You are on page 1of 4

Tích cực:

CMCN 4.0 đã tạo ra nhiều đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh vực như sản xuất trí
thông minh nhân tạo, chế tạo rô-bốt, phát triển mạng internet, công nghệ in 3D, công nghệ
nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học. Theo đó, các
công nghệ mới ra đời sẽ là sự liên kết các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh… hình thành
các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề có sự liên quan đến tương tác giữa con
người với máy móc.

Các robot đang được sử dụng nhiều hơn ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp chính xác
cho đến chăm sóc người bệnh. Sự phát triển nhanh của công nghệ robot làm cho sự hợp
tác giữa người và máy móc sớm trở thành hiện thực. Hơn nữa, tự động hóa đi đôi với trí
tuệ nhân tạo (AI) sẽ phát triển mạnh hơn, thậm chí với những kỹ năng trước đây chỉ có con
người sở hữu, nay máy móc có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ.

Những ứng dụng của CMCN 4.0 là các công cụ giúp cho việc mở rộng và đa dạng hóa các
hình thức sản xuất, quản lý. Con người có thể tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng và
đầy đủ nhờ sự hỗ trợ của internet, dữ liệu lớn, sự phát triển của hệ thống thông tin trực
tuyến, mạng xã hội...

Các lĩnh vực nghề thủ công cũng sẽ biến mất, thay vào đó là sự xuất hiện ngành, nghề mới
đòi hỏi kỹ năng tay nghề cao.

Với CMCN 4.0, Việt Nam có nhiều cơ hội về phát triển trên các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ,
nông nghiệp, ngân hàng, tài chính... Sự phát triển và áp dụng các thành tựu mới về công
nghệ sẽ mang lại tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam, góp phần trực tiếp cải thiện đời sống
kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực.

 việc áp dụng công nghệ số đã và đang giúp tạo công ăn, việc làm cho một số lĩnh vực
ngành, nghề mới ở Việt Nam như lái xe công nghệ, dịch vụ nhà cho thuê (Airbnb), kinh
doanh trực tuyến..., qua đó, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng và cải thiện
đời sống của một nhóm người lao động.

Khó khăn:
việc áp dụng công nghệ số và quá trình robot hóa sẽ dẫn tới tình trạng mất việc làm nghiêm
trọng đối với người lao động. Những việc làm có nguy cơ bị loại bỏ hoặc cắt giảm mạnh bao
gồm: Công việc lặp đi, lặp lại; các giao dịch mà nhân viên không cần bằng cấp, chỉ dựa trên
quy trình chuẩn như các giao dịch tài chính...

Dẫn chứng: Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (2019), trong 10 năm tới Việt Nam
sẽ phải đối mặt với sự thay thế lao động khi ứng dụng công nghệ số, dẫn đến sự thay đổi
về mô hình sản xuất, văn hóa kinh doanh, mô hình tổ chức… Có tới 70% số việc làm ở mức
rủi ro cao (có xác suất bị thay thế trên 70%), 18% có rủi ro trung bình (có xác suất bị thay
thế từ 30-70%) và 12% có rủi ro thấp (có xác suất bị thay thế dưới 30%). Điều này đòi hỏi
các doanh nghiệp phải xử lý, thích ứng với sự thay đổi này.

Trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, nguy cơ bị thay thế bởi máy móc và thiết bị tự
động cũng khá cao như trồng trọt (khoảng 13,7 triệu việc làm); chăn nuôi (gần 3,2 triệu việc
làm); làm vườn (1 triệu việc làm); đánh bắt và nuôi trồng thủy sản (0,84 triệu việc làm)…
Một số ngành khác cũng sẽ bị ảnh hưởng tác động của cuộc cách mạng này như chăm sóc
sức khỏe, y tế giáo dục, bán lẻ, giao thông vận tải.

trước yêu cầu của sự phát triển, người lao động còn nhiều hạn chế, bất cập như chưa đáp
ứng được yêu cầu về chất lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần lao động từ nông dân, chưa
được đào tạo cơ bản và có hệ thống.

trình độ văn hóa và tay nghề của người lao động dù đã được cải thiện, song vẫn còn thấp,
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, lực lượng lao động tập trung nhiều vào lao động phổ thông, lao động bậc thấp và
bậc trung, do đó thiếu hụt lao động chất lượng cao. Đồng thời, những hạn chế này cũng
dẫn đến nhiều hệ lụy khác như năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh thấp, đặc biệt
giá trị nguồn nhân lực trên thị trường lao động không cao.

Một số giải pháp:


Thứ nhất, hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực thi chính sách hướng tới chiến lược đổi mới
giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó chú trọng  nâng cao chất
lượng đào tạo nghề, nâng cao trình độ công nghệ thông tin và tiếng Anh ở các bậc học theo
hướng hội nhập quốc tế, phát triển đội ngũ lao động có trình độ cao, ngày càng làm chủ
được khoa học - công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong làm việc công nghiệp, ý thức
kỷ luật lao động theo xu hướng công nghiệp hiện đại.

Thứ hai, bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo và đào tạo lại lao động; tạo điều
kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ
sở dạy nghề gắn với các ngành, các vùng kinh tế trọng điểm; Thực hiện đổi mới giáo dục,
đào tạo dạy nghề trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn
nhân lực, chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu làm chủ và khai thác
vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc CMCN 4.0. Đồng thời, có cơ chế phù
hợp khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dành kinh phí và thời
gian thích đáng cho đào tạo, đào tạo lại lao động.

Thứ ba, xây dựng phương án, đề xuất các chính sách mới phù hợp với việc thay đổi trong
cơ cấu lao động, giảm thiểu tác động, ảnh hưởng của cuộc CMCN 4.0 đến các ngành, lĩnh
vực có khả năng lao động bị thay thế cao, phù hợp với điều kiện, bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay của Việt Nam.

Thứ tư, từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao động. Chú
trọng chăm lo xây dựng đời sống văn hóa - tinh thần, nhất là quan tâm tới các dịch vụ văn
hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người lao động nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động.

Thứ năm, đổi mới cơ chế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của
doanh nghiệp, chú trọng cơ chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
cho lĩnh vực đổi mới công nghệ, nhất là đối với công nghệ thông tin và công nghệ tiên tiến
khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm chuyển giao công nghệ mới của lực lượng
Việt kiều ở nước ngoài để tăng khả năng về mặt công nghệ cho Việt Nam, đồng thời giúp
người lao động có thể tiếp cận được các công nghệ tiên tiến nhờ quá trình chuyển giao
công nghệ.

Thứ sáu, học tập kinh nghiệm ứng phó của các nước khác, đặc biệt là các nước đi trước
trong CMCN 4.0, có thể giúp Việt Nam tránh được những vấn đề mà các nước đó gặp phải
trong việc quản lý, ban hành chính sách đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với cuộc CMCN
4.0.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Công Thương (2017), Tác động của Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành
sản xuất, moit.gov.vn (ngày 20/8/ 2020);

2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng Cục thống kê (2019), Bản tin Cập nhật thị
trường lao động, số 21, Quý I/2019;

3. Trần Thị Vân Hoa (2017),Cách mạng công nghiệp4.0 vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội;

4. Nguyễn Thị Thanh Hải(2020), Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đến bảo
đảm quyền con người, Cổng thông tin điện tử tapchicongsan.org.vn (ngày 8/8/2020);

5. Trần Nguyễn Tuyên (2019), Cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động đối với Việt Nam,
hvcsnd.edu.vn (ngày 11/9/ 2020);

6. Nguyễn Thắng (2019), Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động đến Việt Nam,
http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan (ngày 8/9/2020)

You might also like