You are on page 1of 23

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

THÍCH NỮ TƯỜNG THÔNG


(DƯƠNG THỊ MỸ LINH)

PHƯƠNG CÁCH HIỂN LỘ TÂM CHÂN


NHƯ VÀ ĐỐI TRỊ TÂM SANH DIỆT
Tiểu Luận Giữa Kỳ Môn: Đại Thừa Khởi Tín Luận

Tp.Hồ Chí Minh, Ngày 15/06/2022


Tp.Hồ Chí Minh, Ngày 15/06/2022
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

THÍCH NỮ TƯỜNG THÔNG


(DƯƠNG THỊ MỸ LINH)

PHƯƠNG CÁCH HIỂN LỘ TÂM CHÂN


NHƯ VÀ ĐỐI TRỊ TÂM SANH DIỆT
Tiểu Luận Giữa Kỳ Môn: Đại Thừa Khởi Tín Luận
MSSV:0620000209

GSHD: TT.TS. THÍCH ĐỒNG TRÍ

Tp.Hồ Chí Minh, Ngày 15/06/2022


LỜI CAM ĐOAN

Con xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng con. Các luận cứ, số
liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực, Con chưa từng công bố
tập luận văn này trong bất kỳ trường hợp nào.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2022

TN.Tường Thông
NHẬN XÉT CỦA GIÁO THỌ SƯ HƯỚNG DẪN

………………………………………………………………………………………..
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………….……………………………………
………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
A. DẨN NHẬP ..................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ...................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. Tâm Chân Như – Tâm Sinh Diệt ................................................ 3
1.1 Tâm là gì? .................................................................................................. 3
1.2 Tâm Chân Như ......................................................................................... 3
1.2.1 Định Nghĩa Tâm Chơn Như .................................................................. 3
1.2.2 Thể đại, tướng đại, dụng đại của tâm chân như ..................................... 4
1.2.3 Ngôn ngữ là phương tiện, không thể dùng ngôn từ để mô tả về chân như
............................................................................................................... 5
1.2.4 Không bất không chân như ................................................................... 5
1.3 Tâm Sinh Diệt ........................................................................................... 6
1.3.1 Định Nghĩa Tâm Sinh Diệt ................................................................... 6
1.3.2 Thể tướng dụng của Tâm Sinh Diệt ...................................................... 7
1.4 Mối liên hệ giữa Tâm Chơn Như và Tâm sinh diệt ................................. 8
Chương 2 Phương cách hiển lộ Tâm Chơn Như và đối trị Tâm Sinh Diệt ..... 9
2.1 Phương cách hiển lộ Tâm Chơn Như ....................................................... 9
2.2 Cách đối trị Tâm Sinh Diệt hội nhập Tâm Chân Như .......................... 10
2.3 Ứng dụng vào tu tập: .............................................................................. 14
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 18
A. DẨN NHẬP
Trong cuộc đời, với sự dẫn dắt của vọng niệm, nhiều người chưa từng nhận
ra Tâm Chân Như, vốn tuyệt đối, thanh tịnh, vắng lặng của chính mình, nên cứ lao
vào dòng thác của cuộc đời và tạo ra vô vàn phiền não cho tự thân và tha nhân.
Trong hai phương diện của tâm, “tâm chân như” và “tâm sanh diệt” nếu tâm
chân như là chân tâm, Phật tánh, bản thể tuyệt đối… thì tâm sanh diệt là vọng niệm,
vọng thức… chân như thuộc một phương diện chỉ về tính bản thể của tâm, nói rộng
hơn là chân như bao gồm mọi sự vật hiện tượng vốn không phụ thuộc vào các mặc
định của con người. Tâm chân như luôn hiển hiện khắp mọi nơi vì nó không tách
rời tâm sinh diệt. Nhưng khi đánh giá về sự vật hiện tượng, con người hay bỏ quên
tâm chân như hay bản thể của sự vật hiện tượng, mà chỉ chú trọng về mặt hiện
tượng là tâm sinh diệt. Đây là nguyên nhân dẫn đến phiền não khổ đau, điều mà con
người cần khắc phục. Bản chất của tâm chúng ta là tâm chân như thanh tịnh nhưng
bởi vọng tưởng mê mờ mà khởi lên vọng niệm, những tham lam sân hận si mê gây
ra phiền não rồi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Đối với hành giả tu đại thừa thì việc
quan trọng nhất là phải ngộ lại chân tâm, Phật tánh hay cũng là tâm chân như của
mình, từ đó kiến tánh khởi tu, khiến trở về sống đúng với bản chất thanh tịnh, vô
cấu nhiễm. Tâm ấy như nước đầu nguồn, trong lành, không tạp nhiễm. Tâm chân
như là thể tánh thường hằng, bất biến luôn hiển hiện ở tất cả chúng sanh, tâm ấy
không có sự khác biệt giữa Phật, bồ tát và chúng sanh, như câu nói: “Phật chúng
sanh tánh thường rỗng lặng”.
Phật dạy “Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành”1. Phật đã thành có
nghĩa là chúng sanh đã giác ngộ lại chân tâm, bổn tánh và tu hành đạt được bi trí
đầy đủ, phước huệ trang nghiêm, thành đạt đạo quả vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Còn “chúng sanh là Phật sẽ thành” có nghĩa là bản tánh chân như luôn hiển
hiện ở trong mỗi chúng sanh, nhưng chỉ vì vọng niệm điên đảo, bỏ mất bản tâm
chạy ra bên ngoài tìm kiếm những thú vui trần tục ngắn ngủi. Nếu không gặp được
chư Phật, chư Bồ tát chỉ điểm giáo hóa, nhận lại được Phật tánh của mình và tu
hành cho được tương ưng với Phật tánh đó, thì mãi mãi trôi lăn trong vòng sanh tử

1
TT.TS. Thích Nhật Từ - TT.TS. Thích Đức Thiên, Giáo Dục Phật Giáo Và Chương Trình Đại
Học, 10. Giáo Dục Và Giáp Dục Phật Giáo, Tôn Giáo, Hà Nội, 2014, Trang 170.

1
luân hồi đầy rẫy những khổ đau. Do tầm quan trọng đó con chọn đề tài “Phương
cách hiển lộ Tâm Chơn Như và đối trị Tâm Sinh Diệt” để nhận thức được bản
chất của chân như, từ đó con có một cách nhìn đúng đắn, bao quát và sâu sắc hơn
về vạn hữu và nhân sinh để áp dụng vào việc tu tập của mình.
Giáo pháp của Đức Thế Tôn thuyết giảng được truyền thừa qua các thời kỳ.
Thời kỳ Nguyên thủy Phật giáo là thời kỳ Đức Thế Tôn còn tại thế cho đến khoảng
200 năm sau khi Đức Phật nhập Niết –bàn. Sau khi Như Lai diệt độ khoảng 600
năm, ngoại đạo lộng hành, hủy báng chánh pháp. Bấy giờ có Bồ tát Mã Minh
(Asvaghosha) người nước Ba-La- Nại, hiệu là Công Thắng đạo cao đức trọng, nhà
đại diễn giả đầu tiên về giáo nghĩa và triết lý Đại thừa. Ngài lãnh hội giáo lý Đại
thừa một cách triệt để, thương chúng sanh mê muội, Ngài đã sáng tác Luận Đại
Thừa Khởi Tín nhằm mục đích hưng thạnh Tam Bảo, Phật nhật tăng huy, khiến cho
chúng sanh quay về chánh pháp, làm cho giáo nghĩa duyên khởi Đại thừa phổ cập
khắp nhân gian, tiếp tục truyền thừa mãi đến nhiều đời sau. Bộ Luận chỉ ra thể đại,
tướng đại, dụng đại của tâm. Trong phạm vi tiểu luận này, con xin được trình bày
về tâm chân như và tâm sanh diệt, cách hiển lộ tâm chân như và đối trị tâm sanh
diệt được đề cập trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận”
Trong khi pháp học và pháp hành của con còn rất hạn chế. Nên trong quá trình
tìm hiểu đề tài trên theo cách phân tích, liệt kê, so sánh...con dựa vào sự giảng dạy
trên lớp của giáo thọ sư và một số tài liệu có liên quan. Tuy con có nghiên cứu, tìm
hiểu, nhưng không tránh khỏi sai sót, ngưỡng mong giáo thọ sư từ bi chỉ dạy. Con
xin tri ân giáo thọ Sư.

2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. Tâm Chân Như – Tâm Sinh Diệt
1.1 Tâm là gì?
Là Tâm nhận biết cảnh. “Tâm này có hai tướng: 1. Tướng Chơn như tức là chỉ
riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước. 2.
Tướng nhơ duyên sanh diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chơn
vọng hoà hợp; dụ như tánh "trong sạch" và "tướng nhơ đục" lẫn lộn của nước” 2.
Chữ Tâm trong nhà Phật gồm hai phần là “Tâm Chân Như” và “Tâm Sinh
Diệt”. Tâm Chân Như còn được gọi là Chân Tâm, Phật Tánh, Giác Tánh, Giác Tri
Kiến, Tri Kiến Phật, Trí Tuệ Bát Nhã, Tánh Không, Niết Bàn, hay Bản Thể Tuyệt
Đối. Còn Tâm Sinh Diệt được gọi là vọng tâm, vọng niệm, vọng thức, nghĩ tưởng,
niệm tưởng, suy nghĩ, suy tưởng, tư tưởng, nhớ nghĩ, tưởng nhớ, tức là tất cả những
gì chúng ta đã làm, đã sống qua thân khẩu ý đều được thu nhận và lưu trữ. Nói một
cách khác tâm thức là một kho tàng chứa tất cả những kiếp sống của ta, trong Tâm
Lý Học, mà thuật ngữ nhà Phật gọi là Duy thức Học gọi là Tàng thức (là cái kho)
hay A lại Da thức. Tất cả các hiện tượng trên thế gian đều do Tâm Thức biến hiện
mà thành, nên nói tâm bao hàm cả tam thiên đại thiên thế giới, thế giới hiện tượng
và sự vật đều từ tâm mà hiện thành, Phật và chúng sinh đều lấy tâm làm bản thể,
tướng tất cả đức tướng tốt đẹp của Như lai từ, bi, hỉ, xả và dụng lớn quả vị của
thánh, Phật. hành bồ tát đạo nhờ tâm này, thừa nương vào tâm chân như tu tập để
thành tựu thiện pháp thánh quả và Phật.
1.2 Tâm Chân Như
1.2.1 Định Nghĩa Tâm Chơn Như
Chữ Chơn là chơn chánh, đúng pháp; chữ Như là bình đẳng như như, không
dời đổi theo không gian, thời gian, không sanh diệt, Tâm chân như nghĩa là tâm
chơn thật bình đẳng, không sanh diệt, tâm của các vị Thánh, Bồ tát, Phật; khế hợp
với lẽ đạo, không thay đổi theo thời gian, và không gian. Ví dụ tâm của Ngài Anan
khi phát nguyện bài Tựa Lăng Nghiêm là tâm chơn như, chơn chánh. Diệu trạm
tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng nghiêm vương thế hy hữu…Ngũ trược ác thế thệ

2
Trích từ giáo trình của giáo thọ sư TT.TS Thích Đồng Trí

3
tiên nhập, Như nhất chúng sanh vị thành Phật3
Chân Như là gì? Định nghĩa tổng quát, Chân Như trong Luận Đại Thừa Khởi
Tín thì “Tâm Chân như, chính là thể nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn. Đó là
tâm tánh chẳng sanh chẳng diệt. Tất cả pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai
biệt. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới. Cho nên, tất cả pháp từ
xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo
bình đẳng, không có biến khác, chẳng thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân
như.”4
“Chân như của Tâm tức là Bản Thể của Pháp giới (Như Lai tạng, Nhất Tâm),
đó là Tánh bất sinh bất diệt của Tâm. Tất cả các pháp chỉ do phân biệt (vọng niệm)
mà có sai khác. Nếu tách rời phân biệt thì sẽ không có mọi tướng trạng. Do vậy mà
biết tất cả các pháp xưa nay vốn phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức (đệ lục
thức). Tuyệt đối bình đẳng, bất biến, không thể phá hủy, chỉ là Nhất Tâm (toàn là
Tâm Thể đồng nhất) nên gọi là Chân như”5.
1.2.2 Thể đại, tướng đại, dụng đại của tâm chân như
Đại Thừa Khởi Tín Luận chủ yếu nói về Tâm (tâm lượng) tức thể tướng dụng
của tâm. Tâm bao hàm tất cả pháp; tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là Đại, gồm thể
đại, dụng đại và tướng đại. Trong đó: Thể đại là bản thể của tâm là Chơn như, vì là
chân như bình đẳng không tăng không giảm của tất cả pháp, bất biến, các pháp đều
có chân như bình đẳng đó, Chân như tự thể của nó rất rộng lớn biến khắp vũ trụ vạn
hữu.; Tướng đại là tướng tốt của chân như, là Như Lai Tạng đầy đủ vô lượng tánh
công đức Như Lai, ví dụ: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp thần thông, cảnh giới thù thắng ở
Tây Phương Cực Lạc..; Dụng đại nương vào đó để thành tựu các hạnh lành, các
thiện pháp và Thánh quả, Bồ tát, Phật.
- Tại Nhất Tâm chân như luôn sẵn có THỂ, TƯỚNG và DỤNG, phạm vi của
nó vô cùng rộng lớn. Thể, tướng và dụng của Chân Như hay Nhất tâm biến mãn vũ
trụ vạn hữu, Chư Phật, chúng sanh không một loài nào không sẵn có. Hơn nữa tác
dụng của Nhất tâm chân như vốn đủ hằng hà sa số tự tính công đức, đồng thời
nhiếp hóa tất cả chúng sanh nên gọi là dụng đại.
3
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Cư sĩ Minh Lê Đình Thám dịch, NXB Tôn Giáo,Hà Nội, 2000
4
Trích từ giáo trình của giáo thọ sư TT.TS Thích Đồng Trí
5
Thích Giác Quả, (dịch), Luận Khởi Tín Đại Thừa, NXB Thuận Hóa,Huế, năm 2012,trang 53.

4
1.2.3 Ngôn ngữ là phương tiện, không thể dùng ngôn từ để mô tả về chân như
Tính chất của tâm xưa nay vốn thanh tịnh, vắng lặng nhưng vì con người chấp
vọng là chơn nên phiền nảo khổ đau có mặt. Điều này Luận Đại Thừa Khởi Tín đã
mô tả như sau “bản chất của mọi sự vật hiện tượng từ xưa đến nay vốn không hạn
cuộc trong ngôn ngữ, không hạn cuộc trong ngôn từ diễn tả, không hạn cuộc trong
tầm nhận thức của tâm; tuyệt đối đồng nhất chưa từng bị biến dị và mất đi vĩnh
viễn. Tâm thể đồng nhất đó được mệnh danh là chân như”6
Do nhân chấp trước vào ngôn ngữ dẫn đến vọng tưởng. Vọng tưởng dẫn con
người đến phiền não, ví như một người nam tên B học nghề kỹ sư, nên mọi người
xung quanh đều gọi là anh kỹ sư. Anh kỹ sư này cũng lấy làm hãnh diện khi có
người gọi mình như vậy. Nhưng một hôm có người không gọi anh là anh kỹ sư nữa
mà gọi là anh B. Lúc này anh B thoáng buồn vì mình không được gọi là kỹ sư.
Chính sự chấp trước vào ngôn ngữ mà phiền não khởi lên trong lòng anh B. Thật ra
danh từ kỹ sư không xác định được anh là kỹ sư giỏi hay bình thường, có đạo đức
tốt hay bình thường, nó chỉ xác định khi trên mặt học vị và hành chánh là kỹ sư.
Cho nên ngôn ngữ và sự diễn tả của ngôn ngữ không thể nào mô tả được bản chất
của sự vật hiện tượng.
Nhờ biết được bản chất của chân như mà con người vượt qua những chấp
trước về ngôn ngữ, vì nó chỉ là phương tiện giao tiếp trong cuộc sống, để con người
hiểu nhau. Hoặc giả nhờ ngôn thuyết mà con người hiểu được đạo lý. Cho nên chức
năng của nó cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Ta nương ngón để thấy mặt
trăng, chứ ngón tay không phải là mặt trăng. Cho nên bỏ thái độ chấp trước vào
ngôn ngữ ta mới thấu đạt lẽ thật của đạo lý.
1.2.4 Không bất không chân như
Nói về Tâm Chơn như, có 2 nghĩa: Thật không (như thật không) Thật có (như
thật bất không)
“KHÔNG, là vì từ xưa đến nay, tất cả nhiễm pháp đều chẳng tương ưng, lìa
tướng sai biệt của tất cả pháp, vì không có tâm niệm hư vọng. Phải biết, tự tánh
chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng
có, chẳng phải tướng chẳng không, chẳng phải tướng vừa có vừa không. Chẳng

6
Trích từ giáo trình của giáo thọ sư TT.TS Thích Đồng Trí

5
phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải tướng chẳng một, chẳng phải
tướng chẳng khác, chẳng phải tướng vừa một vừa khác. Cho đến nói một cách tổng
quát là, bởi y nơi tất cả chúng sanh vì có vọng tâm, niệm niệm phân biệt, đều chẳng
tương ưng, nên nói là không. Nếu lìa vọng tâm, thật không thể không.
• BẤT KHÔNG là, đã rõ thể của pháp là “không” không có vọng, chính là
chân tâm thường hằng không biến đổi, đầy đủ pháp thanh tịnh, gọi là bất không.
Cũng không có tướng có thể thủ, vì cảnh giới ly niệm chỉ chứng mới tương ưng”7.
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm: “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc, thọ
tưởng hành thức cũng lại như vậy” để nói về trí tuệ của chân tâm, trí tuệ Bát-nhã.
Bản tánh ấy không có tướng năng giác và sở giác. Nó không, tướng không của
pháp, không sinh, không diệt, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý v.v... Thực tướng
của chân tâm là không, không vướng mắc, không giả dối. Tâm là thể của pháp giới,
thế giới hiện tượng và sự vật đều từ tâm mà hiện thành, Phật và chúng sinh đều lấy
tâm làm bản thể, cảnh giới vô thượng Niết-bàn cũng từ tâm mà hiện ra, không có
cái gì ngoài tâm mà tự có tự thành. Tu theo trí tuệ, quán chiếu chân tâm thanh tịnh
để thoát khỏi dòng mê mờ mắc phải phiền não sinh tử, đến bến bờ giác ngộ hoàn
toàn, chứng đắc Niết-bàn
1.3 Tâm Sinh Diệt
1.3.1 Định Nghĩa Tâm Sinh Diệt
Trong đại thừa khởi tín, tâm là nội dung chính là cốt lõi. Tâm nhiếp tất cả thế
gian và xuất thế gian. Tướng chơn như của tâm là Thể của Đại thừa, còn Tướng
sanh diệt là Tướng và Dụng của Đại thừa. Tâm sanh diệt là tâm luôn thay đổi, đủ
duyên sinh ra hết duyên nó lặng đi, vọng niệm đi đôi với nghiệp, dẫn đến sanh tử
trầm luân đi đôi với nhiều thứ trong thể như như chánh chơn, chân tâm Phật tánh;
Vì nhơn duyên sanh diệt, nên đủ cà các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v.
“Sự sinh diệt của tâm là do Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt. Sự kiện tâm
sinh diệt này là sự hòa hợp giữa bất sinh bất diệt và sinh diệt một cách không phải
đồng nhất cũng không phải biệt lập, và được gọi là Thức A-lại-da. Thức A-lại-da
này có hai mặt, có công năng thâu nhiếp và sinh khởi tất cả các pháp, đó là mặt

7
Trích từ giáo trình của giáo thọ sư TT.TS Thích Đồng Trí

6
Giác và mặt Bất giác”8
1.3.2 Thể tướng dụng của Tâm Sinh Diệt
+Chơn như: là chỉ cho cái Tổng thể của tâm.
+ Như Lai tạng: là chỉ cho cái Tổng tướng của tâm.
+ Thức A lại da: là chỉ cho cái Thể, Tướng, Dụng về nhiễm và tịnh hòa hợp của
tâm.
Ví dụ: Sóng gồm có tánh ướt và nước mới tạo ra sóng, cũng vậy Chơn như tượng
trưng cho tánh ướt của nước, Như Lai tạng tượng trưng cho hình tướng của nước, A
lại da tượng trưng cho sóng là dụng của nước. Thức A lại da là tâm sanh diệt gồm
cả Thể, Tướng, và Dụng về nhiễm và tịnh hòa hiệp của tâm.
Như Lai Tạng vốn không sanh diệt, do không tự tánh nên không tự giữ, bất
giác động niệm huân thành vô minh mà có sanh diệt. Từ cái không sanh diệt bất
giác mà thành sanh diệt nên nói: “Y NHƯ LAI Tạng nên có tâm sanh diệt”. Sanh
diệt thế nào cũng không lìa cái không sanh diệt, nên nói: “CHẲNG SANH chẳng
diệt cùng với sanh diệt hòa hợp”. Ngài Hiền Thủ nói: “Động mà làm thành tâm
sanh diệt, chẳng tách lìa nhau nên nói ‘hòa hợp’, chẳng phải riêng có một pháp
sanh diệt nào khác đến hợp với chân”9.
“Y nơi Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt. Nghĩa là, không sinh không diệt
cùng với sinh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác”. Không sinh không
diệt thì không có tướng. Có tướng là do có sinh có diệt. Cho nên “Chẳng phải một,
chẳng phải khác” là nói đến mối liên hệ giữa sanh diệt và không sanh diệt. Sanh
diệt không lìa không sanh diệt nên CHẲNG PHẢI KHÁC. Song sanh diệt không
phải là cái không sanh diệt, tướng sanh diệt có thể bỏ mà thể của sanh diệt thì
không thể bỏ nên CHẲNG PHẢI MỘT.
Thức A lại da: còn gọi là thức tạng hay là thức thứ 8. Gọi là Tạng vì nó có khả
năng chứa nhóm và duy trì các chủng tử thiện ác, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu. A
lại da thức có hai nghĩa là: Năng tàng và Sở tàng. Đây chính là nơi mà loài hữu tình
nương tựa vào đó mà chấp pháp làm tự ngã nên được gọi là Ngã ái chấp tàng. Thức
này từ vô thủy đến nay niệm niệm sanh diệt, trước sau biến khác, nhân diệt quả

8
Thích Giác Quả, (dịch), Luận Khởi Tín Đại Thừa, NXB Thuận Hóa,Huế, năm 2012,trang 61.
9
https://thientruclam.info/cac-vi-khac/dai-thua-khoi-tin-luan-dich-va-giai-chan-hien-
tam/iiiphan-giai-thich-hien-thi-chanh-nghia-tam-sanh-diet-(giac)

7
sanh, chẳng phải thường nhất nên có thể làm chỗ cho 7 chuyển thức huân tập thành
chủng tử. Giống như dòng nước dốc, chẳng phải đoạn chẳng phải thường mà cứ nối
tiếp nhau nên có sự trôi nổi chìm đắm của loài hữu tình. Thức A lại da có công
năng nhiếp tất cả các pháp và sanh ra tất cả các pháp. Nhiếp là chịu sự huân mà
thành chỗ cất giữ chủng tử. Sanh là biến ra để làm thành cảnh giới. Thức có hai
nghĩa là: Giác (tùy tịnh duyên) và Bất giác (tùy nhiễm duyên).
1.4 Mối liên hệ giữa Tâm Chơn Như và Tâm sinh diệt
Tâm chơn như và tâm sanh diệt, ví như hai mặt của đồng tiền, nếu khéo biết
cách chuyển hóa tâm thì sẽ trở thành tâm chơn như, nếu không chuyển hóa được bị
mờ, bị che lấp thì nó là tâm sanh diệt. Tâm chơn như có thể tạm thị hiện ra tâm sanh
diệt, ví dụ: Quan Âm Bồ Tát thị hiện ra 32 thân.
“Cả hai phương diện này đều chứa đựng tất cả các hạt giống, vì chân như và sinh
diệt tương thuộc vào nhau và không tách rời khỏi nhau. Liên hệ bản chất hiện
tượng
Tính chất của tâm vốn không sanh, không diệt. Chỉ vì chạy theo vọng niệm phân
biệt nên thấy mọi sự vật hiện tượng có sai biệt. Nếu dứt trừ được vọng niệm sẽ
không còn ý niệm về tướng trạng của cảnh giới sai khác”10.
Thiền sư Huyền Giác: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, ảo hóa không thân
tức pháp thân”. Ở đây chính là ngay trong cái vọng tưởng điên đảo luôn có tánh biết
hằng sáng soi. Chư Phật, Bồ tát luôn thấy rõ các pháp là huyễn hóa không thật, nên
các Ngài không bị các hình tướng sanh diệt của thế gian trói buộc, các Ngài thị hiện
giữa Ta bà để hóa độ chúng sanh với tâm vô trụ. Còn chúng sanh mê lầm chấp
tướng, cho rằng các pháp là thường còn, là có thật nên mãi trôi lăn trong vòng sanh
tử khổ đau. Khi chúng sanh hữu tình đủ duyên lành được Chư Phật, Bồ tát khai thị
để thấy được thể tánh bất nhị của mình thì chúng sanh đó cũng là bậc giác ngộ. Tâm
sanh diệt tu tập chuyển hóa thành chân như. Phiền não tức bồ đề. Niệm trước chấp
cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề." Tất cả muôn pháp đều ở trong tự
tánh của con người, hoặc nói cách khác là tự tánh bao hàm muôn pháp. Ngay cả
chư Phật ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai), mười hai bộ Kinh cũng đầy đủ ở trong tự

10
Trích từ giáo trình của giáo thọ sư TT.TS Thích Đồng Trí

8
tánh.
Chương 2 Phương cách hiển lộ Tâm Chơn Như và đối trị Tâm Sinh Diệt
2.1 Phương cách hiển lộ Tâm Chơn Như
Cảnh giới chúng sanh là nhân duyên biến, cảnh giới chúng sanh do nhân
duyên tạo ra, Đại Thừa Khởi Tín Luận nói “ Tâm Chơn Như và Tâm Sanh Diệt” cả
hai không lìa nhau mà thành mà trong một sát na trước nó là “ tâm chơn như”
nhưng một sát na sau “ tâm sanh diệt” cứ nối liên tục. Cho nên không thể nào tách
rời hai tâm này được, nó chỉ mất sau khi tâm kia được hình thành được gọi là
“chuyển” các loại tâm. Không phải ở đâu khác mà chính ở tâm chúng sanh, có thể
đổi các phiền não nhiễm ô, thành các công đức thanh tịnh. Khi tâm không còn vọng
động thì sanh ra vô lượng hằng sa công đức thanh tịnh. Tất cả đều tùy tâm của
chúng sanh mà hiện ra các tướng nhiễm, tịnh. Các tướng này đều như huyễn.
Cảnh giới chúng sanh là phân biệt biến tạo ra khác nhau, cùng một hoàn cảnh
do ý thức phân biệt khác nhau, cùng một đối tượng đấy mà mỗi người nhận thức
khác nhau.
Vì không biết cảnh giới trước mắt là do thức biến nên trên cảnh lại sanh phân
biệt, niệm niệm tương tục chẳng dứt, khiến cảnh giới càng thêm sai biệt. Sự thay
đổi trên bề mặt hiện tượng của sự vật không thể nào quyết định được bản thể nó.
Chính vì thế mà con người cần thể nhập chân như để thấy được thật tướng của mọi
sự vật hiện tưởng để không bị ý thức nhị nguyên làm điên đảo. Đó chính là phần
câu hỏi và đáp mà luận này đã thể hiện trong đoạn trích sau:“Hỏi: Theo ý nghĩa vừa
trình bày, làm thế nào con người có thể thể nhập được chân như? Đáp: Nên biết
rằng dù diễn tả mọi sự vật hiện tượng nhưng vốn không thực có chủ thể diễn tả
(năng thuyết) và đối tượng diễn tả (khả thuyết); dù có phân biệt nhưng vốn không
thực có chủ thể phân biệt và đối tượng phân biệt. Đó là tùy thuận. Chỉ cần lìa tất cả
ý niệm phân biệt chủ quan thì được gọi là thể nhập chân như.”11
Như vậy, chúng ta thấy tâm chân như và tâm sanh diệt luôn hiển bày nơi tâm
chúng sanh, nếu chúng ta thường xuyên tỉnh giác không chạy theo vọng niệm, xúc
cảm xảy ra trong tâm, chánh niệm trong cuộc sống thì chúng ta sẽ không còn bị
vọng tưởng lôi kéo từ chuyện này sang chuyện khác dần dần chúng ta sẽ sống trong
11
Trích Từ Giáo Trình Của Giáo Thọ Sư TT.TS Thích Đồng Trí

9
tỉnh giác, sống với chân tâm của mình. trở lại được trạng thái Tâm Thanh Tịnh, thì
mới hội nhập lại với Bản Thể Chân Tâm được, đó là Kiến Tánh thành Phật. Kinh Di
giáo Đức Phật dạy: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”, nghĩa là, cái tâm của chúng
ta luôn biến hiện theo cảnh vật bên ngoài, qua sự hiểu biết chính pháp, bằng cách
tụng kinh niệm Phật, thiền quán, khắc chế được tâm ý, trụ tâm ở một chỗ, không
còn vọng tâm loạn tưởng, khi đó không có việc gì mà người tu tập không hiểu biết
sáng tỏ, thực hành được một cách thông suốt.
Vậy phương cách để con người thể nhập chân như là mỗi người phải nổ lực
kết thúc vọng niệm phân biệt thì khi ấy chân như hiển bày. Vọng niệm hết thì chân
như hiện.
2.2 Cách đối trị Tâm Sinh Diệt hội nhập Tâm Chân Như
 Đối trị:
Phương pháp trị liệu bằng thay thế đối lập. Đối trị là phương pháp dứt ác bằng
cách gieo trồng các hạt giống thiện. Đây là cách xoá bỏ và làm giảm thiểu các phiền
não nghiệp chướng, bằng cách trước là nhận diện tác hại của bất thiện, nêu quyết
tâm lớn, trị liệu bằng các gieo trồng các hạt giống tích cực đối lập, như để trừ tâm
sân hận, nên dùng tâm thương yêu và tha thứ; để trừ lòng tham ái nên dùng pháp
quán bất tịnh. Đối trị là pháp môn tuỳ bệnh cho thuốc, phù hợp với căn tánh từng
người, trong mọi hoàn cảnh.
Tâm có sanh diệt là do vọng niệm. Niệm là tướng của tâm, chỉ chung cho
những gì khởi lên trong tâm. Nói là Vọng vì chúng là thứ không thật có. Tuy Niệm
muôn hình vạn trạng nhưng những tướng ấy không có chất thật nên nói là Vọng
Niệm. Chính vì không có chất thật nên niệm sanh rồi lại diệt, diệt rồi lại sanh, liên
tu bất tận. Vì không có chất thật, ta mới có thể trừ bỏ vọng niệm để trở về tâm chân
thật của mình12.
 Phương pháp tu tập để đối trị những tâm sanh diệt
1. Vô minh nghiệp tướng: là tâm sanh diệt liên quan đến vô minh. Ở đây vô minh
nghiệp tướng nghĩa là căn bản vô minh, các bậc Đại thừa Bồ tát phải dùng trí tuệ
bát nhã mới phá trừ được để trở lại với bản thể chân tâm, đạt đến giác ngộ thì mới

12
Chân Hiền Tâm, Dịch, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Nxb Tổng Hợp TPHCM, năm 2004, trang 56

10
diệt được sanh tử luân hồi. Trong Kinh Lăng nghiêm có viết: “Đối với người tỏ ngộ
được chân tâm thì mười phương thế giới đều tiêu hết.” Để trừ vô minh nghiệp
tướng thì ta làm sao để bớt vô minh, khi bớt vô mình thì có không hoạt dụng, muốn
bớt vô minh thì phải phát triển trí tuệ, phải liên tục phát triển Văn Tư Tu, Giới Định
Tuệ, phải có văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã và thực tánh Bát nhã. Theo Đại
thừa khởi tín luận, chúng ta có thể áp dụng một số phương pháp sau để trừ vô minh
nghiệp tướng.
+ Huân tu để hiển lộ Chân như: “Tâm chúng sanh là tâm Như Lai tạng”, trong
tâm của tất cả chúng sanh tuy có tạp nhiễm, nhưng tâm (giác tánh) xưa nay vẫn
thanh tịnh, đồng với Thánh giả. Tự tánh thanh tịnh gọi là tánh bản giác tức là nhất
thiết trí của Chư Phật; do đây là căn bản của chúng sanh, cũng là điểm tu hành của
Chư Phật và Bồ -tát. Luận Khởi tín khuyên chúng ta tu ngay vào Chân như: tu định
Chân như, suy nghiệm Chân như là siêu việt và hoạt dụng. Trí tịnh tướng là nương
vào sức huân tập của pháp, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện. Phá tướng thức
hòa hợp, diệt tướng tâm tương tục, hiển hiện pháp thân. Pháp thân chư Phật Như
Lai bình đẳng, cùng khắp tất cả mọi nơi, không có tác ý nên gọi là tự nhiên, chỉ
nương với tâm chúng sanh mà thị hiện. Bởi lực huân tập nên vô minh diệt. Do vô
minh diệt nên tâm không khởi. Do tâm không khởi, cảnh giới diệt. Do nhân duyên
đều diệt nên tướng của tâm đều hết, gọi là đắc Niết bàn thành nghiệp tự nhiên.
+ Tu theo ba Tâm thù thắng – Bốn phương tiện: Khi tín tâm đã thành tựu thì
phát ba món tâm như sau: a. Trực tâm, nghĩa là tâm trực niệm chân như, b. Thâm
tâm, nghĩa là tâm ưa làm các việc lành, c. Đại Bi tâm, nghĩa là tâm muốn cứu khổ
các chúng sanh. TRỰC TÂM: là tâm không điên đảo vì không còn bị vô minh sai
sử khiến cái nhìn bị thiên lệch, đây chỉ cho tâm chân như. Song phần này thuộc Tín
Thành tựu Phát Tâm, tức chỉ mới tin vào chân như mà tu nên trực tâm đây chưa chỉ
cho tâm chân như mà chỉ mới là hướng về chân như mà tu, nên nói chánh niệm
pháp Chân như. Quán chân như là căn bản của hai hạnh: Tự lợi và lợi tha. Vì quán
trong bản thể chân như có đủ vô lượng công đức cho nên hành giả ưa tu các pháp
lành, để hiệp với tánh chân như của mình. Hành giả tu hành, khi nào thâm nhập đến
chỗ không còn thấy tướng tu nữa, gọi đó là THÂM TÂM. Vì quán mình và tất cả
chúng sanh đồng bản thể chân như, nên chúng sanh đau khổ tức là mình đau khổ,

11
chúng sanh còn trầm luân thì mình chưa được giải thoát an vui nơi Niết Bàn. Vì thế
mà hành giả phát TÂM ĐẠI BI cứu khổ tất cả chúng sanh. PHÁP TU THÔNG
ĐẠT TRỰC TÂM: Không mắc sanh tử, không trụ Niết Bàn là thuận theo đức tánh
vô trụ của chân tâm; như thế gọi là “Trực tâm”. Trực tâm là phương tiện căn bản
của các hạnh tự giác, giác tha. Khế kinh chép:”Trực tâm thị đạo tràng.” Trực tâm là
quán thẳng chân như pháp tánh. Tổ Sư Thiền yếu chỉ tu hành:” Như như bất động
tâm huân thái, liễu liễu thường minh chủ nhân ông” THÂM TÂM là tâm thích
gom tất cả các thiện hạnh. Thiện hạnh là chỉ cho những việc làm lợi mình lợi người
trong hiện tại và mai sau. Bố thí, trì giới cùng các phương tiện tu hành như học hỏi
kinh luận, thiền định v..v đều gọi là thiện hạnh. Vì phiền não vô lượng, nên hành
giả phải tu vô lượng hạnh lành để đối trị. Nếu hành giả tu các pháp lành, thì tự
nhiên thuận về với tánh chân như của mình. Bản thân chúng con thường xuyên tu
tập tất cả pháp thiện như phóng sanh, tổ chức các buổi thuyết pháp tại chùa, tùy
duyên bố thì pháp trong khả năng của mình, để họ tăng trưởng niềm tin vào Tam
Bảo, luôn quán tất cả các pháp vô thường, vô ngã, khổ để trừ tâm bám chấp, quán
từ bi để trừ tâm sân, quán bất tịnh để trừ tâm ái dục, quán về đề tài “chết” để luôn
tinh tấn làm thiện pháp. ĐẠI BI TÂM: là tâm muốn cứu khổ các chúng sanh do
quán đồng thể đại bi. Vì thực hành pháp quán này nên chúng con thường tổ chức
các buổi chia sẽ pháp cho các Phật tử.
PHƯƠNG TIỆN CĂN BẢN: trong bốn phương tiện tu hành để nhập chân như, thì
món phương tiện này là căn bản. Hành giả quán các pháp hư giả không thật (tánh
không) để lìa các vọng chấp, và nhờ thế mà không tạo nghiệp, không bị sanh tử
luân hồi; quán các pháp do nhân duyên hòa hợp, nên nghiệp quả chẳng mất để khởi
tâm đại bi, tu các hạnh lành, cảm hóa chúng sanh, và nhờ thế nên không trụ Niết
bàn. Vì không vướng mắc sanh tử, nên về phần tự lợi hành giả được thành tựu. Và
vì không vướng mắc Niết Bàn của Tiểu thừa, nên hành giả độ thoát tất cả chúng
sanh, hoàn thành hạnh lợi tha. PHƯƠNG TIỆN NĂNG CHỈ: Ngăn ngừa các việc
ác, biết xấu hổ, ăn năn, chừa lỗi, ngăn ngừa tất cả việc ác không cho phát sanh và
tăng trưởng. Hành giả phải làm như vậy để tùy thuận theo đức tánh thanh tịnh của
chân như. PHƯƠNG TIỆN PHÁT TRIỂN THIỆN CĂN: Hàng ngày chúng con
niệm Phật, lạy Phật, sám hối tội chướng, tụng kinh điển Đại thừa như Kinh Pháp

12
Hoa, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích, học kinh điển
bằng tiếng Pali để nhận thức sâu hơn về ý nghĩa Kinh và Luận. PHƯƠNG TIỆN
ĐẠI NGUYỆN BÌNH ĐẲNG: là phát nguyện hóa độ hết thảy chúng sanh đến tận
vị lai, chẳng sót một ai, khiến họ đều được cứu cánh Niết bàn vô dư. Vì tùy thuận
pháp tánh không đoạn dứt, pháp tánh rộng lớn khắp tất cả chúng sanh, bình đẳng
không hai, chẳng niệm đây kia, rốt ráo tịch diệt. Chúng con thực hành tâm bình
đẳng này là luôn quán sát rằng mọi người thân sơ đều có đồng chân như, Phật tánh,
không khởi tâm phân biệt đối xử, luôn giữ tâm bình đẳng trong mọi trường hợp.
2. Năng kiến tướng: do nương với động nên có năng kiến, không có động thì
không có kiến. Ở đây hành giả có thể áp dụng pháp tất cả các cảnh giới bên ngoài
đều là ảo vọng, như mộng như huyễn, thay đổi liên tục để không bị cảnh giới trói
buộc, khi tu hành, hành giả cần tu “trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ
là cái nghe”, đó chính là “xoay tâm trở về cái tánh biết” chân thật, không khởi thêm
vọng tưởng. Ngay ở chỗ này mà hành giả tu pháp đốn ngộ, thấy pháp không hai, thì
rất mau trở về với Chân như, Bổn tánh. Ví dụ như trong “Chứng Đạo Ca”, thiền sư
Huyền Giác có viết: “Không cầu “chân”, chẳng dứt “vọng”Mới hay chân – vọng
không, chẳng tướng “Chẳng tướng”, “chẳng không”, không “chẳng không” Ấy
mới “Như Lai chân thật tướng!” Hai pháp “Chơn – Vọng ” vốn là giả danh, hai lối
chấp “mong cầu” và “đoạn dứt” cũng là hư vọng. Nếu là hàng căn cơ viên đốn thì
biết rõ hai pháp “chân – vọng” kia vốn là “không, chẳng có hình tướng, chẳng có
tên gọi chi cả.” Ngài Huyền Giác sợ người sau kẹt vào trong chỗ “Không vô
tướng”, nên lại nói “chẳng tướng”, “chẳng không”, không “chẳng không”. Ấy mới
là tướng chân thật Như Lai”
3. Cảnh giới tướng: là do nương với năng kiến, cảnh giới hiện ra. Cảnh giới tướng
giống A lại da thức (trong Duy thức) A lại da thức chứa tất cả các hạt giống: có
chủng tử, có hiện hành chờ cơ hội sẽ khởi hoạt dụng ra vì nó là nguồn lực động cơ
thiêu đốt tâm ta;
Đối với các bậc thánh thì có thể đối cảnh vô tâm nhưng với một phàm phu đang tu
tập, nên chúng ta chuyển hóa thân tâm bằng cách chọn cảnh để hướng tâm, nên sử
dụng 7 phương pháp đoạn trừ các lậu hoặc (Kinh Trung Bộ số 2 – Kinh tất cả lậu
hoặc), có những loại cần né tránh: bớt sự tiếp xúc, ý thức, giữ chánh niệm, thận

13
trọng, quan sát những biến động, dấy khởi trong tâm mình phát hiện những tâm mới
đang sinh, đem các pháp phù hợp để áp dụng trong từng giai đoạn của tâm, tu tập
quán xét liên tục đều đều mỗi ngày, giúp bản thân có được năng lực tốt để vượt qua
các nghịch duyên trong cuộc sống. Cho nên dù thuận hay nghịch chiều thì người tu
cũng không được đánh mất chơn tâm của mình.
2.3 Ứng dụng vào tu tập:
Chân lý cho ta biết được tại sao ta lại có mặt tại đây? Nguyên nhân chính là do
vô minh, tham ái, nó chính là tác nhân gây đau khổ làm cho chúng ta quên mất bản
tâm thanh tịnh hay tâm chơn như của mỗi chúng ta.
Muốn chấm dứt tình trạng đó thì ngay bây giờ chúng ta dừng ngay động cơ
đưa đến phiền não, có nghĩa là chúng ta nổ lực tu tập tất cả các pháp thiện lành để
hiển lộ chân tâm, phát triển tâm thanh tịnh, luôn tin và nhớ nghĩ mình có pháp tánh
chân như, có niềm tin đối với Phật, Pháp, Tăng phát khởi đại nguyện thề trọn đời
giữ đạo theo tự tánh làm lành, chóng quay về bờ giác, Làm tăng trưởng bồ đề tâm,
đại bi tâm. Thường xuyên thực hành bố thí, giữ giới đã thọ, nhẫn nhịn, siêng năng
tinh tấn, thiền định, bát chánh đạo...và giác ngộ chân lý duyên khởi cũng đồng
nghĩa việc biết cách ra khỏi vòng sanh tử, khổ đau. Đức Phật đã khẳng định giá trị
chân lý của việc một người chứng ngộ giáo lý duyên khởi chính đó là nền tảng giúp
chúng ta đưa đến chấm dứt vô minh, tham ái, và tiến tới giải thoát đau khổ và đạt an
tịnh trong tâm.
Kinh Trung Bộ I, Tr.415- 420 nói “ Này Rahula, mục đích của tấm gương là
phản ảnh. Cũng vậy sau khi phản ảnh cẩn thận, con mới tiến hành các hành động
của thân, hành động của lời nói và hành động của tâm ý.” Bởi chức năng của tấm
gương là soi chiếu như thật các sự vật trước nó và dung hình ảnh tấm gương này
Đức Phật dạy rằng muốn sống hạnh phúc con người hãy tự chiếu soi lại động cơ
của tâm, sau đó là lời nói, cuối cùng là hành động. Sau khi thấy những điều đó
mang lại hạnh phúc cho cá nhân, tha nhân thì ta làm, còn ngược lại thì ta nỗ lực
vượt qua để không tạo những hành động, lời nói và tác ý đó. Như vậy nhận thức
cho một cá nhân quan trọng đến việc tu tập giải thoát , khỏi cái tôi, ta… cái chấp có,
chấp không, ta hằng nhớ rằng “ Cái này không phải là tôi, không phải là của tôi,
không phải là tự ngã của tôi” khi đã nhận định được ta như thế nào bước tiếp theo

14
áp dụng giáo lý duyên khởi “cái này không có mặt thì cái kia cũng không…” từ
nhận thức này ta tránh xa những điều không tốt. Biết được bản chất của các pháp,
nên đối diện với các pháp hiểu đúng với sự vật, hiện tượng như chính nó, chơn như
thị, duyên như thị, quả như thị, bản lai như thị, cứu cánh như thị… ta làm chủ,
không bị cảnh trần lôi kéo, thấy được sự sanh diệt của các pháp, ta buông xả tâm
không chấp, không dính mắc, mê mờ, lầm lạc, vọng tưởng lôi cuốn, mình được tự
tại soi xét sám hối những lỗi lầm, phản quan tự kỹ, tu tập sửa đổi mình.
Do tâm vọng hiện ra tướng sai khác, tâm bình thế giới bình, tâm tịnh hết
nhiễm ô, Muốn hiển lộ tâm bồ tát (chân như) chúng ta Như lý tác ý, Phát triền tâm
tốt, tâm tốt chưa sanh làm cho sanh, tâm bất thiện phát khởi liền biết, một khi cái
biết có mặt thì không có vọng tưởng, nên đi đứng ngồi nằm làm việc gì lúc nào
cũng phải giữ chánh niệm, biết được bản lai diện mục của tâm, từ từ tâm được
thuần thục, tâm thích ứng mà hội nhập chánh định Chân như.
Như bản thân chúng con ứng dụng vào việc tu mọi lúc mọi nơi, phải chánh
niệm trong mọi oai nghi là bước đầu, sau nương vào ý niệm danh hiệu Phật A di Đà
để hành trì. Chuyên chú vào câu niệm Phật không để ý ra bên ngoài để đoạn trừ
vọng niệm, dừng những vọng tưởng để tưởng nhớ đến Phật. Cố gắng Niệm Phật sao
cho đến “niệm” mà “vô niệm” thì có thể kiến tạo tịnh độ nhân gian, cực lạc trần
gian. “nhất hiệu Di Đà vô biệt niệm, bất lao đờn chỉ đáo Tây Phương”.

15
C. KẾT LUẬN
Luận Đại Thừa Khởi Tín đã đem đến một niềm tin sâu sắc và chân thực đến
với chúng sanh về bản thể nhất như bất biến của Chân như luôn có trong con người
và tất cả sự vật hiện tượng, Chân như của tâm hay chân như của mọi sự vật hiện
tượng là tuyệt đối, vốn không tăng, không giảm, không lệ thuộc vào giả định của xã
hội. Do đó dù cuộc đời có thiên sai vạn biệt hay vô thường biến đối thì bản thể chân
như trước sau vẫn vậy. Cho nên muốn thể nhập chân như để trở về bản thể tuyệt đối
bất sanh bất diệt ta phải diệt trừ vọng niệm. Vì nó là nguyên nhân đưa đến chấp
trước và phiền nảo khổ đau.
Thế giới ngày nay đang trong thời kỳ trả quả, chúng sanh sống trong điên đảo
vọng tưởng do vô minh và tham ái; chịu nhiều khổ đau do bệnh dịch covid-19 kéo
dài cho đến nay, chưa dừng lại ở đó, việc chạy đua vũ trang, chiến tranh… làm cho
con người đã khổ lại càng khổ. Thế mà con người cũng không cảnh tỉnh, để quay
lại tìm xem nguyên nhân gốc rễ sâu xa từ đâu ra. Nó nằm trong chính tâm tham,
sân, si của mỗi người, do vọng niệm làm cho con người có ý niệm chấp trước về sự
sai biệt của mọi tướng trạng. Khi vọng niệm được trừ diệt tâm không còn chấp
trước do vọng niệm thì tâm chân như hiển hiện làm cho con người sống với bản thể
vốn thanh tịnh, vẳng lặng của chân như.
Chúng ta chỉ vì quên mất bổn tâm nên đau khổ, lang thang trong sanh tử luân
hồi, Nay nhờ chư Phật chư tổ chỉ dạy nguồn gốc chúng ta chính là chân tâm thanh
tịnh, không phải là những ham muốn, vọng tưởng, đó là nguyên nhân phiền não,
chúng ta hãy cố gắng làm hiển lộ tâm thanh tịnh theo con đường Đức Phật chỉ cho
chúng ta, sống với cuộc sống chân thực với chân tâm của mình, không chạy theo
thế tục, muốn trở về chân tâm thì không chạy theo vọng tưởng, để những thói quen
tập khí dẫn dắt mình, luôn nhớ chân tâm Phật tánh tức là sống trong chánh niệm,
sống với ông chủ với chân tâm phật tánh , diệt trừ bản ngã của mình. muốn chân
như hiển lộ trước phải đoạn diệt các sự chấp lầm của pháp bên ngoài, không nên
chấp pháp, nó chỉ là phương tiện đưa ta đến bờ chân như, ngay cả pháp tu lục độ ba
la mật, 37 phẩm trợ đạo…tu thân , khẩu ý làm lợi cho mình và người.
Luận Đại Thừa Khởi Tín đã làm phát khởi lòng tin về Đại Thừa của người học
Phật về giá trị cao quý của chân như mà bất cứ một chúng sanh nào cũng có và có

16
thể chứng nhập bản thể ấy. Hay nói cách khác trong bổn tâm của mọi chúng sanh
đều có hạt giống giác ngộ, hạt giống Phật cho nên ai cũng có thể thành Phật thông
qua việc học và tu theo lời Phật dạy. Cho nên chúng ta hãy khơi dậy bản chất chân
như để cuộc đời này trở nên tốt đẹp hơn thông qua việc ứng dụng học thuyết này
vào cuộc sống sao cho thích hợp với từng tình huống cụ thể, để phát huy giá trị thiết
thực hiện tại của giáo pháp đức Phật.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chân Hiền Tâm, Dịch, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Nxb Tổng Hợp
TPHCM, năm 2004
2. ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN, Bồ tát Mã Minh,Chân Hiền Tâm dịch
và giải
3. Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bồ tát Mã Minh, HT.Thích Thiện Hoa lược
dịch và lược giải
4. Thích Giác Quả, (dịch), Luận Khởi Tín Đại Thừa, NXB Thuận
Hóa,Huế, năm 2012,
5. Giáo Trình Của Giáo Thọ Sư TT.TS Thích Đồng Trí
6. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Cư sĩ Minh Lê Đình Thám dịch, NXB Tôn
Giáo,Hà Nội, 2000
7. TT.TS. Thích Nhật Từ - TT.TS. Thích Đức Thiên, Giáo Dục Phật
Giáo Và Chương Trình Đại Học, 10. Giáo Dục Và Giáp Dục Phật
Giáo, Tôn Giáo, Hà Nội, 2014
8. https://thientruclam.info/cac-vi-khac/dai-thua-khoi-tin-luan-dich-
va-giai-chan-hien-tam/iiiphan-giai-thich-hien-thi-chanh-nghia-
tam-sanh-diet-(giac)

18

You might also like