You are on page 1of 12

A.

Phần mở đầu
Sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão hiện nay đã tác động tới rất nhiều lĩnh vực
trong cuộc sống. Công nghệ phát triển từng ngày đã giúp nâng cao đời sống của
con người giúp cho cuộc sống được thuận lợi hơn tháo gỡ được nhiều khó khăn
vướng mắc cũng như nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Có thể thấy trong những
năm qua cụm từ “cách mạng công nghiệp 4.0” được nhắc nhiều trên các phương
tiện truyền thông nhằm phổ biến tới người dân về cuộc cách mạng công nghiệp
mới đã và đang diễn ra trên toàn cầu và những tác động đang làm thay đổi về lĩnh
vực kinh tế đồng thời thay đổi hoàn toàn hệ thống sản xuất và quản trị hiện nay.
Xuâts phát từ sự phát triển của KHCN làm thay đổi mạnh mẽ chuỗi cung ứng và
sức ép trước việc quản trị chuỗi cung ứng trong bối cảnh có rất nhiều thay đổi từ
bên trong chuỗi cung ứng trong thời gian sắp tới đã đặt ra nhiều cơ hội và thách
thức trong việc tìm hiểu và đón nhận những tác động từ cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0.
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trước
tác động to lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Với mong muốn tìm
hiểu sâu về đề tài mới mẻ này em đã quyết định chọn đềtài “Thời cơ và thách thức
của giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0”

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân
2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
II. Vận dụng
1. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giai cấp công nhân Việt Nam

Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức của


giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh
vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn
mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Có
thể khái quát bốn đặc trưng chính của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Một
là, dựa trên nền tảng của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu
lớn, điện toán đám mây và kết nối internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của
máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh. Hai là, sử dụng công nghệ
in 3D để sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền
sản xuất không phải qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ trợ - công nghệ này cũng
cho phép con người có thể in ra sản phẩm mới bằng những phương pháp phi truyền
thống, bỏ qua các khâu trung gian và giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể. Ba
là, công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng rộng
rãi trong hầu hết các lĩnh vực. Bốn là, trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép
con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian, tương tác
nhanh hơn và chính xác hơn.

Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này có thể mang lại sự
bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự
động hóa thay thế người lao động bằng máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự
chênh lệch giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động. Mặt
khác, tri thức sẽ là yếu tố quan trọng của sản xuất trong tương lai và làm phát sinh
một thị trường việc làm ngày càng tách biệt thành các mảng "kỹ năng thấp/lương
thấp" và "kỹ năng cao/lương cao", do đó dễ dẫn đến sự phân tầng xã hội ngày càng
trầm trọng thêm.

Dù Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến nhiều lo ngại về thất nghiệp khi
máy móc làm tất cả mọi việc, nhưng một số nhà nghiên cứu tin rằng, việc giảm
tổng số việc làm là không thể. Bởi, siêu tự động hóa và siêu kết nối có thể nâng
cao năng suất những công việc hiện tại và tạo ra nhu cầu về những công việc hoàn
toàn mới khác. Sự ra đời của "cobots", tức robot hợp tác có khả năng di chuyển và
tương tác, sẽ giúp các công việc kỹ năng thấp đạt năng suất nhảy vọt. Tuy nhiên,
những người bị ảnh hưởng nặng nhất có thể là lực lượng lao động có kỹ năng trung
bình do sự phát triển của siêu tự động hóa và siêu kết nối, cộng với trí tuệ nhân tạo
sẽ tác động đáng kể đến đối tượng này.

Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam có những thuận lợi đan xen với khó khăn cơ
bản:

Một là, về thuận lợi, giai cấp công nhân Việt Nam có số lượng đang tăng lên. Theo
báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện nay, tổng số công nhân nước ta chiếm tỷ lệ
khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm
việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước; đang làm
việc theo hợp đồng ở nước ngoài; số lao động giản đơn trong các cơ quan đảng,
nhà nước, đoàn thể. Dự báo đến năm 2020, giai cấp công nhân có khoảng 20,5
triệu người. Công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh; ngược lại, công nhân trong doanh nghiệp
nhà nước ngày càng giảm về số lượng.

Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp công
nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri thức, nắm vững khoa học -
công nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp, các doanh
nghiệp khu vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với
máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với các chuyên gia nước ngoài nên được nâng
cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương pháp
làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp
ngay từ đầu, có trình độ học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất
hiện đại, sẽ là lực lượng lao động chủ đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công
nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
trong tương lai…

Hai là, về khó khăn, trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta
còn nhiều hạn chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng
được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế;
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công
nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống” (1).

Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động. Để hướng đến một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, số lượng giai cấp công
nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24% lực lượng lao động xã hội là tỷ
lệ còn thấp.

Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù được cải
thiện, song vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng không thuận đến việc tiếp thu khoa học -
kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, với tốc độ tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038, năng
suất lao động của công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta
mới bắt kịp được Thái Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, có kế hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm
trọng về lao động khi các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam. Một thực trạng đáng
quan tâm khác là tỷ lệ thất nghiệp của những người đã qua đào tạo đang ngày càng
cao…

Trong thời gian tới, quá trình toàn cầu hóa sản xuất với sự phân công và hợp tác
lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
Khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản
về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường lao
động được gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt. Hiện
ASEAN đã có hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuận công nhận
lẫn nhau về chứng chỉ hành nghề chính thức đối với 8 ngành nghề được tự do
chuyển dịch: kiểm toán, kiến trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và du
lịch. Việc công nhận trình độ lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là một trong những điều
kiện rất quan trọng trong việc thực hiện dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với
các nước trong khu vực. Nhưng đây cũng sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số
lượng công nhân lành nghề ở nước ta còn khiêm tốn, buộ#c phải chấp nhận nguồn
lao động di cư đến từ các nước khác có trình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình
độ của công nhân nước ta không được cải thiện để đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ
bị thua ngay trên “sân nhà”.

Trước thực trạng trên, để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn
mạnh, thích ứng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện tốt một số
giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động, đặc biệt là
người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Từng bước thực hiện chính
sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao động và có tích lũy từ tiền lương;
đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần trong doanh nghiệp, nhằm
góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, giảm thiểu tranh
chấp lao động và đình công trong doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng và tổ chức
công đoàn cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm
quyền lợi của người lao động. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách cụ thể giải quyết nhà ở cho
người lao động. Khi phê duyệt các khu công nghiệp, khu chế xuất, cần yêu cầu
dành quỹ đất tương xứng để xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ thiết yếu
cho công nhân. Chú trọng chăm lo xây dựng đời sống văn hóa - tinh thần, nhất là
quan tâm tới các dịch vụ văn hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người lao
động.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình
độ cao, ngày càng làm chủ được khoa học - công nghệ, có kỹ năng lao động, tác
phong công nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính
sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao
trình độ; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các
ngành, các vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế dành kinh phí và thời gian thích đáng cho đào tạo, đào tạo lại
công nhân.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan
đến việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời sống, nâng cao thể
chất cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, tổ chức
công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh nghiệp, có chế tài xử
lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp luật. Khuyến khích, tạo
điều kiện cho người lao động chủ động học tập nâng cao kiến thức pháp luật, nắm
bắt những quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động,
giúp họ tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong trường hợp cần thiết.

Thứ tư, tăng cường vai trò của các cấp uỷ đảng, Công đoàn và các đoàn thể nhân
dân trong việc xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các loại hình
doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tăng tỷ lệ tham gia
của công nhân vào tổ chức chính trị - xã hội ở doanh nghiệp, để có điều kiện
được bảo vệ quyền lợi chính đáng và góp phần rèn luyện về tư tưởng, lập trường
chính trị, tránh bị các thế lực thù địch lôi kéo vào các hoạt động tiêu cực.

Với tâm thế đón đầu và sự chuẩn bị tốt, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tận dụng
được những cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, xây dựng đội
ngũ ngày càng lớn mạnh về số lượng và nâng cao về chất lượng, là lực lượng chủ
lực đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thành tốt
sứ mệnh lịch sử của mình, đồng thời góp phần giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng ta.

2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Trên thực tế, sau 35 năm đổi mới, với vai trò là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, GCCN Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, có mặt trong tất cả các ngành, nghề, các
thành phần kinh tế. Cụ thể: tổng số lao động trong các doanh nghiệp đạt
khoảng 16,5 triệu người, chiếm 30% trong số 54,67 triệu lao động từ 15
tuổi trở lên của cả nước. Trong đó, cơ cấu lao động tập trung chủ yếu ở
khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, với 62% thuộc doanh nghiệp tư nhân
trong nước, 30% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
và chỉ 8% thuộc doanh nghiệp nhà nước. Về trình độ chuyên môn, lực
lượng lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chiếm 22,37%
(trong đó, lao động có trình độ đại học trở lên chiếm 10,82 %; cao đẳng
chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm 3,08% (số liệu Tổng
cục Thống kê, quý II/ 2019).
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, nhiều vấn
đề lý luận, thực tiễn xoay quanh GCCN Việt Nam đang đặt ra. Một số sai
lệch, bất cập về nhận thức và đánh giá có thể kể đến như:
Thứ nhất, nhìn nhận GCCN là những nhóm công nhân riêng lẻ, bộ phận
nhỏ của lực lượng sản xuất, chủ yếu là những lao động giản đơn, từ nông
thôn ra, xuất thân từ nông dân. Điều này trái ngược với chủ nghĩa Mác-
Lênin và quan điểm lý luận của Đảng ta về điều kiện gắn chặt chẽ giữa
GCCN với các loại hình sản xuất công nghiệp, hoặc có tính chất công
nghiệp. Khái niệm GCCN sẽ trở nên sai lệch, không đúng bản chất, nếu
tách rời sản xuất công nghiệp, tổ chức sản xuất kiểu công nghiệp và quá
trình đô thị hóa, xã hội hóa vốn đòi hỏi trình độ, tay nghề, sự nhạy bén và
tính liên kết cao.
Thứ hai, nhìn nhận GCCN chỉ là những nhóm lao động phổ thông, lao
động giản đơn, chân tay đơn thuần, mà không thấy được sự biến đổi, phân
tầng về nghề nghiệp và trình độ. Lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi
những người làm công tác quản lý, nhân viên văn phòng, nhân viên
thương nghiệp đều là “công nhân thương nghiệp” hay “giai cấp vô sản lao
động trí óc”. Họ có thể là những bác sĩ, kỹ sư, nhà hóa học, nông học và
các chuyên gia khác. Vấn đề đặt ra là GCCN không phải chỉ cần nắm
quyền lực chính trị, mà còn cần quản lý toàn bộ nền sản xuất xã hội. Do
vậy, GCCN hiện đại cần có trình độ cao, kỹ năng giỏi và những kiến thức
vững chắc. Tuy nhiên, thực tế là tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất
thân từ công nhân rất thấp; việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo xuất
thân từ công nhân chưa rõ nét. Trong khi đó, cơ cấu thành phần của công
nhân, lao động đang ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Nhiều người
vừa làm cho nhà nước, vừa làm cho tư nhân hoặc mang danh công nhân
nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể. Công nhân trong doanh
nghiệp nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ GCCN trước đây, nay chỉ
giữ một số lượng và tỷ lệ thấp (gần 1,4 triệu người, chiếm gần 10%) so với
công nhân khu vực ngoài Nhà nước (gần 7,8 triệu người), doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (gần 3,8 triệu người) (Số liệu 2018).
Thứ ba, đánh giá sứ mệnh của GCCN chủ yếu trong lịch sử, không thấy
được sự hiện diện và vai trò toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa trong
bối cảnh mới. Một số quan điểm cho rằng GCCN không còn nữa. Cụ thể,
do điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, công nhân đã có cổ phần, có thu
nhập từ lợi nhuận, đời sống cao, nên họ đã được “trung lưu hóa”, “chuyển
hóa” vào các giai tầng khác. Sự phát triển của khoa học công nghệ, công
nhân bị người máy và các dây chuyền công nghệ tự động hóa thay thế,
nên trở thành một bộ phận không đáng kể trong xã hội. Vì vậy, sứ mệnh
lịch sử trong thời đại ngày nay không còn thuộc về GCCN mà thuộc về trí
thức, doanh nhân. Ở nước ta hiện nay, trong hệ thống cơ quan hành
chính, sự nghiệp công lập; hay kể cả các tập đoàn, tổng công ty cổ phần
do nhà nước nắm quyền chi phối, hầu hết lãnh đạo và quản lý là trí thức.
Nhưng về bản chất, đó là những trí thức của GCCN, tưởng thành từ hệ
thống của GCCN, phục vụ lý tưởng, đường lối chính trị của GCCN. Và
quan trọng nhất, họ được tổ chức bởi đội tiền phong của GCCN là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, tách rời GCCN với Đảng, nên không thấy được vai trò lãnh
đạo cách mạng của GCCN Việt Nam. Nghị quyết 20-NQ/TW của BCH TƯ
Đảng khóa X “về tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” xác định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc. GCCN
lãnh đạo cách mạng thông qua vai trò của Đảng. Đảng lãnh đạo cách
mạng, trên cơ sở lý luận của GCCN là chủ nghĩa Mác-Lênin, hướng tới
thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, công nhân là tầng lớp “thấp cổ
bé họng”, nghèo về kinh tế, thấp về địa vị, yếu về tiếng nói. Do đó, nhiều
người cho rằng GCCN không có khả năng trở thành hạt nhân của sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ tổ quốc… Xét trên bình diện
chung, sự phát triển của GCCN nước ta đang có sự đan xen, chuyển dịch
giữa các giai tầng. Nhiều người vừa là chủ có tài sản, nắm tư liệu sản xuất,
vừa vẫn đi làm thuê, làm công hưởng lương. Với nhóm cán bộ, công chức
làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, khi đã là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam thì về nguyên tắc mang bản chất GCCN, phục vụ lợi
ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc.
Thứ năm, đề cập đến GCCN chỉ nhìn vào số lượng hiện tại, mà không thấy
chất lượng và tương lai. Điều này trái ngược với nhận mạnh của V.I.Lênin:
“Chất lượng của giai cấp vô sản trong phong trào lịch sử thì vô cùng lớn
hơn số lượng của giai cấp ấy trong toàn bộ dân cư”. Trên thực tế, với tỷ
trọng chiếm khoảng 30% lực lượng lao động của cả nước, số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp, đang có nhiều lợi thế lớn để phát triển cả về
lượng và chất. Đặc biệt, những đòi hỏi về năng suất lao động, lợi thế cạnh
tranh đặt ra khi Việt Nam tham gia sâu rộng vào thị trường lao động quốc
tế, thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng cho thấy lực
lượng lao động công nghiệp Việt Nam đã thực sự được ghi nhận và được
coi là thị trường lao động giàu tiềm năng để phát triển các lĩnh vực sản
xuất có hàm lượng công nghệ cao. Cụ thể là làn sóng dịch chuyển đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam (đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-
19) của các hãng công nghệ lớn của thế giới, có mức độ thâm dụng lao
động cao như Samsung, Apple, Panasonic…
Thứ sáu, nhấn mạnh xây dựng, phát triển GCCN, nhưng thực tế không
hiểu GCCN, không nắm được bản chất, sứ mệnh của GCCN, nên chưa
thiết thực tăng cường sức mạnh cho GCCN. Về mục tiêu, chủ nghĩa Mác-
Lênin đã khẳng định rằng dù ở chế độ xã hội nào, với địa vị của mình
GCCN có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng thành
công chế độ XHCN, chủ nghĩa cộng sản. Trong khi đó, nhận thức của một
số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể về xây dựng GCCN còn
nhiều hạn chế. Công tác chỉ đạo và phối hợp của một số cấp uỷ, tổ chức
đảng, chính quyền, cơ quan chức năng chưa thường xuyên, thiếu đồng bộ;
nội dung, chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết có nơi
còn chung chung, thiếu các giải pháp cụ thể. Những vấn đề bức xúc, cấp
bách của GCCN như việc làm, nhà ở, nơi sinh hoạt văn hoá, nhà trẻ... tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất chậm được giải quyết. Những tồn tại
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật cho người lao động như: tiền
lương và thu nhập, tình trạng trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
v.v.. chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát,
xử lý vi phạm chế độ, chính sách đối với người lao động chưa được quan
tâm. Thu nhập của công nhân chưa tương xứng với cường độ lao động và
thời gian làm việc.
Thứ bảy, khi nói đến doanh nghiệp, chủ yếu nhìn nhận vai trò “ăn theo” của
công nhân với tư cách là người làm thuê, người đi xin việc, trong khi đó
chú trọng nhấn mạnh, đề cao tầng lớp doanh nhân, người sử dụng lao
động. Xu hướng coi trọng thu hút đầu tư, tạo nhiều chế độ ưu đãi cho
doanh nghiệp, mở rộng môi trường kinh doanh, khởi nghiệp chủ yếu mang
lại lợi ích lớn cho người sử dụng lao động, chưa thực sự tạo ra cân bằng
cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Đây là một sai
lệch rất cần được khắc phục. Điều này đã được cảnh báo ngay trong lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin khi chỉ rõ cổ phần hóa trong nền sản xuất
TBCN được thực hiện như là một biện pháp điều chỉnh quan hệ sản xuất,
điều chỉnh cách thức bóc lột, bằng việc nhượng lại cho người lao động một
ít cổ phần. Điều này vừa để giải tỏa xung đột quan hệ giữa chủ với thợ,
đồng thời đây cũng là một hình thức huy động vốn của CNTB.
Thứ tám, bản thân công nhân hiện đại ít quan tâm đến việc hình thành
nhận thức chính trị, không nhận thức được tính giai cấp, ý thức giai cấp; về
đặc điểm, vị trí, vai trò của GCCN trong lịch sử, cũng như trong thực tiễn
hiện tại. Nhiều người lao động, đặc biệt ở nhóm doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, do cuộc sống mưu sinh vất vả, khó khăn, nên chỉ quan tâm đến vấn
đề lợi ích kinh tế cụ thể trước mắt; hoàn toàn không quan tâm đến ý thức
giai cấp, bản lĩnh chính trị, vai trò, sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm của
GCCN... Do đó, chất lượng đội ngũ công nhân đang có những dấu hiệu hụt
hẫng, khó đảm bảo tính tiên phong cách mạng, lực lượng xã hội tiến bộ.
Bên cạnh đó, xu hướng phân hoá giữa công nhân phổ thông với công
nhân trí thức, giữa lao động chân tay với lao động kỹ thuật cao… là rõ rệt.
Về chủ quan, năng lực cạnh tranh của lao động nước ta còn yếu; tâm lực,
thể lực, trí lực của công nhân đáp ứng chưa cao yêu cầu của nền sản xuất
hiện đại; tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (35% lực lượng lao động vẫn
là lao động giản đơn); thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ
quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động còn nhiều hạn chế; khả năng tìm kiếm và tự dịch chuyển việc làm của
công nhân còn thấp; tình trạng thiếu việc làm gia tăng, tiền lương, thu nhập
thấp; tình trạng đình công, ngừng việc tập thể của công nhân, nhất là công
nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước ngày càng
phức tạp.

3. Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân VN trong kỷ nguyên cách mạng công
nghiệp 4.0
Để thiết thực xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu cấp
bách của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
ở nước ta hiện nay, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và giáo dục về sứ mệnh,
vai trò của giai cấp công nhân; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
công nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính
trị - xã hội trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động
của các tổ chức này phù hợp với tình hình mới.

Để giai cấp công nhân Việt Nam phát triển và trưởng thành, ngày càng xứng đáng
là lực lượng quan trọng nhất để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và chế
độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần sớm có một chiến lược quốc gia tổng thể, đồng
bộ xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới. Chúng
tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:

1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh
tế với tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành
mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động,
đặc biệt là giai cấp công nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc
phòng, trật tự an toàn xã hội. Một xã hội ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa
không chỉ là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của giai cấp công nhân mà còn
của mọi người dân trong xã hội.

2. Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy
hoạch nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp
với sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá
nhân phát triển sản xuất - kinh doanh, chủ động và tích cực tham gia vào thị trường
lao động quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao thông thủy, bộ, đường
sắt, hàng không, xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất mới... Đây sẽ là
quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới
việc tạo ra một thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với
phong phú về ngành nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai
cấp công nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.

3. Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của
người công nhân còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay,
hình ảnh người công nhân chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như
thế, để giai cấp công nhân có điều kiện khẳng định được vai trò, vị trí của mình
cũng như hoàn thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình cần có một chiến
dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh người
công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giai
cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa.

4. Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay
nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công
nhân và việc phát triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa
kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất
lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm
cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực
lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất
lượng lao động, nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng
trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa
được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động, thì rất khó
tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn định, lao động
giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với sự sôi động
của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng
nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công
nhân. Trong xã hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những
người nghèo trong xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao
động còn nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu
tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước cần cấp
thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội
ngũ công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Trong đó, trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương.
Có như thế, giai cấp công nhân mới thoát khỏi những bức bách của đời sống, có
điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội
ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà
nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

6. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế
Dân chủ ở cơ sở và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân phải được thực hiện trong một môi trường kinh tế - xã hội mà mỗi người
công nhân luôn có điều kiện phát huy năng lực của mình và được thụ hưởng thành
quả lao động do chính mình làm ra. Muốn thế, cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy
chế Dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau

7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã
hội trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp
được đề cập ở đây là trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần
hóa. Trong quá trình chuyển đổi vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
doanh nghiệp cũng như đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp còn lúng túng, có nhiều bất cập. Chính vì vậy, vị thế, vai trò của Đảng trong
các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt. Các tổ
chức chính trị - xã hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng
trong phương hướng hoạt động, không hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính
hình thức.

Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa
thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có
hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp. Trong đó, đặc
biệt tạo lập mối quan hệ mới giữa Đảng và tổ chức công đoàn, từng bước góp phần
đưa Công đoàn trở thành một tổ chức hùng mạnh, thực sự xứng đáng là tổ chức
hoạt động vì quyền lợi chính đáng của toàn thể công nhân, lao động. Sự lãnh đạo
sát sao của Đảng đối với tổ chức công đoàn sẽ là một sức mạnh mới thiết thực góp
phần bảo vệ, chăm sóc và phát triển giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân
cũng là một cách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện
nay.

Trên đây là những biện pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, đáp ứng vai trò của nó trong công cuộc
đổi mới, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

You might also like