Professional Documents
Culture Documents
GIÁO TRÌNH
SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................7
Mục lục 5
Chương 11. SINH LÝ HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CẤP CAO
11.1. Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện ............................................172
11.2. Ức chế phản xạ có điều kiện ở trẻ em..............................................................178
11.3. Giấc ngủ của trẻ em........................................................................................183
11.4. Các quy luật của hoạt động thần kinh cấp cao ................................................187
11.5. Các hệ thống tín hiệu ......................................................................................191
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP ...............................................................................................195
Trẻ em là nguồn nhân lực tương lai của đất nước và cũng là niềm hy
vọng của toàn nhân loại. Do đó, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
đang được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Điều đó được thể hiện trong Công
ước quốc tế về Quyền trẻ em được thông qua tại Hội đồng Liên hợp quốc ngày
20/11/1989 và Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới ký
Công ước này. Nâng cao và cải thiện các chỉ số cơ bản về sức khỏe của trẻ em
lứa tuổi tiểu học là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội.
Sinh lý trẻ lứa tuổi tiểu học là môn học nghiên cứu quá trình phát triển
các chỉ số sinh học, chức năng và hoạt động chức năng của các tế bào, các cơ
quan và hệ cơ quan trong cơ thể trẻ. Đồng thời nó cũng nghiên cứu sự điều
hoà các hoạt động chức năng nhằm đảm bảo cho cơ thể trẻ tồn tại, phát triển
và thích ứng với sự biến đổi của môi trường. Cuốn giáo trình này được viết
nhằm đáp ứng các yêu cầu mới được đặt ra trong chương trình đào tạo sư
phạm đối với ngành Giáo dục Tiểu học. Theo đó, tài liệu này không chỉ giúp
người giáo viên Tiểu học tương lai nắm vững các kiến thức cơ bản về quá
trình phát triển cơ thể trẻ mà còn có thể vận dụng những kiến thức của môn
học này trong việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh lứa tuổi tiểu học.
Giáo trình này gồm 11 chương, được biên soạn theo hướng từ hiện
tượng tới bản chất, từ nguyên nhân đến kết quả. Ở mỗi chương đều đề
ra những mục đích và yêu cầu cụ thể để người học có thể vận dụng trong
quá trình giáo dục trẻ lứa tuổi tiểu học. Để thực hiện được điều này, trong
mỗi chương có so sánh và phân tích cụ thể để người học có thể hiểu vấn
đề một cách hệ thống. Những câu hỏi đặt ra ở mỗi chương đều giúp sinh
viên có thể xây dựng được những nội dung kiến thức, hình thành kỹ
năng và giúp cho việc vận dụng vào thực tiễn giảng dạy sau này.
Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để giáo trình được
hoàn thiện hơn trong những lần tái bản tiếp theo.
Xin trân trọng cảm ơn!
CÁC TÁC GIẢ
Chương 1
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu được một số khái niệm cơ bản về sinh lý học người.
- Phân tích được các quy luật sinh trưởng và phát triển của trẻ em.
- Trình bày được các quan điểm phân chia các thời kì của trẻ em và
đặc điểm sinh lý của các thời kì đó, đặc biệt là giai đoạn lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được các chỉ số thể chất của trẻ em lứa tuổi tiểu học từ đó
rút ra những đặc điểm chung về sinh lý học của trẻ giai đoạn này.
- Vận dụng những hiểu biết về đặc điểm sinh lý trẻ em lứa tuổi tiểu
học trong công tác chăm sóc và giáo dục học sinh tiểu học.
NỘI DUNG
Cơ thể người là một thể thống nhất về cấu tạo và chức năng:
- Sự thống nhất về cấu
tạo: Điểm đầu tiên thể hiện
sự thống nhất của cơ thể là
tất cả các bộ phận và các cơ
quan của cơ thể đều được
cấu tạo từ các tế bào. Tế bào
được coi là đơn vị cấu tạo
cơ bản của tất cả các bộ
phận và các cơ quan trong
cơ thể. Cơ thể người có từ
75 triệu đến 100 triệu tế bào.
Tế bào gồm nhân và tế bào
chất được một lớp màng
bao bọc. Trong tế bào chất
có các bào quan (ti thể, bộ Hình 1.1. Các cấp độ tổ chức của cơ thể người [18]
máy Golgi, lưới nội chất...)
đảm nhận các chức phận
khác nhau.
+ Mô là tập hợp những
yếu tố có cấu trúc tế bào và
không có cấu trúc tế bào, hình
thành trong quá trình tiến
hóa của sinh vật, từ những lá
phôi nhất định và đảm nhiệm
những chức năng nhất định
trong cơ thể. Dựa vào nguồn
gốc phát sinh, chức năng và
cấu tạo người ta chia ra 4 loại
mô: mô cơ, mô liên kết, mô
biểu bì, mô thần kinh.
+ Cơ quan được tạo thành
từ nhiều tổ chức khác nhau
trong đó có một mô cơ bản. Hình 1.2. Sơ đồ các hệ cơ quan của cơ thể [18]
Chương 1. Những vấn đề chung về sinh lý học trẻ em lứa tuổi tiểu học 11
Các cơ quan là đơn vị hoạt động của cơ thể. Chúng mang tính chất chuyên
biệt nhằm hoàn thành các nhiệm vụ phức tạp để đảm bảo sự tồi tại tối ưu
nhất của cơ thể như một thể thống nhất.
+ Các cơ quan có cùng chức năng sẽ tập hợp với nhau để tạo thành
hệ cơ quan. Trong cơ thể có nhiều hệ cơ quan khác nhau. Các hệ cơ quan
đều liên hệ mật thiết và tương tác với nhau trong hoạt động để đảm bảo
sự thống nhất của cơ thể về mặt cấu tạo và chức năng.
- Sự thống nhất về chức năng: Tuy có cấu tạo vô cùng phức tạp nhưng
cơ thể người luôn là một khối thống nhất vì toàn bộ các tế bào, bộ phận,
cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể luôn hoạt động đồng bộ. Mọi hoạt động
của cơ thể đều được thể hiện qua quá trình trao đổi chất và năng lượng
và do cơ chế thần kinh - thể dịch điều tiết.
Hình 1.3. Sơ đồ sự hòa hợp giữa các hệ cơ quan của cơ thể và môi trường [18]
Giải phẫu và sinh lý người có vai trò đặc biệt quan trọng trong
chương trình đào tạo của ngành sư phạm tiểu học, cụ thể:
+ Giúp người học hiểu được đặc điểm giống và khác giữa cơ thể trẻ lứa
tuổi tiểu học với người lớn: về cấu tạo, chức phận của từng cơ quan và cơ thể.
+ Vận dụng sự hiểu biết về sinh lý học trẻ em giúp cho giáo viên tiểu
học tương lai xây dựng kế hoạch chăm sóc, giáo dục học sinh tiểu học
một cách khoa học, tạo điều kiện tốt cho sự hoàn thiện và phát triển thể
chất của các em.
+ Trang bị những kiến thức cơ sở để người học có khả năng tiếp thu
những kiến thức của môn học khác như tâm lý học, giáo dục học, phương
pháp dạy học tự nhiên và xã hội... Đồng thời vận dụng kiến thức về sinh
lí trẻ vào tổ chức dạy học nội dung con người và sức khỏe trong chương
trình môn Tự nhiên và Xã hội, Khoa học ở Tiểu học.
Chương 1. Những vấn đề chung về sinh lý học trẻ em lứa tuổi tiểu học 13
Cơ thể của trẻ đang sinh trưởng và phát triển. Quá trình này cũng
tuân theo quy luật chung của sự tiến hóa sinh vật; đi từ thấp lên cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Quá trình tiến hóa này diễn ra từ từ, liên tục và
có thể có những bước nhảy vọt, có sự khác về chất chứ không đơn thuần
về số lượng. Ở trẻ em, mỗi lứa tuổi có những đặc điểm sinh học riêng, chi
phối sự phát triển.
1.3.2. Các quy luật của sinh trưởng và phát triển ở trẻ
- Quy luật phát triển theo giai đoạn: Tốc độ sinh trưởng khác nhau tùy
từng giai đoạn phát triển, và không đồng nhất ở các bộ phận và cơ quan.
Ví dụ, ở giai đoạn nhi đồng, sự tăng về chiều cao và cân nặng chậm hơn
so với giai đoạn trước đó (giai đoạn nhũ nhi), trung bình mỗi năm chiều
cao tăng được 5 cm, cân nặng tăng 1,5 - 2 kg. Giai đoạn dậy thì, sự tăng
trưởng về chiều cao và cân nặng tăng nhanh nhất (trung bình chiều cao
tăng 7 - 8 cm/ năm, cân nặng tăng 5kg/ năm).
- Quy luật phát triển không đồng thời, không đồng tốc: Nhờ có sự phát
triển không cùng lúc mà cơ thể không bị quá tải, điều động tối ưu nguồn
lực của cơ thể vào các hoạt động sống và hoàn thiện, phát triển từng bộ
phận, từng cơ quan. Sự phát triển không đồng thời thì tốc độ phát triển
của các bộ phận và các cơ quan trong các thời điểm cũng không giống
nhau. Điều này có thể thấy qua hiện tượng tăng tốc ở trẻ.
- Hiện tượng tăng tốc: Là hiện tượng tăng kích thước của cơ thể và
trưởng thành sinh dục sớm. Khi so sánh khối lượng, cân nặng của trẻ
dưới 1 tuổi hiện nay thường nặng hơn và cao hơn so với giai đoạn trước
(cách đây 50 - 75 năm). Ngày nay, sự trưởng thành về sinh dục cũng đến
sớm hơn so với thời điểm cuối thế kỷ XIX. Hiểu biết về sự tăng tốc là cơ
sở để nuôi dạy, tổ chức các hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với
từng lứa tuổi nhằm phát triển trí tuệ, thể chất cho trẻ tốt nhất.
1.3.3. Các giai đoạn phát triển của trẻ lứa tuổi tiểu học
Sự phân chia các thời kỳ phát triển của trẻ em là một thực tế khách
quan, nhưng ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng và có sự khác
biệt ở từng trẻ, giai đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn sau. Cách phân
chia các giai đoạn đều dựa trên đặc điểm cơ bản về sinh học của trẻ.
Chương 1. Những vấn đề chung về sinh lý học trẻ em lứa tuổi tiểu học 15
triển đầy đủ. Cần nắm vững đặc điểm sinh lý trẻ lứa tuổi tiểu học để có
những biện pháp nuôi dưỡng và giáo dục trẻ tốt hơn, giúp trẻ phát triển
toàn diện cả về thể chất, trí tuệ và tâm lý.
Thời kỳ dậy thì thực chất bắt đầu từ lứa tuổi thiếu niên, khi bắt đầu có
những biểu hiện tính sinh dục thứ yếu như thay đổi tuyến vú, tinh hoàn,
mọc lông ở nách và xương mu, vỡ giọng,… Sự thay đổi về hệ thần kinh, hoạt
động của các tuyến sinh dục, gây ra những biến đổi hình thái và sự tăng
trưởng của cơ thể. Sau khi dậy thì hoàn toàn, tốc độ tăng trưởng giảm xuống
rất nhanh và ngừng hẳn ở nữ vào tuổi 19 - 20 và nam ở tuổi 21 - 25. Trẻ dễ bị
rối loạn chức năng tim mạch và phát hiện những dị hình ở bộ phận sinh dục.
Đồng thời, có sự thay đổi về tâm lý (cảm xúc giới tính, tính khí, nhân cách…).
Vì vậy, chúng ta cần lưu ý giáo dục giới tính vị thành niên.
Mỗi thời kỳ phát triển của trẻ có đặc điểm riêng. Phụ huynh, giáo viên
cần nắm vững đặc điểm sinh lý của trẻ để nuôi dưỡng và có biện pháp giáo
dục phù hợp cho từng thời kỳ. Ranh giới giữa các thời kỳ không cố định,
song tất cả trẻ em đều trải qua các thời kỳ đó. Do đó, chúng ta cần có quan
điểm linh động khi nghiên cứu về các thời kỳ phát triển của trẻ em.
1.3.4. Chỉ số thể chất của trẻ em lứa tuổi tiểu học
Để đánh giá sự tăng trưởng của trẻ em có thể dựa vào các giá trị của
các thông số nhân trắc như trọng lượng, chiều dài/cao, chu vi các vòng, tỷ
lệ các phần cơ thể, tuổi xương, các dấu Hiệu trưởng thành về tính dục…
Các chỉ số thể chất của trẻ em lứa tuổi tiểu học thể hiện thông qua:
* Sự phát triển về chiều cao: Chiều cao là một trong những chỉ số phát
triển thể chất và sức khỏe quan trọng nhất. Sự tăng lên về chiều cao cơ thể
phụ thuộc chủ yếu vào quá trình tăng trưởng, khối lượng toàn bộ thân và
một số cơ quan khác. Trẻ từ 8 - 12 tuổi có chiều cao trung bình 121,3 cm -
137,7 cm ở nam và 120,7 cm - 140,3 cm ở nữ. Để ước tính chiều cao của trẻ
trên 1 tuổi, người ta có thể áp dụng công thức:
X = chiều cao của trẻ tính bằng cm
75 cm = chiều cao của trẻ 1 tuổi
X(cm) = 75 cm + 5 (N-1)
5 = mỗi năm trung bình 5 cm
N = số tuổi của trẻ
* Sự phát triển về cân nặng: Là chỉ số được dùng để đánh giá về dinh
dưỡng - thể lực của con người. Cân nặng của một người gồm 2 phần:
+ Phần cố định: chiếm 1/3 tổng số cân nặng, gồm xương, da, các tạng
và thần kinh.
+ Phần thay đổi: chiếm 2/3 tổng số cân nặng, gồm 3/4 là trọng lượng
của cơ thể và 1/4 là mỡ và nước. Trung bình cân nặng ở trẻ tăng 2 kg/năm,
cân nặng của bé gái thường nhẹ hơn bé trai khoảng 1 kg ở tuổi từ 6- 12 tuổi.
Bước vào độ tuổi dậy thì, cân nặng tăng từ 3- 4 kg/năm ở bé gái và 4 -5
kg/năm ở bé trai, sau giai đoạn này tốc độ tăng trưởng chậm. Trẻ từ 8 - 12
tuổi có cân nặng trung bình từ 22,3 - 32,6 kg ở nam và 21,5 - 33,2 kg ở nữ.
* Sự phát triển về vòng đầu - vòng ngực - vòng cánh tay ở trẻ lứa tuổi
tiểu học: Vòng đầu của trẻ phụ thuộc vào sự phát triển của khối lượng
não bộ. Do đó, nó là một chỉ số nói lên sự phát triển về khối lượng của
não bộ. Vòng ngực là số đo được dùng cùng với chiều cao và cân nặng
để tính thể lực và các hệ số tương quan giữa ba số đo đó. Vòng cánh
tay được đo ở cánh tay không thuận, buông lỏng. Xác định điểm chính
giữa xương vai và điểm nhọn nhất của cùi chỏ. Sau đó vòng thước dây
qua điểm này, vòng thước dây nên để vuông góc với cánh tay được đo.
Vòng đầu 10 tuổi là 51 cm, 15 tuổi là 53 – 54 cm; vòng ngực thường lớn
hơn vòng đầu 2 – 3 cm, đến tuổi dậy thì vòng ngực vượt xa vòng đầu;
vòng cánh tay.
Bảng 1.1. Chiều cao, cân nặng, vòng ngực theo tuổi
và giới tính của trẻ lứa tuổi tiểu học
(Theo “ Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
Nam Nữ
Tuổi
Chiều cao Cân nặng Vòng ngực Chiều cao Cân nặng Vòng ngực
7 114,43±5,18 17,59±2,10 53,40±2,23 110,64±5,17 16,91±1,96 52,07±2,20
8 117,43±5,05 19,53±2,32 54,82±2,42 116,51±5,02 18,80±2,23 53,46±2,20
9 121,16±5,04 21,05±2,30 56,17±2,45 121,14±5,08 20,55±2,44 54,94±2,58
10 126,02±5,17 23,22±2,70 57,80±2,55 126,07±5,35 22,62±2,72 56,56±2,79
11 130,41±5,50 25,14±3,04 59,29±3,03 132,17±6,12 25,42±3,55 58,31±3,37
12 135,01±5,97 27,63±3,94 61,18±3,21 137,78±6,73 28,74±4,66 60,54±3,87
Chương 1. Những vấn đề chung về sinh lý học trẻ em lứa tuổi tiểu học 17
* Tỉ lệ giữa các phần của cơ thể trẻ thay đổi theo hướng đầu nhỏ, thân
ngắn và chân dài ra. Ví dụ, chiều cao đầu với chiều cao đứng sẽ giảm dần
theo tuổi, tỉ lệ này ở trẻ 6 tuổi là 1/6, 12 tuổi là 1/7 và người trưởng thành
là 1/8.
Bảng 1.2. Tuổi bắt đầu dậy thì ở trẻ trai và trẻ gái
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
Vùng Nam Nữ
Hà Nội 11 05 tháng ±1 01 tháng
n n
12 05 tháng ±1n00 tháng
n
Chung cả nước 11n10 tháng ±1n04 tháng 13n05 tháng ±1n04 tháng
Trẻ độ tuổi từ 11- 15 hoặc có khi sớm hơn trẻ đều trải qua giai đoạn
dậy thì (bảng 1.2). Có thể thấy, hiện nay độ tuổi dậy thì đến sớm hơn,
đối với bé gái là cuối cấp tiểu học và bé trai là đầu cấp trung học cơ sở.
Cơ thể trẻ có sự biến đổi về thể chất mạnh mẽ do các nội tiết tố sinh
trưởng và sinh sản phát triển. Trẻ gái bắt đầu có kinh nguyệt và trẻ trai
bắt đầu xuất tinh. Tâm lý trẻ có sự biến đổi lớn như: khuynh hướng
sống tự lập, tính tự trọng cao, thích tham gia nhóm bạn bè cùng sở
thích, đồng thời cảm thấy băn khoăn về những biến đổi cơ thể, có ý thức
mạnh về giới tính, cảm xúc nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Bên cạnh những
thay đổi về chỉ số thể chất, trẻ lứa tuổi này bắt đầu đi học. Đến trường
là thay đổi môi trường xã hội rất lớn, chịu tác động của nhiều yếu tố,
nên trẻ cần được chuẩn bị chu đáo về tâm lý cũng như thể chất. Trẻ cần
được rèn luyện thêm trong điều kiện mới, biết kiềm chế, tập trung chú
ý, biết chấp nhận quy tắc chung của lớp, trường, hòa nhập bạn bè, chịu
được các tác động phức tạp. Khả năng hiểu biết, tưởng tượng, sáng tạo
tiếp tục phát triển khi trẻ được tiếp nhận khối lượng kiến thức từ nhà
trường. Vì vậy, nhà trường, các nhà giáo dục, phụ huynh và cộng đồng
cần quan tâm, thấu hiểu đặc điểm sinh lý trẻ độ tuổi này để có những
biện pháp chăm sóc và giáo dục đúng đắn.
Chương 2
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu được các kiến thức cơ bản về máu: cấu tạo, chức năng, thành
phần của máu và các đặc điểm về máu.
- Hiểu được các tính chất chung của máu, sự đông máu, các nhóm
máu (ABO và Rh), nguyên tắc truyền máu. Vẽ và giải thích sơ đồ tóm tắt
quá trình đông máu.
- Hiểu được cấu tạo và chức phận của hệ tuần hoàn ở trẻ lứa tuổi tiểu
học. Vẽ và giải thích đường đi của máu trong hệ tuần hoàn.
- Vận dụng kiến thức về hệ tuần hoàn trong việc vệ sinh phòng bệnh
liên quan đến hệ tuần hoàn.
- Vận dụng kiến thức về sinh lý máu và tuần hoàn trong việc thực hiện
sơ cứu cầm máu và vệ sinh hệ tuần hoàn.
NỘI DUNG
2.1. Sinh lý máu
Động vật không xương sống có hệ tuần hoàn hở, máu không khác
với dịch mô. Ở người và động vật có xương sống, máu chảy trong mạch
kín. Máu là mô liên kết lỏng có màu đỏ, vị mặn và được lưu thông liên
tục trong hệ tuần hoàn của cơ thể.
2.1.1. Thành phần của máu
Ở người, máu chiếm khoảng 6 - 8 % trọng lượng cơ thể ở người lớn,
7 - 8 % trọng lượng cơ thể ở trẻ. Thể tích máu của người trưởng thành
khoảng 4,5 - 5,5 lít ở nữ và 5 - 6 lít ở nam. Khối lượng máu thay đổi tùy
thuộc vào trạng thái chức năng của cơ thể.
Để phân tách các thành phần trong máu, người ta để máu trong ống
nghiệm có thêm chất kháng đông, rồi để lắng hoặc quay ly tâm. Kết quả máu
phân làm 2 lớp, lớp trên là huyết tương có màu vàng nhạt (55 – 60% thể tích
máu), lớp dưới là hồng cầu có màu đỏ thẫm, phủ một lớp mỏng bạch cầu và
tiểu cầu (40 – 45% thể tích máu) (Hình 2.1). Như vậy, máu gồm 2 thành phần
cơ bản là huyết tương và các tế bào máu (huyết cầu).
Hình 2.1. Sơ đồ tách huyết tương và tế bào máu bằng phương pháp ly tâm [19]
2µm ở ngoại vi. Vì hồng cầu có hình đĩa lõm hai mặt nên làm tăng diện tích
tiếp xúc của màng hồng cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho chức năng vận
chuyển khí và trở nên mềm dẻo
khi đi qua các mao mạch rất nhỏ.
Hồng cầu là tế bào không có nhân
và các bào quan nên hồng cầu
không có khả năng phân chia
nhưng lại giúp hồng cầu giảm
tiêu hao năng lượng trong quá
trình vận chuyển.
Thành phần chủ yếu của
hồng cầu là hemoglobin (Hb).
Hb là một phân tử protein có
sắc tố Hem tạo màu đỏ ở hồng
cầu (Hình 2.3). Mỗi hồng cầu có
khoảng 200 - 300 triệu phân tử Hb,
chiếm 1/3 khối lượng hồng cầu.
Hb có khả năng kết hợp và phân
ly với O2 và CO2, do đó đóng vai Hình 2.2. Các tế bào gốc ban đầu tạo ra các
dòng tế bào máu khác nhau [19]
trò vận chuyển các chất khí này.
Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi ở nam giới là
5,05 ± 0,38 T/l (x1012 tế bào/ lít) và ở nữ là 4,66 ± 0,36 T/l (x1012 tế bào/ lít),
có thể dao động theo tuổi và trạng thái sinh lý của cơ thể. Thời gian sống
của hồng cầu trung bình 100 - 120 ngày, tối đa 150 ngày. Mỗi phút có
khoảng 150 triệu hồng cầu già bị các đại thực bào tiêu hủy ở gan, lách và
tủy xương. Khi các hồng cầu bị tiêu hủy, Hb bị phá vỡ các thành phần của
chúng được tái tuần hoàn và sử dụng lại trong cơ thể
Bảng 2.1. Các giá trị sinh học của hồng cầu trong máu ngoại vi của trẻ Việt Nam
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
Nhóm tuổi Giới Hồng cầu (T/l) Huyết sắc tố Hb (g/l)
Những tuần đầu của thời kỳ bào thai, hồng cầu được sinh ra từ nội
mô mạch máu trong các tiểu đảo Wolff và Pander. Từ tháng thứ ba, quá
trình sinh hồng cầu được thực hiện ở gan và lách. Từ tháng thứ năm đến
lúc trẻ ra đời, tủy xương là nơi duy nhất tạo hồng cầu.
Hình 2.4. Sơ đồ các bước chính sản sinh hồng cầu [19]
Người ta phân loại bạch cầu dựa trên hình dạng của nhân, sự có mặt
hay vắng mặt của các hạt trong bào tương của tế bào (Hình 2.5). Bạch
cầu chứa những hạt lớn trong bào tương gọi là bạch cầu hạt (bạch cầu đa
nhân). Bạch cầu hạt được chia thành bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa axít
và bạch cầu ưa base. Bạch cầu không chứa hạt trong bào tương là bạch
cầu không hạt, gồm hai loại là bạch cầu mono và bạch cầu lympho.
Bảng 2.2. Các giá trị sinh học của hồng cầu trong máu ngoại vi của trẻ Việt Nam
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
Nhóm tuổi Giới Bạch cầu Bạch cầu trung tính Bạch cầu Bạch cầu Bạch cầu lympho
(T/l) (%) axít (%) mono (%) (%)
Nam 10,4±3,0 45,0±11,0 44,6 ±9,5
2-6
Nữ 10,1±4,5 42,7±10,0 46,6±9,0
Nam 9,7±2,4 45,9±8,9 43,8±7,9
7- 17
Nữ 9,2±2,1 47,1±9,4 45,9±8,0
Số lượng bạch cầu trong máu khoảng 600 - 800/mm3 ở người lớn, ở
trẻ từ 7 - 17 tuổi khoảng 7 - 10/mm3 (bảng 2.2). Thời gian sống của bạch
cầu trung tính và bạch cầu có khả năng vận động và thực bào chỉ tồn tại
vài phút đến vài ngày do chúng liên tục bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm
nhập của vi khuẩn và chết đi trong quá trình này. Riêng bạch cầu lympho
có khả năng sống được 100 - 300 ngày. Bạch cầu có nguồn gốc từ các tế
bào gốc sinh máu vạn năng trong tủy xương. Các tế bào gốc sinh máu vạn
ăng phát triền thành các tế bào tiền thân dòng lympho và các tế bào tiền
thân dòng tủy. Những tế bào tiền thân này sẽ tăng sinh và biệt hóa qua
các giai đoạn để tạo ra các loại bạch cầu khác nhau. Các bạch cầu già bị
phá hủy ở gan, lách, tủy xương và các hạch bạch huyết.
hoà hoạt động của các tế bào, cơ quan khác nhau thông qua cơ chế thần
kinh, thể dịch đảm bảo sự hoạt động đồng bộ của các cơ quan trong cơ
thể. Ví dụ, máu mang chất tiết của tuyến nội tiết đến cơ quan đích, có tác
dụng kích thích hoặc kìm hãm hoạt động của cơ quan đó.
(a) (b)
Hình 2.6. a-Sơ đồ cơ thế đông máu;
b-Sơ đồ mạng lưới fibrin giam giữ các hồng cầu [19]
Tan cục máu đông giúp dọn sạch các cục máu đông trong tổ chức và
tái thông mạch máu, tạo điều kiện liền sẹo. Đặc biệt nó giúp lấy đi các
huyết khối nhỏ trong mạch máu nhỏ để tránh thuyên tắc mạch.
- Nhóm máu O: trên màng hồng cầu không có kháng nguyên nào,
trong huyết tương có cả 2 loại kháng thể α và β.
- Nhóm máu A: trên màng hồng cầu có kháng nguyên A, trong huyết
tương có kháng thể β.
- Nhóm máu B: trên màng hồng cầu có kháng nguyên B, trong huyết
tương có kháng thể α.
- Nhóm máu AB: trên màng hồng cầu có cả hai kháng nguyên A và B,
trong huyết tương không có kháng thể α và β.
Theo nghiên cứu của Lê Ngọc Trọng và cộng sự (2003) trên người
Việt Nam cho thấy, trong tộc người Kinh thì nhóm máu O có tỷ lệ cao
nhất sau đó là các nhóm máu B - A - AB (bảng 2.4).
Bảng 2.4. Nhóm máu hệ ABO của người Việt Nam
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
máu người cho và máu người nhận. Để khắc phục tình trạng này người ta
truyền màu từng phần thay vì truyền máu toàn phần. Ví dụ truyền hồng
cầu cho bệnh nhân thiếu máu, truyền huyết tương cho bệnh nhân bị bỏng,
truyền tiểu cầu cho bệnh nhân bị xuất huyết giảm tiểu cầu…..Truyền máu
toàn chỉ được chỉ định khi bệnh nhân mất một lượng máu lớn.
Hình 2.8. Tai biến sản khoa trong bất đồng nhóm máu Rh [19]
Giống như kháng nguyên A và B của hệ thống nhóm máu ABO, sự có
mặt hay vắng mạt khánh nguyên Rh là do yếu tố di truyền. Nhóm máu
Rh+ có gen trội và Rh- có gen lặn. Nếu người bố có Rh+ đồng hợp tử, mẹ
có Rh- thì thai nhi sẽ có Rh+. Một hậu quả của nhóm máu Rh có thể xảy
ra trong sản khoa khi không có sự hòa hợp Rh giữa nhóm máu người mẹ
Rh- và nhóm máu thai nhi Rh+. Trong quá trình mang thai, máu mẹ sẽ sản
sinh ra kháng thể Rh chống lại Rh+ của con làm cho hồng cầu của con bị
ngưng kết. Lần mang thai đầu tiên, lượng kháng thể này còn ít nên thai
nhi có thể phát triển an toàn đến lúc sinh ra. Nhưng lần mang thai sau,
lượng kháng thể được sản xuất nhiền hơn nên dễ dẫn đến sảy thai, đẻ
non hoặc thai chết lưu (Hình 2.8).
Tỉ lệ Rh+ ở người da trắng là 85%, người Mỹ da đen là 95%, người
châu Phi là 100%, người Việt Nam là 99,92%.
cơ gần giống với máu bao gồm 3 - 4 % protein, 1% glucozơ, 08 - 0,9% các
muối khoáng. Nhưng dịch bạch huyết không có hồng cầu, mà có nhiều bạch
huyết bào (lymphocyte) và đại thực bào (macrophage). Các đại thực bào có
nhiệm vụ bao vây và ăn sinh vật ngoại lai. Còn bạch huyết bào có nhiệm vụ
trung hoà các vi sinh vật ngoại lai bằng hoá học. Thành phần của dịch bạch
huyết trong các cơ quan phụ thuộc vào trạng thái chức năng của cơ thể.
Hình 2.9. Mao mạch bạch huyết, mạch bạch huyết, hạch bạch huyết [19]
Một nhóm mao mạch bạch huyết nông nằm ở phần dưới da và hạ bì. Một
nhóm mao mạch bạch huyết sâu dẫn lưu cho các cơ, khớp, phủ tạng và
các cấu trúc nằm trong sâu.
- Hạch bạch huyết nhỏ, tròn, cấu trúc hình hạt đậu, kích cỡ đa dạng
dài từ 1-25 mm, phân bố dọc theo đường đi của mạch bạch huyết. Trong
hạch có chứa bạch huyết, các vi khuẩn và các chất thải ra. Có khoảng
450 hạch bạch huyết được tìm thấy khắp cơ thể.
- Sau khi đi qua các hạch bạch huyết, các mạch bạch huyết hội tụ lại
để tạo thành các mạch lớn hơn gọi là các vòi bạch huyết, mỗi vòi dẫn lưu
cho một phần chủ yếu của cơ thể.
2.2.2.3. Chức năng của bạch huyết
- Chức năng quan trọng của bạch huyết là vận chuyển lipid và
protein. Bạch huyết vận chuyển protein từ mô vào máu, vận chuyển axít
béo và glyxerin từ ruột về tĩnh mạch chủ trên rồi theo máu đổ về tim.
- Tham gia vào quá trình điều hòa lượng nước trong cơ thể và đào
thải một số sản phẩm của quá trình trao đổi chất.
- Thực hiện chức năng miễn dịch, bảo vệ cơ thể. Thu gom các vật lạ,
vi trùng, vi khuẩn trong các tổ chức đưa vào các hạch bạch huyết để làm
nhiệm vụ xử lý, gạn lọc cho máu.
Ở người trưởng thành có chiều dài tim trung bình 10 - 15 cm. Về trọng
lượng, trái tim của nữ là 250 - 300 g, nam là 300 - 350 g. Ở trẻ 11 tuổi trọng
lượng tim 200 - 250 g, cơ tim trẻ càng nhỏ càng yếu, nên trẻ dễ suy tim.
Hằng ngày, tim bơm khoảng 7.600 lít máu (trung bình từ 5 - 30 lít/phút)
vào các mạch máu độ dài tổng cộng gần 100.000 km.
(a) (b)
Hình 2.11. Vị trí (a) và cấu tạo (b) nhìn từ phía ngoài của tim
Tim được bao bọc bởi 1 - Tâm nhĩ phải; 2 - Tâm nhĩ trái; 3 - Tĩnh mạch
chủ trên; 4 - Động mạch chủ;
xoang bao tim. Tim là một khối
5 - Động mạch phổi; 6 - Tĩnh mạch phổi;
cơ rỗng, cấu tạo bằng cơ tim. 7 - Van hai lá; 8 - Van động mạch chủ;
Tim chia thành hai nửa trái và 9 - Tâm thất trái; 10 - Tâm thất phải;
phải nhờ các vách ngăn. Mỗi 11 - Tĩnh mạch chủ dưới;
12 - Van ba lá; 13 - Van động mạch phổi
nửa của tim có hai ngăn: một tâm nhĩ ở trên và một tâm thất ở dưới. Tâm
nhĩ có thành mỏng, chức năng chủ yếu là chứa máu. Tâm thất là khối cơ
lớn, có thành dày, chức năng là đẩy máu vào động mạch. Giữa tâm nhĩ
và tâm thất có van nhĩ thất đảm bảo cho máu chạy theo một chiều từ tâm
nhĩ xuống tâm thất. Giữa tâm nhĩ phải và tâm thất phải có van ba lá, giữa
tâm nhĩ trái và tâm thất trái có van hai lá. Van hai lá chắc chắn hơn van
ba lá, phù hợp với lực co bóp mạnh của tâm thất trái. Van tim có cấu tạo
từ mô liên kết, không có mạch máu, một đầu gắn cố định vào mối lồi cơ
ở thành trong của tâm thất qua các dây chằng, một đầu gắn với bờ ngăn
tâm nhĩ với tâm thất. Giữa tâm thất trái với động mạnh chủ và tâm thất
phải với động mạch phổi có van bán nguyệt (van tổ chim). Van này giúp
cho máu chảy một chiều từ tâm thất lên động mạch chủ, động mạch phổi
và không chảy ngược lại.
Bảng 2.5. Tần số tim của trẻ em Việt Nam lứa tuổi Tiểu học
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập niên 90 - thế kỷ XX” [3])
- Giai đoạn tâm nhĩ thu: Tâm nhĩ thu là cơ tâm nhĩ co, làm giảm áp suất
trong tâm nhĩ cao hơn áp suất trong tâm thất, lúc này van nhĩ thất đang
mở, đẩy nốt lượng máu còn trong tâm nhĩ xuống tâm thất (khoảng 35%
lượng máu từ nhĩ xuống thất trong 1 chu kỳ tim), làm áp suất trong thất
tăng nhẹ. Sau giai đoạn nhĩ thu, tâm nhĩ giãn ra trong suốt thời gian còn
lại của chu kỳ tim (0,7s).
Hình 2.13. Các giai đoạn của một chu kì tim [19]
a- Nhĩ thu; b- Thất thu; c- Tâm trương toàn bộ
- Giai đoạn tâm thất thu: là giai đoạn tâm thất co lại, bắt đầu sau giai
đoạn tâm nhĩ thu. Thời gian thâm thất thu là 0,3 giây, gồm 2 thời kỳ là
thời kỳ tăng áp và thời thì tống máu.
Thời kỳ tăng áp (0,05s): cơ tâm thất co, áp suất trong tâm thất tăng
cao hơn áp suất trong tâm nhĩ làm van nhĩ thất đóng lại và nhô về phía
tâm nhĩ (làm áp suất tâm nhĩ tăng nhẹ). Lúc này thể tích trong tâm thất
không thay đổi (vì các van đang đóng), áp suất tâm thất tăng rất nhanh,
gọi là giai đoạn co cơ đẳng trương vì chiều dài sợi cơ tâm thất không thay
đổi đến khi áp suất trong tâm thất cao hơn động mạch chủ và động mạch
phổi, làm mở van tổ chim và chuyển sang thời kỳ tống máu.
Thời kỳ tống máu (0,25s): máu được tống vào động mạch, tâm thất
tiếp tục co, áp suất tâm thất vẫn tiếp tục tăng, máu vẫn tiếp tục được tống
vào động mạch. Thời kỳ tống máu được chia làm 2 thì:
+ Thì tống máu nhanh (0,09s): 4/5 lượng máu của tâm thất được tống
vào động mạch.
+ Thì tống máu chậm (0,16s): lượng máu tống tiếp vào động mạch.
Trong điều kiện bình thường (lúc nghỉ ngơi), mỗi lần tâm thất thu tống
vào động mạch khoảng 60 – 70 ml máu, thể tích này được gọi là thể tích
tâm thu. Sau thì tâm thất thu, lượng máu còn lại trong thất khoảng 50 ml.
Khi máu được tống vào động mạch, tạo một phản lực làm cho sàn van
nhĩ – thất hạ xuống, tâm nhĩ giãn ra làm áp suất trong tâm nhĩ giảm xuống.
- Giai đoạn tâm trương toàn bộ: Đây là giai đoan cơ tim giãn và nghỉ
toàn bộ để hút máu ở các tĩnh mạch về 2 tâm nhĩ. Lúc này tâm nhĩ vẫn
đang giãn), áp suất trong tâm thất bắt đầu giảm, đến khi nhỏ hơn áp
suất trong động mạch chủ và động mạch phổi, làm van tổ chim đóng lại.
Tâm thất tiếp tục giãn, đây là thời kỳ giãn đẳng tích, thể tích tim không
đổi vì các van đang đóng, áp suất trong tâm thất tiếp tục giảm xuống rất
nhanh, cho đến khi áp suất trong tâm thất thấp hơn áp suất trong tâm nhĩ
làm mở van nhĩ – thất, máu được hút từ tâm nhĩ xuống tâm thất (chiếm
khoảng 65% tổng lượng máu từ nhĩ xuống thất trong 1 chu kỳ tim).
Kết thúc giai đoạn trương tâm toàn bộ, tâm thất tiếp tục giãn thêm
0,1s nữa, trong khi tâm nhĩ bắt đầu co, mở đầu cho chu kỳ tim tiếp theo.
Như vậy, mỗi chu kỳ tim lâu khoảng 0,8 giây, trong đó tim làm việc
nửa thời gian và nghỉ nửa thời gian. Điều hòa hoạt động của tim nhờ cơ
chế điều hòa cơ bản là tự điều hòa theo cơ chế Frank - Starling và điều hòa
theo cơ chế thần kinh và thể dịch. Nhờ đó mà tim có sự thích nghi và đáp
ứng được với những thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể.
- Động mạch: là những mạch dẫn máu từ tim đến các bộ phận tế bào.
Động mạnh có chức năng vận chuyển máu với áp suất cao, do đó thành
động mạnh khỏe, bền để có thể dẫn máu chảy nhanh. Thành động mạch
dày và được cấu tạo gồm ba lớp: lớp trong nằm trong cùng được cấu tạo
bởi các tế bào nội mô dẹt, lớp giữa gồm các sợi cơ trơn và các sợi đàn
hồi, lớp ngoài do các tổ chức liên kết sợi tạo nên. Đặc tính sinh lý của
động mạch là tính đàn hồi và tính co thắt. Nhờ tính đàn hồi mà động
mạch giãn ra trong thời kỳ tâm thu và trở lại trạng thái ban đầu trong
thời kỳ tâm trương. Đồng thời, nhờ tính co thắt mà động mạch có thể
thay đổi tiết diện để điều hòa máu đến các cơ quan theo nhu cầu. Ví dụ:
ở lúc bắc cơ đang vận động, ở thành ống tiêu hóa sau bữa ăn thì các tiểu
động mạnh giãn to, máu đến nhiều.
Động mạch có 2 mạch chính là động mạch chủ và động mạch phổi.
Động mạch chủ dẫn máy đỏ tương từ tâm thất ra đi. Động mạch phổi
dẫn máu đỏ thẫm từ tâm thất phải lên hai phổi.
- Tĩnh mạch: là những mạch dẫn máu từ các cơ quan trở về tim. Nên
máu của tĩnh mạch chạy theo hướng ngược dòng với máu động mạch,
tĩnh mạch càng gần tim thì càng có đường kính lớn. Tĩnh mạch gồm các
tĩnh mạch phổi, tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới. Thành của
tĩnh mạch cũng gồm ba lớp như ở động mạch, nhưng thành động mạch
dày và có độ đàn hồi lớn hơn do lớp giữa dày và chứa nhiều sợi đàn hồi
hơn. Ở tĩnh mạch, lớp trong có các van tĩnh mạch. Đó là những nếp chập
đôi của lớp trong, có tác dụng cho máu chảy theo một chiều.
- Mao mạch: là những mạch rất nhỏ nối giữa động mạch và tĩnh mạch.
Thành mao mạch chỉ có một lớp tế bào nội mô, giữa các tế bào này có
những lỗ nhỏ cho quá trình trao đổi chất giữa các tế bào và máu được
thực hiện. Mao mạch có chức năng quan trọng đó là nơi diễn ra trao đổi
chất giữa máu và dịch kẽ.
lưới mao mạch ở các cơ quan. Ở các mô và tế bào, các tiểu động mạch tiếp
nối với mạng mao mạch, dưỡng chất và khí O2 sẽ trao đổi qua các thành
mỏng của mao mạch. Sau đó, sẽ
thu nhận khí CO2 và các chất thải
vào các tiểu tĩnh mạch, được mang
ra khỏi mô, tập trung vào những
tĩnh mạch chủ trên hoặc tĩnh mạch
chủ dưới về tâm nhĩ phải rồi xuống
tâm thất phải.
Vòng tiểu tuần hoàn (hay
tuần hoàn phổi) mang máu tĩnh
mạch từ tâm thất phải theo động
mạch phổi lên phổi. Ở mao mạch
phổi, khí CO2 được thải ra ngoài
và máu nhận O2 để trở thành máu
động mạch, theo tĩnh mạch phổi
về tâm nhĩ trái rồi đổ vào tâm thất
trái, tiếp đó bắt đầu một chu trình
tương tự qua vòng đại tuần hoàn.
Hình 2.15. Sơ đồ vòng tuần hoàn ở người [19]
Như vậy, hoạt động của tim là
động lực chính của tuần hoàn, tim hút và đẩy máu vào động mạch. Động
mạch và tĩnh mạch dẫn máu đến tổ chức và từ tổ chức về tim. Mao mạch
chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi chất giữa máu và mô.
2.4. Vệ sinh máu và hệ tuần hoàn ở trẻ lứa tuổi Tiểu học
Có nhiều yếu tố có hại cho tim mạch ở trẻ em: ngoài các yếu tố mang tính
bẩm sinh, di truyền... thì những yếu tố khác đều bắt nguồn từ thói quen
sống, sinh hoạt như: chế độ ăn uống không hợp lý, các món ăn nhiều mỡ,
đạm động vật... dẫn đến béo phì; căng thẳng; mất ngủ; lười vận động; sử
dụng các chất kích thích... Ngoài ra, một số virút và vi khuẩn gây hại cho
hệ tuần hoàn như bệnh thấp tim, bệnh cúm, bệnh thương hàn,...
Các biện pháp bảo vệ tránh các tác nhân có hại cho tim mạch như luyện
tập thể dục, thể thao, xoa bóp ngoài da thường xuyên đều có ý nghĩa làm
tăng khả năng hoạt động của tim và hệ mạch. Phụ huynh cần hướng cho
trẻ chế độ ăn uống, sinh hoạt và lối sống lành mạnh. Đồng thời, cho trẻ
kiểm tra sức khỏe định kỳ, phát hiện sớm nhất các biểu hiện của bệnh
tim mạch.
Một số bệnh thường gặp về hệ tuần hoàn ở trẻ lứa tuổi tuổi tiểu học như:
- Bệnh thấp tim:
Thấp tim (còn gọi là thấp khớp cấp hoặc sốt thấp khớp) là một bệnh
viêm khớp và viêm tim do liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A gây ra.
Biểu hiện của bệnh là các hội chứng như: viêm đa khớp, viêm tim, chorea,
hạt dưới da, ban đỏ vòng. Bệnh thường gặp ở trẻ lứa tuổi học đường 6 - 15,
ở Việt Nam tỷ lệ thấp tim ở trẻ em dưới 16 tuổi là 0,45%. Khi bị thấp tim,
tim thường bị viêm một phần hoặc viêm toàn bộ làm tim bị to gây suy
tim, các khớp bị viêm. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện
nay vẫn chưa có vaccine phòng bệnh thấp tim.
Đặc điểm của vi khuẩn liên cầu beta tan huyết nhóm A là rất hay
kháng thuốc nếu dùng một loại thuốc kéo dài nhiều năm. Khuyến cáo
chỉ dùng 2 loại thuốc để phòng bệnh thấp tim tái phát đó là: penicilin (ưu
tiên số 1) và erythromycin (nếu dị ứng với penicilin).
Để phòng bệnh thấp tim ở trẻ nhỏ cần chú ý biện pháp tuyên truyền
để người dân biết lợi ích của việc điều trị viêm họng cho trẻ cũng như hậu
quả tai hại của bệnh van tim đối với trẻ. Phổ biến giáo dục sức khỏe, cho
trẻ giữ vệ sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất. Khi có dấu
hiệu viêm đường hô hấp hoặc biểu hiện đau khớp thì cần đưa ngay trẻ
đến khám tại các cơ sở y tế để điều trị sớm và triệt để.
- Bệnh suy tim trẻ em:
Suy tim làm rối loạn chức năng co bóp của tim dẫn đến tim mất khả
năng cung cấp máu theo nhu cầu của cơ thể. Các nguyên nhân dẫn đến
suy tim bao gồm: Viêm tim toàn bộ do thấp tim, viêm cơ tim, rối loạn
nhịp tim, cường giáp trạng, thiếu vitamin B1, thiếu máu nặng, dò động
mạch - tĩnh mạch… Các triệu chứng của suy tim là khó thở, cơn hen tim,
phù phổi cấp, nhịp tim nhanh, đau tức vùng gan khi gắng sức… Để điều
trị suy tim, trẻ cần được nghỉ ngơi, chăm sóc, dùng các thuốc tăng cường
co bóp cơ tim, lợi tiểu, giãn mạch và điều trị nguyên nhân. Để phòng
suy tim ở trẻ nhỏ cần dự phòng để không xảy ra các bệnh tim mạch như
phòng thấp khớp cấp và phòng nhiễm liên cầu, tránh làm việc quá sức,
nhiễm khuẩn, cảm cúm…
Chương 3
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được cấu tạo và chức phận các cơ quan của hệ
tiêu hóa trẻ em lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được quá trình tiêu hóa và hấp thụ thức ăn trong hệ tiêu hóa.
- Áp dụng những hiểu biết về sinh lý hệ tiêu hóa trong vệ sinh
ăn uống, phòng tránh một số bệnh liên đến tiêu hóa ở trẻ em lứa tuổi
tiểu học.
NỘI DUNG
Các tuyến tiêu hoá gồm: tuyến nước bọt, tuyến gan, tuyến tuỵ và
nhiều tuyến nhỏ nằm trong thành dạ dày và ruột non.
Ống tiêu hóa từ thực quản trở xuống đều có một kiểu cấu tạo chung
nhưng mỗi đoạn lại có những biến đổi về cấu trúc và chức năng gắn liền
với chức năng chuyên biệt của từng đoạn. Thành ống tiêu hóa có cấu tạo
chung gồm các lớp từ trong ra ngoài như sau (Hình 3.2.):
- Lớp niêm mạc (tunica mucosa): là lớp biểu mô, lót ở mặt trong của ống
tiêu hoá có chức năng bảo vệ, tiết dịch và hấp thu. Tùy theo chức năng
khác nhau mà có cấu tạo và hình dạng khác nhau. Ví dụ, ở thực quản nơi
dễ bị nhiệt độ gây tổn thương hay hậu môn nơi dễ bị kích thích bởi phân
nên có cấu tạo là lớp biểu mô lát tầng, trong khi đó dạ dày và ruột non là
biểu mô trụ đơn...
- Tấm dưới niêm mạc (tele submucosa): là mô liên kết lỏng lẻo, trong đó
có các mạch máu, các sợi thần kinh và các mạch bạch huyết.
Giữa lớp niêm mạc và tấm dưới niêm mạc là một lớp mỏng các sợi
cơ trơn tạo thành mảnh cơ niêm mạc (lamina muscularis mucosae). Khi
co rút, cơ niêm mạc có thể làm cho lớp niêm mạc gấp lại thành các nếp.
Trong các tế bào thượng mô của niêm mạc còn có thượng mô biệt
hoá thành các tuyến tiết ra dịch tiêu hoá đổ vào lòng ruột qua các ống
tiết. Có các tuyến đơn giản là tuyến một tế bào (ví dụ tuyến ruột), có
các tuyến phức tạp hơn gồm có nhiều tế bào hoặc có phân nhánh thành
nhiều ống tuyến.
Các đám tổ chức lympho nằm trong lớp niêm mạc gồm một tổ chức
lưới mà trong các mắt lưới có tế bào lympho sinh sản tại chỗ. Ở một
số nơi, tổ chức này hợp thành các hạch gọi là nang thường nằm trong
tấm dưới niêm mạc, hoặc các nang tụ lại thành đám gọi là mảng tổ chức
lympho (có nhiều ở hồi tràng).
- Lớp cơ trơn (tunica muscularis): chia thành hai tầng, tầng ngoài gồm
các sợi cơ dọc và tầng trong là các sợi cơ vòng. Phần trên của thực quản
có các sợi cơ vân phù hợp với chức năng co thắt thật nhanh khi nuốt. Từ
dạ dày đến ruột non, tầng cơ vòng và cơ trơn là một lớp liên tục. Ở ruột
già, các sợi cơ dọc tập trung thành ba dải có thể nhìn thấy khi quan sát
đại thể. Ngoài ra, trong dạ dày còn có lớp cơ trơn thứ ba là lớp cơ xiên.
- Tấm dưới thanh mạc (tela subserosa): Là tổ chức liên kết thưa nằm
giữa lớp cơ bên trong và lớp thanh mạc bên ngoài. Nhờ lớp này mà có thể
bóc thanh mạc dễ dàng ra khỏi các cấu trúc bên dưới.
- Lớp thanh mạc (tunica serosa): Tạo bởi thượng mô dẹt của phúc mạc.
Mặt tự do của thanh mạc có chất thanh dịch làm cho các tạng trượt lên
nhau dễ dàng. Thanh mạc có hai phần: lá phủ thành ổ bụng gọi là phúc
mạc thành, lá phủ các tạng gọi là phúc mạc tạng.
Hình 3.3. Sơ đồ cấu tạo khoang miệng (a) và răng (b) ở người [19]
- Răng: Răng có chức năng cắt, xé và nghiền thức ăn góp phần vào tiêu
hóa ở khoang miệng. Cấu tạo của răng gồm 3 phần: thân răng (vành răng) là
phần ở phía trên lợi, chân răng là phần nằm trong huyệt răng, cổ răng là chỗ
thắt ở giữa có lợi bao quanh. Trên thiết đồ cắt đứng dọc qua một răng gồm
có ba lớp: Lớp trong cùng là tuỷ răng có mạch máu và thần kinh, lớp giữa là
ngà răng (một chất rắn màu vàng); lớp ngoài cùng ở vành răng được bao bọc
bởi tổ chức rắn hơn ngà răng, trong, bóng gọi là men răng. Chân răng được
phủ bởi một chất chắc, màu vàng đục gọi là cement hay xương răng.
Ở trẻ em, răng sữa bắt đầu xuất hiện trong ổ miệng từ 6 tháng đến
2 tuổi, và khoảng 12 tuổi các răng sữa đều đã rụng cùng với sự nhú lên
của răng vĩnh viễn. Số lượng răng sữa là 20 chiếc, công thức răng cho
1/2 hàm là: răng cửa: 2/2; răng nanh: 1/1; răng hàm bé: 2/2.
Ở người lớn, răng vĩnh viễn bắt đầu xuất hiện từ 6 tuổi (độ tuổi bắt
đầu đi học tiểu học) và thay thế toàn bộ răng sữa cho đến 12 tuổi. Răng
vĩnh viễn gồm 32 chiếc, công thức cho 1/2 hàm là: răng cửa: 2/2; răng
nanh: 1/1; răng hàm bé: 2/2; răng hàm lớn: 3/3.
- Lưỡi: cấu tạo bởi một khối cơ vân được bao phủ bởi niêm mạc. Là cơ
quan vị giác và có vai trò quan trọng trong việc nhào trộn, nuốt thức ăn
và nói. Trên mặt và hai bên lưỡi có các gai lưỡi có tác dụng thu nhận các
kích thích về đau đớn và nóng lạnh. Xen kẽ giữa các gai lưỡi có các gai vị
giác có chức năng thu nhận các kích thích về vị giác (Hình 3.4).
Hình 3.4. Các vùng cảm giác trên lưỡi Hình 3.5. Các tuyến nước bọt lớn
- Các tuyến nước bọt: Có nhiều tuyến nước bọt đổ vào khoang miệng
và nằm rải rác khắp niêm mạc của miệng. Trong đó có 3 đôi tuyến lớn
là tuyến nước bọt mang tai, tuyến nước bọt dưới hàm và tuyến nước bọt
dưới lưỡi. Về chất tiết, các tuyến nước bọt chia làm 3 loại tuyến: tuyến
nước - tuyến nước bọt mang tai, tuyến nhầy - tuyến nước bọt dưới lưỡi,
tuyến hỗn hợp - tuyến nước bọt dưới hàm (Hình 3.5).
Khi cắt ngang thì hầu gồm 3 lớp: Lớp trong cùng là lớp niêm mạc
có một tổ chức bạch huyết rất phát triển tạo thành các tuyến hạch hạnh
nhân bao quanh hầu. Lớp giữa là lớp cơ vân gồm cơ nâng hầu (khi co
có tác dụng nâng hầu lên cho động tác nuốt), cơ khít hầu khi co đón và
đẩy thức ăn xuống dưới. Lớp ngoài cùng là tổ chức liên kết.
dạ dày. Lưu ý: miệng thực quản thường đóng kín để không khí không vào
thực quản khi mở, nó chỉ mở ra khi thực quản thực hiện động tác nuốt.
Tâm vị cũng luôn được đóng kín, có thể có thêm một van để ngăn chặn sự
trào ngược của dịch vị. Trong các trường hợp nhược cơ, viêm niêm mạc sẽ
làm các cơ thắt trên không đóng kín thường xuyên và dẫn tới các rối loạn.
Hình 3.9. Cấu tạo lớp niêm mạc dạ dày ở người [19]
Sự điều hoà tiết dịch vị theo cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch. Cơ
chế thần kinh được thực hiện theo 2 loại phản xạ: Phản xạ có điều kiện
do hình dáng, màu sắc, mùi vị thức ăn, khung cảnh bữa ăn… gây tiết
dịch vị. Phản xạ không điều kiện là khi thức ăn tác dụng vào niêm mạc
dạ dày, các thụ quan bị kích thích và xung thần kinh hướng tâm về hành
tuỷ. Xung ly tâm theo dây thần kinh X chạy đến dạ dày, tác động vào đám
rối Meissner và từ các đám rối có các sợi chạy đến tuyến vị gây tiết dịch
vị. Cơ chế thể dịch chủ yếu do tác động của gastrin hoà lẫn vào khối thức
ăn rồi được hấp thụ vào máu trở lại dạ dày kích thích tuyến vị tiết dịch.
Ngoài ra, một số hormone vỏ trên thận cũng làm tăng tiết dịch vị nhưng
không trực tiếp. Prostaglandin là chất do các mô trong cơ thể tiết ra,
có tác dụng giảm tiết dịch vị. Khi căng thẳng thần kinh kéo dài, hormone
vỏ trên thận tiết ra nhiều dẫn đến tăng tiết dịch vị kéo dài, có thể gây loét
dạ dày. Vì vậy, để hoạt động tiêu hóa của trẻ tốt cần tạo ra môi trường
sống vui vẻ, thoải mái trong khi ăn.
ăn sẽ làm trung hoà bớt độ acid của dạ dày, pH tăng, tâm vị đóng lại. Khi
pH trở về bình thường, tâm vị lại mở ra.
Đóng tâm vị giúp thức ăn không bị trào ngược trở lại. Ngược với tâm
vị, môn vị đóng lại khi pH giảm. Mỗi nhịp co bóp của dạ dày sẽ gây áp
lực làm mở môn vị và một lượng thức ăn được đẩy xuống tá tràng. Thức
ăn được đẩy xuống có độ pH thấp hơn so với tá tràng, làm cho pH giảm
và môn vị đóng lại cho đến khi pH ở tá tràng trở về ổn định. Sự đóng môn
vị giúp thức ăn được đi xuống ruột non theo từng đợt một. Do đó, sự tiêu
hoá khói thức ăn ở ruột non được diễn ra tốt hơn là toàn bộ thức ăn được
đẩy xuống ruột non cùng một lúc.
Sự co bóp ở phần thân: Lúc đói hay dạ dày trống rỗng, các đợt co bóp
yếu và thưa. Nhu động dạ dày cử động theo chiều từ trên xuống dưới giúp
thức ăn được chuyển động từ dưới lên trên sát theo thành dạ dày, do đó dễ
thấm dịch vị. Độ axít của dịch vị càng tăng, co bóp càng mạnh. Ở phần thân
dưới của dạ dày co bóp diễn ra mạnh, thức ăn được nghiền nát, nhào trộn
với dịch vị để thành một dịch lỏng gọi là vị trấp hay nhũ trấp, qua môn vị
chuyển xuống tá tràng. Thời gian thức ăn lưu lại ở dạ dày trung bình 6 -7
giờ, tuy nhiên thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào bản chất của chúng,
tuổi, giới tính, hoạt động thể lực, trạng thái sinh tâm lý của cơ thể.
Quá trình tiêu hóa protein trong dạ dày do các enzyme pepsin,
chymosin, gelatiaza và collagenaza thực hiện. Pepsin phân giải protein
thành các chuỗi polipeptit ngắn. Chymosin phân giải sữa, hoạt động tối ưu
ở pH = 4. Nhờ sự có mặt của Ca2+, casein trong sữa được tạo thành caseinat
canxi kết tủa ở dạ dày, phần còn lại được chuyển xuống ruột non để tiêu
hoá tiếp. Tiêu hóa lipid do enzyme lipaza thực hiện phân giải lipid thành
glyxerol và acid béo, nhưng ở trong dạ dày hoạt động của lipaza rất yếu.
Như vậy ở dạ dạ̀y chủ yếu là tiêu hóa protein và lipid, còn tiêu hóa
gluxit với lượng rất nhỏ do enzyme tiêu hóa gluxit của nước bọt đưa
xuống hoặc có sẵn trong thức ăn, nhưng chỉ có tác dụng ở các phần của
thức ăn chưa bị ngấm HCl.
Chất nhày quánh và kiềm tính tạo thành một lớp dày khoảng 1 mm
bao phủ niêm mạc dạ dày để bảo vệ dạ dày cũng như bôi trơn thức ăn. Ở
trẻ em, dạ dày chứa ít enzyme pepsin, độ acid của dạ dày còn thấp nên
không tiêu hóa những thức ăn thô.
Khả năng hấp thu của dạ dày không đáng kể vì bề mặt niêm mạc hẹp
lại không có nhung mao. Một số chất có độ hòa tan trong mỡ cao như rượu
hoặc một số thuốc như aspirin có thể được hấp thu ở dạ dày với số lượng ít.
3.4. Ruột non và các tuyến tiêu hóa lớn (gan và tụy)
3.4.1. Cấu tạo ruột non
Ruột non là đoạn giữa dài nhất ống tiêu hoá, đi từ môn vị tới góc
tá - hỗng tràng. Ở trẻ em, ruột non tương đối dài, gấp khoảng 6 lần chiều
cao cơ thể, còn ở người lớn dài gấp 4 - 5 lần chiều cao của cơ thể. Ruột non
được treo vào thành bụng sau bởi màng treo ruột non trong đó có mạch
máu, thần kinh chạy tới ruột. Màng treo này ở trẻ em dài và rộng nên dễ
bị lồng ruột. Ruột non gồm 3 phần liên tiếp là tá tràng, hỗng tràng và hồi
tràng. Tá tràng là đoạn đầu của ruột non, dài khoảng 25 cm, tại đây ống
mật và tụy đổ vào. Đoạn đầu của tá tràng gọi là hành tá tràng do thường
xuyên chịu sự tấn công của acid dạ dày nên dễ bị loét. Hỗng tràng tiếp
nối với tá tràng và hồi tràng là đoạn cuối cùng của ruột non. Nhưng sự
phân chia thành 2 đoạn như trên chỉ là quy ước và không có 1 ranh giới
giải phẫu nào phân biệt 2 đoạn hồi tràng và hỗng tràng.
Thành ruột non được cấu tạo bởi 4 lớp, ngoài cùng là lớp thanh mạc,
ở giữa là lớp cơ gồm lớp cơ dọc ở ngoài và cơ vòng ở trong, trong cùng
là lớp niêm mạc có nhiều nếp gấp (Hình 3.10). Bề mặt niêm mạc ruột
được bao phủ bởi các lông nhung và vi lông nhung dày đặc làm tăng
cường diện tích bề mặt hấp thu của ruột. Xen kẽ trong lớp lông nhung
là các tuyến tiết chất nhày và dịch ruột. Bên trong các nhung mao có hệ
thống thần kinh, mạch máu, mạch bạch huyết. Ở tá tràng và hỗng tràng
có nhiều nhung mao còn ở hồi tràng thì ít hơn. Giữa các gốc nhung mao
là khe ruột có lỗ mở của các tuyến tiết dịch tiêu hoá và dịch nhầy.
Hình 3.10. Cấu tạo của thành ruột non và nhung mao [19]
Hình 3.11. Cấu tạo của gan, túi mật và tụy [19]
Chức năng của gan là tham gia vào hoạt động tiêu hóa, khử độc,
chuyển hoá glucide, protide, lipid, v.v... Gan được chia thành 2 thùy
chính, thùy phải và thùy trái, thùy phải to hơn thùy trái. Mặt dưới gan có
ba rãnh (1 rãnh ngan và 2 rãnh dọc). Gan ở trẻ em có nhiều mạch máu,
gan dễ phản ứng và to khi trẻ mắc bệnh nhiễm khuẩn máu hoặc nhiễm
độc, thoái hóa mỡ. Gan phát triển nhanh nhất vào giai đoạn tuổi dậy thì.
Thùy phải của gan phát triển nhanh hơn thùy trái.
- Túi mật: Túi mật nằm trong phần trước rãnh dọc phải, là nơi dự trữ
mật. Xen giữa các tế bào gan là những ống dẫn mật nhỏ, dịch mật là sản
phẩm bài tiết của tế bào gan. Sau khi bài tiết, dịch sẽ được cô đọng và dự
trữ trong túi mật. Mật sẽ theo ống dẫn mật đi xuống tá tràng, trộn với
thức ăn và giúp cơ thể nhũ hoá các chất béo. Khả năng sản xuất mật của
những người bị tổn thương gan sẽ giảm dần gây ra trở ngại trong vấn đề
hấp thụ chất mỡ, chất béo và các vitamin tan trong dầu.
- Tụy: hình dài, đầu nhọn nằm lọt vào khung tá tràng. Tụy dài khoảng
18 cm, nặng 80g, gồm 4 phần là đầu tuy, cổ tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở
trẻ em, tụy có trọng lượng 20 g ở trẻ 10 tuổi và 30 g ở trẻ 15 tuổi. Tụy cấu
tạo bởi nhiều thùy lớn, nhỏ cách nhau bằng vách liên kết (nơi chứa mạch
máu, thần kinh và nội tiết). Các ống tiết dịch vào ống tụy nằm dọc trục
của tuyến rồi đổ vào tá tràng cùng chỗ với ống mật chủ.
Chức năng của tụy vừa là tuyến nội tiết vừa là ngoại tiết. Chức năng
nội tiết của tụy là sản xuất insulin và glucagon. Insulin giúp cơ thể hấp
thụ glucose có trong máu, làm giảm lượng đường trong máu và cho phép
các tế bào của cơ thể sử dụng glucose cho năng lượng. Chức năng ngoại
tiết của tuyến tuỵ là sản xuất và tiết các dịch tiêu hoá. Sau khi thức ăn vào
dạ dày, các enzyme tiêu hoá được gọi là dịch tuỵ đi qua nhiều ống dẫn
nhỏ để đến ống tuỵ chính và sau đó đến ống dẫn mật. Ống mật lấy dịch
vào túi mật, trộn với mật để hỗ trợ tiêu hoá.
liên tục. Lớp cơ dọc thay nhau co giãn làm các đoạn ruột trườn đi trườn
lại. Làm thức ăn được đảo trộn, tránh ứ đọng, ngấm đều dịch tiêu hoá,
tăng cường tốc độ chuyển
hoá. Từng đoạn ruột co
thắt lại làm giảm tiết diện
đoạn ruột. Nhu động ruột
cử động nhịp nhàng lan
truyền từ phía trên xuống
ruột già. Giúp đẩy liên tục
thức ăn từ trên (dạ dày)
xuống dưới (ruột già), làm
quá trình hấp thụ thức ăn
dễ dàng hơn. Khi bị ngộ
độc, cử động này tăng
mạnh có thể gây ỉa chảy.
Cử động nhu động còn
giúp thức ăn được đẩy
ngược lại giúp tiêu hoá và Hình 3.12. Sơ đồ cử động cơ học của ruột non [19]
hấp thụ triệt để hơn. Khi bị
nôn, cử động này tăng mạnh ở tất cả các đoạn của ống tiêu hoá, tống
thức ăn ra ngoài miệng.
Điều hoà các cử động tăng do sự điều khiển từ phân hệ phó giao cảm
(dây thần kinh X) và đám rối Auerbach và một số hormone đường tiêu
hoá, axetylcolin. Ngược lại adrenalin và phân hệ giao cảm làm giảm các
cử động này.
thích hợp làm tăng cường khả năng hoạt động của các enzyme trong dịch
tụy và dịch ruột. Mật có tác dụng nhũ tương hóa lipid thành các giọt cực
nhỏ với đường kính 0,5 µm, tạo điều kiện cho các enzyme tiêu hóa tác
động và hấp thu được.
Tiêu hoá protein: Các men tiêu hoá protein của dịch tuỵ khi mới sản xuất
đều ở dạng tiền enzyme chưa hoạt động là trypsinogen, chymotripsinogen,
procarboxypeptidase. Khi tới tá tràng, nhờ sự tác động của entrokinase
(một men của ruột), trypsinogen được biến thành trypsin hoạt động.
Ngay sau đó trypsin lại tác động lên các men khác: chymotrypsinogen,
procarboxypeptidase và kinanogen biến chúng thành các men hoạt động.
Các men tiêu hoá protid của dịch tuỵ có hoạt tính mạnh, chúng phân
cắt 60-80% protein thành các đoạn peptid ngắn và axit amin. Đồng thời
dịch ruột có các enzyme amiopeptitdaza, iminopeptitdaza, tripeptitdaza
và dipeptitdaza, phối hợp với nhau và với dịch tụy để phân giải protein
thành acid amin.
Hình 3.13. Biến đổi hóa học thức ăn ở ruột non [19]
Tiêu hóa lipid: Ở ruột nhờ có dịch mật, dịch ruột, tất cả các chất lipid
thức ăn đều được nhũ hoá, các enzyme tụy có thể thuỷ phân tới 95%
lượng lipid thức ăn các dạng đơn giản. Trong đó, lipase thuỷ phân gần
toàn bộ lipid đã nhũ hoá thành monoglycerid, glycerol và acid béo. Tuỵ
bài tiết prophospholipase vào trong ruột non và được enzyme trypsin
hoạt hoá thành phospholipase phân giải photpholipit thành photphat và
diglixerit. Cholesterolesterase thuỷ phân cholesteroleste và các steroid
thành cholesterol tự do, acid béo và sterol. Kết hợp với các enzyme do
dịch ruột tiết ra là lipaza, photpholipaza, cholesterol esteraza phân giải
nốt các lipid còn sót lại chưa được phân giải hết.
Tiêu hóa gluxit: Các enzyme tiêu hoá gluxit của tuỵ hoạt tính rất mạnh,
thuỷ phân tới 80% lượng gluxit thức ăn. Enzyme amylase tuỵ thuỷ phân
cả tinh bột chín và sống thành dextrin, maltose. Enzyme maltase biến
maltriose và maltose thành glucose. Đồng thời, dịch ruột cũng có các enzyme
mantaza và amylaza có tác dụng giống với của dịch tuỵ. Ngoài ra còn
có saccaraza phân giải saccarozơ thành glucozơ và fructozơ. Photphataza tách
các nhóm phôtphat của chất vô cơ và hữu cơ. Enterokinaza có tác dụng hoạt
hoá trypsinogen thành dạng trypsin hoạt động.
* Hấp thu dinh dưỡng ở ruột
non: Niêm mạc ruột non có cấu
trúc đặc biệt tạo nên diện tích hấp
thu rất lớn. Các chất dinh dưỡng
ở ruột non, qua quá trình tiêu hoá
đã sẵn sàng ở dạng hấp thu được.
Chính nhờ sự hấp thu ở ruột non
mà cơ thể nhận được các chất dinh
dưỡng cần thiết đáp ứng cho hoạt Hình 3.14. Sơ đồ hấp thụ acid amin [19]
động sống của mình.
Hấp thu các chất dinh dưỡng qua ruột nhờ 2 cơ chế chủ đạo: Vận
chuyển thụ động gồm khuếch tán đơn thuần, khuếch tán có chất mang và
siêu lọc. Vận chuyển tích cực thuộc loại vận chuyển tích cực thứ phát, cần
sự có mặt của ion Na+. Ngoài ta còn có thực bào (phagocytose), ẩm bào
(pinocytose)... Nhiều chất được hấp thu nhờ sự kết hợp của các cơ chế trên.
Từ niêm mạc ruột non, các chất được hấp thu theo hai đường:
- Đường tĩnh mạch: Nước, acid amin, monosaccarid, 30% glycerol và
acid béo mạch ngắn sau khi hấp thu sẽ vào mao mạch ở nhung mao. Các
mao mạch này gom lại thành các tiểu tĩnh mạch rồi tập trung lại theo tĩnh
mạch chủ về gan. Ở gan, các chất qua quá trình chuyển hoá phức tạp, rồi
theo tĩnh mạch trên đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.
- Đường bạch huyết: Khoảng 70% các sản phẩm thuỷ phân lipid và các
vitamin tan trong dầu, sau khi hấp thu qua tế bào niêm mạc ruột vào mao
bạch mạch ở nhung mao, rồi gom về các hạch bạch huyết ở thành ruột, rồi
đổ về bể Pecquet, từ đây, chúng đi theo ống ngực, đổ vào tĩnh mạch dưới
đòn trái vào tuần hoàn chung.
Hình 3.15. Sơ đồ sự hấp thụ Hình 3.16. Sơ đồ sự hấp thụ của lipid [19]
của monosaccharid [19]
ruột non hấp thụ, giải phóng các khí CO2, CH4, H2S,… và các chất độc
như indol, scatol, mercaptan làm cho phân có mùi thối. Ở ruột già chỉ có
cử động nhu động và phản nhu động. Cử động nhu động không mạnh,
mỗi ngày chỉ có 1 hoặc 2 cử động nhu động mạnh để dồn chất bã xuống
trực tràng. Cử động phản nhu động mạnh hơn, giúp các chất bã lưu lại
trong ruột già.
Sự thải phân: Sau khi được hấp thụ nước, các chất cặn bã còn lại
cô đặc tạo thành phân và thải ra ngoài qua hậu môn. Do các chất dinh
dưỡng được hấp thụ từ 80 ~ 100% nên trong phân còn rất ít chất dinh
dưỡng không được hấp thụ. Phân chứa khoảng 60% nước, còn lại là các
mảnh vụn tế bào niêm mạc ống tiêu hoá và xác vi sinh vật. Thải phân
qua động tác đại tiện là phản xạ không điều kiện gây co bóp cơ trơn trực
tràng và mở cơ thắt hậu môn. Trong ngày, có một vài cử động nhu động
mạnh ở ruột già làm một lượng phân tích tụ ở trực tràng gây áp lực lên
niêm mạc ở đây, kích thích lớp niêm mạc, thông qua cơ chế thần kinh sẽ
xảy ra phản xạ đại tiện.
Ở hậu môn, có 2 vòng cơ thắt là cơ trơn và cơ vân. Do đó, cơ thể có
thể kìm hãm phản xạ đại tiện
bằng cách co vòng cơ vân lại,
đóng chặt hậu môn. Sau một
vài lần trực tràng co mà phản
xạ không xảy ra, các cử động
phản nhu động lại dồn phân
lên khiến cho trực tràng không
còn bị kích thích và cũng mất
đi cảm giác muốn đại tiện. Nếu
phản xạ đại tiện bị kìm hãm Hình 3.18. Sơ đồ các phản xạ
của kết tràng và trực tràng
lâu dài sẽ dẫn đến táo bón.
3.6. Vệ sinh hệ tiêu hóa của trẻ em lứa tuổi Tiểu học
* Các tác nhân gây hại:
Hệ tiêu hóa của trẻ hoạt động tốt giúp trẻ ăn ngon, ăn khỏe và phát
triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Nhưng hệ tiêu hóa dễ chịu tác
động của các tác nhân có hại như:
- Các virut, vi khuẩn, các chất độc hại, thực phẩm không an toàn,
thức ăn không đảm bảo vệ sinh và chế độ ăn uống không khoa học... làm
cho hệ tiêu hóa dễ bị nhiễm bệnh như sâu răng, viêm họng, rối loại tiêu
hóa, táo bón, tiêu chảy cấp, giun sán...
- Trẻ bị căng thẳng, vừa ăn vừa xem ti vi, bị biến chứng từ các bệnh khác.
* Biện pháp giữ vệ sinh:
Để giúp cho trẻ có một hệ tiêu hóa khỏe mạnh chúng ta phải thực
hiện các biện pháp sau:
- Vệ sinh răng miệng đúng cách.
- Thực phẩm phải an toàn và hợp vệ sinh, không nên ăn các thực
phẩm quá chua, cay...
- Thực hiện khẩu phần ăn cân đối hợp lý, đảm bảo đủ dinh dưỡng
phù hợp với hệ tiêu hóa của trẻ.
- Ăn uống hợp vệ sinh và đúng cách: rửa tay trước khi ăn bằng xà
phòng và nước sạch, ăn chín uống sôi,... giúp trẻ đề phòng được nhiều
bệnh đường ruột như đau bụng, ỉa chảy, giun sán. Trẻ cần ăn chậm nhai
kỹ, ăn đúng giờ, đúng bữa; tạo bầu không khí thoải mái khi ăn; cần nghỉ
ngơi hợp lý sau khi ăn để sự tiêu hóa được hiệu quả.
- Nên tẩy giun 6 tháng một lần cho trẻ theo chỉ dẫn của bác sĩ.
* Bệnh thường gặp về tiêu hóa ở trẻ lứa tuổi tiểu học:
- Táo bón: Sự vận động chậm chạp của phân qua ruột già, thường
kèm theo sự tích luỹ một lượng lớn phân khô và rắn ở kết tràng ngang.
Có nhiều nguyên nhân như: ăn uống không khoa học (ít chất xơ), thói
quen ức chế phản xạ đại tiện, căng thẳng thần kinh, lười vận động... Để
phòng ngừa bệnh táo bón, cần lưu ý tăng cường lượng rau xanh, các loại
quả trong mỗi bữa ăn. Hạn chế tối đa các loại rượu, bia, đồ ăn nhanh, đồ
đóng hộp, các gia vị cay, nóng. Không nên ngồi lâu mỗi lần đi ngoài và
cũng không nên ngồi lâu một chỗ. Nên duy trì tập thể dục thể thao điều
độ tùy theo sức của mình hằng ngày.
- Tiêu chảy cấp: Tiêu chảy là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật
và tử vong cho trẻ em các nước đang phát triển. Tiểu chảy cấp là sự
vận động quá nhanh của phân trong ruột già. Nguyên nhân chủ yếu do
nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, ký sinh trùng, virút, dị ứng thức ăn. Tiêu
chảy cấp dẫn đến mất nước, Na+, K+ và các chất điện giải. Do đó, cách đề
phòng tử vong tốt nhất đối với trẻ bị tiêu chảy là không để trẻ mất nước
nặng bằng cách bổ sung nước và điện giải cho trẻ ngay từ khi bắt đầu tiêu
chảy (nghĩa là trẻ đại tiện và nôn ra bao nhiêu nước thì phải bù vào bấy
nhiêu), bằng cách uống dung dịch Oresol. Khi cho trẻ uống phải theo dõi
diễn biến của bệnh và đưa trẻ đến cơ sở y tế.
Để phòng bệnh tiêu chảy cấp cho trẻ cần: Nâng cao sức đề kháng cho
trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ. Vệ sinh ăn uống, tiêm phòng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, sử dụng nguồn nước sạch, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường,…
- Bệnh giun: Hiện nay ở nước ta tỷ lệ nhiễm giun và mắc các bệnh
giun khá cao. Nguyên nhân là do trình trạng ô nhiễm đất, nước, tập quán
ăn, uống thiếu vệ sinh. Tình trạng nhiễm giun ảnh hưởng lớn tới tỷ lệ
suy dinh dưỡng ở trẻ em và gây ra các biến chứng nặng nề do giun.
Triệu chứng của bệnh giun là đau bụng, rối loạn tiêu hóa, nôn, phân chứa
nhiều trứng giun, ngứa hậu môn, trẻ hay quấy khóc… Để phòng bệnh
giun cần xử lý phân đúng cách, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường sống,
tẩy giun định kỳ 6 tháng/ lần.
Chương 4
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được đặc điểm cấu tạo và chức phận của hệ hô
hấp trong quá trình phát triển của trẻ em lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được hoạt động sinh lý của hệ hô hấp trẻ em.
- Hiểu được nguyên nhân, biện pháp để vệ sinh hệ hô hấp và phòng
tránh một số bệnh thường gặp về hô hấp ở trẻ.
- Áp dụng những hiểu biết về sinh lý hô hấp trong giáo dục, chăm
sóc trẻ lứa tuổi tiểu học.
NỘI DUNG
ta thở khoảng 25,000 lần và cho đến lúc 70 tuổi, chúng ta có thể thở đến
600 triệu lần.
Ở trẻ em, sự phát triển và trưởng thành của phổi tuân theo 3 luật
phát triển của Reid.
- Cây phế quản được phát triển đầy đủ vào lúc thai 16 tuần tuổi.
- Phế nang phát triển sau sinh, tăng sinh về số lượng đến 8 tuổi, sau
đó tăng về kích thước cho đến khi hình thành ngực và ngừng phát triển
ở tuổi trưởng thành.
- Các mạch máu nuôi dưỡng các đường dẫn khí phát triển song song
với sự phát triển các đường thở và các động mạch túi nang phát triển
song song với sự phát triển các phế nang.
4.2.1. Mũi
Mũi có nhiệm vụ dẫn khí, sưởi ấm và làm sạch luồng không khí đi
qua mũi. Mũi còn là cơ quan khứu giác và tham gia vào việc phát âm,
cùng với các xoang xương đổ vào mũi là các vòm cộng hưởng âm thanh.
Về cấu tạo giải phẫu: có 2 hố mũi, ngăn cách nhau ở giữa bởi vách
mũi giữa, mỗi hố mũi đều có 4 thành do các xương tạo thành và 2 lỗ mũi
trước, sau. Mũi được lót một lớp niêm mạc có chứa rất nhiều mao mạch,
lông và tuyến nhầy làm cho không khí đi qua xoang mũi được sưởi ấm,
làm ẩm và được lọc sạch trước khi đi vào phổi. Niêm mạc mũi liên tiếp
với niêm mạc lót mặt trong các xoang. Mũi gồm 3 phần: mũi ngoài, ổ mũi
và các xoang cạnh mũi.
Ở trẻ, mũi và khoang hầu ngắn và nhỏ, lỗ mũi và ống mũi hẹp làm
cho sự hô hấp bằng đường mũi bị hạn chế và dễ bị bít tắc. Niêm mạc
mũi mỏng nên khả năng bảo vệ của niêm mạc mũi ở trẻ nhỏ còn yếu
do khả năng sát trùng của niêm mạc còn kém, vì vậy trẻ dễ bị viêm
nhiễm mũi họng. Tổ chức hang và cuộn mạch ở niêm mạc mũi của trẻ
chủ yếu phát triển từ 5 tuổi đến tuổi dậy thì, do đó trẻ dưới 5 tuổi ít
bị chảy máu cam.
sự phát triển thanh quản của các em khác nhau, giọng nói của nam trở
nên vang trầm, còn nữ trở nên cao và trong.
4.2.4. Phổi
Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, nơi trao đổi khí giữa cơ thể và
môi trường. Phổi có hình nón cụt có 3 mặt (mặt ngoài, mặt trong, mặt
hoành), 3 bờ (bờ trước, bờ dưới và bờ sau) và một đỉnh. Phổi nằm trong
lồng ngực, gồm lá phổi phải và trái nằm hai bên trung thất. Phổi phải và
phổi trái không giống nhau về hình thể và kích thước. Phổi phải ngắn
và rộng hơn; phổi trái dài và hẹp hơn. Phổi trái có một rãnh (khe) chếch
từ trên xuống dưới, từ sau ra trước chia nó ra làm hai thuỳ trên và dưới.
Phổi phải cũng có một khe chạy giống như phổi trái và một khe chạy
ngang từ giữa của khe này, ra trước dọc bờ sụn sườn VI, chia phổi phải ra
3 thuỳ là thùy trên, giữa và dưới.
Bao phủ mỗi lá phổi là màng phổi. Giữa hai lá phổi là xoang màng
phổi, hai bên phải và trái riêng biệt nhau. Màng phổi gồm có hai lá: lá
thành dính vào mặt trong thành lồng ngực và lá tạng dính vào mặt ngoài
của phổi, giữa hai lá có lớp dịch trơn có tác dụng làm giảm ma sát ki
chusg trượt lên nhau lúc thở. Bình thường hai lá của màng phổi áp sát
vào nhau và chỉ tách xa nhau khi có dịch (tràn dịch màng phổi) hoặc khí
(tràn khí màng phổi) tràn vào. Màng phổi ở trẻ em dễ bị giãn khi hít vào
sâu hoặc khi tràn dịch, tràn khí màng phổi.
Phế nang là đơn vị cấu tạo cuối cùng của phổi và nó là đơn vị chức
năng thực hiện quá trình trao đổi khí. Phế nang xếp thành từng chùm
như những chùm nho. Phế nang có thành mỏng đàn hồi được, bao bọc
bởi hệ thống mao mạch dầy đặc đảm bảo cho quá trình trao đổi khí ở
phổi. Số lượng phế nang tăng dần theo tuổi, ở trẻ sơ sinh là 30 triệu, đến
8 tuổi là 300 triệu và người lớn là 600 - 700 triệu.
Bảng 4.1. Trọng lượng phổi (theo gam) của trẻ lứa tuổi tiểu học
(Theo “Hằng số sinh học người Việt Nam”, 1975 [3])
Nam Nữ
Tuổi
Toàn phổi Phổi phải Phổi trái Toàn phổi Phổi phải Phổi trái
6-10 390 210 180 325 175 150
10-15 695 370 325 580 315 265
Ở trẻ em, khối lượng, kích thước của phổi tăng dần theo tuổi (bảng 4.1).
Phổi của trẻ em có nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và sợi cơ nhãn. Vì
vậy, phổi trẻ em có khả năng co bóp lớn và tái hấp thu các chất dịch trong
phế nang nhanh chóng. Tuy nhiên, xung quanh các phế nang và thành
mao mạch phế nang của trẻ có ít tổ chức đàn hồi, các cơ quan ở lồng ngực
cũng chưa phát triển đầy đủ nên lồng ngực di động kém, trẻ dễ bị xẹp
phổi, giãn phế nang.
lồng ngực thay đổi thể tích khoảng 400 - 500 cm3. Do kích thước lồng
ngực tăng kéo theo dung tích lồng ngực tăng lên làm cho áp suất âm
trong khoang màng phổi càng âm hơn, kéo phổi giãn ra theo lồng ngực,
áp suất không khí ở phế nang thấp hơn áp suất ở khí quyển và không
khí từ ngoài tràn vào phổi. Cơ hoành là cơ hô hấp quan trọng, nếu cơ
hoành bị liệt sẽ gây rối loạn hô hấp. Động tác hít vào là động tác chủ
động vì đòi hỏi co cơ nên tiêu tốn năng lượng của cơ thể.
Như vậy, động tác hít vào dẫn đến kế quả là không khí di chuyển
từ ngoài môi trường vào phổi đến tận các phế nang.
Hình 4.7. Sơ đồ động tác hít vào bình thường và hít vào gắng sức [19]
Khi hít vào gắng sức có thêm một số cơ nữa tham gia như: cơ ức đòn
chũm, cơ ngực, cơ chéo. Các cơ này bình thường tỳ vào bộ phận tương
đối bất động là lồng ngực để làm cử động đầu và tay. Khi hít vào gắng
sức, đầu và tay trở thành điểm tỳ và cơ co sẽ nâng xương sườn lên thêm
nữa; đường kính của lồng ngực tăng, phổi giãn ra nhiều hơn và khí vào
phổi nhiều hơn. Trong động tác hít vào gắng sức, cơ hoàng hạ thấp hơn
so với hít vào thông thường, có thể hạ thấp tới 7 – 8 cm, có thể làm tăng
thể tích lồng ngực lên tới 1500 – 2000 cm3. Kết quả của động tác hít vào
gắng ức là không khí di chuyển thêm vào phổi khoảng 1500 – 2000 ml.
Động tác hít vào tối đa là động tác chủ động.
- Động tác thở ra:
Thở ra thông thường: Cuối thì hít vào, các cơ hít vào giãn ra làm các
xương sườn hạ xuống, cơ hoành lồi lên phía lồng ngực, thể tích của lồng
ngực giảm đi, áp suất màng phổi bớt âm. Kết quả là phổi co lại, dung tích
phổi giảm, áp suất trong phế nang cao hơn áp suất khí quyển nên có tác
dụng đẩy không khí từ phổi ra ngoài môi trường. Động tác thở ra thông
thường là động tác thụ động vì không đòi hỏi năng lượng co cơ.
Hình 4.8. Sơ đồ động tác thở ra bình thường và thở ra gắng sức [19]
Thở ra gắng sức: Thở ra gắng sức là động tác chủ động vì cần co thêm
một số cơ chủ yếu là cơ thành bụng. Những cơ này co sẽ kéo các xương
sườn xuống thấp nữa, đồng thời ép vào các tạng ở bụng, đẩy cơ hoành
lồi lên thêm về phía lồng ngực làm dung tích lồng ngực giảm thêm, dung
tích phổi cũng giảm thêm, áp suất phế nang tăng cao hơn nữa nên không
khí ra ngoài nhiều hơn.
khuyếch tán cho đến khi đạt cân bằng phân áp giữa phế nang và máu.
Trong 100 ml máu chứa khoảng 20 ml O2, máu trở thành máu động mạch
có mầu đỏ tươi, đổ về tim và được bơm vào vòng đại tuần hoàn để đi đến
các mô.
Trao đổi khí ở mô: Phân áp O2 trong tế bào rất thấp , trong dịch gian
bào phân áp O2 là khoảng 20 – 40 mmHg. Máu đỏ đến hệ thống mao mạch
mô có phân áp O2 là 100 mmHg. Oxy từ máu khuyếch tán qua màng mao
mạch và dịch gian bào rồi qua màng tế bào vào trong các tế bào. Ngược
lại, phân áp CO2 trong các tế bào là 60 mmHg, trong dịch gian bào là 46
mmHg nên CO2 khuyếch tán từ tế bào ra dịch gian bào rồi vào máu. Sự
khuyếch tán xảy ra cho đến khi đạt cân bằng phân áp O2 và CO2 giữa
máu và dịch gian bào. Phân áp trong máu tính mạch là 40 mmHg, phân
áp CO2 là 46mmHg.
Ở trẻ, nhịp thở tăng dần lên và dài hơn, lượng khí vào tăng dần
theo độ tuổi. Lượng khí thở vào trong một lần thở ở trẻ 8 tuổi là 170 ml,
14 tuổi là 300 ml và ở người lớn là 500 ml. Nhưng tần số thở bình thường
lại giảm dần theo tuổi: 6 tuổi là 20 - 25 lần/ phút, 15 tuổi là 18 - 20 lần/phút,
người lớn là 15 - 16 lần/ phút. Kiểu thở của trẻ cũng thay đổi theo tuổi và
giới tính, ví dụ: trẻ 10 tuổi, bé trai thở chủ yếu bằng bụng, bé gái thở chủ
yếu bằng ngực.
4.4. Vệ sinh hệ hô hấp ở trẻ em lứa tuổi Tiểu học
* Các tác nhân gây hại:
- Một số virut, vi khuẩn là nguyên nhân qua trọng gây ra các bệnh
về hô hấp như viêm mũi, viêm xoang, viêm họng, viêm AV, viêm phổi...
- Môi trường không khí bị ô nhiễm, có nhiều hóa chất độc hại, khói
thuốc lá, khí thải từ phương tiện giao thông, khói bếp than... có thể làm
cản trở trao đổi khí, nếu liều lượng cao có thể tử vong và mắc các bệnh
về hô hấp.
* Biện pháp bảo vệ hệ hô hấp: Thực hiện vệ sinh hô hấp cho trẻ là điều
quan trọng nhằm nâng cao sức khỏe và phòng tránh các bệnh.
- Luyện tập thể dục thể thao thường xuyên nhằm nâng cao thể tích
lồng ngực, tạo nhịp thở đều và đúng.
- Vệ sinh mũi và họng, vệ sinh răng miệng hằng ngày.
- Duy trì không khí sạch và trong lành, tránh khói thuốc lá, đeo khẩu
trang cho trẻ khi đi ra đường để hạn chế hít phải nhiều khói bụi, các dị
nguyên, vi sinh vật.
- Cần giữ ấm cho trẻ vào mùa đông, tránh những thay đổi đột ngột
về nhiệt độ như ăn kem, uống nước lạnh...
- Khi trẻ bị các bệnh về hô hấp, để đề phòng các biến chứng về hô hấp
và khả năng lây lan trong cộng đồng, cần đưa trẻ vào bệnh viện.
Câu 5. Quá trình hô hấp gồm những giai đoạn chủ yếu nào? Phân
tích được mối liên hệ giữa trao đổi khí ở phổi và trao đổi khí ở tế bào.
Câu 6. Khi lao động nặng hay chơi thể thao nhu cầu trao đổi khí của
cơ thể tăng cao, hoạt động hô hấp của cơ thể có thể biến đổi như thế nào
để đáp ứng nhu cầu đó?
Câu 7.
Chỉ trong vòng 5 ngày, từ ngày 23/1 đến nay đã ghi nhận 5 ca tử vong liên
quan đến sưởi ấm bằng than trong nhà, trong cabin ô tô. Mới đây nhất, tại xã
Diễn Mỹ (Diễn Châu, Nghệ An), 2 vợ chồng anh Vũ Văn Hà và vợ Nguyễn Thị
Hoa (sinh năm 1985, trú tại xã Diễn Mỹ, Diễn Châu) cùng con trai mới sinh
được gần 2 tháng tuổi ngất xỉu trong phòng ngủ sưởi bằng củi gỗ. Dù được đưa
đi cấp cứu nhưng em bé đã tử vong. Đây là ca tử vong thứ 2 tại Nghệ An vì ngạt
khí CO vì đốt than củi sưởi ấm.
(trích từ báo điện tử dantri.com)
Nghiên cứu đoạn thông tin trên. Hãy:
1. Giải thích và cho biết nguyên nhân dẫn đến sự việc đáng tiếc trên?
2. Đề xuất một số giải pháp để sưởi ấm an toàn bằng than.
Chương 5
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu được vai trò của trao đổi chất và năng lượng đối với hoạt động
của cơ thể trẻ lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được quá trình chuyển hóa các chất và quá trình trao đổi
năng lượng của cơ thể.
- Vận dụng kiến thức về trao đổi chất năng lượng trong thực hiện chế
độ dinh dưỡng của trẻ độ tuổi tiểu học và việc phòng tránh một số bệnh
như béo phì và suy dinh dưỡng ở trẻ.
NỘI DUNG
5.1. Khái quát về trao đổi chất và năng lượng
Trao đổi chất và năng lượng là đặc trưng cơ bản của cơ thể sống. Đặc
điểm của quá trình trao đổi chất và năng lượng là quá trình oxy hóa - khử
trong cơ thể. Trao đổi chất và năng lượng là tập hợp tất cả các phản ứng hóa
học diễn ra trong cơ thể sống thể hiện ở hai quá trình đồng hóa và dị hóa.
Ðồng hoá là tổng hợp những chất sống đặc trưng từ những chất dinh
dưỡng được hấp thu, hoặc từ các sản phẩm phân hủy của các chất sống.
Quá trình này tích luỹ năng lượng.
Dị hoá là quá trình phân giải một phần chất sống, thu hồi năng lượng
trong các liên kết hoá học để sinh công hoặc để tổng hợp chất mới. Trong
quá trình này năng lượng hóa học được giải phóng.
Ðồng hoá và dị hoá là hai quá trình đối lập nhưng diễn ra song song,
liên tục và thống nhất biện chứng với nhau trong mọi hoạt động.
Chức năng của trao đổi chất và năng lượng là kiến tạo và cung cấp
năng lượng cho cơ thể. Kiến tạo là quá trình xây dựng và đổi mới chất
sống. Cơ thể đang lớn hoặc đang phục hồi sau tổn thương, đau ốm, khi
đói, khi đó đồng hoá vượt dị hoá, cơ thể lên cân. Khi cơ thể không thay
đổi trọng lượng, đồng hoá cân bằng với dị hoá, lúc này chỉ đổi mới chất
sống. Khi cơ thể về già hoặc đang sút cân, lúc này dị hoá vượt đồng hoá,
cơ thể xuống cân. Cung cấp năng lượng nhờ quá trình phân hủy chất
sống đồng thời giải phóng năng lượng để tiêu dùng trong việc tạo chất
sống mới hoặc sinh công cho các hoạt động sống. Do đó, tạo tiền đề để cơ
thể sinh trưởng, phát triển, sinh sản,… và sinh sống được bình thường.
Hình 5.1. Sơ đồ chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào cơ thể [19]
cao quá mà gan không chuyển hoá kịp thì lượng đường nhất thời sẽ thải
ra ngoài theo nước tiểu.
- Cơ chế thần kinh do não thất IV và vùng dưới đồi.
- Cơ thế thể dịch điều hòa nhờ hệ thống các hormone tăng, hạ đường
huyết của các tuyến trên thận, tuyến tụy, tuyến giáp và tuyến yên. Ví dụ,
khi nồng độ glucose trong máu tăng, tuyến tuỵ tiết ra insulin làm tăng
tính thấm với glucose vào gan và cơ, gây hạ đường huyết. Khi nồng độ
glucose trong máu giảm, tuyến trên thận tiết cortisol làm giảm sử dụng
glucose, gây tăng đường huyết.
Hình 5.2. Sơ đồ chuyển hoá glucid, lipid và protein trong cơ thể
- Là nguồn năng lượng dự trữ lớn nhất trong cơ thể. Dạng dự trữ
là triglycerid (mỡ trung tính) tại mô mỡ. Mô mỡ chiếm khoảng 15-20 %
trọng lượng cơ thể ở người trưởng thành. Nếu cơ thể tích trữ quá nhiều
lipid sẽ bị béo phì. Với khẩu phần ăn hợp lý, lipid tham gia cung cấp
25-30 % năng lượng cơ thể.
Nhu cầu của lipid phụ thuộc theo tuổi, tính chất lao động, đặc điểm
dân tộc và khí hậu. Lipid được cung cấp cho cơ thể từ nguồn thức ăn như
mỡ động vật, dầu thực vật. Theo khuyến cáo của các chuyên gia dinh
dưỡng thì nên kết hợp cả lipid có nguồn gốc động vật và thực vật trong
bữa ăn của trẻ theo tỷ lệ 1:1.
Trong ống tiêu hoá, lipid trong thức ăn được phân giải thành glyxêrin
và acid béo. Khi vào đến ruột được tổng hợp thành lipid trung tính, phần
lớn được hấp thụ vào ống bạch huyết (70%). Phần còn lại chuyển vào
máu, sau đó được sử dụng hoặc dự trữ ở dưới da, khoang bụng, xung
quanh nội tạng, mô liên kết. Lượng dự trữ này phụ thuộc vào chủng tộc,
lứa tuổi, giới tính, sức khỏe… Đại bộ phận lipid trong cơ thể là do glucid,
proten tạo thành. Khi cơ thể hoạt động nặng nhọc, khẩn trương thì một
phần lipid tại các mô được huy động và phân giải thành glyxêrin và acid
béo để đưa về gan tham gia phản ứng oxy hoá (quá trình dị hoá).
Trung khu điều hòa chuyển hóa lipid nằm ở vùng dưới đồi. Hormone
của tuyến yến, tuyến giáp, tuyến tụy, tuyến trên thận, tuyến sinh dục có
tác dụng đến quá trình chuyển hóa lipid.
Protein là thành phần cơ bản của vật chất sống, nó có vai trò sau: là
nguyên liệu để cấu tạo nên tế bào của cơ thể; điều hòa quá trình chuyển
hoá của các chất; là thành phần cấu trúc của các enzyme, nội tiết tố, kháng
thể và các hợp chất khác trong cơ thể; là nguồn cung cấp năng lượng cho
cơ thể, 1gam protein khi oxy hóa hoàn toàn trong cơ thể cung cấp 4 Kcal.
Có thể nói rằng nếu khong có các chất protein thì không có sự sống của
mọi sinh vật.
Protein cung cấp 12% - 15% tổng năng lượng của tất cả các chất trong
khẩu phần thức ăn. Nhóm thức ăn chứa nhiều protein gồm loại có nguồn
gốc động vật: trứng, sữa, thịt, cá, tôm, cua, nhộng. Loại có nguồn gốc thực
vật: các loại đậu, đỗ. Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng, nhu cầu
protein ở trẻ 6-10 tuổi là 40 g/ngày, 11 - 14 tuổi là 45 g/ngày. Nên ăn protein
ở mức độ vừa phải, phối hợp cả đạm động vật và đạm thực vật, tỷ lệ này ở
trẻ em là 50% - 60%, người lớn là 25% - 30%. Nếu quá dư thừa thì thận phải
làm việc nhiều để đào thải cặn bã của protein như urê, acid uric…
Các acid amin, sản phẩm cuối cùng của quá trình tiêu hoá được hấp
thụ vào máu rồi chuyển tới tế bào và một phần tới gan. Tại gan, acid
amin được giữ lại và tổng hợp thành các protein của huyết tương như
anbumin, globulin và fibrinogen. Còn phần lớn axit amin sẽ được chuyển
đến tế bào để tổng hợp thành các protein đặc trưng như: hemoglobin của
máu, hormone tuyến nội tiết, protein của các mô cơ và các enzyme. Mỗi
loại acid amin có tác dụng sinh lý riêng. Ví dụ, lơxin có vai trò tổng hợp
protein của huyết tương.
Trong thành phần của protein có nitơ vì vậy có thể đánh giá sự tiêu
hao, tích luỹ nitơ của cơ thể qua nước tiểu với từng lứa tuổi, tình trạng
sức khỏe, nhu cầu lượng nitơ lấy vào và thải ra khác nhau.
Sự phân giải protein cũng được tiến hành ở gan. Đầu tiên các protein
được phân giải ở gan thành các acid amin. Các protein của tế bào mô
cũng được phân giải thành các acid amin và được chuyển về gan. Tiếp
theo, các phản ứng hoá học thành NH3 và tạo thành acid uric, urê… Phần
còn lại biến đổi thành glucôzơ và glucôgen hoặc oxy hoá tạo thành CO2,
H2O giải phóng năng lượng. Điều hoà trao đổi protein chịu sự tác động
của hormone tuyến nội tiết.
tiết ra. Ví dụ: Trong khi điều khiển nhịp tim, hoạt động của các cơ quan
hô hấp, tiêu hoá và bài tiết, hệ thần kinh có tác dụng chi phối sự trao đổi
chất ở tế bào làm cho nó tăng lên hay giảm xuống tùy từng trường hợp.
Chẳng hạn như, dưới ảnh hưởng của thần kinh mà mạch máu mở rộng
ra hoặc thu hẹp lại làm tăng giảm dòng máu mang thức ăn và oxy đến cơ
quan, tăng giảm thoát mồ hôi. Từ đó giúp thân nhiệt con người tương đối
ổn định do có sự cân bằng giữa sự sinh nhiệt và toả nhiệt.
Nhiệt độ cơ thể tăng cao khi “sốt” sẽ tăng cường trao đổi chất, tăng
huyết áp. Nếu sốt 40 - 41oC sẽ bị co giật, mê sảng; tới 42 - 43oC thì sẽ bị
tử vong.
Nếu nhiệt độ cơ thể giảm thì trao đổi chất giảm, ta có cảm giác rét
run, hoạt động của não bị ức chế, có biểu hiện đờ đẫn. Khi thân nhiệt
xuống tới 32 - 33oC thì sẽ bị tử vong.
Nhu cầu năng lượng thay đổi tùy thuộc vào tuổi, giới tính, nghề nghiệp
và khí hậu. Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng thì nhu cầu năng lượng
của trẻ 7 - 9 tuổi là 2190 Kcal/ngày, 10 - 15 tuổi là 2600 - 2900 Kcal/ngày.
5.4. Một số bệnh liên quan đến trao đổi chất và năng lượng ở trẻ em lứa tuổi Tiểu học
Tổ chức Y tế Thế giới phân chia thành 3 cấp độ suy dinh dưỡng là: độ I,
độ II, độ III. Trẻ suy dinh dưỡng độ I cân nặng còn khoảng 70- 80% cân
nặng chuẩn. Trẻ suy dinh dưỡng độ II cân nặng còn khoảng 60 - 70% cân
nặng chuẩn. Trẻ suy dinh dưỡng độ III cân nặng còn khoảng dưới 60%
cân nặng chuẩn.
Để phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ cần đáp ứng lương thực
thực phẩm đầy đủ cho trẻ, chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ bằng bữa ăn
hợp lý, vệ sinh an toàn thực phẩm, theo dõi biểu đồ tăng trưởng cho trẻ
hàng tháng nhằm phát hiện sớm tình trạng suy dinh dưỡng hoặc các
nguy cơ nếu có và can thiệp sớm, tẩy giun định kỳ mỗi 6 tháng cho trẻ
trên 2 tuổi,...
hơn 3.000 học sinh Tiểu học nội thành cho thấy gánh nặng kép về vấn đề dinh
dưỡng đã nghiêng hẳn về phía thừa dinh dưỡng với 23,4% học sinh bị thừa cân
và 17,3% học sinh bị béo phì, so với 2,4% học sinh bị thấp còi và 2% học sinh bị
gầy còm. Thừa cân béo phì làm tăng nguy cơ xơ vữa và thuyên tắc mạch vành,
nhồi máu cơ tim, bệnh tăng huyết áp. Ngoài ra, thừa cân béo phì gây các biến
chứng thuộc về chuyển hoá, nội tiết như kết quả nghiên cứu nêu trên. Thừa cân
béo phì xảy ra cùng với hội chứng chuyển hoá, là yếu tố nguy cơ của đái tháo
đường tuýp 2, đi kèm các rối loạn lipid máu như tăng triglycerid máu, tăng
LDL và giảm HDL, do đó làm tăng nguy cơ tim mạch. Điều này gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe, chất lượng cuộc sống, khả năng học tập và lao động
của các em.
Nghiên cứu đoạn thông tin trên và với hiểu biết của mình hãy cho biết:
1. Hậu quả của béo phì với trẻ lứa tuổi tiểu học?
2. Theo bạn nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng bệnh béo phì gia
tăng ở hai thành phố lớn của nước ta?
3. Bạn hãy đề xuất các biện pháp để phòng tránh thừa cân béo phì gia
tăng của học sinh Tiểu học.
Câu 9. Hướng dẫn người học ứng dụng các kiến thức về trao đổi
chất và năng lượng trong chương trình giảng dạy khoa học tự nhiên ở
tiểu học.
Câu 10. Áp dụng những hiểu biết về trao đổi chất và năng lượng
trong giáo dục, chăm sóc trẻ em lứa tuổi tiểu học.
Chương 6
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được cấu tạo và chức năng của hệ tiết niệu ở trẻ
em lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được quá trình hình thành nước tiểu và các yếu tố ảnh
hưởng đến sự tạo thành nước tiểu.
- Hiểu và trình bày cấu tạo và chức năng của hệ sinh dục nam và nữ.
- Vận dụng những kiến thức về sinh lý bài tiết và sinh dục trong vệ
sinh, giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
NỘI DUNG
Thận có hai mặt trước và sau; hai bờ trong và ngoài; hai cực trên và dưới.
Mặt trước của thận lồi hơn mặt sau; cực trên dày hơn cực dưới. Bờ ngoài lồi
bờ trong lõm ở đó có rốn thận là nơi các mạch máu mạch bạch huyết thần
kinh đi vào còn niệu quản đi ra. Bọc ngoài thận là một bao xơ dính chặt vào
thận, là một tổ chức liên kết đặc có chứa các sợi chun và tổ chức cơ trơn. Phía
ngoài bao xơ là tổ chức tế bào mỡ tạo thành bao mỡ quanh thận.
Hình 6.3a. Sơ đồ cấu trúc một đơn vị thận (nephron) và các mạch máu liên quan [19]
Thận có khoảng một triệu đơn vị chức năng (gọi là nepheron), mỗi
đơn vị thận có tiểu cầu thận → ống lượn gần → quai Helle → ống lượn xa.
Tiểu cầu thận, ống lượn gần, ống lượn xa nằm ở vùng vỏ còn quai Helle
ống nối và ống góp thì nằm ở vùng vỏ và vùng tuỷ.
Tiểu cầu thận (hạt thận - tiểu thể Manpighi): Mỗi tiểu cầu thận có hình cầu
có hai cực: Cực mạch là nơi có tiểu động mạch vào và tiểu động mạch ra.
cực niệu là nơi nối với ống lượn gần. Cấu tạo gồm hai phần chính gồm có
quả cầu Mapighi và nang Bowman. Quả cầu Mapighi có nhiều mao mạch
xếp song sóng thành một khối hình cầu và nằm gọn trong nang Bowman.
Nang Bowman là một túi bao bọc lấy quả cầu Mapighi, thành nang là một
lớp tế bào biểu mô có các lỗ rất nhỏ, xoang này được thông với ống thận.
Ống lượn gần: : là đoạn ống một đầu thông với bao Bowman rồi chạy
uốn lượn quanh tiểu cầu thận của chính nó, đầu kia nối với quai Helle.
Ống lượn gần dài khoảng 14mm và đường kính là 0,05mm.
Quai Helle: là một ống hình chữ U, cấu tạo gồm ba phần: đoạn dày
xuống có cấu tạo và chức năng giống ống lượn gần; đoạn dày lên (to hơn
dày xuống) tiếp nối với ống lượn xa có cấu tạo và chức năng giống ống
lượn xa; đoạn mỏng ở giữa có hình chữ U. Dịch chảy trong hai ống lên và
xuống ngược chiều với nhau.
Ống lượn xa: là phần nối quai Helle với ống góp. Ống có hình trụ chạy
ngoằn ngoèo uốn lượn quanh tiểu cầu thận của chính nó. Từ ống lượn xa
dịch lọc được đổ vào ống góp nước tiểu và sau đó được đổ vào bể thận.
Bàng quang là một túi để chứa nước tiểu, nằm phía dưới của khoang
bụng, trước trực tràng ở nam giới và trước tử cung, âm đạo ở nữ giới. Thể
tích chứa được 700 – 1000 ml nước tiểu. Thành bàng quang có 3 lớp: ngoài
là lớp liên kết, giữa là lớp cơ và trong là lớp niêm mạc. Thành này có khả
năng đàn hồi nên khi ít nước tiểu, bàng quang co lại, còn khi nhiều nước
tiểu thì giãn căng ra. Khi bàng quang đầy, áp lực của nước tiểu tăng cao
thì nước tiểu mới có thể thoát ra ngoài. Bài xuất nước tiểu chịu sự chi phối
của vỏ não nên có thể hoạt động theo ý muốn.
Ống dẫn nước tiểu (niệu quản) là đoạn từ bể thận đến bàng quang
dài khoảng 20 cm.
Ống đái (niệu đạo): ống đái xuất phát từ đáy của bàng quang.
Ở nam, khi đến tuyến tiền liệt, nó nhập với ống dẫn tinh thành một và chạy
dọc dương vật. Dương vật có chức năng bài xuất nước tiểu ra ngoài. Ở nữ,
ống đái chạy trong hố chậu và kết thúc ở âm hộ. Lỗ tiểu tiện nằm giữa âm
vật và cửa âm đạo. Chiều dài của niệu đạo của trẻ đến trước tuổi dậy thì
từ 2 - 4 cm ở trẻ gái và 6 - 15 cm ở trẻ trai. Do niệu đạo của trẻ gái ngắn và
thẳng nên hay bị viêm đường tiết niệu do nhiễm khuẩn ngược dòng.
Đầu tiên là lọc máu tạo thành nước tiểu đầu ở nang cầu thận, rồi hấp thụ
lại vào máu các chất cần thiết như nước, đường, muối và bài tiết tiếp các
chất không cần thiết, các chất có hại ở ống thận, tạo ra nước tiểu chính
thức và duy trì ổn định nồng độ các chất trong máu.
Quá trình lọc nước tiểu do cơ chế thần kinh và thể dịch điều khiển.
- Điều tiết bằng thần kinh: Hoạt động của thận chịu sự chi phối của dây
thần kinh giao cảm và dây thần kinh đối giao cảm. Khi khích thích dây giao
cảm, mạch máu co lại nên lượng máu đến thận giảm, lọc được ít nước tiểu.
Ngược lại, khi kích thích dây đối giao cảm thì mạch giãn, lượng máu đến
thận nhiều, thành mạch căng nên lọc được nhiều nước tiểu.
- Điều tiết bằng thể dịch: do các chất hóa học và các hormone thực hiện.
6.1.2.4. Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu cho trẻ em lứa tuổi tiểu học
- Một số tác nhân gây hại cho hệ bài tiết nước tiểu:
+ Nếu cầu thận bị hư hại về cấu trúc do vi khuẩn gây viêm hoặc làm
việc nhiều, suy thoái dần dẫn đến suy thận. Do đó, quá trình lọc máu tạo
nước tiểu đầu có thể ảnh hưởng hoặc ngưng trệ.
+ Các tế bào ống thận bị tổn thương do đói oxy lâu dài, bị đầu độc
bởi các chất độc (thủy ngân, asenic, các độc tố vi khuẩn...) làm ảnh hưởng
đến hoạt động hấp thụ lại và bài tiết tiếp của ống thận, thậm chí có thể
làm cho nước tiểu trong ống hòa thẳng vào máu.
+ Bị sỏi thận hay viêm ở ống dẫn, bóng đái, ống đái do vi khuẩn gây ra.
- Vệ sinh phòng bệnh: Để vệ sinh phòng bệnh liên quan đến hệ tiết
niệu cần thực hiện các biện pháp sau:
+ Giữ vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài, phải lau, rửa đúng kỹ thuật.
+ Trẻ được uống nước đầy đủ và không nên nhịn đi tiểu.
+ Phát hiện sớm những biểu hiện của bệnh về hệ tiết niệu như đau
vùng thắt lưng, đi đái dắt, nước tiểu có màu khác thường… cần đi khám
chuyên khoa.
Tinh hoàn có một đôi nằm trong bìu da treo ở bẹn, tinh hoàn trái
thường thấp hơn tinh hoàn phải. Chức năng của tinh hoàn là sản xuất
tinh trùng và tiết ra hormone (testosteron) làm cho cơ thể phát triển theo
giới tính nam như làm cơ thể ít mỡ, có râu và lông chân, lòng bàn tay
phát triển. Mỗi tinh hoàn có hình trứng, được chia thành nhiều tiểu thùy
(300 - 400 tiểu thùy) ngăn cách nhau bằng các vách xuất phát từ mặt trong
của lớp áo trắng. Trong các tiểu thùy có 2 - 4 ống sinh tinh. Các ống này
uốn khúc hướng lên trên và thông với lưới tinh hoàn. Từ lưới tinh hoàn
có các ống tinh chạy lên mào tinh và từ mào tinh có ống dẫn tĩnh thông
với túi tinh. Trong quá trình phát triển của trẻ, kích thước tinh hoàn tăng
dần (Bảng 6.1).
Túi tinh hình quả lê gấp nếp dài 5 - 6 cm, rộng 2 cm, nằm trong ổ
bụng. Túi tinh là một tuyến phụ góp phần sản xuất tinh dịch. Đầu dưới
của túi tinh mở vào ống tiết, ống này kết hợp với ống dẫn tinh cùng bên
tạo thành ống phóng tinh.
Ống phóng tinh dài khoảng 1,5 - 2 cm, chạy xuyên qua tuyến tiền liệt
rồi đổ vào liệu đạo. Ống mào tinh, ống dẫn tinh, ống phóng tinh và niệu
đạo nam tạo thành đường dẫn tinh.
Bảng 6.1. Kích thước tinh hoàn và dương vật của trẻ lứa tuổi tiểu học
(Theo “Các giá trị sinh học người Việt Nam thập niên 90 - thế kỷ XX (2003)” [3])
Lứa tuổi Chiều dài dương vật (cm) Chu vi dương vật Thể tích tinh hoàn
6 2,89±0,32 4,02±0,38 1,76±0,18
7 2,89±0,36 4,03±0,31 1,86±0,19
8 3,05±0,39 4,07±0,34 1,96±0,17
9 3,14±0,37 4,10±0,39 2,01±0,17
10 3,34±0,36 4,13±0,45 2,21±0,16
11 3,60±0,46 4,25±0,46 2,34±0,48
12 3,72±0,39 4,61±0,73 2,68±1,10
Tuyến tiền liệt có màu tím hồng, bao quanh phần đầu niệu quản. Chức
năng chính là tiết ra tinh dịch, ngoài ra có chức năng nội tiết. Tinh dịch
của tuyến tiền liệt được đổ vào niệu đạo ở xoang tiền liệt.
Tuyến hành niệu đạo gồm 2 tuyến nằm ngay sát tuyến tiền liệt tiết ra
dịch nhầy.
Dương vật có chức năng bài xuất nước tiểu, giao hợp và phóng tinh.
Dương vật gồm phần gốc đính với bìu và mu háng, và thân dương vật.
Tận cùng của dương vật là quy đầu, giữa quy đầu có lỗ tiểu tiện. Bọc bên
ngoài dương vật là lớp da mỏng và nếp da phủ lên quy đầu gọi là bao quy
đầu. Bao quy đầu ở trẻ em dài, ở người lớn có trường hợp bao quy đầu
hẹp không thể trật lên được gọi là bệnh hẹp bao quy đầu.
Sản sinh tinh trùng và xuất tinh: Tinh hoàn là nơi sản xuất tinh
trùng, được thực hiện trong các ống sinh tinh. Tinh trùng bắt đầu được
sản xuất khi trẻ bước vào độ tuổi dậy thì. Tinh trùng nhỏ (dài 0,06 mm)
gồm đầu, cổ và đuôi dài. Tinh trùng có hai loại X và Y, mỗi lẫn phóng tinh
có tới 200 triệu - 300 triệu tinh trùng. Sự xuất tinh được thực hiện thông
qua động tác giao hợp làm thỏa mãn nhu cầu sinh lý trong quan hệ tình
dục. Tinh trùng di chuyển lên ống dẫn trứng với tốc độ 3 mm/phút bằng
cách tự quẫy đuôi.
Buồng trứng: Có hai chức năng nuôi dưỡng cho trứng chín và tiết ra
hormone sinh dục gây ra những đặc điểm giới tính nữ. Buồng trứng nằm
trong hố chậu bé, ở hai phía của tử cung và được cố định bởi các dây chằng.
Ở bé gái sơ sinh, có khoảng 70.000 tế bào trứng non chứa trong các nang
trứng nguyên thủy và khi đến tuổi dậ̣y thì chỉ còn 400 - 500 nang trứng.
Hình 6.9. Sơ đồ cấu tạo của ống dẫn trứng và tử cung [19]
Vòi tử cung (vòi trứng hay ống dẫn trứng): là ống dài khoảng 12 cm
đi từ buồng trứng tới sừng tử cung và là nơi trứng gặp tinh trùng để thụ
tinh. Trong quá trình di chuyển của trứng đã thụ tinh, nếu nó bị nghẽn lại
trong vòi vì một lý do nào đó sẽ dẫn tới tình trạng chửa ngoài tử cung và
vòi sẽ bị vỡ khi thai to ra.
Tử cung: Trứng rụng theo ống dẫn trứng đến tử cung. Tử cung là nơi
nuôi dưỡng và phát triển của thai nhi, cũng là nơi xảy ra kinh nguyệt.
Vị trí của tử cung nằm giữa xương chậu hông bé, sau bàng quang, trước
trực tràng, trên âm đạo. Tử cung là một khối cơ dày, rỗng; có hình quả lê,
gồm 3 phần thân, eo và cổ tử cung.
Âm đạo: Âm đạo là cơ quan giao hợp và đường để thai nhi đi từ tử
cung ra ngoài. Thành âm đạo được cấu tạo bởi các lớp cơ nên có khả năng
co giãn rất lớn. Nằm ở hai bên âm đạo có hai tuyến tiền đình tiết ra dịch
nhờn để bôi trơn âm đạo.
Âm hộ: Âm hộ gồm có gò mu, môi lớn, môi bé và tiền đình âm đạo.
Có hai tuyến lớn tiết chất nhầy nằm ở hai bên tiền đình âm đạo, mỗi
tuyến có ống dẫn đổ vào tiền đình.
Âm vật: nằm trên lỗ đái, tương đương với dương vật ở nam. Tại đây,
có nhiều dây thần kinh kích thích dục tính.
Tuyến vú: Tuyến này liên quan mật thiết với hoạt động sinh dục,
phát triển ở tuổi dậy thì và hoạt động chính thức vào thời kỳ sinh đẻ. Có
một đôi tuyến vú, mỗi tuyến gồm 15 - 20 thùy mô tuyến sữa. Mỗi thùy
có nhiều nang tuyến và một ống tiết thông ra ngoài ở núm vú. Ở bề mặt
và giữa các tuyến sữa là những mô mỡ. Hormone buồng trứng kích thích
phát triển vú. Tuyến yên điều khiển tiết sữa.
1/ Các noãn nguyên bào tăng sinh về số lượng bằng cách nguyên phân; 2/
Giai đoạn sinh trưởng do các noãn nguyên bào đã tích lũy được các chất
dinh dưỡng nên lớn và tạo thành noãn bào cấp I; 3/ Giai đoạn tạo thành
tế bào trứng nhờ cơ chế giảm phân 2 lần liên tiếp tạo ra trứng và thể cực
với bộ NST đơn bội. Trứng được sản sinh ở tuổi dậy thì và đến tuổi mãn
kinh thì dừng.
Hình 6.11. Cấu tạo buồng trứng và sự rụng trứng [19]
Sự rụng trứng chịu tác dụng chủ yếu của hormone FSH và LH của
tuyến yên. Ngoài ra sự rụng trứng còn ảnh hưởng của tác động giao phối,
chế độ ăn uống... Sau khi trứng rụng, các tế bào nang De Graff phân chia
tạo nên thể vàng, có tác dụng biến đổi niêm mạc ở tử cung để chuẩn bị
đón trứng. Nếu trứng được thụ tinh thì thể vàng hoạt động đến khi đẻ,
nếu không nó chỉ tồn tại khoảng 14 ngày sau khi trứng rụng rồi thoái hóa,
cùng lớp niêm mạc tử cung bong ra gây nên hiện tượng kinh nguyệt.
Chu kỳ kinh nguyệt thường là 28 ngày, có khi hơn. Chu kỳ kinh nguyệt
gồm nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn có nhiều diễn biến đặc trưng trong tử
cung và tâm sinh lý của người phụ nữ. Mỗi lần hành kinh kéo dào khoảng
3 - 5 ngày và mất từ 200 – 300 ml máu. Cửa âm đạo của trẻ em gần lỗ tiểu
tiện và hậu môn nên dễ bị vi khuẩn xâm nhập gây viêm nhiễm cơ quan
sinh dục. Hơn nữa trong những ngày hành kinh cơ thể mệt mỏi, cổ tử cung
mở, bộ phận sinh dục có chảy máu nên vi trùng rất dễ xâm nhập. Do đó
cần vệ sinh, cần hướng dẫn thực hiện thao tác rửa bộ phận sinh dục ngoài
(âm hộ), không thụt rửa sâu vào trong âm đạo. Sau khi rửa sạch, nên dùng
khăn bông sạch, mềm lau khô. Đồng thời nên chú ý bồi dưỡng, tránh vận
động mạnh (chạy nhảy, lao động nặng…) để giữ gìn sức khoẻ.
Hình 6.12. Sơ đồ diễn biến chu kỳ rụng trứng và chu kỳ kinh nguyệt [19]
100 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
lo giữ vệ sinh bộ phận sinh dục của các em gái càng cần thiết hơn vì lúc
này bộ phận sinh dục bắt đầu tiết dịch nhày từ trong cổ tử cung, âm đạo
cũng như ở các tuyến quanh âm hộ. Nếu không chú ý lau rửa sạch thì vi
khuẩn phát triển sẽ làm các chất dịch đó có mùi hôi và khi ấy rất dễ bị
nhiễm khuẩn sinh dục.
Giáo dục giới tính ở nhà trường tiểu học cần được chú trọng và quan
tâm. Học sinh tiểu học cần được hướng dẫn đề phòng bị lạm dụng vì nếu
các em bị lạm dụng tình dục thì vẫn có thể mang thai. Việc xử trí thai nghén
bất ngờ thực sự là một khó khăn và nguy hiểm đối với sức khỏe trước mắt và
lâu dài của các em. Trong chương trình giáo dục tiểu học, sách Khoa học lớp
4-5 đã tiếp cận với các vấn đề về giới tính, sự phân biệt giữa nam và nữ. Các
kiến thức này được tích hợp ở khá nhiều môn học, các hoạt động ngoài giờ
lên lớp ở các lớp học. Giáo dục giới tính ở độ tuổi này cần hướng đến việc trẻ
được biết những thay đổi của cơ thể là hiện tượng sinh lý bình thường khi
bước vào tuổi dậy thì. Đồng thời trẻ cần được cung cấp những kiến thức về
vệ sinh, kỹ năng sống để tránh bị xâm hại tình dục.
hại tình dục chiếm tới 5.300 vụ (khoảng 65%). Gần đây nhất là vụ hơn 20 học
sinh từ 5 đến 10 tuổi tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học La Pán Tẩn,
huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai đã bị bảo vệ trường nhiều lần lạm dụng
tình dục, có em bị suốt 3 năm…
Nghiên cứu đoạn thông tin trên và dựa vào hiểu biết của mình. Hãy
cho biết:
1. Nguyên nhân xảy ra tình trạng trên và hậu quả với trẻ bị xâm hại?
2. Đề xuất những biện pháp để giúp trẻ phòng tránh nguy cơ bị xâp hại?
3. Giả sử trong trường hợp trẻ bị xâm hại, chúng ta cần phải làm gì?
Câu 9. Cho đoạn thông tin sau:
Bệnh nhân mắc các chứng bệnh về
thận, đặc biệt đối với những người suy
thận. Nếu chỉ 1 quả thận bị suy giảm chức
năng thì sẽ còn 1 quả thận nữa sẽ thay thế
làm việc nhưng nếu cả 2 đều cần phải điều
trị thì chắc chắn rằng phải sử dụng các
phương pháp điều trị khác nhau. Chi phí
thay thận khá đắt đỏ nên các bệnh nhân
mắc chứng bệnh về thận sẽ phải điều trị
lọc máu hay còn gọi là chạy thận nhân tạo.
Máy chạy thận nhân tạo giúp lọc hết các
chất độc từ máu cho ra ngoài và máu sạch sẽ đưa lại cơ thể.
Nghiên cứu thông tin trên và hình mô tả quá trình bệnh nhân lọc
máu nhờ “thận nhân tạo”. Hãy cho biết:
1. Nguyên nhân dẫn đến suy thận? Hãy đưa ra lời khuyên để phòng
tránh suy thận.
2. Phân tích cấu tạo của máy chạy thận nhân tạo và cho tiết từng bộ
phận của máy tương ứng về cấu tạo và chức năng với cơ quan, bộ phận
nào của hệ bài tiết nước tiểu?
3. Nếu bệnh nhân bị suy thận không thực hiện lọc máu nhân tạo thì
điều gì sẽ xảy ra và tại sao?
Chương 7
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được những đặc điểm cơ bản về cấu tạo, chức
phận và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của các tuyến nội tiết.
- Những biểu hiện quan trọng và tác dụng của hormone lên sự sinh
trưởng và phát triển của trẻ em.
- Áp dụng các hiểu biết về các tuyến nội tiết trong việc giáo dục một
cách phù hợp với trẻ em lứa tuổi tiểu học.
NỘI DUNG
insulin, hoặc phần ngoại tiết của tinh hoàn sản sinh ra tinh trùng còn
phần nội tiết đổ vào máu là hormone testoteron.
7.1.1.2. Hormone có tác dụng sinh lý trong cơ thể biểu hiện ở các mặt sau
- Tham gia vào sự điều tiết quá trình sinh trưởng và phát triển cơ thể.
- Điều hoà sinh sản, điều hoà sự phát triển và hoạt động của tuyến
sinh dục và đặc điểm sinh dục thứ cấp.
- Đảm bảo trạng thái cân bằng của môi trường trong cơ thể và thích
nghi của cơ thể với môi trường.
- Phối hợp với hệ thần kinh điều hoà hoạt động của các cơ quan
trong cơ thể.
104 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
- Nhóm các hormone có bản chất lipid (hay còn gọi là nhóm
hormone steroit) như: hormone miền vỏ tuyến trên thận, tuyến sinh dục
(testosteron, progesteron, estrogen).
7.1.3.2. Cơ chế tác dụng của các hormone gắn với receptor trong tế bào
Những hormone có bản chất hoá học là steroit như hormone vỏ trên
thận, hormone sinh dục, hormone dẫn xuất của tyrosin tuyến giáp khi
đến tế bào đích thì khuếch tán qua màng tế bào vào bên trong tế bào để
gắn với các receptor trong bào tương hoặc trong nhân tế bào. Phức hợp
hormone-receptor sẽ hoạt hoá hệ gen, kích thích quá trình sao chép gen
để làm tăng tổng hợp các phân tử protein mới ở tế bào đích.
7.2. Cấu tạo và chức năng các tuyến nội tiết
7.2.1. Tuyến yên
Tuyến yên là một tuyến nhỏ,
đường kính 1 cm, nặng 0,5 - 1 gam và
được chia làm 3 thùy trước, thùy giữa
và thùy sau. Tuy là một tuyến nhỏ
nhưng nó tiết nhiều loại hormone và
có vai trò điều hoà toàn bộ các hoạt
động sinh trưởng, phát triển của cơ Hình 7.2. Sơ đồ vị trí và cấu tạo
thể và điều hoà hoạt động của nhiều của tuyến yên [19]
tuyến nội tiết khác.
7.2.1.1. Thùy trước tuyến yên
Thùy trước tuyến yên được cấu tạo bởi các tế bào tiết. Các tế bào này
có nhiều loại, mỗi loại tổng hợp và bài tiets một loại hormone nhất định.
Các loại hormone mà thùy trước tuyến yên tiết ra là:
- Hormone phát triển cơ thể gọi là hormone tăng trưởng STH. Hormone
này điều hoà sự sinh trưởng chung của cơ thể và đặc biệt là sự phát triển của
các xương dài. Vì vậy, ở giai đoạn sinh trưởng nếu ưu năng tuyến sẽ làm cho
người trở nên rất cao nhưng cấu tạo cơ thể vẫn theo tỷ lệ cân xứng trở thành
người khổng lồ. Nếu nhược năng tuyến thì trở thành người lùn, thấp nhỏ
nhưng cân đối. Ở người trưởng thành nếu ưu năng tuyến sẽ dẫn tới trạng
thái bệnh to đầu ngón, các ngón tay, bàn chân và xương mặt phát triển quá
mức. Nhiều hormone tăng trưởng còn gây chứng tăng đường huyết.
- Các hormone kích thích tuyến sinh dục (FSH và LH) cần thiết cho sự
chín sinh dục, ở nam giới thì kích thích sự phân bào tạo thành tinh trùng, ở nữ
giới thì kích thích sự chín và rụng trứng. Nó cũng góp phần duy trì các chức
năng sinh dục.
106 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
- Hormone Prolactin gây tiết sữa và gây sự tiết các hormone estrogen
và progesteron của buồng trứng.
- Các hormone kích thích miền vỏ tuyến trên thận - ACTH
- Hormone kích thích tuyến giáp – STH.
thân nhiệt, tăng chuyển hóa chất. Ngoài ra, các tế bào ở cạnh nang cũng
bài tiết hormone canxitonin.
Nếu hoạt động tiết hormone tiêu giảm (nhược năng) gây nên thiếu
Tiroxin làm giảm quá trình chuyển hoá biểu hiện là cường độ trao đổi chất
giảm, thân nhiệt hạ, luôn cảm thấy lạnh, nhịp tim giảm, mệt mỏi uể oải.
Trong thức ăn nếu thiếu iod thì sẽ không đủ để tuyến giáp tổng hợp
Tiroxin, vì vậy tuyến phải làm việc quá mức, dần to ra tạo thành bướu cổ.
Ở trẻ em, nếu thiếu Tiroxin (nhược năng), ở mức nhẹ thì hạn chế
năng lực lao động và học tập, mức nặng gây đần độn.
Phụ nữ có thai nếu thiếu iod sẽ dẫn tới thiếu Tiroxin làm thai chậm
phát triển, có thể gây chết thai lưu hoặc đẻ non.
Nếu hoạt động tiết hormone tăng cường (ưu năng) sẽ mắc bệnh
bazơđô, biểu hiện như: cường độ trao đổi chất tăng, người cảm thấy quá
nóng, đổ mồ hôi, giảm sút trọng lượng, huyết áp tăng cao, tinh thần căng
thẳng, cơ yếu và hay co giật, mắt lồi.
108 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
đổi lượng đường thừa trong máu (khi lượng đường cao hơn 0,12 g/l)
thành glicogen dự trữ trong gan. Nếu lượng glucoza (đường) trong máu
giảm dưới mức 0,12 g/l thì glucagon
sẽ kích thích sự biến đổi glicogen
dự trữ thành glucoza đưa vào máu.
Bệnh của tuyến tuỵ gây nên sự
rối loạn nội tiết, làm giảm insulin do
đó làm cho lượng đường trong máu
tăng lên vượt quá khả năng tái hấp
thụ của thận, đường bị thải ra ngoài
theo nước tiểu gây nên bệnh đái
tháo đường. Người bệnh suy kiệt
dần vì mất nước và đường đồng
thời bị đầu độc bởi các sản phẩm Hình 7.4. Sơ đồ cấu tạo
xeton tích chứa lại dẫn tới tử vong. và vị trí tuyến tụy [19]
Để điều trị bệnh đái tháo đường có thể tiêm insulin vào máu với một
liều lượng thích hợp và thường xuyên bởi vì insulin không lưu giữ trong
cơ thể và cũng không có khả năng khắc phục sự rối loạn nội tiết của tuyến
tuỵ. Ngày nay, kỹ thuật di truyền đã thực hiện cấy ghép gen tổng hợp
insulin vào vi khuẩn E. coli và sản xuất được insulin một cách dễ dàng vì
vậy giá thành của chế phẩm insulin đã giảm nhiều.
steroit có hoạt tính của hormone sinh dục nam. Vì vậy ưu năng vỏ tuyến
trên thận ở trẻ em dẫn tới hiện tượng chín sinh dục sớm như cơ bắp phát
triển, tiếng nói như ở người đàn ông trưởng thành... Ưu năng vỏ tuyến
trên thận ở phụ nữ gây ra hiện tượng nam hoá như mọc râu, tiếng nói
trầm, buồng trứng, tử cung và âm đạo thoái hoá.
110 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
từ khi trứng rụng sẽ hết. Lúc đó niêm mạc của tử cung bong ra gây hiện
tượng kinh nguyệt và hormone của thùy trước tuyến yên trở lại hoạt
động gây chín và rụng trứng.
Cần lưu ý rằng hai hormone testosteron (hormone sinh dục nam) và
estrogen (hormone sinh dục nữ) đều có ở cả hai giới nam và nữ, chỉ khác
nhau về lượng. Ở nam, testosteron nhiều hơn estrogen và ngược lại ở nữ
thì estrogen nhiều hơn testosteron.
Chương 8
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được những kiến thức cơ bản về đặc điểm cấu tạo
và chức phận của các cơ quan hệ vận động trẻ em lứa tuổi tiểu học.
- Phân tích được những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động sinh lý
hệ vận động.
- Phân biệt được các khớp, vẽ và chú thích sơ đồ của khớp động.
- Áp dụng các kiến thức về sinh lý hệ vận động vào việc giảng dạy
phần khoa học tự nhiên trong chương trình tiểu học.
- Áp dụng các hiểu biết về cơ, xương, khớp trong việc giáo dục một
cách phù hợp với trẻ em lứa tuổi tiểu học.
NỘI DUNG
112 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Tế bào màng có nguồn gốc từ trung mô. Sang tháng thứ 2 màng đượn sụn
thay thế, sau đó phát triển thành xương được gọi là xương thứ cấp. Một
số xương ở đầu, mặt và một phần xương đòn bỏ qua giai đoạn sụn gọi là
xương sơ cấp.
- Tuỷ xương: là mô liên kết đặc biệt nằm trong ống tuỷ xương và các
hốc xương. Theo chức năng thì tuỷ xương được chia thành bốn loại: tuỷ
tạo cốt, tuỷ tạo huyết (hai loại này còn gọi là tuỷ đỏ), tuỷ tạo mỡ, tuỷ tạo
xơ (hai loại này còn gọi là tuỷ vàng). Trong quá trình phát triển, một phần
tuỷ đỏ sẽ được thay thế bằng tuỷ vàng.
8.1.1.3. Hình dạng của xương: Dựa vào hình dáng, người ta chia bộ xương thành bốn loại chính:
Cơ thể người có khoảng 206 xương, dựa vào hình dáng, người ta chia
xương thành bốn loại chính:
- Xương dài: hình ống, có vai trò như đòn bẩy trong sự vận động,
thường nằm ở các xương chi. Mỗi xương dài gồm hai phần: thân xương
và hai đầu xương. Thân xương là một ống đặc ở ngoài và tủy xương ở
trong ống tủy. Đầu xương chủ yếu là xương xốp nhưng có một lớp xương
đặc mỏng che phủ bên ngoài. Các xương dài như xương cánh tay, xương
cẳng tay, xương đùi, xương cẳng chân…
- Xương ngắn: hình khối nhiều mặt, các kích thước ngang, trước sau,
đứng dọc gần bằng nhau. Ngoài có lớp mỏng xương chắc, trong là xương
xốp. Thường ở những phần đòi hỏi chắc chắn, đảm bảo mềm dẻo, đàn hồi.
Các xương ngắn như xương bàn tay, xương bàn chân, xương đốt ngòn tay,
xương đốt sống, xương cổ tay, xương cổ chân…
114 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
- Xương dẹt: là xương rộng, mỏng, bề ngang và bề dọc của xương lớn
hơn bề dày rất dày. Xương cấu tạo bằng hai tấm xương chắc ở hai bên,
giữa có xương xốp. Các xương này vừa làm chỗ bám cho các cơ vừa làm
thành các khoang bảo vệ các cơ quan bên trong. Ví dụ: xương vòm sọ,
xương ức, xương sườn…
- Xương khó định hình: là xương có hình dạng phức tạp, bất định.
Ví dụ: xương nền sọ, mặt..
Ngoài bốn loại xương trên, trong cơ thể còn có xương vừng là loại
xương nhỏ, không có màng xương, nằm trong các cơ và thường đệm vào
các khớp để giảm ma sát của gân, cơ.
8.1.1.4. Đặc điểm bộ xương trẻ lứa tuổi tiểu học
Ở trẻ em, xương chiếm 1/7 khối lượng cơ thể. Sự sinh trưởng và phát
triển của xương ở mỗi lứa tuổi là khác nhau.
- Đối với xương dài: xương dài phát triển nhanh hơn xương ngắn. Ở
lứa tuổi tiểu học, xương dài phát triển nhanh không chỉ về chiều dài mà cả
bề dày của xương. Sụn ở các đầu xương đang cốt hoá. Lứa tuổi để điểm cốt
hoá bắt đầu liền với thân xương ở nam và nữ tương đối đồng đều, khoảng
13 - 14 tuổi và kết thúc đối nam là 19 - 21 tuổi, đối với nữ là 17 - 18 tuổi.
- Đối với xương ngắn: từ sơ sinh đến hai tuổi, sự cốt hoá ở các xương
cổ tay và cổ chân của trẻ em rất nhanh nhưng từ hai tuổi trở đi thì quá
trình này trở nên chậm lại. Đối với các lứa tuổi khác nhau thì quá trình
cốt hoá xương cũng khác nhau, trước 12 - 13 tuổi thì các xương ngắn vẫn
chưa cốt hoá hoàn toàn, xương vẫn làm sụn mềm dễ bị méo mó.
- Đối với xương cột sống: các đốt sống bắt đầu cốt hoá ngay từ tháng
thứ 3 của bào thai nhưng đến 2 - 3 tuổi thì các điểm cốt hoá mới liền lại và tạo
thành đốt sống hoàn chỉnh. Hình dạng của đốt sống thay đổi đến 25 tuổi,
dưới 18 tuổi đốt sống chưa cốt hoá hết, đĩa sụn giữa các đốt sống còn
mềm, hai khối cơ mông chưa phát triển nên dễ cong, vẹo, các đốt xương
dễ bị biến dạng.
- Đối với xương chậu hông: trước 12 - 13 tuổi, các xương của xương
chậu hông còn là những xương riêng lẻ chưa gắn chặt với nhau. Sau này
đến tuổi trưởng thành thì xương chậu hông mới hoàn chỉnh thành một
xương và có sự khác biệt giữa nam và nữ.
8.1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của xương
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của
xương như bộ máy di truyền, sự cốt hoá, giai đoạn tăng trưởng của cơ
thể, dinh dưỡng, lao động, thể dục thể thao,… Ở đây sẽ chỉ nghiên cứu
hai yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự sinh trưởng và phát triển của
xương trong giai đoạn trẻ lứa tuổi tiểu học.
- Dinh dưỡng: rất quan trọng đối với sự tăng trưởng của xương. Tình
trạng thiếu dinh dưỡng ở giai đoạn trẻ đang lớn, đặc biệt các chất tạo
xương như: canxi, photpho, vitamin D, muối khoáng… sẽ ảnh hưởng sự
cốt hoá của xương. Trẻ em mắc bệnh còi xương cơ thể còi cọc, thể lực yếu,
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển trí tuệ.
- Lao động và thể dục thể thao: trong khi hoạt động, xương phải chịu
1 trong 3 lực cơ bản sau là lực kéo, lực ép, lực ma sát do trượt. Ngoài ra,
trọng lượng cũng là một lực ép quan trọng lên hệ xương. Các lực này đều
làm ảnh hưởng đến cấu trúc và biến đổi chức năng của xương.
Nếu lao động đúng mức và luyện tập thể dục thể thao thường xuyên
thì bộ xương được phát triển mạnh, mấu xương to ra làm chỗ dựa vững
chắc cho hệ cơ. Nếu lao động liên tục và quá sức từ nhỏ thì quá trình cốt
hoá sẽ nhanh do đó quá trình tăng trưởng của xương sẽ sớm kết thúc, trẻ
không lớn lên được.
Luyện tập thể dục thể thao làm cho xương chịu được lực nén và lực
kéo lớn, nâng cao các thuộc tính vật lý của xương, tăng sức chống chịu
khi bị bẻ gãy, uốn cong, đè ép, kéo giãn, xoắn vặn.
Do đặc điểm của hệ xương lứa tuổi tiểu học nên trong luyện tập thể
dục thể thao ở trường học cũng như lao động ngoại khoá cần chú ý tránh
cho các em không mang vác nặng, tránh tập các môn thể dục thể thao
không phù hợp làm biến dạng hoặc chậm sự tăng trưởng của xương.
116 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
quanh bao khớp cũng có tác dụng như một dây chằng. Tùy theo động tác
khớp mà dây chằng dày hay mỏng. Phần lớn dây chằng không có tính
đàn hồi nhưng chắc, nó vừa tăng cường cho khớp vừa có tác dụng hãm,
làm giới hạn tính linh hoạt của các xương tiếp khớp nhau.
- Ổ khớp: là các khe khé giới hạn bởi các bao khớp và sụn khớp.
Trong ổ khớp có dịch nhợt do túi hoạt dịch tiết ra. Dịch nhớt này có tác
dụng làm nhờn các sụn khớp để giảm sự ma sát ở các khớp khi cử động.
- Các cấu tạo phụ khác: đĩa sụn và đĩa chêm; sụn viền, xương vừng…
Hình 8.2. Cấu tạo khớp động điển hình ở người [20]
118 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
120 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
nhiều xương chưa liền hẳn. Khi mọc răng kích thức sọ lớn dần, u trán, tu
đỉnh ở trẻ em rõ, chúng giảm dần theo tuổi. Khoảng 20 – 30 tuổi các khớp
cốt hóa, mặt ngoài sọ nhám, gồ ghề. Về già sọ có nhiều nét giống sụ trẻ em
do già hóa sọ. Thể tích sọ trẻ em so với cơ thể lớn hơn người lớn.
Hình 8.4. Cấu tạo của cột sống [18] Hình. 8.5. Cấu tạo của đốt sống điển hình [18]
- Ý nghĩa:
+ Về chức năng: khung nâng đỡ, cơ quan bao bọc bảo vệ cho hệ thần
kinh trung ương.
+ Cơ học: giảm chấn động khi cơ thể chuyển động mạnh, tăng sức
chịu lực và độ bền vững của cột sống.
+ Về hình thái: là đặc điểm cơ bản nhất của động vật có xương sống,
thể hiện mối quan hệ của người và với động vật có xương sống.
b) Xương lồng ngực
* Đặc điểm lồng ngực:
- Lồng ngực gồm: 12 đôi xương
sườn, đoạn sống ngực, xương ức và hệ
thống dây chằng liên kết với các phần
đốt sống.
- Lồng ngực có đường kính ngang
lớn hơn đường kính trước sau cho nên
thích nghi với tư thế đứng thẳng, chứa
đựng và bảo vệ các cơ quan bên trong. Hình 8.6. Xương lồng ngực
- Lồng ngực có hình chóp rộng 1 - Xương ức, 2 - xương sườn,
ngang, dẹp trước sau, đỉnh hướn lên 3 - Sụn sườn
trên, đánh hưỡng xuống dưới. Lỗ trên
lồng ngực được giới hạn bởi đốt sống ngực 1, xương sườn 1 và bờ trên
của cán ức. Lỗ dưới lồng ngực lớn hơn, được giới hạn bởi đốt sống ngực
12, xương sườn 12, sụn thứ 7 nối với xương ức ở phía trước. Lỗ dưới được
bịt bởi cơ hoành.
* Các xương sườn: phần chủ yếu của lồng ngực, gồm 12 đôi xương
sườn xếp đối xứng nhau. Giữa 2 đôi xương sườn kế tiếp nhau là khoảng
gian sườn.
- Xương sườn là xương dài, cong và dẹt gồm: đầu sườn, cổ sườn,
thân sườn. Các xương sườn nằm theo một hướng xiên, đầu sườn cao hơn
thân sườn (trừ xương sườn số 1). Độ dài các xương thay đổi, tăng dần từ
trên xuống dưới, đạt cực đại ở khoảng đôi số 6-8 rồi giảm dần.
- Sụn sườn: nối thân xườn với xương ức ở các khuyết sườn. Bảy (1 - 7)
sụn sườn bám trực tiếp và xương ức. Ba (8 - 9) sụn sườn bám gián tiếp
122 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
qua sụn sườn số 7. Hai xương sườn (11 - 12) không có sụn sườn mà treo
lơ lửng nên gọi là xương sườn cụt. Sụn sườn làm lồng ngực có tính đàn
hồi để thích nghi với động tác hô hấp.
* Xương ức: là xương lẻ, dẹt, dài, nằm ở phía trước lồng ngực. Gồm
3 phần: Cán ức, thân ức, mỏm kiếm.
8.2. Đại cương về cơ
8.2.1. Khái niệm
Cơ là một tổ chức rất khác nhau về mặt cấu tạo, nguồn gốc phát sinh
và chức năng. Tuy nhiên, tất cả các loại cơ đều chung đặc điểm là có khả
năng co bóp. Thường phân biệt ba loại cơ khác nhau: cơ vân (cơ xương),
cơ trơn và cơ tim.
8.2.2.1. Cơ vân
Cơ vân gồm nhiều bó sợi cơ xếp song song dọc theo chiều dài của cơ.
Mỗi sợi cơ là một tế bào rất dài từ 10 đến 40 mm, đường kính từ 10 đến
80 µm, có nhiều nhân, được bao bọc bởi màng sợi cơ (sarcolemma). Cơ
tương chứa nhiều tơ cơ và các bào quan khác. Mỗi sợi cơ được điều khiển
bởi một tận cùng thần kinh duy nhất nằm ở khoảng giữa sợi cơ.
a) Màng sợi cơ
Gồm một màng tế bào thật sự gọi là màng sinh chất và một lớp vỏ
mỏng bao bọc bên ngoài, lớp vỏ này chứa nhiều sợi collagen. Ở mỗi tận
cùng của sợi cơ, lớp vỏ mỏng hoà màng với sợi gân, rồi tập trung thành
từng bó tạo ra gân của cơ để bám vào xương.
b) Tơ cơ
Trong cơ tương có nhiều tơ cơ. Mỗi sợi cơ chứa khoảng vài trăm đến
vài ngàn tơ cơ. Mỗi tơ cơ gồm khoảng 1500 sợi myosin (dày) và 3000 sợi
actin (mỏng). Đó là những protein trùng hợp có tác dụng gây co cơ. Các
sợi myosin và actin cài vào nhau một phần làm cho tơ cơ có những giải
tối và giải sáng xen kẽ nhau. Giải sáng chỉ gồm các sợi actin gọi là đĩa I.
Giải tối chứa sợi myosin và các tận cùng của sợi actin cài vào giữa các sợi
myosin gọi là đĩa A (ở giữa đĩa A có vùng sáng được gọi là vùng H).
Từ hai bên của sợi myosin có những phần nhô ra gọi là những cầu
nối ngang, chính sự tác động qua lại giữa các cầu nối ngang này với các
sợi actin đã gây ra co cơ. Các tận cùng của sợi actin gắn vào vạch Z. Từ
vạch này, các sợi actin đi về hai phía và cài vào giữa các sợi myosin. Vạch
Z có nhiệm vụ gắn các tơ cơ của sợi cơ lại với nhau làm cho sợi cơ cũng
có những giải tối và sáng. Phần của tơ cơ nằm ở giữa hai vạch Z liên tiếp
được gọi là đơn vị tơ cơ (sacromere). Khi sợi cơ ở trạng thái bình thường,
chiều dài của sacromere vào khoảng 2µm.
* Cấu trúc phân tử của sợi myosin:
Mỗi sợi myosin gồm khoảng 200 phân tử myosin, dài khoảng 1,6 µm.
Mỗi phân tử myosin có trọng lượng phân tử là 480.000 và gồm 6 chuỗi
polypeptit (hai chuỗi nặng và bốn chuỗi nhẹ). Hai chuỗi nặng xoắn vào
nhau tạo thành dây xoắn kép. Ở một đầu dây, mỗi chuỗi nặng gấp lại
thành một khối protein hình cầu gọi là đầy myosin, như vậy mỗi dãy
xoắn kép của phân tử myosin có hai đầu nằm cạnh nhau. Phần kéo dài
của dây xoắn gọi là đuôi gồm bốn chuỗi nhẹ (mỗi đầu có 2 chuỗi), giúp
kiểm soát chức năng của đầu myosin trong quá trình co cơ.
Một phần của dây xoắn kép nhô ra ngoài cùng với đầu myosin gọi là
tay, đầu myosin và tay tạo thành cầu nối (cross-bridge). Các cầu nối trải
ra theo mọi hướng quanh sợi myosin. Đầu myosin có tác dụng phân giải
ATP để cung cấp năng lượng cho quá trình co cơ.
124 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Hình 8.8. Cấu tạo sợi và phân tử myosin [19]
* Cấu trúc phân tử của sợi actin: khá phức tạp gồm ba thành phần có
bản chất protein là actin, tropomyosin và troponin.
- Khung của sợi actin là phân tử actin F xoắn kép, chiều dài mỗi vòng
xoắn khoảng 70 mm. Mỗi chuỗi của dây xoắn kép actin F gồm nhiều phân
tử actin G trùng hợp (có khoảng 13 phân tử actin G trong mỗi vòng xoắn).
Gắn với mỗi phân tử actin G và một phân tử ADP là những vị trí hoạt động
của sợi actin, là nơi các cầu nối của sợi myosin sẽ tác động vào để gây co cơ.
- Tropomyosin có trọng lượng phân tử 70.000 N, dài khoảng 40 nm.
Các phân tử này nối lỏng lẻo với dây xoắn kép actin F và quấn quanh nó. Ở
trạng thái nghỉ, các phân tử tropomyosin nằm ở đỉnh của các vị trí hoạt động
của dãy xoắn actin để ngăn không cho sự tác động qua lại giữa sợi actin và
myosin có thể xảy ra. Mỗi phân tử tropomyosin phủ lên 7 vị trí hoạt động.
- Troponin gồm ba tiểu đơn vị là: troponin I có ái lực mạnh với actin,
troponin T có ái lực mạnh với tropomyosin và troponin C có ái lực mạnh
với ion Ca++. Phức hợp troponin có chức năng gắn tropomyosin vào actin
và nhờ ion Ca++ sẽ khởi động quá trình co cơ.
c) Cơ tương
Gồm những thành phần nội bào thông thường. Dịch cơ tương chứa
nhiều ion K+, Mg++, phosphat, protein enzyme. Một số lớn ty lạp thể nằm
ở giữa và song song với các tơ cơ, chứng tỏ rằng sự co của các tơ cơ cần
một lượng ATP rất lớn được tạo ra trong các ty lạp thể.
126 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Các bể chứa tận cùng tiếp giới với các ống ngang và có những
chân nối gắn vào màng của ống ngang, giúp cho sự truyền các tín
hiệu kích thích từ ống ngang đến các bể chứa và ống dọc của mạng
nội cơ tương.
8.2.2.2. Cơ trơn
Có nguồn gốc phát sinh từ trung mô, bao gồm các sợi dài hình thoi,
trong sinh chất có nhân hình ovan cùng với các tiểu thể dạng sợi mảnh
được gọi là tơ cơ. So với sợi cơ vân thì sợi cơ trơn có kích thước nhỏ hơn
nhiều, đường kính khoảng từ 2-5 µm. Cơ trơn nằm ở các cơ quan khác
nhau thường rất khác nhau, nhưng có thể chia làm hai loại chính:
- Cơ trơn nhiều đơn vị: gồm nhiều sợi cơ trơn riêng rẽ, mỗi sợi hoạt
động hoàn toàn độc lập, được điều khiển bởi một tận cùng thần kinh đơn
độc. Mặt ngoài của sợi cơ được bao phủ bởi một lớp mỏng giống màng đáy,
là hỗn hợp của những sợi collagen và glycoprotein, có tác dụng tách rời các
sợi cơ. Hoạt động của sợi cơ trơn nhiều đơn vị được kiểm soát bởi những
tín hiệu thần kinh, thường tập trung ở cơ mi, cơ mống mắt, cơ dựng lông,…
- Cơ trơn một đơn vị: là toàn bộ khối lượng hàng trăm đến hàng triệu
sợi cơ cùng co đồng thời như một đơn vị duy nhất. Các sợi cơ thường tập
trung lại thành từng lớp hoặc từng bó, màng của chúng dính với nhau
ở nhiều điểm, do đó lực sinh ra trong một sợi cơ có thể truyền sang sợi
bên cạnh. Các màng sợi cơ còn nối thông với nhau bởi nhiều khe nối qua
đó các ion có thể vận chuyển tự do từ tế bào này sang tế bào kia và điện
thế hoạt động cũng được truyền suốt sợi cơ sang sợi lân cận làm cho các
sợi cơ cùng đồng thời. Loại cơ trơn này còn được gọi là cơ trơn hợp bào,
thường gặp ở thành các tạng rỗng như ruột, ống mật, niệu quản, mạch
máu,… nên còn gọi là cơ trơn tạng.
8.2.2.3. Cơ tim
Có cấu tạo giống cơ vân, điểm khác nhau giữa hai loại cơ này thể hiện
ở chỗ: giữa các sợi cơ tim tồn tại các nhánh ngang nối chúng với nhau tạo
thành một mạng lưới. Các nhánh ngang cũng có thể do các tế bào cơ tạo
thành. Hoạt động của cơ tim tương tự như hoạt động của cơ trơn.
128 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
của các sợi myosin sẽ gắn vào điểm mới trên sợi actin và tiếp tục kéo nó
về tâm của khúc tơ cơ. Năng lượng dùng cho quá trình này là do sự phân
giải các phân tử ATP nằm ở đầu các sợi myosin cung cấp.
Sự co cơ kết thúc khi các ion Ca++ từ khoảng giữa các tơ cơ quay trở về
các bể chứa hoặc khi các phân tử ATP không kịp được tổng hợp để cung
cấp đủ năng lượng cho các cầu nối ngang hoạt động. Số các cầu nối ngang
được hình thành trong một đơn vị thời gian càng nhiều thì lực co cơ càng
lớn. Khi tốc độ co cơ tăng, số các cầu nối ngang sẽ giảm xuống và làm cho
lực co cơ cũng giảm xuống.
Sau khi cơ co, nhờ năng lượng của sự phân giải ATP, các ion Ca++ nhanh
chóng quay trở lại các ống dọc của cơ tương để dự trữ trong các bể chứa.
Ở đầu của chuỗi polypeptit của các sợi myosin, ATP được tái tổng hợp từ
ADP. ATP được tổng hợp làm xuất hiện lực đẩy tĩnh điện. Đồng thời, do
nồng độ canxi ở các tơ cơ giảm thấp, lực đẩy giữa các myosin và actin được
thiết lập trở lại. Sợi cơ lại trở về trạng thái ban đầu.
8.2.3.3. Những biến đổi hoá học chủ yếu trong quá trình co cơ
Cơ sở của sự co cơ là quá trình hoá sinh. Nguồn năng lượng chủ yếu
để duy trì hoạt động của cơ là do sự phân giải ATP. Dưới tác dụng của
enzyme myosin-ATP-aza, ATP bị thủy phân thành ADP và giải phóng
năng lượng. Thủy phân 1 mol ATP thành ADP và acid photphoric sẽ giải
phóng khoảng 7 kcal/mol, thành acid adenylic sẽ giải phóng 14 kcal/mol.
Năng lượng này được sử dụng để duy trì sự co cơ.
Nếu lượng ATP tiêu hao không được phục hồi thì cơ không thể co
liên tục và lâu dài được. Trong cơ thể, quá trình tổng hợp ATP có thể
diễn ra ở hai pha chính là pha yếm khí và pha ưa khí. Muốn thực hiện
được quá trình tổng hợp và sử dụng ATP, phải có ba hệ thống hoá học
hoạt động trong cơ: hệ photphagen, hệ lactin (hai hệ này hoạt động
trong môi trường yếm khí) và hệ oxy hoá khử (hoạt động trong môi
trường ưa khí).
130 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Các nguyên nhân gây ra sự mệt mỏi của cơ trong cơ thể không hoàn
toàn giống như các nguyên nhân gây ra sự mệt mỏi ở cơ cô lập, bởi vì
trong cơ thể, cơ liên tục nhận được các chất dinh dưỡng từ máu và có
thể thải ra khỏi cơ các sản phẩm chuyển hoá có tác dụng xấu đến hoạt
động của cơ. Sự mệt mỏi của cơ khi hoạt động trong điều kiện tự nhiên
là do những biến đổi trạng thái hoạt động của các nơron ở các vùng
cảm giác của vỏ não, nơi nhận các xung động thần kinh từ thụ quan gửi
về. Vì vậy, giấc ngủ và sự nghỉ ngơi có ảnh hưởng lớn đến sự mệt mỏi
của cơ. Ngay cả các giấc ngủ ngắn cũng có tác dụng làm giảm mệt mỏi
và làm tăng khả năng lao động. Các trạng thái tinh thần, xúc cảm, tình
cảm, hứng thú, động cơ,… cũng có thể làm tăng hoặc giảm sự mệt mỏi,
làm tăng hoặc giảm khả năng lao động của con người. Sự mệt mỏi còn
chịu ảnh hưởng của trạng thái hoạt động của các receptor, đặc biệt là
các receptor nằm ngay trên bộ máy vận động (trong cơ, khớp, gân). Một
số chất tác dụng lên nơron của vỏ não có thể làm tăng hoặc giảm sự mệt
mỏi của cơ.
8.3. Vệ sinh hệ vận động của trẻ lứa tuổi Tiểu học
Đến tuổi tiểu học, cơ thể của trẻ đã có nhiều thay đổi, trung bình
chiều cao của trẻ đã đạt trên 111 cm và cân nặng trên 17 kg. Hệ xương và
hệ cơ của trẻ đang trong thời kỳ phát triển và hoàn thiện. Vì thế, cần phải
thực hiện các bện pháp sau để hệ vận động của trẻ phát triển tốt.
- Hướng dẫn các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn
và có ích, rèn luyện sự khéo léo của tay và chân.
- Rèn cho các em thói quen đi, đứng, ngồi học đúng tư thế, không
mang vác các vật nặng, đi học đeo cặp trên cả hai vai… để phòng chống
cong vẹo cột sống.
- Chế độ dinh dưỡng đầy đủ và hợp lý, tăng cường bổ sung các thực
phẩm giàu canxi và tắm nắng thường xuyên…
132 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Câu 8. Trong hình dưới đây, đâu là tư thế nâng, mang, vác một vật
nặng đúng cách? Giải thích sự lựa chọn của bạn trên cơ sở kiến thức khoa
học về hệ xương và cơ.
Chương 9
MỤC TIÊU
Học xong chương Sinh lý thần kinh, người học phải:
- Hiểu và trình bày được những đặc điểm cơ bản về cấu tạo, chức
phận và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của hệ thần kinh.
- Áp dụng các kiến thức của hệ thần kinh trong việc giáo dục một
cách phù hợp với trẻ em lứa tuổi tiểu học.
NỘI DUNG
9.1.1. Đặc điểm cấu tạo chung của tế bào thần kinh
Mỗi nơron đều gồm phần thân tế bào và các tua (hình 9.1). Thân
nơron có hình sao hoặc hình thoi, gồm màng, tế bào chất và nhân. Nhân
nằm ở vị trí trung tâm, lượng ADN ở một số loại nơron có thể ở trạng thái
đa bội, thường là tứ bội. Tế bào chất có các bào quan như các tế bào khác,
ngoài ra còn có thể nissl là những khối chất có liên quan tới khả năng tổng
hợp protein và có những thể vùi, hạt mỡ, glycogen, sắc tố.
Các tua thần kinh chia làm 2 loại sợi là sợi nhánh và sợi trục. Mỗi
nơron có 1 sợi trục dài và nhiều sợi nhánh thường ngắn hơn. Sợi nhánh
xuất phát từ thân nơron và chia nhánh nhỏ dần như cành cây, có chức
năng tiếp nhận xung thần kinh truyền về thân nơron. Sợi trục có thể tách
ra nhánh ngang, nó có chức năng dẫn truyền xung thần kinh từ thân
nơron đi tới tế bào khác.
136 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Hình 9.2. Điện thế và tính thấm của ion thay đổi khi hình thành điện thế động [19]
138 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Hình 9.3. Sự dẫn truyền hưng phấn trên sợi thần kinh có miêlin [19]
140 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
synap, trong chùy có rất nhiều túi nhỏ chứa chất môi giới. Ở synap thần
kinh - cơ, chất môi giới là Axetincolin. Ở trung ương thần kinh, synap có
các chất môi giới có thể là Adrenalin, Dopamin, Seretonin. Các synap của
thần kinh giao cảm sau hạch thì chứa Noradrenalin. Màng của tế bào tiếp
cận với chùy synap là màng sau synap. Màng trước và màng sau ngăn
cách bởi khe synap.
đó sự dẫn truyền chỉ xảy ra theo một chiều. Mặt khác, khi qua synap, sự
dẫn truyền hưng phấn bị chậm lại vì thời gian từ lúc xung tác động vào
màng trước synap đến khi có những biến đổi phân cực của màng sau
synap kéo dài gần 0,3 ms (ba phần vạn giây).
9.2. Cấu tạo và chức phận của hệ thần kinh
Hình 9.5. Sơ đồ vị trí và cấu tạo các phần hệ thần kinh trung ương [19]
142 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
tâm tuỷ, bao quanh ống tâm tuỷ là chất xám có hình con bướm có thể chia
ra làm các phần:
- Hai sừng trước được cấu tạo bởi thân các nơron vận động.
- Hai sừng sau gồm thân các nơron trung gian.
- Sừng bên ở 2 bên nối sừng trước với sừng sau là nơi tập trung thân
các tế bào thần kinh giao cảm.
Hình 9.6. Sơ đồ về các đường đi lên và đi xuống trong chất trắng tuỷ sống [19]
Bao quanh chất xám là các đảo chất trắng, là những đường dẫn
truyền thần kinh chia làm 2 loại:
- Đường dẫn truyền cảm giác nằm phía sau có các bó Goll, bó Burdach,
bó tuỷ - tiểu não thẳng, bó tuỷ - tiểu não chéo, bó tuỷ - đồi thị (Déjerine).
- Đường dẫn truyền vận động ở phía trước có bó tháp thẳng, bó tháp
chéo và những bó ngoài tháp.
Các dây thần kinh tuỷ sống có nhánh đổ vào sừng sau và nhánh từ
sừng trước đi ra. Nhánh vào sừng sau là những sợi thần kinh của các
nơron cảm giác, còn nhánh từ sừng trước đi ra là sợi thần kinh của các
nơron vận động.
c. Chức năng của tuỷ sống
- Tuỷ sống tham gia tất cả các phản ứng vận động phức tạp của cơ
thể. Chất xám ở tuỷ sống là trung khu điều khiển hoạt động các phản xạ
vận động.
- Điều tiết hoạt động các cơ vân từ cổ trở xuống do phản xạ trương
lực cơ.
- Là trung tâm các phản xạ thực vật điều tiết hoạt động của hệ bài
tiết, hệ sinh dục.
- Tuỷ sống còn có chức năng dẫn truyền do các bó dẫn truyền nằm ở
phần chất trắng.
144 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
* Là nơi xuất phát của các dây thần kinh từ số V đến XII:
- Dây V là dây tam thoa (sinh ba), đó là dây pha vừa có chức năng
cảm giác, vừa có chức năng vận động.
- Dây VI là dây nhỡn ngoài đi đến cơ thẳng ngoài của mắt, có chức
năng vận động mắt.
- Dây VII là dây mặt, cũng là dây pha. Chức năng vận động cơ nét
mặt, cơ vành tai, cơ cổ, sụn móng lưỡi, cơ lưỡi, cơ hàm dưới và các tuyến
nước bọt dưới lưỡi, dưới hàm, chức năng cảm giác vị giác.
- Dây VIII là dây thính giác có 2 nhánh, một từ ốc nhĩ và một từ tiền
đình. Đó là dây cảm giác.
- Dây IX là dây lưỡi hầu, dây pha. Chức năng cảm giác ở 1/3 sau lưỡi
và xoang động mạch cổ, chức năng vận động cơ hầu, sụn móng hầu và
tuyến nước bọt mang tai.
- Dây X: dây phế vị (dây mê tẩu) là dây pha. Dây X là dây phó giao cảm
quan trọng nhất có chức năng vận động và cảm giác hầu hết các nội quan.
- Dây XI: dây phụ (dây gai sống) vận động cơ ức đòn chũm và cơ tai.
- Dây XII: dây hạ thiệt, vận động cơ lưỡi.
- Tham gia điều tiết các chức năng dinh dưỡng như hoạt động tim
mạch, hô hấp, tiêu hoá, điều hoá thân nhiệt.
9.2.1.5. Cấu tạo và chức năng của não trung gian
a. Vị trí và thành phần
Phía dưới não trung gian tiếp xúc với não giữa, phía trên là bán cầu
đại não, nó nằm trên cuống não và giữa 2 bán cầu đại não.
Thành phần chủ yếu có đồi thị (thalamus), vùng dưới đồi
(hypothalamus) và các nhân nền, trong có não thất III thông với rãnh Sylvius.
- Đồi thị là 2 khối chất xám lớn hình trứng, có tới 105 nhân khác
nhau. Các dải chất trắng chia đồi thị làm 3 phần: trước, giữa và sau.
- Vùng dưới đồi nằm dưới đồi thị, phía trước là giao thoa thị giác,
gồm 32 đôi nhân.
- Nhân nền chia làm 3 nhóm chính là nhân đuôi, nhân vỏ hến và
nhân cầu nhạt.
146 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
b. Chức năng
- Vùng đồi thị là trung khu cao cấp của cảm giác đau, là trạm trung
chuyển và chọn lọc các đường cảm giác trước khi gửi lên vỏ não.
- Vùng dưới đồi là trung khu thần kinh thực vật dưới vỏ cao cấp
nhất trong việc điều tiết các chức năng dinh dưỡng bằng con đường thần
kinh - thể dịch.
- Các nhân nền có chức năng phát động vận động dưới vỏ não mang
tính bản năng như trương lực cơ, dinh dưỡng tiêu hoá, sinh dục, tự vệ.
d. Dây thần kinh: hướng về đại não có hai dây thần kinh.
- Dây I: dây khứu giác.
- Dây II: dây thị giác, từ mắt dây xuyên qua lỗ thị giác vào tới não bộ
thành chéo thị giác, tới củ não sinh tư đi vào thùy chẩm.
Hình 9.7. Sơ đồ cấu trúc các thùy của hai bán cầu đại não [19]
148 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Hình 9.8. Sơ đồ vị trí các đôi dây thần kinh sọ [19]
Bảng 9.1. Chức năng của dây thần kinh sọ não
Dây số Tên Bộ phận cơ quan cảm giác Cơ quan vận động
VII Dây mặt Gai vị giác ở phần trước lưỡi Vận động cơ nét mặt, cơ vành tai, cơ cổ, cơ lưỡi,
sụn móng lưỡi, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi.
VIII Thính giác Ốc nhĩ và tiền đình
IX Lưỡi hầu 1/3 sau lưỡi, xoang động mạch cổ. Vận động cơ hầu, sụn móng hầu, tuyến nước
bọt mang tai.
X Phế vị Các nội quan, động mạch chủ, thanh quản... Các cơ thực quản thực hiện động tác nuốt, các
sợi phó giao cảm đến tim, dạ dày, ruột non.
XI Dây phụ Vận động ức đòn chũm, cơ tai.
b. Dây thần kinh tuỷ sống: Từ tuỷ sống phát đi 31 đôi dây thần kinh.
Mỗi dây nối với tuỷ sống bằng 2 rễ:
- Rễ trước đi ra từ sừng trước gồm các sợi thần kinh vận động.
- Rễ sau đi vào sừng sau gồm các sợi thần kinh cảm giác.
Hai rễ này chập làm một ở ngoài tuỷ sống và đi ra ngoài cột sống ở lỗ
gian đốt, phần cuối tách thành 3 nhánh: nhánh sau đến da, nhánh trước
đến cơ và nhánh thực vật đến nội quan.
Dây thần kinh tuỷ là dây pha do dây cảm giác (hướng tâm) và dây
vận động (ly tâm) cùng nằm trong một vỏ chung.
Mọi phản ứng của cơ thể động vật đều được điều khiển bằng hệ
thần kinh. Các kích thích của môi trường ngoài và môi trường trong vào
cơ thể đều được biến đổi thành xung thần kinh dẫn truyền về trung ương
(tuỷ sống và não bộ). Ở đó, trung ương phân tích bản chất của kích thích để
quyết định trả lời cũng bằng xung thần kinh dẫn truyền tới cơ quan phản
ứng. Sự phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường thông
qua hệ thần kinh gọi là phản xạ. Người ta phân biệt 2 loại phản xạ là phản
xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện.
Hình 9.9. Sơ đồ cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh thực vật [19]
150 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
9.2.2.3. Chức năng và cơ chế dẫn truyền hệ thần kinh thực vật
a. Chức năng
Từ hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm có các sợi đi đến hầu
hết các cơ quan dinh dưỡng và chi phối hoạt động của các cơ quan này.
Nhưng tác dụng của thần kinh giao cảm và phó giao cảm đối với từng
cơ quan thường có tính chất đối lập nhau trong một thể thống nhất, phối
hợp và hỗ trợ nhau để giữ cân bằng cho các hoạt động sống.
Tác dụng của hệ thần kinh thực vật đối với các cơ quan thể hiện ở
chức năng điều hoà hoặc phát động hoạt động. Đối với các cơ quan có
tính tự động và hoạt động liên tục thì xung động thần kinh từ dây giao
cảm hoặc phó giao cảm có tác dụng làm tăng hoặc giảm hoạt động của
cơ quan đó. Đối với các cơ quan không hoạt động liên tục thì xung động
thần kinh từ dây giao cảm và phó giao cảm có tác dụng phát động hoạt
động của cơ quan đó.
Cơ quan chịu tác động Tác dụng giao cảm Tác dụng phó giao cảm
Đồng tử (mắt) Giãn Co
Tim:
Nhịp Tăng Giảm
Lực co Tăng Giảm
Dẫn truyền Tăng Giảm
Hưng phấn Tăng Giảm
Trương lực Tăng Giảm
Mạch máu ở:
Da Co Giãn
Cơ vân Giãn -
Nội tạng ở bụng Giãn Co
Phổi Giãn Co
Tuyến nước bọt Co Giãn
Cơ quan sinh dục Co Giãn
Ống tiêu hoá Co Giãn
Cơ trơn ở:
Phế quản Giãn Co
Thực quản Giãn Co
Tâm vị Co Giãn
Dạ dày Giảm co bóp và trương lực Tăng co bóp và trương lực
Môn vị Co Giãn
Ruột Giảm trương lực Tăng trương lực
Trực tràng Giãn Co
Bàng quang Giãn Co
Tử cung không thai Giãn -
Tử cung có thai Co -
Tuyến:
Mồ hôi Tăng tiết -
Nước bọt Tăng tiết nước bọt đặc Tăng tiết nước bọt loãng
Dạ dày Giảm bài tiết dịch vị Tăng bài tiết dịch vị
Tuỵ ngoại tiết Giảm bài tiết dịch tuỵ Tăng bài tiết dịch tuỵ
Tuỵ nội tiết - Tăng bài tiết hormone
Vỏ tuyến trên thận Tăng bài tiết hormone Không tác dụng
Tuỷ tuyến trên thận Tăng bài tiết hormone Không tác dụng
152 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
- Axetincolin đối với các sợi trước hạch phó giao cảm và giao cảm và
với sợi sau hạch của phó giao cảm.
- Noradrenalin đối với sợi sau hạch giao cảm.
c. Điều hoà hoạt động thần kinh thực vật
Các phản xạ thực vật là các phản xạ không có ý thức. Tuy nhiên,
chúng cũng chịu sự điều hoà của vỏ não, chẳng hạn sự xúc động hay sợ
hãi làm thay đổi nhịp tim mạch, nhịp hô hấp...
Trực tiếp điều khiển hoạt động thần kinh thực vật là vùng dưới đồi
Hypothalamus, đó là trung khu cao cấp nhất của thần kinh thực vật.
Ngoài ra, thần kinh thực vật còn chịu sự điều hoà thể dịch. Các
hormone của các tuyến nội tiết như tuyến giáp, phần tuỷ của tuyến trên
thận làm tăng hoạt động giao cảm.
Câu 6. Trình bày những hiểu biết về hệ thần kinh thực vật.
Chương 10
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được những đặc điểm cơ bản về cấu tạo, chức
phận của các cơ quan phân tích trong quá trình phát triển của trẻ em lứa
tuổi tiểu học.
- Phân tích được những nguyên tắc cơ bản trong tiếp nhận thông tin
của các cơ quan phân tích.
- Áp dụng các hiểu biết về các cơ quan phân tích trong việc giáo dục
một cách phù hợp với trẻ em lứa tuổi tiểu học.
NỘI DUNG
154 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Con đường nối cơ quan thụ cảm với các tế bào thần kinh trên vỏ
não được tạo thành ít nhất từ 4 nơron. Đó là các nơron cảm giác nằm
bên ngoài hệ thần kinh trung ương mà nằm trong các hạch của tuỷ sống
hay của não. Nơron thứ hai nằm trong tuỷ sống, hành não hay não giữa.
Nơron thứ ba nằm trong các nhân của đồi thị và nơron thứ tư thuộc các
vùng phản chiếu của vỏ bán cầu đại não.
10.2. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích
10.2.1. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích xúc giác – Da
Hình 10.1. Sơ đồ vị trí và cấu trúc các thể thụ cảm ở da người [19]
- Lớp biểu bì: là lớp ngoài cùng của da, được cấu tạo bởi mô thượng
bì có nhiều tầng tế bào. Những tầng ở trên thường bị hoá sừng bong ra
và được thay thế bởi các tầng dưới. Tầng sâu nhất của biểu bì có độ dày,
mỏng khác nhau tùy theo từng vùng của cơ thể.
- Lớp da chính thức: là lớp mô liên kết, có nhiều sợi sinh chất nhờn, sợi
đàn hồi và sợi cơ trơn. Tầng gai ở phía trên tiếp giáp biểu bì. Trên bề mặt
có các lồi gai bên trong có các mạch máu, mạch bạch huyết và đầu mút dây
thần kinh. Các lồi gai nổi lên cả ở trong lớp biểu bì tạo ra những đường
gờ này. Tầng lưới được cấu tạo bởi mô liên kết sợi chắc, dày hơn tầng trên.
- Lớp dưới da: lớp này nằm sâu và phủ lên các cơ quan bên trong cơ
thể, là lớp mô liên kết sợi xốp có xen kẽ với các tế bào mỡ để tạo thành lớp
mỡ dưới da. Độ dày của lớp mỡ tùy theo tuổi, chế độ dinh dưỡng và vị trí.
Ngoài ra còn có các cấu trúc đặc biệt khác của da như: lông mọc xiên
trong da, móng ở ngón tay, chân và các tuyến da.
156 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
- Cơ quan cảm giác nhiệt: bao gồm hai thụ quan nhiệt, có nhiệm vụ
thu nhận các cảm giác về nóng (khoảng 30.000 thụ quan) và lạnh (khoảng
250.000 thụ quan). Ngoài ra các đầu mút tận cùng của các sợi thần kinh
hướng tâm cũng có thể thu nhận kích thích nhiệt.
- Cơ quan cảm giác đau đớn: thụ quan đau đớn không có tác nhân
kích thích đặc trưng. Mọi kích thích tương đối mạnh làm tổn thương
tổ chức cơ đều có thể gây cảm giác đau. Khi có các kích thích gây đau
đớn tại các đầu mút thần kinh thì các hợp chất hoá học như histamine,
bradyikinin được tạo thành và kích thích các thụ quan đau đớn làm xuất
hiện xung đưa về não.
- Tham gia phối hợp thực hiện các chức năng: bảo vệ cơ thể, điều hoà
thân nhiệt, hô hấp, bài tiết nước, muối khoáng và chất nhờn,…
10.2.2. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích thính giác – Tai
10.2.2.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích thính giác: gồm 3 phần
Hình 10.2. Sơ đồ cấu trúc các phần của tai [19]
Phần trung ương: nằm ở hai củ não sinh tư phía trên của não giữa và
ở thùy chẩm của bán cầu đại não.
Phần dẫn truyền: đôi dây thần kinh thính giác (số VIII). Dây thần kinh
thính giác được chia thành hai nhánh, một nhánh tới ốc nhĩ tạo thành dây
thần kinh ốc nhĩ và một nhánh tới bộ máy tiền đình tạo thành dây thần kinh
tiền đình. Dây thần kinh ốc nhĩ đi tới hành tuỷ, sau khi ra khỏi hành tuỷ thì
phần lớn các sợi thần kinh sẽ bắt chéo sang phía đối diện rồi tới não giữa. Tại
não giữa, một số sợi thần kinh sẽ kết thúc ở củ não sinh tư dưới, số còn lại đi
tới thể gối trong của đồi thị rồi từ đó có các sợi đi tới thùy thái dương.
Phần ngoại biên: gồm 3 phần
- Tai ngoài:
+ Vành tai: cấu tạo sụn đàn hồi, da bọc kín, phía dưới có dái tai gồm da
và mô mỡ.
+ Ống tai ngoài: dạng ống, hình chữ S, dài khoảng 2,5 cm gồm ống
sụn ở phía ngoài (chiếm 1/3 độ dài, có chứa nhiều tuyến nhờn và lông) và
ống xương phía trong.
+ Màng nhĩ: nằm trong cùng, được cấu tạo bởi các mô sợi. Màng nhĩ
có hình dạng hơi bầu lõm đáy ra phía ngoài, đường kính khoảng 10 mm
dày khoảng 0,1 mm.
- Tai giữa:
+ Xoang nhĩ: có thể tích khoảng 1 cm3, thông với ống nhĩ - hầu. Trong
xoang nhĩ có 3 xương nhỏ liên hệ với nhau từ ngoài vào là: xương búa,
xương đe và xương bàn đạp, ngoài ra còn có hai cơ là: cơ căng màng nhĩ
và cơ cố định xương bàn đạp.
+ Ống nhĩ - hầu: có kích thước khoảng 3 cm, rộng khoảng 2 mm nối
thông giữa xoang nhĩ với phần mũi hầu ở thành bên của khoang miệng.
Phần thông xoang nhĩ có cấu tạo xương, phần thông với hầu (bình thường
xẹp xuống và đóng kín) có cấu tạo sụn.
+ Các nang chũm: là những xoang nhỏ nằm sâu trong phần chũm của
xương thái dương. Các xoang này thông với nhau và thông với xoang nhĩ
thành một hệ thống.
- Tai trong (mê lộ):
+ Mê lộ xương: gồm ba phần chính là các vòng bán khuyên (gồm 3 ống
xương hình vòng cung nằm trên ba mặt phẳng vuông góc với nhau và
đều thông với tiền đình ở hai đầu) ở phía trên; tiền đình xương (khoang
nhỏ có nhiều đường thông với ốc tai, tai giữa và vòng bán khuyên) ở
giữa; ốc tai (ống xương xoắn trôn ốc khoảng 2,5 vòng, một đầu thông với
158 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
tiền đình còn một đầu bịt kín, ngoài ra còn có thêm một tấm xương xoắn
hở và màng ốc tai chia xoang ốc tai thành hai nửa, một nửa thông với tiền
đình nửa kia thông với phần nhĩ phụ) ở phía dưới.
+ Mê lộ màng: được cấu tạo bởi mô liên kết sợi, mặt trong có lớp
thượng bì dẹp, trong có chứa dịch nội bào. Khoang tiền đình có phần
mê lộ màng là hai túi, túi cầu thông với màng ốc tai và túi hầu thông với
phần bán khuyên. Phần ống bán khuyên có mê lộ in theo hình các ống
này. Ốc tai có mê lộ là hai màng chạy dọc ống xương tai là màng tiền đình
và màng cơ sở. Hai màng này chia ốc tai thành 3 ống nhỏ: ống trên thông
với tiền đình gọi là ống tiền đình, ống dưới thông với cửa sổ gọi là ống
màng nhĩ (hai ống này chứa dịch ngoại bào), ống giữa thông ra túi cầu ở
khoang tiền đình gọi là ống màng (chứa dịch nội bào).
Trên màng cơ sở có các thụ thể thu nhận kích thích về âm thanh gọi
là cơ quan corti, gồm có những tế bào chống đỡ và các tế bào thính giác có
lông nằm xen kẽ, trên bề mặt có màng che phủ.
Hình 10.3. Sơ đồ sự truyền sóng âm từ màng nhĩ qua xương búa,
xương đe, xương bàn đạp đến cửa sổ bầu dục và ốc tai [19]
Sự rung động của nội dịch và màng cơ sở là những kích thích tác
động lên các tế bào thính giác của cơ quan corti, là nơi sinh ra xung động
thần điện. Từ đó xung thần kinh đi theo các sợi thần kinh từ hạch xoắn
ốc corti nằm ở trung tâm ốc tai truyền theo dây thần kinh số VIII về trung
ương thần kinh, tại đây xảy ra quá trình phân tích phức tạp và kết quả là
cho ta cảm giác về âm thanh.
Ở người, cơ quan phân tích thính giác có khả năng tiếp nhận các âm
thanh với tần số từ 20 đến 20.000 Hz và có tốc độ lan truyền bằng 30 m/giây.
Cơ quan phân tích thính giác ở người có độ nhạy cảm cao nhất đối với các
sóng âm thanh có tần số khoảng 2.000 đến 4.000 Hz.
160 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Hình 10.4. Sơ đồ cấu trúc các thụ quan thăng bằng [19]
10.2.3. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích thị giác - Mắt
10.2.3.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích thị giác: gồm 3 phần
Phần trung ương: nằm ở củ não sinh tư phía trên của não giữa và ở
thùy chẩm của bán cầu đại não.
Phần dẫn truyền: đôi dây thần kinh thị giác (số II). Dây thần kinh thị
giác được tạo thành từ trục của các tế bào hạch trong võng mạc. Khi tới
não giữa, một số sợi sẽ bắt chéo rồi tới thể gối ngoài của vùng đồi thị. Các
sợi thần kinh từ thể gối ngoài sẽ tới thùy chẩm của bán cầu đại não. Một
số kết thúc tại hai củ trên của củ não sinh tư và tham gia vào thực hiện
các phản xạ vận động thị giác. Một số sợi không bắt chéo mà đi về nửa
não cùng bên.
Phần ngoại biên:
- Cầu mắt: nằm lọt trong xương hố mắt gọi là ổ mắt có đường kính
khoảng 25 mm, có tác dụng làm giá đỡ và bảo vệ mắt.
+ Màng cứng: là lớp ngoài cùng được cấu tạo bởi lớp vỏ mô liên kết
rất dai có màu trắng ngà, đục, có tác dụng bảo vệ cầu mắt. Phía trước là lớp
giác mạc trong suốt.
+ Màng mạch: nằm dưới màng cứng, cấu tạo mềm gồm nhiều mạng
lưới mạch máu có nhiệm vụ nuôi dưỡng mắt, xen kẽ có các tế bào sắc tố
đen để hấp thụ ánh sáng tán xạ.
Trên màng mạch có các cấu trúc: Thể mi là phần dày lên của màng
mạch có chức năng tiết ra thể dịch, ngoài ra còn có các cơ trơn và dây
chằng làm thay đổi hình dạng thủy tinh thể; Mống mắt (lòng đen) hình
đĩa tròn, cấu tạo bởi mô đệm liên kết chứa nhiều sắc tố, có hai loại cơ trơn
có tác dụng co giãn con ngươi; Con ngươi (đồng tử) là lỗ thủng tròn nằm
chính giữa mống mắt, đường kính khoảng 2 - 5 mm có vai trò điều chỉnh
lượng ánh sáng lọt vào bên trong.
+ Võng mạc (màng lưới): dày khoảng 0,2 mm, là lớp màng thần kinh
thụ cảm ánh sáng, nằm trong cùng giáp với thủy tinh thể.
Võng mạc gồm 3 lớp tế bào sau: Lớp sắc tố nằm sát thủy tinh dịch chứa
sắc tố, trong đó lớp sắc tố đen (melamin) có tác dụng không cho ánh sáng
phản xạ trong nhãn cầu nhờ đó ta nhìn vật được rõ hơn; Lớp tế bào gậy
và tế bào nón là những tế bào cảm thụ ánh sáng, có khoảng 110 - 125 triệu
162 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
tế bào gậy (cảm nhận ánh sáng tối mờ, không cảm nhận được màu sắc) và
khoảng 6-7 triệu tế bào nón (cảm nhận ánh sáng, màu sắc và tạo hình ảnh
chi tiết của vật); Lớp tế bào hạch là những tế bào có sợi trục tập hợp thành
dây thần kinh thị giác số II, tại đây không có các tế bào cảm thụ ánh sáng
phân bố nên được gọi là điểm mù.
Ngoài ra, còn có vùng Fovea: nằm trung tâm võng mạc có đường
kính khoảng 0,4 mm, chỉ gồm các tế bào nón mảnh có thể phát hiện các
chi tiết của ảnh.
+ Thủy tinh thể (nhân mắt): cấu trúc protein có tính đàn hồi (để có thể
nhìn gần cũng như nhìn xa) và trong suốt (có khả năng khúc xạ ánh sáng),
chia mắt thành hai buồng có chứa dịch trong suốt: buồng trước chứa dịch
nước, buồng sau chứa dịch thủy tinh có tác dụng định hình cầu mắt.
+ Thủy tinh dịch: khối lớn choán phần rỗng của cầu mắt, tiếp xúc với
võng mạc. Toàn bộ được bọc trong màng mỏng gọi là màng thủy tinh.
Thủy tinh dịch là chất dịch trong suốt và có khả năng khúc xạ ánh sáng.
+ Thủy dịch: là chất được tạo thành do các mạch máu trong lòng đen
và thể mi tiết ra (2-3 ml/phút) theo cơ chế tích cực. Thành phần dịch gồm
nước và các ion đi lên bề mặt thể mi, một số chất dinh dưỡng (acid amin,
acid ascorbic, glucozơ).
+ Nhãn áp: là áp suất trong mắt, được giữ cố định, trung bình từ
12 đến 20 mmHg. Áp suất này sinh ra do sức cản lên dòng chảy của thủy
dịch từ phòng trước vào ống Schlemm, nếu nhãn áp tăng cao kéo dài có
thể gây ra một số bệnh như glocom, mù lòa,…
- Các cấu tạo hỗ trợ:
+ Mi mắt: bao gồm mi trên và mi dưới, là những nếp da dưới cầu mắt
có tác dụng khép kín cầu mắt. Lông mi ở bờ trên và bờ dưới có tác dụng
bảo vệ mắt chống bụi.
+ Tuyến lệ và ống dẫn: nằm trong hố lệ của xương trán, là những tuyến
nhỏ hình ống tiết ra nước mắt chảy vào 10 ống đổ vào hố lệ ở gốc mắt, có
tác dụng làm ướt cầu mắt và đẩy vật lạ ra khỏi mắt.
+ Cơ vận động cầu mắt: gồm bốn cơ thẳng nằm bốn phía của cầu mắt
và hai chéo. Khi các cơ co không đồng thời sẽ làm cầu mắt vận động theo
trục ngang, dọc.
Hình 10.6. Hệ thống quang học của mắt người [19]
Mắt người có thể nhìn rõ mọi vật cách xa từ 65 m trở lên với ảnh hiện
rõ trên võng mạc mà không cần sự điều chỉnh nào. Để có thể nhìn rõ vật
ở các cự ly khác nhau, mắt cần phải có những điều chỉnh tiêu cự thích
hợp bằng cách di chuyển thủy tinh thể hoặc thay đổi độ cong của thủy
tinh thể.
Cơ chế hoá sinh: là quá trình xảy ra các phản ứng biến đổi sắc tố cảm
quang Rodopsin ở tế bào que và Iodopsin ở tế bào nón.
- Sự chuyển hoá Rodopsin ở tế bào que: Rodopsin là một phức chất
do một loại protein là opsin kết hợp với sắc tố retinen (hình thành từ
vitamin A) được tổng hợp trong bóng tối. Dưới tác dụng của ánh sáng,
chỉ trong vòng vài phần triệu giây phản ứng ngược lại sẽ diễn ra, retinen
sẽ tách khỏi opsin. Retinen tồn tại dưới hai dạng trans (bền vững) và
dạng cis (dễ dàng kết hợp với opsin). Phản ứng tách dưới tác dụng của
ánh sáng làm biến đổi tính thấm của màng tế bào que từ đó tạo xung thần
kinh đi tác động tế bào hạch. Kết quả của phản ứng này là các tế bào que
cho ta hình ảnh đen/ trắng trong điều kiện cường độ ánh sáng yếu.
164 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Thị lực: chức năng quan trọng nhất của cơ quan phân tích thị giác là
xác định mối tương quan về mặt không gian giữa các vật nhìn thấy được
như: kích thước, hình dạng, mức độ xa hay gần,… Một số các dạng phân
tích không gian tương đối đơn giản là phân biệt các vật nhỏ hoặc các chi
tiết nhỏ được gọi là thị lực. Thị lực của mắt là khả năng phân biệt các
nguồn sáng nằm sát nhau, nếu mắt thường thì có thể phân biệt hai điểm
sáng tạo thành một cung 0,45 độ (phân biệt được hai điểm cách mắt 10 m
và cách nhau 2 mm). Thị lực không chỉ phụ thuộc vào khoảng cách giữa
các vật mà còn phụ thuộc vào mức độ chiếu sáng, mức độ tương phản
giữa chúng và môi trường xung quanh, vị trí ghi nhận hình ảnh trên võng
mạc cũng như khả năng thích nghi của mắt.
10.2.4. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích khứu giác – Mũi
10.2.4.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích khứu giác: gồm 3 phần
Hình 10.8. Sơ đồ vị trí và cấu trúc các tế bào thụ cảm
và dây thần kinh khứu giác [19]
Phần trung ương: gồm một nhóm nhân nằm ở giữa nền của não trước
và ở phía trên vùng dưới đồi (hypothalamus), trong đó quan trọng nhất
là nhân vách có mối liên hệ chặt chẽ với vùng dưới đồi và các phần khác
của hệ viền (limbic).
Phần dẫn truyền: là đôi dây thần kinh khứu giác (số I). Dây thần kinh
khứu giác bắt đầu từ xoang mũi luồn qua xương xoang để vào xương sọ.
Tại đây, chúng tiếp xúc với các tế bào thần kinh của hành khứu giác. Các sợi
thần kinh của hành khứu giác sẽ liên kết với nhau tạo thành bó khứu giác.
166 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Phần ngoại biên: các tế bào khứu giác là các tế bào lưỡng cực, có nguồn
gốc từ hệ thần kinh trung ương. Ở niêm mạc khứu giác có khoảng 100 triệu
tế bào khứu giác nằm xen kẽ với các tế bào đệm. Mặt trông ra lớp niêm dịch
tạo thành các nút. Ở mỗi nút có từ 6 đến 12 sợi lông khứu giác có đường kính
khoảng 0,3 µm và dài khoảng 200 µm. Các sợi lông này tạo thành một lớp
phủ dày ở niêm dịch. Chính các sợi lông này đáp ứng mùi có trong không
khí rồi kích thích tế bào khứu giác. Các tuyến Bowman nằm rải rác giữa các
tế bào khứu giác bài tiết niêm dịch trên bề mặt của niêm mạc khứu giác.
gam khí H2S trong 1 lít không khí là đã có cảm giác về mùi). Các tế bào cảm
thụ khứu giác có khả năng thích nghi rất cao. Khi bị kích thích, tế bào cảm
thụ khứu giác thích nghi đến 50% sau giây đầu tiên và sau đó yếu dần. Do
đó ngưỡng khứu giác giảm đáng kể khi ngửi lâu một chất bay hơi nào đó.
10.2.5. Cấu tạo và chức năng sinh lý của cơ quan phân tích vị giác - Lưỡi
10.2.5.1. Cấu tạo của cơ quan phân tích vị giác: gồm 3 phần
- Phần trung ương: nằm ở khu vực dưới của hồi đỉnh lên thuộc thùy
đỉnh của bán cầu đại não.
- Phần dẫn truyền: gồm các sợi thần kinh thuộc đôi dây thần kinh sọ
số V, VII, IX và XI, có nhiệm vụ dẫn truyền xung thần kinh từ các phần
khác nhau của lưỡi về hành tuỷ. Từ đây, các sợi thần kinh vị giác đi tới đồi
thị và về bán cầu đại não.
- Phần ngoại biên: trên bề mặt lưỡi có các thụ cảm vị giác ở trên các
gai vị giác, nhất là gai vòng và gai lá còn gọi là các núm vị giác, phần lớn
nấm ở chỗ V lưỡi. Một số ít hơn thể thụ cảm nằm ở gai vị giác có hình
nầm trong diện phẳng dưới lưỡi, một số khác nằm ở các gai dọc hai bên
lưỡi. Ngoài ra còn có ở các núm vị giác nằm rải rác ở vòm hầu, trụ màn
hầu, thậm chí ở ngay gần thực quản. Người trưởng thành có khoảng
10.000 núm vị giác, ở trẻ em thì ít hơn, người già thì các núm vị giác thoái
hoá nên khả năng phân biệt vị giác kém đi.
Hình 10.9. Sơ đồ cấu tạo của núm vị giác, sự phân bố các vùng
cảm giác vị giác và thần kinh cảm giác vị giác trên lưỡi [19]
168 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
nào đó của sự vật hiện tượng. Sự phối hợp các cơ quan phân tích, sự hoạt
động phức tạp trên vỏ não cho ta thông tin đầy đủ về sự vật hiện tượng.
- Vệ sinh cơ quan phân tích thị giác: Bệnh về mắt thường gặp do một số
loại do virut, vi khuẩn gây ra như bệnh đau mắt hột, đau mắt đỏ… hay
bệnh quáng gà khi khẩu phần ăn thiếu vitamin A. Đồng thời, tật khúc xạ
học đường đang gia tăng ở học sinh lứa tuổi tiểu học và là vấn đề được
xã hội quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tật khúc xạ học đường
ở học sinh tiểu học như điều kiện học tập (ánh sáng, bàn ghế, bảng,…)
chưa đúng tiêu chuẩn, tư thế ngồi học không đúng, chế độ sinh hoạt (đọc
truyện, chơi game, xem tivi,…) không hợp lý. Vì vậy, thực hiện các biện
pháp để bảo vệ mắt như: giảm mọi căng thẳng của mắt (hạn chế thời gian
xem tivi, chơi game,…), phương tiện phục vụ học tập phải phù hợp (kích
thước bàn ghế, sách vở in rõ ràng…), ngồi học phải đúng tư thế, không
ngồi quá gần màn hình tivi, bổ sung các chất dinh dưỡng hỗ trợ cho mắt
(cho trẻ ăn nhiều rau quả cho màu vàng, lá màu xanh đậm để bổ sung các
vitamin cần thiết), phát hiện sớm tật khúc xạ và tuyên truyền chống tật
khúc xạ học đường.
- Vệ sinh cơ quan phân tích thính giác: Quá trình hình thành cơ quan
phân tích thính giác bắt đầu rất sớm, ngay từ những ngày đầu của thời
kỳ phát triển phôi thai. Ở người, tai trong được hình thành vào tuần thứ
tư của thời kỳ phát triển phôi thai. Các cơ quan cảm thụ âm thanh bắt
đầu hoạt động ngay từ sau khi sinh ra. Âm thanh có thể tạo ra phản ứng
định hướng ngay từ những giây phút đầu tiên ở đứa trẻ sau khi sinh ra
và hoàn chỉnh hoá muộn nhất. Trong quá trình phát triển cá thể, cơ quan
phân tích thính giác hoàn chỉnh hoá dần dần. Các ống thính giác được
cấu tạo hoàn toàn bằng sụn và sau đó được xương hoá dần. Chính điều
này làm cho vi khuẩn dễ dàng chui vào tai giữa gây các biểu hiện nôn, sổ
mũi, thậm chí viêm tai giữa kéo dài.
Đến khi bắt đầu vào nhà trường tiểu học, trẻ có khả năng quan trọng
nhất là ghi nhớ của thính giác. Đó là trẻ có khả năng kể lại sự việc một
cách chi tiết các âm thanh được thính giác ghi nhận. Nếu khi trẻ bắt đầu
đi học, sự ghi nhớ của thính giác phát triển chưa đầy đủ thì trẻ sẽ gặp
khó khăn trong quá trình học tập, không biết sắp xếp công việc phải làm
170 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
trước và công việc phải làm sau. Chúng ta cần rèn luyện khả năng thính
giác của trẻ bằng nhiều biện pháp dưới dạng trò chơi như: bắt chước âm
thanh ngoài tự nhiên, phán đoán âm thanh, truyền tin, đóng kịch, vận
động theo nhạc,…
- Vệ sinh cơ quan phân tích xúc giác: đối với trẻ thì cơ quan phân tích
xúc giác có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp trẻ nhận thức được thế
giới xung quanh và làm xuất hiện những phản xạ tự vệ. Đối với trẻ lứa
tuổi tiểu học, xúc giác có vai trò kích thích hệ thần kinh, tạo cảm giác an
toàn. Cảm giác xúc giác của trẻ được tăng dần theo lứa tuổi và phụ thuộc
vào điều kiện luyện tập tự nhiên hay nhân tạo. Đến khi 6 tuổi, trẻ có thể
phân biệt được tính chất bề mặt của vật bằng cách sờ nắn. Để làm được
điều đó, trẻ phải được rèn luyện bằng cách được tiếp xúc với thế giới
xung quanh thông qua các hoạt động chơi như: đoán đồ vật mà không
cần nhìn, đoán nhiệt độ nước,… Xúc giác phát triển tốt tạo khả năng học
tập cho trẻ vì xúc giác tạo được sự thăng bằng trong hệ thần kinh.
- Vệ sinh cơ quan phân tích khứu giác và vị giác:
Ở thai nhi, niêm mạc khứu giác xuất hiện vào tháng thứ hai. Về mặt
sinh lý, các phản xạ khứu giác xuất hiện vào các thời điểm khác nhau. Các
phản xạ với mùi có thể tạo được từ lúc 4 tuần sau khi sinh. Hưng tính của
cơ quan phân tích khứu giác bắt đầu tăng từ năm 6 tuổi và đạt tới mức
tinh vi vào lúc 14 tuổi. Nhìn chung ở trẻ cảm giác khứu giác còn kém, chỉ
có khả năng phản ứng với những mùi mạnh. Khả năng phân biệt các mùi
tăng dần theo lứa tuổi và phụ thuộc vào sự luyện tập.
Quá trình hình thành bộ phận ngoại biên của cơ quan phân tích vị
giác xảy ra trong thời kỳ phát triển phôi thai. Ở trẻ nhìn chung diện tích
niêm mạc có cảm giác về vị rộng hơn nhiều so với ở người lớn. Bên cạnh
các vùng vị giác đặc trưng như ở người lớn thì ở trẻ em, các cơ quan cảm
thụ về vị giác còn phân bố khắp các vùng dưới lưỡi, bề mặt dưới của đầu
lưỡi, vòm miệng và cả tại niêm mạc của môi, má. Tính nhậy cảm của cơ
quan phân tích vị giác phụ thuộc vào nhu cầu đòi hỏi của cơ thể đối với
thức ăn. Trong thời gian ăn, tính nhạy cảm chung suy giảm nhưng nhạy
cảm phân biệt lại tăng. Ở trẻ khi bị rối loạn tiêu hoá thì tính nhạy cảm vị
giác giảm sút rõ, ở trẻ còn có biểu hiện không chịu ăn.
Nhìn chung, hoạt động của cơ quan phân tích khứu giác có ảnh
hưởng tới hoạt động của cơ quan phân tích vị giác và ngược lại. Khi cảm
giác khứu giác của trẻ tạm thời bị mất hoặc suy giảm sẽ làm cho cảm giác
vị giác bị rối loạn theo. Sự phối hợp của hai cơ quan phân tích vị giác và
khứu giác sẽ giúp cho cơ thể trẻ có cảm giác đầy đủ hơn về chất lượng
thức ăn và môi trường không khí xung quanh.
Chương 11
MỤC TIÊU
Học xong chương này, người học phải:
- Hiểu và trình bày được mối liên hệ giữa các hoạt động phản xạ, ức
chế phản xạ có điều kiện với hoạt động hành vi hằng ngày của trẻ.
- Ứng dụng trong điều kiện giảng dạy để hình thành các phản xạ có
điều kiện trong cuộc sống của trẻ.
- Áp dụng những hiểu biết về quy luật hoạt động thần kinh cấp cao
trong việc giáo dục trẻ tiểu học một cách có hiệu quả.
- Hình thành các hệ thống tín hiệu của trẻ trong quá trình giáo dục
và phát triển của trẻ…
NỘI DUNG
11.1. Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 173
- Khâu tiếp nhận: được cấu tạo bởi các cơ quan thụ cảm, có nhiệm vụ
tiếp nhận tác nhân kích thích và biến năng lượng của tác nhân kích thích
thành xung động thần kinh.
- Khâu dẫn vào: được cấu tạo bởi các sợi thần kinh (hoặc dây thần
kinh) hướng tâm, có nhiệm vụ dẫn truyền xung động thần kinh từ cơ
quan thụ cảm về trung ương thần kinh.
- Khâu trung ương thần kinh: được cấu tạo bởi các nơron nằm trong các
trung khu thần kinh ở tuỷ sống hoặc ở não, có nhiệm vụ tiếp nhận các xung
động thần kinh từ cơ quan thụ cảm gửi về, phân tích chúng và ra lệnh trả
lời. Một cung phản xạ thường gồm có 3 loại nơron là nơron hướng tâm,
nơron ly tâm và nơron trung gian. Tuy nhiên, những phản xạ đơn giản chỉ
cần có 2 loại nơron là nơron hướng tâm và nơron ly tâm. Ví dụ phản xạ
gân bánh chè (còn gọi là phản xạ đầu gối). Trong thực tế đời sống của con
người, có rất nhiều phản xạ không chỉ gồm có 2 hay ba nhóm nơron mà
những phản xạ phức tạp có sự tham gia của rất nhiều nơron.
- Khâu dẫn ra: được cấu tạo bởi các sợi thần kinh (hoặc dây thần kinh)
ly tâm, có nhiệm vụ dẫn truyền xung động thần kinh từ trung ương thần
kinh tới các cơ quan trả lời.
- Khâu trả lời: được cấu tạo bởi các cơ hoặc các tuyến. Các cơ có nhiệm
vụ thực hiện trả lời tác nhân kích thích bằng cách co cơ và các tuyến có
nhiệm vụ thực hiện trả lời tác nhân kích thích bằng cách tiết dịch.
Tính chất nguyên vẹn của cung phản xạ là điều cần thiết đối với sự
dẫn truyền xung động thần kinh và thực hiện phản xạ. Nếu cấu trúc của
cung phản xạ bị gián đoạn thì phản xạ sẽ không thực hiện được.
174 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
kinh tạm thời nào cũng được hình thành do tác động của các tác nhân
kích thích. Trong đó, các tác nhân kích thích tác động từ môi trường bên
ngoài là chủ yếu.
Ví dụ: Bình thường, bất kỳ con chó nào cũng đều không tiết nước bọt
khi nhìn thấy ánh đèn mà chỉ tiết nước bọt khi được cho ăn. Paplôp đã
làm thí nghiệm như sau: mỗi lần cho chó ăn, ông lại bật đèn. Cứ lặp đi,
lặp lại nhiều lần như thế, đến một lúc nào đó không cần cho chó ăn mà chỉ
bật đèn là chó cũng tiết nước bọt. Phản xạ tiết nước bọt với sự tác động
của ánh đèn được gọi là phản xạ có điều kiện. Tương tự như vậy, có thể
thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt ở trẻ em lứa tuổi mầm non
với bất kỳ tác nhân kích thích nào, như ánh đèn, tiếng chuông hay tiếng
trống, tiếng máy gõ nhịp, mùi thơm của thức ăn, hình dạng của thức ăn,
màu sắc của thức ăn, cách sắp xếp thức ăn và cả thời điểm cho ăn nữa…
Paplôp đã giải thích cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện bằng việc
thành lập đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa hai điểm trên vỏ não. Ví
dụ: thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với ánh đèn. Lúc đầu khi
chỉ bật đèn, chó không tiết nước bọt, còn khi cho chó ăn thì chó có phản
xạ không điều kiện tiết nước bọt. Khi vừa bật đèn vừa cho chó ăn thì trên
vỏ não có hai điểm cùng hưng phấn: một điểm phụ trách ánh đèn (tác
nhân kích thích có điều kiện) và một điểm đại diện cho phản xạ không
điều kiện tiết nước bọt. Theo quy luật lan tỏa và tập trung, hưng phấn
xuất hiện ở hai điểm này lan tỏa ra xung quanh, sau đó lại tập trung về
vị trí xuất phát ban đầu. Mỗi lần hưng phấn đi qua vùng nào sẽ làm tăng
hưng tính của các nơron ở vùng đó. Chuỗi nơron nằm giữa điểm phụ
trách ánh đèn và điểm đại diện cho phản xạ không điều kiện tiết nước
bọt nhận được sự lan tỏa của cả hai luồng hưng phấn nên hưng tính của
chúng tăng lên nhanh chóng. Đến một lúc nào đó, hưng tính của chúng
tăng lên đến mức dễ dàng cho hưng phấn từ điểm này truyền tới điểm
kia và chỉ cần bật đèn là chó tiết nước bọt. Pavlov gọi là đã hình thành
được con “đường mòn”. Khi đó chỉ cần bật đèn làm cho điểm phụ trách
ánh đèn hưng phấn là hưng phấn đó sẽ theo “đường mòn” truyền sang
điểm đại diện của phản xạ không điều kiện tiết nước bọt và gây ra phản
xạ tiết nước bọt. Như vậy là phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với ánh
đèn đã được thành lập.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 175
Để giải thích tính chất một chiều của xung động thần kinh trong
“đường mòn” đó, người ta căn cứ vào quy luật “điểm ưu thế”. Theo quy
luật này, khi trên vỏ não có hai hay nhiều điểm cùng hưng phấn thì điểm
hưng phấn mạnh chiếm ưu thế và có xu hướng thu hút hưng phấn từ
những điểm hưng phấn yếu hơn về phía nó.
Paplôp còn nhận thấy một đặc điểm cơ bản của phản xạ có điều kiện
là tính chất không bền vững của nó, thể hiện ở chỗ, sau khi phản xạ có
điều kiện được thành lập, nếu không được củng cố thì phản xạ sẽ mất
dần đi, có nghĩa là “đường mòn” đã bị mất đi. Do đó, lúc đầu Paplôp gọi là
“đường mòn”, nhưng sau này ông gọi là “đường liên hệ thần kinh tạm thời”.
Ngoài cách giải thích của Paplôp, một số tác giả cũng đã có những
cách giải thích cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện theo các quan điểm
khác nhau. Theo Lorente de No thì quá trình hình thành mối liên hệ giữa
hai tác nhân kích thích có và không điều kiện là quá trình hình thành
một cái “bẫy” để thu hút hưng phấn chạy theo một đường nhất định
nhờ có năng lượng được tích luỹ ở trong “bẫy”. Một số tác giả cho rằng
việc thành lập phản xạ có điều kiện là do có sự thay đổi thực sự về cấu
trúc của synap. Theo họ, khi có hai luồng hưng phấn do tác nhân kích
thích không điều kiện và tác nhân kích thích có điều kiện gây ra cùng
lan truyền tới một hệ thống synap nhất định sẽ gây ra hiện tượng làm dễ
synap. Một số tác giả lại cho rằng việc thành lập phản xạ có điều kiện là
việc thành lập mối liên hệ nội bào trong 1 nơron. Xu thế hiện nay coi việc
thành lập phản xạ có điều kiện là một loại hoạt động phức tạp, trong đó
mối liên hệ giữa kích thích không điều kiện và kích thích có điều kiện
được thực hiện ở mức tế bào hay mức phân tử và liên quan với việc hình
thành một loại acid nucleic mới. Các tác giả cho rằng khi có sự kết hợp
nhiều lần giữa tác nhân kích thích có điều kiện và tác nhân kích thích
không điều kiện thì ở synap thần kinh có sự biến đổi cấu trúc của các
phân tử ARN, và tạo ra một loại acid ribonucleic mới và tổng hợp được
những phân tử protein có cấu trúc mới. Loại protein mới này có khả năng
lưu giữ thông tin về mối liên hệ do tác nhân kích thích có điều kiện và tác
nhân kích thích không điều kiện tạo ra.
176 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
11.1.1.3. Các điều kiện cơ bản để thành lập phản xạ có điều kiện
Từ cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện cho thấy muốn thành lập
được phản xạ có điều kiện cần phải có những điều kiện nhất định. Những
điều kiện cơ bản để thành lập phản xạ có điều kiện là:
- Phải lấy một phản xạ không điều kiện hoặc một phản xạ có điều
kiện đã được củng cố vững chắc làm cơ sở. Vì vậy, muốn cho trẻ nhận
thức được thực tế khách quan thì lúc đầu phải dựa vào những sự vật,
những hiện tượng cụ thể trong thiên nhiên và trong xã hội. Vì vậy, việc
giảng dạy ở các trường mầm non phải lấy phương pháp trực quan sinh
động là phương pháp chính.
- Phải có sự kết hợp nhiều lần giữa tác nhân kích thích có điều kiện
với tác nhân kích thích không điều kiện. Số lần kết hợp giữa hai loại tác
nhân kích thích này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như cường độ và tính
chất của tác nhân kích thích, trạng thái sinh lý, trạng thái tâm lý khác
nhau của cơ thể và các giai đoạn phát triển của trẻ em.
- Tác nhân kích thích có điều kiện phải vô quan, nghĩa là khi chúng
tác động vào cơ thể của trẻ sẽ không gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của
trẻ em. Ví dụ: tiếng nói to vừa phải, ánh đèn đủ sáng. Về phương diện
sinh học, kích thích có điều kiện được chọn phải đủ mạnh nhưng vẫn
phải yếu hơn kích thích không điều kiện. Vì vậy, khi giảng bài cho học
sinh mầm non, giọng nói của cô giáo phải đủ to nhưng không được to
quá thì các cháu mới tiếp thu được bài.
- Tác nhân kích thích có điều kiện phải tác động trước hoặc đồng thời
với tác nhân kích thích không điều kiện. Đối với trẻ em, muốn thành lập
phản xạ có điều kiện thì tác nhân kích thích có điều kiện cũng phải tác
động trước hoặc đồng thời với tác nhân củng cố. Đó chính là cơ sở sinh
lý học của phương pháp giảng dạy “nêu vấn đề” và hiệu quả của việc sử
dụng đồ dùng dạy học đối với các cháu trong các trường mầm non.
- Vỏ não phải nguyên vẹn về mặt cấu tạo và khỏe khoắn về mặt sinh
lý. Vì bản chất của việc thành lập phản xạ có điều kiện là việc thành lập
đường liên hệ thần kinh tạm thời trên vỏ não, nên nếu vỏ não bị tổn
thương hoặc ở trạng thái bị ức chế thì sẽ không thành lập được phản xạ
có điều kiện. Ở trẻ mắc tật não nhỏ do thiếu bán cầu đại não thì không thể
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 177
học được gì. Ở những trẻ em bị viêm màng não hoặc các bệnh tật về não
cũng đều khó thành lập phản xạ có điều kiện và nhận thức chậm.
11.1.2. Các đặc điểm của phản xạ không điều kiện và có điều kiện
Phản xạ có điều kiện là loại phản xạ được hình thành theo một cơ
chế đặc biệt, trong những điều kiện nhất định nên nó cũng có những đặc
điểm riêng khác với phản xạ không điều kiện. Có thể tóm tắt những điểm
khác nhau giữa phản xạ không điều kiện (PXKĐK) và phản xạ có điều
kiện (PXCĐK) theo bảng sau:
Bảng 11.1. Đặc điểm của PXCĐK và PXKĐK
TT Đặc điểm của PXKĐK Đặc điểm của PXCĐK
1 Có tính chất bẩm sinh, di truyền, đặc trưng cho loài Có tính chất tự tạo, đặc trưng cho cá thể
2 Rất bền vững Không bền vững, dễ mất
3 Đòi hỏi tác nhân kích thích thích ứng Đòi hỏi tác nhân kích thích bất kỳ
4 Trung khu của phản xạ không điều kiện nằm ở dưới vỏ não Trung khu của phản xạ có điều kiện nằm ở vỏ não
5 Báo hiệu trực tiếp tác nhân kích thích gây ra phản xạ Báo hiệu gián tiếp tác nhân kích thích gây ra phản xạ
6 Số lượng hạn chế Số lượng không hạn chế
7 Không cần luyện tập cũng có Phải luyện tập mới có
178 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 179
180 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
hoặc khi kích thích dồn dập, hoặc khi thời gian tác động của tác nhân kích
thích kéo dài. Vì vậy, ức chế vượt hạn là quá trình thần kinh có tính chất
bảo vệ nơron, giúp cho nơron của trẻ khi mệt mỏi sẽ chuyển sang ức chế
nên chúng được nghỉ ngơi để phục hồi.
Thời điểm 10h08 10h10 10h12 10h14 10h17 10h20 10h25 10h27 10h28
Số giọt nước bọt 10 7 6 5 4 3 1 0 0
Tốc độ tắt dần của phản xạ có điều kiện phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như tần số lặp lại của tác nhân có điều kiện mà không được củng cố, mức
độ bền vững của phản xạ có điều kiện và kiểu thần kinh của cá thể. Tần số
lặp lại của tác nhân có điều kiện mà không được củng cố càng lớn thì phản
xạ càng chóng bị dập tắt. Phản xạ càng bền vững thì càng khó bị dập tắt.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 181
Tốc độ phục hồi của phản xạ có điều kiện sau khi đã tắt phụ thuộc
vào mức độ, độ sâu của quá trình dập tắt, phụ thuộc vào nhịp độ lặp lại
của quá trình dập tắt, vào tính chất của phản xạ, vào kiểu hình thần kinh.
Như vậy, ức chế tắt dần là một quá trình thần kinh giúp cho cơ thể động
vật và người quên đi những phản xạ cũ đã lỗi thời và không còn cần thiết
nữa, tạo điều kiện cho cơ chể hình thành được những phản xạ thích nghi
hơn với các điều kiện sống mới. Do đó, ức chế tắt dần làm cho cơ thể tiết
kiệm được năng lượng.
182 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
mất phản xạ với các tác nhân gần giống với tác nhân có điều kiện, giúp cơ
thể phân biệt được các kích thích cùng thể loại gần giống với nhau.
Ví dụ, thành lập ở chó phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với tiếng
máy gõ nhịp có tần số 100 lần/phút. Khi phản xạ đã được thành lập, lúc
đầu tiếng máy gõ nhịp có tần số 80 lần/phút hay 120 lần/phút cũng đều
gây ra phản xạ. Dần dần chó chỉ có phản xạ với nhịp 100 lần/phút. Ức chế
phân biệt của trẻ em phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất của kích
thích, đặc điểm phát triển và hoàn thiện của vỏ não, của hoạt động thần
kinh cấp cao, phụ thuộc vào trạng thái sinh lý và trạng thái tâm lý.
Ức chế phân biệt rất quan trọng đối với sự tồn tại, thích nghi và phát
triển của cơ thể. Nó làm cho cơ thể phản ứng một cách chính xác với các
tác nhân kích thích. Ức chế phân biệt là cơ sở sinh lý học của sự so sánh
nên rất quan trọng trong quá trình nhận thức của trẻ em.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 183
hiện tượng cộng ức chế. Còn khi một quá trình ức chế này làm giảm hoặc
làm mất đi một quá trình ức chế khác thì gọi là hiện tượng giải thoát ức
chế (hay tan ức chế).
184 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Trong một đêm ngủ bình thường chừng 7 giờ, có những đợt ngủ
REM, mỗi đợt dài từ 5 đến 30 phút, và cứ độ 90 phút lại xuất hiện một đợt
ngủ REM mới. Khi rất mệt rất buồn ngủ thì giấc REM ngắn hoặc không
có. Khi ngủ yên tĩnh, ngủ nhẹ nhàng thì các giấc REM kéo dài.
11.3.3.2. Thuyết về những trung tâm nơron bài tiết của serotonin và các chất gây ngủ khác
Não có những vùng đặc hiệu mà nếu kích thích thì tạo nên giấc ngủ
rất gần giống giấc ngủ tự nhiên, thí dụ: (1) nhân raphe; (2) nhân của
tractus solitarius; và (3) gian não, như dưới đây.
- Nhân raphe ở hành não và ở nửa dưới của cầu não, kích thích thì
tạo giấc ngủ hầu như tự nhiên. Các sợi thần kinh từ nhân đó tỏa rộng
khắp ra cấu trúc lưới và cũng tỏa lên vỏ não mới, đồi thị, dưới đồi và
phần lớn các vùng của hệ viền. Các sợi đi xuống tuỷ sống kết thúc ở sừng
sau, ở đó chúng ức chế các tín hiệu đau. Nhiều đầu tận cùng của các sợi
xuất phát từ nhân raphe, là loại tiết serotonin. Dùng thuốc ức chế sự tạo
ra serotonin thì con vật không ngủ trong những ngày tiếp theo.
Trung tâm của giấc ngủ sóng chậm nằm ở vùng giữa của hành não,
có chứa các nhân raphe với chất truyền đạt thần kinh là serotonin.
- Nhân của tractus solitarius có một vài vùng mà nếu kích thích thì gây
ngủ. Có lẽ tác dụng này là gián tiếp, thông qua nhân raphe và hệ serotonin.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 185
- Nhiều vùng của gian não cũng gây ngủ khi bị kích thích, đó là: (1)
phần gần phía mỏ (rostral, tức phía trước) của vùng dưới đồi, chủ yếu là
ở vùng trên chéo thị; và (2) có lúc có vùng ở đồi thị.
Có thể có chất truyền đạt khác gây ngủ. Nếu con vật bị giữ không
cho ngủ nhiều ngày thì dịch não tuỷ, máu và nước tiểu của nó chứa một
chất hoặc một số chất mà tiêm vào não thất con vật khác thì làm cho
con này ngủ. Trong số đó có peptid muramyl mà chỉ tiêm vài microgam
vào não thất ba thì sau vài phút con vật ngủ liền hàng giờ. Lại có một
nonapeptid (peptid chín gốc acid amin) chiết xuất được từ máu con vật
đang ngủ và có tác dụng gây ngủ con vật khác. Kết luận phần này là có
lẽ trạng thái thức tỉnh lâu làm tích tụ một chất gây ngủ, chất này tích luỹ
trong thân não hoặc dịch não tuỷ, làm cho ngủ.
11.3.5. Tầm quan trọng của giấc ngủ đối với trẻ em
Giấc ngủ có hai loại tác dụng sinh lý chủ yếu, một là lên chính hệ
thần kinh, hai là lên phần cơ thể còn lại.
- Tác dụng lên hệ thần kinh là quan trọng hơn hẳn: Thức lâu thường
bị giảm chức năng tâm trí, thậm chí có hành vi bất thường. Mất ngủ kéo
dài thì uể oải lờ đờ, tư duy chậm chạp bẳn gắt, thậm chí nếu mất ngủ quá
kéo dài thì có rối loạn tâm thần.
Do đó có thể nghĩ rằng ngủ giúp cho một là phục hồi mức hoạt động
thần kinh tâm thần bình thường, và hai là phục hồi cân bằng giữa các
phần của hệ thần kinh trung ương. Có người so sánh tác dụng đó như
việc chuẩn định lại mức số không (zeroing) hay gọi là chuẩn lại đường cơ
sở của một máy tính điện tử sau thời gian vận hành liên tục. Có thể cho
rằng mất ngủ lâu dài cũng giống như máy tính điện tử chạy liên tục quá
lâu không nghỉ: có những vùng của não quá mệt mỏi nên không cân bằng
với các trung tâm nơron khác.
186 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
Cơ chế cụ thể của các tác dụng giấc ngủ thì chưa chứng minh được,
chỉ có thể giả định rằng giá trị chủ yếu của giấc ngủ là phục hồi lại cân
bằng tự nhiên giữa các trung tâm nơron.
- Tác dụng giấc ngủ đối với các chức năng phần thân thể ở ngoại vi:
Chu kỳ luân phiên ngủ và thức tỉnh có tác dụng sinh lý có mức độ đối với
phần thân thể ở ngoại vi. Lúc thức tỉnh, tăng hưng phấn giao cảm làm
tăng tần số xung tới cơ, tăng trương lực cơ. Lúc ngủ, hoạt tính phó giao
cảm tăng cao hơn, nên huyết áp giảm, mạch chậm, giãn mạch da, đôi khi
có tăng hoạt động dạ dày ruột, cơ xương thư giãn, chuyển hoá cơ sở giảm
từ 10 đến 30 %.
- Nhu cầu ngủ và tác dụng sinh lý của ngủ đối với toàn thân thể:
Trẻ nhỏ đang sức lớn cần giấc ngủ dài; càng tăng tuổi cho đến già, giấc
ngủ càng ngắn. Các trại hè, trại nghỉ mát trẻ em thường cần có thời gian
biểu săn sóc giấc ngủ (cả ngủ trưa), trẻ mới tăng cân tốt. Với các trường
hợp khôi phục sức khỏe như ốm dậy, người sau đợt lao động chân tay
nặng nhọc, khi lo nghĩ căng thẳng, học trò học thi, v.v... giấc ngủ đều có
tác dụng khôi phục sức khỏe. Có thời, có trường phái hồi phục sức khỏe
chuẩn bị mổ bằng một đợt cho ngủ nhiều, gọi là liệu pháp ngủ.
Nhịp điệu thức/ ngủ được hình thành trong quá trình phát triển loài,
cá thể và có tính ổn định, nó cũng phù hợp với nhịp điệu ngày/đêm. Trẻ
càng lớn thì nhu cầu về thời gian ngủ càng giảm.
Bảng 11.4. Thời gian ngủ của trẻ em
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 187
11. 4. Các quy luật của hoạt động thần kinh cấp cao
188 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
chỗ cố định mà có xu hướng lan tỏa, từ điểm phát sinh lan dần dần sang
những phần xung quanh và đến một phạm vi nào đó rồi lại đi ngược trở
lại, tập trung dần về điểm phát sinh.
Phạm vi và tốc độ lan tỏa, tập trung của hưng phấn và ức chế tùy
thuộc vào nhiều yếu tố:
- Cường độ của quá trình hưng phấn và ức chế. Các quá trình hưng
phấn và ức chế mạnh thường có phạm vi lan tỏa rộng và tốc độ lan tỏa và
tập trung nhanh hơn so với các quá trình hưng phấn và ức chế yếu.
- Trạng thái nơron của vỏ não và trạng thái cơ thể, kiểu hình thần
kinh cũng ảnh hưởng đến quá trình lan tỏa và tập trung của hưng phấn
và ức chế.
Hiện tượng lan tỏa và tập trung của hưng phấn và ức chế có cả ở các
phần dưới vỏ và vỏ não, nhưng ở vỏ não thì được biểu hiện rõ hơn. Khi
phản xạ có điều kiện mới được thành lập, động vật có thể trả lời với tất cả
các tác nhân kích thích cùng loại với tác nhân dương tính. Đó là sự lan tỏa
của hưng phấn. Khi hình thành ức chế phân biệt, động vật chỉ phản ứng
với tác nhân dương tính. Đó là sự tập trung của hưng phấn.
Thường thì tốc độ lan tỏa của hưng phấn và ức chế nhanh hơn tốc
độ tập trung.
11.4.3. Quy luật về mối tương quan giữa cường độ kích thích với cường độ phản xạ
Quy luật này chung cho cả hai dạng hoạt động thần kinh cấp thấp
và hoạt động thần kinh cấp cao. Đối với hoạt động thần kinh cấp cao thì
trong phản xạ có điều kiện, khi cường độ tác nhân kích thích tăng thì
cường độ phản xạ cũng tăng, tức là kích thích càng mạnh thì phản xạ
càng mạnh. Trong trạng thái bình thường của vỏ não, kích thích mạnh
gây phản xạ mạnh, kích thích yếu gây phản xạ yếu. Quy luật này chỉ có
tính chất tương đối. Nếu kích thích quá yếu, dưới ngưỡng, dù kích thích
có tăng lên nhưng vẫn còn dưới ngưỡng thì vẫn không có một phản ứng
nào cả, và tất nhiên là không có sự tăng cùng chiều về cường độ của phản
xạ và cường độ của tác nhân kích thích. Còn nếu kích thích quá mạnh,
vượt giới hạn thì kích thích càng tăng, cường độ của phản xạ sẽ càng
giảm vì xuất hiện ức chế vượt hạn về cường độ.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 189
Khi tế bào vỏ não đang ở trong trạng thái chuyển từ hưng phấn sang
ức chế hoặc đang chuyển từ ức chế sang hưng phấn thì quy luật tương
quan cường độ bị vi phạm, thậm chí bị đảo lộn.
Riêng đối với con người, việc áp dụng quy luật này phải rất thận
trọng vì hầu hết phản xạ ở người đều có liên quan ít nhiều với ngôn ngữ
nên cường độ của phản ứng phụ thuộc vào cường độ của tác nhân kích
thích có tính chất rất tương đối, bởi vì trong vai trò tác động của ngôn
ngữ đối với con người thì nội dung của ngôn ngữ có ý nghĩa hơn nhiều
so với cường độ vật lý của chúng.
190 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
11.4.5. Quy luật về tính hệ thống trong hoạt động thần kinh cấp cao
Trong thực tế, kích thích không tồn tại một cách riêng rẽ, mà chúng
tạo thành một tổ hợp kích thích đồng thời hoặc nối tiếp. Mỗi sự vật, sự
việc là một tổ hợp đồng thời của nhiều kích thích. Vì vậy, muốn phản ánh
trọn vẹn sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, các trung khu thần
kinh trên vỏ não không thể làm việc một cách riêng rẽ để tiếp nhận và
phân tích từng kích thích một mà phải phối hợp nhiều trung khu cùng
hoạt động để tập hợp các loại kích thích riêng rẽ thành nhóm, thành bộ
hoàn chỉnh. Hoạt động tổng hợp của vỏ não để tập hợp những kích thích
hay những phản ứng riêng rẽ thành nhóm, bộ hoàn chỉnh gọi là hoạt
động theo hệ thống của vỏ não.
Một biểu hiện rất quan trọng của quy luật này là định hình động lực.
Định hình là một hệ thống phản xạ có điều kiện được lặp đi lặp lại
theo một trình tự nhất định và theo một khoảng thời gian nhất định trong
cả một thời gian dài. Sau đó chỉ cần một kích thích ban đầu là toàn bộ
chuỗi phản xạ xảy ra kế tiếp nhau.
Ví dụ, khi tập bắn, mọi người đều phải thực hiện một chuỗi các động
tác theo một trình tự nhất định là: giương súng - tì vai - áp má - lấy đường
ngắm cơ bản - nín thở - bóp cò. Sau khi đã tập thành thạo, khi đi săn, nhìn
thấy con mồi là người đi săn chỉ cần giương súng lên và tất cả các động
tác sau liên tiếp diễn ra theo đúng trình tự như trên. Sở dĩ như vậy là vì
vỏ não đã tập hợp các kích thích thành một hệ thống hoàn chỉnh theo một
trình tự nhất định.
Tuy nhiên, điều kiện sống không phải là hằng định mà luôn biến đổi
làm cho chuỗi phản xạ trong định hình cũng thay đổi cho phù hợp. Bởi
vậy, người ta gọi nó là định hình động lực, hay gọi tắt là động hình. Ví dụ,
khi đi săn, tùy theo địa hình là rừng cây hay ruộng nước mà người đi săn
có thể tì súng lên chạc cây hay mô đất mà bắn.
Động hình là cơ sở sinh lý của việc hình thành thói quen, kỹ năng, kỹ
xảo trong hoạt động và lao động. Thay đổi định hình là thay đổi trình tự,
thay đổi những quan hệ không gian và thời gian trong hoạt động của các
trung khu ở vỏ não, tạo ra những quan hệ mới, tức là bắt buộc các tế bào
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 191
vỏ não phải thay đổi hoạt động. Vì vậy, thay đổi định hình gây mệt nhọc,
làm căng thẳng thần kinh. Bởi vậy, khi không cần thiết, không nên thay
đổi định hình. Tuy nhiên, điều kiện sống của động vật và người lại luôn
luôn biến động và đa dạng nên sự thay đổi định hình là cần thiết. Hơn
nữa, nếu tính ổn định của định hình quá mức sẽ làm ngăn trở sự thích
nghi của cơ thể với môi trường, cản trở sự tiến hoá của sinh vật. Muốn
định hình linh hoạt phải có chế độ luyện tập chu đáo. Động hình đã được
áp dụng nhiều trong chăn nuôi và trong đời sống của con người.
192 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
11.5.3.1. Bản chất của hệ thống tín hiệu thứ hai
Hệ thống tín hiệu thứ hai là những tín hiệu của tín hiệu thứ nhất và
nó phản ánh sự vật, hiện tượng một cách khái quát. Vì thế, hệ thống tín
hiệu thứ hai cũng là:
- Một loại tác nhân kích thích có điều kiện tương đương với mọi tác
nhân kích thích có điều kiện khác. Ví dụ, có thể thành lập phản xạ có điều
kiện với tiếng chuông hoặc từ (chữ, lời) “chuông”. Nếu một người đã
được ăn các món ăn nào đó và biết tên gọi của chúng thì có khi chỉ nhắc
đến tên của món ăn đó là đã tiết nước bọt.
- Một loại tác nhân kích thích đặc biệt đặc trưng ở người. Động vật
cũng có thể có những phản ứng khi nghe tiếng nói của con người nhưng
tác dụng của tiếng nói đối với động vật chỉ đơn thuần là tác dụng âm
thanh với các đặc điểm và tính chất vật lý của nó. Còn ở người, tiếng nói,
chữ viết có ý nghĩa chủ yếu nhờ nội dung chứa đựng trong đó.
- Ngôn ngữ là tín hiệu loại hai, “tín hiệu của tín hiệu”, báo hiệu gián
tiếp sự vật. Ta có thể thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với
tiếng chuông reo, rồi sau đó lại hình thành phản xạ với lời nói “chuông”
hay chữ “chuông”. Ở đây, tiếng chuông là tín hiệu của thức ăn còn từ
“chuông” lại là tín hiệu của tiếng chuông reo. Do đó, từ “chuông” là tín
hiệu của tín hiệu: tín hiệu thứ hai.
11.5.3.2. Đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ hai
a. Hệ thống tín hiệu thứ hai có khả năng khái quát sự vật
Từ những sự vật, hiện tượng cụ thể, hoạt động của hệ thống tín hiệu
thứ hai khái quát chúng thành những khái niệm chung. Ví dụ, từ “động
vật” biểu thị cho các sinh vật cử động được, kể từ con giun, con sâu, cho
đến con chim, con hổ. Từ “thực vật” biểu thị cho mọi loài thực vật, dù
là cây cỏ, cây bèo, cây cam hay cây đa. Như vậy, trong hoạt động của hệ
thống tín hiệu thứ hai, khả năng phân tích và tổng hợp của vỏ não đạt
đến mức cao nhất.
b. Hệ thống tín hiệu thứ hai có khả năng trừu tượng hoá sự vật
Từ những dấu vết của tín hiệu thứ hai, vỏ não giúp cho tư duy trừu
tượng phát huy tác dụng, nhờ đó mà não có thể sản sinh ra những suy nghĩ
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 193
mới, những phản xạ mới, những kiểu phản ứng mới chưa có trong thực
tiễn. Đó là cơ sở sinh học của sự sáng tạo trong tư duy và trong hành vi.
c. Hệ thống tín hiệu thứ hai được hình thành sau hệ thống tín hiệu
thứ nhất nhưng khi vỏ não bị ức chế lại bị mất trước hệ thống tín hiệu
thứ nhất.
Trong quá trình chủng loại phát sinh của động vật, ngôn ngữ xuất
hiện sau cùng và chỉ có ở các động vật tiến hoá đặc biệt cao, đó là con
người. Do lao động tạo ra và cùng với lao động, hệ thống tín hiệu thứ hai
đóng một vai trò to lớn thúc đẩy quá trình vượn biến thành người.
Trong quá trình phát triển cá thể của con người, hệ thống tín hiệu thứ
hai cũng được hình thành sau. Hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất
có ngay khi trẻ vừa lọt lòng mẹ, thậm chí còn có sớm hơn, ngay từ các giai
đoạn sau của bào thai. Nhưng hệ thống tín hiệu thứ hai chỉ xuất hiện khi
trẻ đã tương đối trưởng thành vào lúc 2-3 tuổi sau khi sinh.
Ở người, khi ngủ say vẫn có thể ít nhiều nhận biết thế giới khách
quan bằng giác quan (tuy có bị hạn chế đến mức thấp nhất) nhưng không
nói được; khi bị ngất, hôn mê hay trước khi chết, ngôn ngữ đều mất trước.
d. Hệ thống tín hiệu thứ hai tác động mạnh hơn hệ thống tín hiệu thứ nhất
vì nó có khả năng khái quát hoá và trừu tượng hoá sự vật. Mặt khác, nó
làm tăng tính đa dạng cả về số lượng của kích thích và số lượng phản ứng
trả lời qua lời nói và chữ viết.
11.5.3.3. Vai trò của hệ thống tín hiệu thứ hai
Trong quá trình phát triển của loài người, hệ thống tín hiệu thứ hai là
một trong hai động lực chính thúc đẩy quá trình vượn biến thành người.
Chính vì vậy, hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò hết sức quan trọng đối
với con người.
a. Hệ thống tín hiệu thứ hai làm tăng tác nhân kích thích có điều kiện
Hệ thống tín hiệu thứ hai làm tăng tác nhân kích thích có điều kiện cả
về số lượng và chất lượng bởi vì hệ thống ngôn ngữ có số lượng vô cùng
phong phú và mỗi từ, mỗi câu, mỗi đoạn… lại có nhiều nghĩa, bao hàm
nhiều nội dung khác nhau. Do đó, có khi cùng một từ được nói ra, nhưng
lại gây nhiều kiểu phản ứng khác nhau tùy thuộc vào ngữ điệu, cách nói,
194 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
văn cảnh khi nói và lại còn tùy thuộc cả vào trạng thái sinh lý và trạng
thái tâm lý của người nghe nữa.
b. Hệ thống tín hiệu thứ hai là công cụ giao tiếp
Hệ thống tín hiệu thứ hai là công cụ giao tiếp chủ yếu giữa con người
với con người trong xã hội, giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, tri
thức từ người này sang người khác, từ nơi này đến nơi khác, từ đời này
sang đời khác.
c. Hệ thống tín hiệu thứ hai là công cụ quan trọng của nghệ thuật văn
hoá và giáo dục
- Hệ thống tín hiệu thứ hai giúp con người trừu tượng hoá và khái
quát hoá những sự vật, hiện tượng, sự kiện riêng lẻ thành khái niệm
chung, do đó ngôn ngữ là công cụ của mọi khoa học.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò quan trọng trong y học và điều
khiển học.
Chương 11. Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 195
11.5.4.2. Hệ thống tín hiệu thứ hai có thể ảnh hưởng lên hệ thống tín hiệu thứ
Sau khi đã được hình thành, hệ thống tín hiệu thứ hai lại có thể tác
động đến hệ thống tín hiệu thứ nhất. Ví dụ, vẽ hai đoạn thẳng a và b có
độ dài bằng nhau nhưng nằm lệch nhau. Sau đó gọi từng sinh viên vào và
yêu cầu họ quan sát và nhận xét xem hai đoạn thẳng a và b có bằng nhau
không. Nhóm sinh viên thứ hai cũng được trắc nghiệm như vậy, nhưng
khi họ đang quan sát để trả lời thì ở cuối phòng có một vài bạn khác đã
“gây rối” bằng cách thầm thì (đủ cho đối tượng được trắc nghiệm nghe
thấy) rằng “a lớn (hoặc nhỏ) hơn b”. Kết quả là tỷ lệ sinh viên ở nhóm
thứ hai trả lời sai nhiều hơn so với nhóm thứ nhất. Trắc nghiệm này đã
cho thấy rõ ảnh hưởng của hệ thống tín hiệu thứ hai lên hệ thống tín hiệu
thứ nhất. Đó chính là cơ sở sinh lý học của tâm lý xã hội, của sự thành
công trong nghệ thuật quảng cáo, thuyết minh, giảng bài... Cảm giác âm
thanh, ánh sáng, màu sắc, khoảng cách, kích thước, sự cảm nhận các loại
hình nghệ thuật một phần phụ thuộc vào những gợi ý của ngôn ngữ.
Thậm chí, ngay cả đối với việc chữa bệnh, có khi hiệu quả của thuốc và
khả năng phục hồi của bệnh nhân cũng phụ thuộc khá nhiều vào lời nói
của thầy thuốc.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (dự án đào tạo giáo viên THCS) (2003), Giải phẫu
sinh lý người, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
2. Bộ Y Tế (2016), Sinh lý học (Sách đào tạo bác sĩ đa khoa), Nxb Y học, Hà Nội.
3. Bộ Y Tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90
- thế kỷ XX, Nxb Y học.
4. Cambell, Reece (2012), Sinh học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
5. Dự án Phát triển giáo viên Tiểu học (2006), Sinh lý học trẻ em (tài liệu đào
tạo giáo viên), Nxb Đại học Sư phạm và Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Trịnh Bỉnh Dy (chủ biên, 2001), Sinh lý học ( tập 1, 2), Nxb Y học.
7. Nguyễn Như Hiền, Nguyễn Hồng Hạnh (2009), Sinh lý học người và
động vật, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
8. Mai Văn Hưng, Nguyễn Quang Mai, Trần Thị Loan (2012), Sinh lý học
động vật và người (tập 1,2), Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
9. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2014), Giáo trình Sinh lý học trẻ em, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
10. Tạ Thúy Lan (chủ biên, 2012), Giải phẫu sinh lý người qua hình ảnh (tập 1,
2, 3), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
11. Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (2009), Sự phát triển thể chất trẻ em lứa tuổi
mầm non, Nxb Giáo dục Việt Nam.
12. Phillips.W.D, Chilton.T.J (2003), Sinh học (hai tập), NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Quách Văn Tỉnh (2003), Giải phẫu học, NXB Đại học Sư phạm
14. Trần Trọng Thủy (chủ biên, 1988), Giải phẫu, sinh lý, vệ sinh trẻ em, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
198 GIÁO TRÌNH SINH LÝ HỌC TRẺ EM LỨA TUỔI TIỂU HỌC
15. Trường Đại học Y Hà Nội, bộ môn giải phẫu (2012), Bài giảng giải phẫu học,
Nxb Y học, Hà Nội.
16. Lê Thanh Vân (2004), Giáo trình sinh lý học trẻ em , Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Yên (2003), Sinh học người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc - Tổng biên tập: TS. PHẠM THỊ TRÂM