, mặc dù quy tắc này rõ ràng
tạo thuận lợi cho người gửi hàng. Vì thế nó không nhận được sự ủng hộ của giới chủ
tàu và hãng bảo hiểm của họ, cũng như các nước có ngành vận tải đường biển đóng
vai trò quan trọng.
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI HÀNG HÓA
HOÀN TOÀN HOẶC MỘT PHẦN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN – QUY TẮC
ROTTERDAM

Tóm tắt
Công ước của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hóa quốc tế một phần hoặc hoàn
toàn bằng đường biển được thông qua ngày 23/9/2009 tại Rotterdam. Sự ra đời Công
ước được nhiều quốc gia trông đợi và áp dụng cho phép thay thế các Công ước hiện tại
vốn được áp dụng rất khác nhau giữa các nước trong cả thuê tàu chuyến và trong vận tải
đa phương thức. Những thay đổi đó đang tác động tới thị trường vận tải thế giới và Việt
Nam.

Phạm vi chung của công ước


Quy tắc Rotterdam về mở rộng đáng kể phạm vi hài hòa hóa vận tải đa phương thức,
như vận chuyển hàng hóa quốc tế, giao nhận hàng tận nhà, gồm cả vận tải đường biển kết
hợp đường bộ. Quy tắc quy định trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa khi
hàng hóa đang thuộc trách nhiệm của người chuyên chở từ nơi nhận hàng tới nơi giao
hàng. Phạm vi rộng hơn này sẽ phản ánh sát hơn thực tế của các hợp động vận tải trong
thương mại quốc tế hiện đại.
Công ước vẫn áp dụng không phụ thuộc vào quốc tịch của tàu, bên tham gia hợp đồng
hoặc bất kỳ người nào khác có liên quan. Ngược lại với các quy định trước đây, quy tắc
Rotterdam không quy định tới nơi phát hành vận đơn. Thậm chí Công ước còn có thể áp
dụng mà không cần xét tới việc vận đơn đã được phát hành hay chưa.
Công ước không áp dụng với các bên thuê tàu hoặc các hợp đồng khác quy định việc sử
dụng tàu thuyền hay bất kỳ khoảng không gian nào trên tàu. Tuy nhiên, có thể áp dụng
Công ước trong những trường hợp đó nếu có phát hành một chứng từ vận tải hoặc một
lưu giữ thông tin điện tử về vận tải.

Thời hạn trách nhiệm


Điều 12, chương 4, Quy tắc Rotterdam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế một
phần hoặc toàn bộ bằng đường biển quy định: “Thời hạn trách nhiệm của người chuyên
chở đối với hàng hóa bắt đầu khi người chuyên chở hoặc bên thực hiện nhận hàng hóa để
chở và kết thúc khi hàng hóa được giao”. Nếu luật pháp hoặc quy định của nơi nhận hàng
yêu cầu hàng phải được giao cho cơ quan có thẩm quyền hoặc bên thứ ba nào khác thì
thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở bắt đầu khi nhận hàng từ những người này.
Nếu luật pháp hoặc quy định của nơi giao hàng yêu cầu hàng phải được giao cho cơ quan
có thẩm quyền hoặc bên thứ ba nào khác để người nhận hàng có thể nhận hàng thì thời
hạn trách nhiệm của người chuyên chở kết thúc khi người chuyên chở giao hàng cho cơ
quan có thẩm quyền hoặc bên thứ ba đó.

Cơ sở trách nhiệm
Điều 14, Quy tắc Rotterdam quy định khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển,
trước lúc bắt đầu và trong suốt hành trình đường biển người chuyên chở phải cần mẫn
hợp lý để:
• Đảm bảo con tàu đủ khả năng đi biển.
• Biên chế, trang bị, cung ứng một cách thích hợp cho tàu và duy trì con tàu được biên
chế, trang bị và cung ứng như vậy trong suốt hành trình.
• Đảm bảo và giữ gìn an toàn cho hầm tàu và các bộ phận chứa hàng khác của con tàu
và các container chứa hàng
Quy tắc Rotterdam đã thừa nhận container như là một công cụ vận chuyển của người
chuyên chở, quy định về nghĩa vụ duy trì trạng thái phù hợp và an toàn không chỉ áp
dụng đối với hàng hóa mà còn mở rộng ra đối với container.

Giới hạn trách nhiệm


Quy định theo điều 17 công ước Rotterdam 2009 người chuyên chở phải chịu các trách
nhiệm về mất mát, hư hỏng hàng hóa cũng như chậm trễ trong việc giao hàng tới người
nhận, xảy ra trong phạm vi thời hạn trách nhiệm của người vận chuyển.
Công ước Rotterdam liệt kê những trường hợp người vận chuyển phải chịu trách nhiệm
và các trường hợp miễn trách như sau:
Trường hợp phải chịu trách nhiệm
Điều 14 của Công ước nói rằng khi hàng hóa được chuyên chở bằng đường biển, người
vận chuyển vào trước khi, lúc bắt đầu và trong suốt hành trình đường biển phải mẫn cán
hợp lý để:
• Đảm bảo duy trì con tàu có đủ khả năng đi biển
• Biên chế, trang bị, cung ứng một cách thích hợp cho tàu và duy trì con tàu được biên
chế, trang bị và cung ứng như vầy trong suốt hành trình
• Đảm bảo và giữ gìn hầm tàu và các bộ phận chứa hàng khác của con tàu và các
container chứa hàng do người vận chuyển cung cấp thích hợp và an toàn cho việc tiếp
nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hóa.
Theo điều 13 của Công ước, người vận chuyển trong suốt thời hạn trách nhiệm phải tiến
hành một cách cẩn thận và thích hợp việc tiếp nhận, xếp hàng lên tàu, dịch chuyển,sắp
xếp, bảo quản, chăm sóc, dỡ hàng khỏi tàu và giao hàng. Đây còn được coi là trách
nhiệm thương mại của người vận chuyển đối với hàng hóa (tức là trách nhiệm chăm
sóc và bảo quản hàng hóa trong suốt quá trình chuyên chở của người vận chuyển). Đương
nhiên người vận chuyển và người gửi hàng có thể thỏa thuận việc xếp hàng lên tàu, di
chuyển, sắp xếp hoặc dỡ hàng khỏi tàu sẽ do người gửi hàng, người gửi hàng theo chứng
từ hoặc người nhận hàng đảm nhận.

Trường hợp miễn trách nhiệm


Vẫn theo quy định của điều 17 Công ước Rotterdam, người vận chuyển được miễn trách
toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm nếu họ chứng minh được rằng mất mát, hư hỏng của
hàng hóa hoặc chậm trễ là do một trong những sự cố hoặc tình huống sau đây gây ra:
• Thiên tai
• Tai họa của biển, tai nạn đường biển.
• Chiến tranh, thù địch, xung đột vũ trang, cướp biển, khủng bố, bạo động và nổi loạn
của dân chúng.
• Hạn chế vì kiểm dịch, sự cancan thiệp hoặc ngăn cấm của Chính phủ, nhà cầm
quyền, kẻ thống trị hoặc nhân dân kể cả bị kiềm chế, bắt giữ hoặc tịch thu mà nguyên
nhân không phải từ người vận chuyển hoặc người làm công của người vận chuyển.
• Đình công, cấm xưởng, ngưng trệ, hạn chế lao động
• Cháy trên tàu
• Hành vi hoặc thiếu sót của người gửi hàng, người gửi hàng theo chứng từ, bên kiểm
soát hoặc bất cứ bên nào khác mà người gửi hàng và người gửi hàng theo chứng từ
phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ.
• Xếp hàng, di chuyển, sắp xếp hoặc dỡ hàng được thực hiện theo thỏa thuận giữa
người vận chuyển và người gửi hàng, trừ trường hợp người vận chuyển hoặc bên
thực hiện tiến hành các hoạt động này thay mặt cho người gửi hàng, người gửi hàng
theo chứng từ hoặc người nhận hàng.
• Hao hụt tự nhiên về khối lượng hoặc trọng lượng hoặc bất kỳ mất mát hoặc hư hỏng
khác, chất lượng hoăc do bản chất hàng hóa.
• Bao bì hoặc ký hiệu nhãn, mã không đầy đủ hoặc khiếm khuyết mà không do người
vận chuyển hoặc đại lý của họ thực hiện.
• Các biện pháp hợp lý để cứu hoặc cố gắng cứu tài sản ở biển
• Các biện pháp hợp lý để tránh hoặc cố gắng tránh thiệt hại cho môi trường
• Hành vi của người vận chuyển khi sử dụng các biện pháp để xử lý hàng hóa nguy
hiểm hoặc hy sinh hàng hóa vì an toàn chung.
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở theo Quy tắc Rotterdam quy định một giới
hạn tài chính tương ứng cao hơn là 875 SDR/kiện-đơn vị và 3 SDR/kg. Cụ thể: Giới hạn
trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng mất hỏng là 875 SDR một kiện hoặc 3
SDR một kilo cả bì mất hỏng; giới hạn trách nhiệm về giao chậm hàng là 2,5 lần tiền
cước của số hàng bị giao chậm.
Trách nhiệm của bên thực hiện hợp đồng vận tải biển (maritime performing party) sẽ
giống người chuyên chở nếu họ nhận hàng để chuyên chở hay giao hàng hoặc chuyên chở
hàng trong cảng của nước tham gia công ước Rotterdam và có tổn thất, mất mát hay
chậm giao hàng xảy ra trong khoảng thời gian từ khi hàng đến cảng dỡ đến khi hàng được
dỡ khỏi tàu bên thực hiện hợp đồng vận tải biển bảo quản hàng hoá tham gia vào bất kì
hoạt động nào trong hợp đồng vận chuyển như vậy công ước này chi phối cả hoạt động
của cả bên thực hiện hợp đồng vận tải biển.
Trách nhiệm của người gửi hàng
• Giao hàng sẵn sàng để chuyên chở: nếu xếp container hay xe cộ, phải chằng buộc chu
đáo, đảm bảo các thứ bên trong container hay xe cộ không gây nguy hiểm cho người
hoặc tài sản khác khi chuyên chở.
• Người gửi hàng phải thông báo trong thời gian thích hợp cho người chuyên chở
những thủ tục, chỉ dẫn và tài liệu của hàng hóa được gửi không thuận lợi cho người
chuyên chở. Nếu không làm đúng nghĩa vụ trên, người gửi hàng chịu trách nhiệm về
tổn thất hàng hóa, trừ phi chứng minh được nguyên nhân tổn thất không do phía ta
gây ra. Như vậy, cả người chuyên chở cũng như người gửi hàng đều phải chứng minh
nguyên nhân tổn thất không phải do mình gây ra để tránh phải chịu trách nhiệm, nếu
không sai sót. Những thay đổi khác tính đến vận tải container áp dụng cho cả các hợp
đồng vận tải biển kết hợp đường bộ maritime plus. Như vậy những hàng hóa vận
chuyển bằng vận tải đa phương thức cũng chỉ cần 1 hợp đồng và áp dụng 1 chế độ
trách nhiệm, kéo dài thời gian khiếu nại lên 2 năm kể từ ngày giao hàng hoặc ngày
hàng hoá đáng lẽ phải được giao.
• Đối với chậm giao hàng: điều 21, Quy tắc Rotterdam quy định người chuyên chở
phải bồi thường 2,5 lần tiền cước phải trả cho số hàng giao chậm, nhưng không vượt
quá tổng tiền cước của toàn bộ lô hàng hoặc mức giới hạn trách nhiệm nếu hàng hóa
đã bị mất hoặc hư hỏng.

Thông báo tổn thất


Tổn thất rõ rệt điều 23.1 thông báo bằng văn bản phải được gửi tới người chuyên chở
hoặc bên thực hiện trước hoặc tại thời điểm giao hàng.
Tổn thất không rõ rệt điều 23.1 quy định thông báo phải được gửi trong vòng 7 ngày
làm việc tại nơi giao hàng kể từ ngày giao hàng.
Đối với chậm giao hàng: điều 23.4 quy định phải được gửi cho người chuyên chở trong
vòng 21 ngày liên tục kể từ ngày giao hàng.

Thời hiệu tố tụng


2 năm có thể kéo dài theo thỏa thuận của các bên kể từ ngày giao hàng hoặc kể từ ngày
hàng hóa đáng phải giao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Công ước của liên hợp quốc về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển 1978. Truy
cập tại https://123docz.net/document/1675814-cong-uoc-cua-lien-hop-quoc-ve-chuyen-
cho-hang-hoa-bang-duong-bien-1978-potx.htm
[2] Hoàng Thị Huệ. (09/07/2021). Ý nghĩa của Công ước Hamburg là gì? Người chuyên
chở thực sự theo Công ước Hamburg là gì? Truy cập tại https://luatminhkhue.vn/y-
nghia-cua-cong-uoc-hamburg-la-gi-nguoi-chuyen-cho-thuc-su-theo-cong-uoc-hamburg-
la-gi.aspx
[3] Công ước của liên hiệp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển 1978. Truy
cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Cong-uoc-chuyen-cho-hang-hoa-
bang-duong-bien-1978-68745.aspx
[4] Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển 1924. Truy
cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-thong-Van-tai/Cong-uoc-quoc-te-de-
thong-nhat-quy-tac-van-don-duong-bien-114509.aspx

You might also like