Professional Documents
Culture Documents
PPNC xịn
PPNC xịn
1. Khái niệm
Nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản
chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và
phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người
2. Đặc điểm
• Tính mới và sự kế thừa:
• Tính mới:
_Biểu hiện quan trọng nhất.
_Thuộc tính số một của lao động khoa học.
_NCKH luôn hướng tới những phát hiện mới, sáng tạo mới.
_Biểu hiện Tính mới trong NCKH: sự ko chấp nhận lặp lại về phương pháp, cách tiếp cận hay
sản phẩm tạo ra.
• Tính mới không mâu thuẫn, mà báo hàm là sự kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà
KH đi trước.
• Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin:
• Thông tin là sản phẩm của NCKH.
• Vì vậy, thông tin trong NCKH phải đạt yêu cầu về: sự khách quan, trung thực, đa chiều, cập
nhật.
• Quá trình nghiên cứu chỉ có chất lượng khi nhà KH có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng
lực tư duy lý luận KH.
a) Phát hiện những “kẽ hở” trong các tài liệu khoa học
- Do thực tiễn vận động và biến đổi không ngừng nên những tài liệu khoa học trở nên không
phù hợp hoàn toàn với hiện thực. Tri thức mà tài liệu khoa học ấy chuyển tải không đáp ứng
được nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn. Khi những vấn đề của thực tiễn không thể giải
quyết được trong khuôn khổ các lý thuyết hiện có – vấn đề nghiên cứu cần được xác định.
- Vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi những nội dung chưa được nhận thức và giải quyết trọn
vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học, khi nhà nghiên cứu tham gia phản biện các
công trình khoa học của đồng nghiệp.
- Để phát hiện được vấn đề nghiên cứu đòi hỏi nhà nghiên cứu phải phát huy tính phân tích,
phản biện của tư duy.
b) Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học
- Tranh luận khoa học là điều kiện, môi trường tốt cho sự nhận diện vấn đề nghiên cứu và
hình thành ý tưởng nghiên cứu.
- Từ những ý kiến trái chiều cùng bàn về một vấn đề khoa học, người nghiên cứu có thể
nhận dạng vấn đề khoa học cần được giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
c) Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn
- Những khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, tổ chức và quản lý xã hội không thể
sử dụng biện pháp thông thường, hay biện pháp thông thường không thể đưa ra kết quả mong
muốn.
- Thực tế ấy đặt ra yêu cầu phải thay đổi nhận thức và hành động. Những vấn đề khoa học
được phát hiện từ nhu cầu đổi mới nội dung, phương pháp làm việc trong lĩnh vực công tác
chuyên môn.
- Để phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhà khoa học cần có ý thức trách nhiệm cao, tích cực
trong lao động, yêu nghề mới có thể nhận diện những vấn đề khoa học đang tổn tại trong lĩnh
vực hoạt động của mình.
d) Sự phản ánh của quần chúng nhân dân
- Mục đích cao nhất của hoạt động nghiên cứu là hướng tới giải quyết các vấn đề thực tiễn
cuộc sống, tạo nên điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của con người và xã hội.
- Đối tượng thụ hưởng những thành tựu ấy là quần chúng nhân dân.
- Những ý kiến đánh giá về cái đã lạc hậu, sự chưa hợp lý, chưa toàn vẹn thậm chí là sai
lầm…trong khi áp dụng các thành tựu nghiên cứu trước đây luôn là gợi ý tốt nhất cho nhà khoa
học về vấn đề nghiên cứu.
- Đôi khi vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu lắng nghe ý kiến phàn nàn của
quần chúng nhân dân về những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống mà họ không đủ am hiểu để lý
giải chúng.
e) Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường
- Tri thức được hình thành trong quá trình phản ánh thực tiễn. Tri thức có nhiều cấp độ, trình
độ và được xác định vị trí tương đối bền vững trong nhận thức con người, trở thành những quan
niệm thông thường, phổ biến.
- Bên cạnh sự thừa nhận những quan niệm thông thường, nhà khoa học cần có thái độ hoài nghi
khoa học, không tự bằng lòng với tri thức đã có, biết lật đi lật lại vấn đề, đặt ra hướng giải quyết
khác biệt, đôi khi trái ngược với những kiến giải và phương pháp đã được thừa nhận rộng rãi.
⇒ Vấn đề nghiên cứu thường tồn tại dưới dạng các câu hỏi nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa
học thường xuất hiện hai lớp vấn đề. Một là, vấn đề về bản thân sự vật và quy luật vận động của
nó. Hai là, vấn đề về phương pháp tác động vào sự vật hiện tượng. Giải quyết vấn đề sẽ mở ra
những khả năng mới cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Trong khi nhận dạng
vấn đề nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu xuất hiện
• Khái niệm: thẩm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm củng cố ý tưởng
nghiên cứu, loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn bị xây dựng giả
thuyết nghiên cứu.
• Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu:
• Thay đổi phương thức quan sát: thay đổi phương pháp quan sát so với phương
thức quan sát đã sử dụng mà nhờ đó, tình huống mâu thuẫn được phát hiện.
• Mở rộng phạm vi quan sát: mở rộng phạm vi quan sát nhằm thu thập thêm
thông tin để khẳng định vấn đề.
• Thu thập tài liệu: nếu tình huống mâu thuẫn được phát hiện nhờ nghiên cứu
một hay một vài tài liệu, hãy tiếp tục thu thập, đọc – nghiên cứu thêm các tài
liệu khác liên quan.
• Trao đổi với đồng nghiệp: tiến hành trao đổi với đồng nghiệp hoặc những
người mà mình cho là có hiểu biết.
Câu 4: Khái niệm giả thuyết nghiên cứu, các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả
thuyết nghiên cứu.
4.1 Khái niệm
Giả thuyết nghiên cứu là nhận định sơ bộ, một kết luận giả định về bản chất sự vật, do
người nghiên cứu đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ. Giả thuyết nghiên cứu có thể đúng hoặc
sai. Người nghiên cứu đề ra giả thuyết nghiên cứu nhằm định hướng nghiên cứu và kế hoạch thực
hiện nghiên cứu khoa học.
4.2 Các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu.
Suy luận là một hình thức tư duy, từ một hay một số phán đoán mà tính chân xác đã được
công nhận (tiền đề), đưa ra phán đoán mới (kết đề). Phán đoán mới chính là giả thuyết.
Có 3 hình thức suy luận đề hình thành giả thuyết nghiên cứu là suy luận quy nạp, suy luận
diễn dịch và loại suy:
• Suy luận quy nạp (cái riêng đến cái chung) là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri
thức chung được khai quát từ những tri thức ít chung hơn.
Có 2 loại suy luận quy nạp:
• Quy nạp hoàn toàn: là quy nạp đi từ tất cả những cái riêng đến cái chung
• Quy nạp không hoàn toàn: là quy nạp đi từ một số cái riêng đến cái chung
• Suy luận diễn dịch (cái chung đến cái riêng) là khi đã có những khái quát về thuộc tính
chung của một loại đối tượng, người ta xây dựng những kết luận (giả định) về các sự vật,
hiện tượng mới trong cùng tập hợp.
• Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ một tiền đề. Có thể thực
hiện diễn dịch trực tiếp bằng phép chuyển hóa, phép đảo ngược hay phép đối lập vị từ.
Ví dụ: Từ luận đề: chúng ta không thể nâng cao chất lượng giáo dục nếu không xây dựng được đội
ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn, có thể xây dựng thành giả thuyết:
(1)Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì không thể nâng cao chất lượng giáo dục.
(2) Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì phải xây dựng đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn.
(3)Nếu có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì (mới có thể) nâng cao chất lượng giáo dục.
• Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ nhiều tiền đề. Trong đó,
tam đoạn luận là trường hợp được sử dụng khá phổ biến trong suy luận.
Ví dụ: Toàn cầu hóa là xu thế chung của sự phát triển, tác động một cách mạnh mẽ, sâu rộng tới các
lĩnh vực đời sống xã hội của mọi quốc gia trên thế giới. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế
trong bối cảnh toàn cầu hóa. (Do vậy) Việt Nam không thể tránh khỏi những tác động của toàn cầu
hóa.
• Loại suy (đi từ riêng đến riêng). Suy luận loại suy xuất phát từ sự giống nhau có thực của
hai đối tượng đó, để đưa ra kết luận.
Ví dụ:
Tiền đề: (1) Trái đất là một hành tinh có lớp khí bao bọc, có nước
(2) Sao hỏa cũng là hành tinh, có lớp khí quyển
Kết luận: Vậy Sao hỏa cũng có (hoặc có thể có) nước.
Câu 5: Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
Một giả thuyết đưa ra cần phải được kiểm chứng dựa trên những căn cứ khoa học. Kết quả
kiểm chứng là sự khẳng định hay phủ định giả thuyết. Quả trình này gồm ba bộ phận hợp thành
với những yêu cầu cơ bản như sau:
• Luận đề (giả thuyết) là những phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân xác của
nó cần được chứng minh hoặc bác bỏ.
Do đó, trong quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu, luận đề phải được trình bày rõ
ràng, xác định và đơn nghĩa.
• Luận cứ là những căn cứ, những bằng chứng được đưa ra để chứng minh (hoặc bác bỏ)
luận đề. Tính chân xác của luận cứ đã được công nhận và được sử dụng làm tiền đề để
chứng minh giả thuyết (luận để) do người nghiên cứu đặt ra.
Do đó, luận cứ sử dụng để kiểm chứng giả thuyết phải chính xác, có liên hệ với luận đề và
đảm bảo đủ cơ sở để rút ra kết luận cho luận đề.
• Luận chứng là cách thức tổ chức, nối kết các luận cứ và liên hệ giữa các luận cứ với luận
đề nhằm khẳng định hoặc phủ định luận đề ấy. Luận chứng bao gồm một chuỗi các phép
suy luận khác nhau được liên kết lại với nhau theo một trật tự xác định.
Do đó, trong quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu, luận chứng phải thực hiện theo
đúng các quy tắc suy luận.
2. Bác bỏ
• Bác bỏ là một hình thức chứng minh nhằm chỉ rõ tính phi chân xác, sai lầm của một giả thuyết.
Bác bỏ giả thuyết được thực hiện khi phủ định cả ba hoặc một trong ba thành tố cấu thành
của quá trình kiểm chứng.
Câu 7: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu
khoa học.
a. Khái niệm
• phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý luận về phương pháp nhận thức và cải tạo
thể giới, Phương pháp luận nghiên cứu là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc mà nhà
nghiên cứu coi là cơ sở, điểm xuất phát cho việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cũng như dự kiến phạm vi, mức độ sử dụng phương pháp ấy để đạt được mục tiêu và
nhiệm vụ nghiên cứu.
• Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu nhất
định
• Phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên con đường tìm tòi nghiên
cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết yếu để thành công trong nghiên cứu
khoa học.
b. Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học
- Phương pháp luận chung nhất: Phương pháp luận triết học - những quan điểm, nguyên
tắc chung nhất, xuất phát điểm cho việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp bộ môn và phương
pháp luận chung, chi phối cả phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học lĩnh vực xã hội và nhân văn ở nước ta, phương pháp
luận chung nhất là phương pháp biện chứng mác xít. Triết học Mác Lênin bao gồm những quan
điểm có tính nguyên tắc về thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người. Có thể kể đến những nguyên tắc căn bản như nguyên tắc khách quan, quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể...
- Phương pháp luận chung: Những quan điểm, nguyên tắc xác định các phương pháp nhằm
giải quyết các vấn đề của nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất định nào đó.
Chẳng hạn, đối với việc nghiên cứu khoa học nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn thì quan
điểm giai cấp, tiếp cận lợi ích... là những nguyên tắc không thể xa rời.
- Phương pháp luận riêng (phương pháp luận bộ môn): Những luận điểm, lý thuyết cơ bản
và góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học, mỗi đề tài khoa học cụ thể. Chẳng hạn, phương
pháp luận sử học, phương pháp luận văn học... là phương pháp luận mà mỗi đề tài cụ thể luôn
có. Nó là những nguyên tắc tương ứng, phù hợp với đối tượng mà người nghiên cứu xác định.
Các cấp độ phương pháp luận độc lập tương đối, hợp thành hệ thống khoa học về phương
pháp chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp cụ thể sao cho khoa học, hiệu quả.
Phương pháp luận chung đóng vai trò là nguyên tắc, căn cứ để người nghiên cứu lựa chọn, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành khoa học đó.
Câu 8: Quy trình thực hiện và yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu
• Khái niệm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin KH trên
cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư duy để rút ra kết luận khoa
học.
• Yêu cầu: Đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có lý thuyết “nền” làm căn cứ xuất phát như: thế
giới quan, quan điểm, lập trường tư tưởng để có thái độ tiếp nhận và cách xử lý thông tin
phù hợp.
• Quy trình thực hiện:
• Thu thập và phân loại tài liệu:
• Thu thập TL là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng.
• Phân loại TL tiến hành sau khi thu thập TL để chuẩn bị cho qua trình đọc,
khai thác ND.
• Phân tích và tổng hợp tài liệu:
• Phân tích TL: tách thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu sâu và
tìm thông tin phục vụ VĐ NC. Trên cơ sở phân tích TL, xác định mức độ phải
xử liệu tài liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ NC.
• Tổng hợp TL: liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ TL thu thập được
nhằm tạo ra một cách hiểu đầy đủ và sâu sắc về chủ đề NC. Xác định tính
tương thích của TL so với mục tiêu nhiệm vụ NC đặt ra.
• Đọc và ghi chép tài liệu:
• Đọc tổng quát tài liệu nhằm xác định những mục quan trọng cần đọc kỹ, đọc
những phần đã đánh dấu và tiến hành ghi chép.
• Ghi chép những nội dung TL có ý nghĩa với nhà KH và liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Có thể ghi chép theo quy tắc ghi nhớ.
- Tóm tắt khoa học: tiến hành sau khi đọc và ghi chép TL.
• Bản tóm tắt được thực hiện trên cơ sở các kết quả thu được của việc đọc và
ghi chép tài liệu.
• Mục đích: nhằm loại bỏ thông tin TL không cần thiết, cô đọng và làm bật ND
TL cần thiết với vấn đề NC.
• Tuỳ theo VĐ NC, ND TT TL,.. tiến hành tóm tắt theo mức độ khác nhau, VD:
tóm tắt lược thuật và tóm tắt tổng thuật.
Câu 9. Trình bày các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học và nêu ví dụ minh
họa.
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
a. Khái niệm
• Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng được thực hiện bởi những
quan sát trực tiếp trong điều kiện gây biến đổi cho đối tượng khảo sát một cách có kiểm
soát và chủ đích.
• Thực chất của phương pháp thực nghiệm là nghiên cứu dựa trên sự mô phỏng các quá trình
hiện thực. Thực nghiệm giúp nhà khoa học chủ động tạo ra các hoạt động, các biến chuyển
giúp nhà nghiên cứu quan sát mô hình hay môi trường giả định thông qua sự mô phỏng
các quá trình diễn ra trong thực tế
• Có 2 loại là nghiên cứu thực nghiệm xã hội và nghiên cứu tự nhiên và kỹ thuật
• Thực nghiệm xã hội là quá trình tạo lập, thiết kế mô hình, thiết chế xã hội và cách thức tác
động có tính quy chuẩn, mẫu mực để nghiên cứu, thử nghiệm, điều chỉnh và nhân rộng,
đưa vào đời sống xã hội hiện thực.
=> Thực nghiệm xã hội là phương pháp được lựa chọn trong nhiều nghiên cứu về tổ chức, quản
lý xã hội
• Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học xã hội cũng tương tự như trong
nghiên cứu khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Song, xuất phát từ tính đặc thù trong nghiên cứu
xã hội, thực hiện phương pháp thực nghiệm là không đơn giản.
b. Các điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm
• Nhà nghiên cứu nhận thức được những yếu tố gây ảnh hưởng đến sự nảy sinh và diễn biến
của đối tượng nghiên cứu
• Người nghiên cứu xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch ra được
các điều kiện ảnh hưởng
• Người nghiên cứu cần và có thể lặp lại nhiều lần thực nghiệm.
c. Các bước tiến hành thực nghiệm
• Bước 1: Chuẩn bị thực nghiệm
• Xác định mục đích thực nghiệm
• Đối tượng thực nghiệm
• Thời gian, địa điểm thực nghiệm
• Chuẩn bị các tiêu chí đo đạc kết quả thực nghiệm
• Bước 2: Tiến hành thực nghiệm.
• Nhà nghiên cứu phân công cộng tác viên giám sát và thu nhận các thông tin trong quá trình
thực nghiệm
• Kịp thời kiểm soát và điều chỉnh các tác động trong quá trình thực nghiệm.
• Bước 3: Xử lý kết quả thực nghiệm.
• Nhà nghiên cứu kiểm tra lại các thông số, so sánh, đối chiếu, đo lường kết quả thực nghiệm
trên cơ sở tiêu chí thực nghiệm đã xác định
• Viết báo cáo và có thể công bố kết quả thực nghiệm.
Câu 10. Trình bày các phương pháp nghiên cứu được phân loại theo logic biện chứng.
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
• Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận thức
các bộ phận đó.
• Tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm nhận thức cái
toàn bộ.
• Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhau
giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn. Không có phân tích thì không hiểu
được những cái bộ phận cấu thành cái toàn bộ và ngược lại, không có tổng hợp thì không
hiểu cái toàn bộ như một chỉnh thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào.
Vì vậy, muốn hiểu thực chất của đối tượng phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng
của mình.
4. Phương pháp đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể.
• Cái cụ thể là phạm trù dùng để chỉ sự tồn tại trong tính đa dạng.
• Cái trừu tượng là phạm trù dùng để chỉ kết quả của sự trừu tượng hóa tách một mặt, một
mối liên hệ nào đó ra khỏi cái tổng thể phong phú đa dạng của sự vật. Vì vậy, cái trừu
tượng là một bộ phận, một mặt của cái cụ thể, là một bậc thang trong quá trình xem xét cái
cụ thể (khách quan). Từ những cái trừu tượng tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể (trong
tư duy).
• Nhận thức khoa học là sự thống nhất của hai quá trình nhận thức đối lập: Từ cụ thể (cảm
tính) đến trừu tượng và Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy).
• Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ những tài
liệu cảm tính thông qua phân tích xây dựng các khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu
tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật.
Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy) là phương pháp đòi hỏi phải xuất phát từ những khái
niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng thông qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể
trong tư duy.
Câu 11: Trình bày phương thức thực hiện phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
a. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
• Người nghiên cứu thiết kế sẵn một phiếu hỏi với những câu hỏi được sắp xếp theo trật tự
logic nhất định để có được thông tin về đối tượng.
• Ưu điểm: Cho phép tiến hành nghiên cứu trên một địa bàn rộng, nhiều người tham gia, có
thể thu thập được một số lượng lớn ý kiến.
• Nhược điểm: Độ thành công phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố thuộc về năng
lực, kỹ năng của nhà nghiên cứu, trạng thái tâm lý, nhận thức và mức độ hợp tác của người
được hỏi cũng như môi trường, tình huống triển khai phương pháp.
• Cấu trúc:
• Phần mở đầu: Được bắt đầu bằng việc đặt tên cho bảng hỏi Tên gọi của bảng hỏi phải phản
ánh được nội dung của đề tài nghiên cứu. Việc chọn những thuật ngữ dùng trong phần mở
đầu phụ thuộc vào loại điều tra, đối tượng của nó, vào các đặc điểm văn hóa của mẫu
nghiên cứu…
• Lời giới thiệu của bảng hỏi:
• Bao gồm những chỉ dẫn về chủ đề được khảo sát; những chỉ dẫn kỹ thuật (chẳng hạn: Bạn
hãy đánh dấu gạch chéo (x) trong ô tương ứng với sự lựa chọn của bạn hoặc ý kiến của
bạn...).
• Các câu hỏi của bảng hỏi:
• Việc sắp xếp câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp, từ chung đến riêng, câu hỏi sau làm rõ
những câu hỏi trước.
• Các câu hỏi lọc, câu hỏi chức năng, câu hỏi đơn giản và phức tạp cần được đặt xen kẽ trong
bảng hỏi.
• Phần cuối bảng hỏi : Bày tỏ lời cảm ơn người trả lời về sự hợp tác, tham gia nghiên cứu.
Câu 12. Phân tích những căn cứ để nhà khoa học lựa chọn 1 đề tài nghiên cứu
Việc lựa chọn đề tài khoa học có ý nghĩa quan trọng. Đề tài được lựa chọn sẽ là kéo theo
sự đầu tư trí tuệ, thời gian, kinh phí... của người làm khoa học.
Thông thường, để đi đến quyết định chọn một đề tài nghiên cứu cần thỏa mãn cả điều kiện
khách quan và chủ quan.
- Về điều kiện khách quan:
Đề tài được nhà nghiên cứu lựa chọn phải chưa có ai nghiên cứu hoặc đã có người nghiên
cứu nhưng kết quả không thoả đáng so với nhu cầu nhận thức của nhà nghiên cứu hoặc đòi hỏi
của thực tiễn. Đề tài nghiên cứu được lựa chọn khi nó có thể đã được nhiều nhà khoa học luận
giải nhưng kết quả khác nhau, trái ngược nhau. Trường hợp khác, kết quả nghiên cứu đề tài ấy
đã có nhưng không áp dụng được vào tình huống, lĩnh vực hay địa phương cụ thể đo những khác
biệt về yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị…
Vấn đề nghiên cứu được lựa chọn phải được giới chuyên môn quan tâm. Việc thực hiện đề
tài góp phần phát triển hệ thống lý thuyết của một khoa học. Đồng thời, nhà nghiên cứu có điều
kiện nghiên cứu về thông tin, địa bàn khảo sát…
- Về điều kiện chủ quan, người nghiên cứu phải thực sự quan tâm đến vấn đề nghiên cứu
dù đề tài có thể được áp đặt từ cơ quan quản lý, từ đơn vị đặt hàng nghiên cứu... .
Người nghiên cứu có tri thức, vốn sống, kinh nghiệm ở mức độ nhất định liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu,
Bên cạnh đó, người nghiên cứu phải có đủ khả năng, thời gian, tài chính để triển khai thực
hiện đề tài.
Câu 13. Nội dung cơ bản trong cơ sở lý thuyết của một đề tài nghiên cứu.
1. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể là hệ thống sự vật hiện tượng tồn tại khách quan trong các mối liên hệ mà người
nghiên cứu cần tìm hiểu, khám phá; nó mang lại đối tượng nghiên cứu, là nơi chứa đựng những
câu hỏi, mâu thuẫn mà nghiên nghiên cứu cần tìm câu trả lời và cách thức giải quyết phù hợp
- Đối tượng nghiên cứu là một bộ phận đủ đại điện của khách thể nghiên cứu được lựa chọn để
xem xét. Đối tượng nghiên cứu trong đề tài khoa học được giới hạn trong một phạm vi nghiên
cứu nhất định: quy mô xem xét đối tượng, phạm vi không gian tồn tại và phát triển, phạm vi thời
gian của tiến trình vận động của đối tượng
2. Đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát là bộ phận đủ đại diện của khách thể nghiên cứu được người nghiên cứu lựa
chọn để xem xét
- Phạm vi nghiên cứu là một phần giới hạn của nghiên cứu liên quan đến đối tượng khảo sát và
nội dung nghiên cứu được xác định bởi góc tiếp cận nội dung, thể hiện quy mô nội dung được
giải quyết trong khuôn khổ đề tài. Nó bao gồm những giới hạn về không gian của đối tượng khảo
sát, giới hạn quỹ thời gian trong tiến trình khảo sát của đề tài
• Cơ sở xác định phạm vi nghiên cứu:
• Bộ phận mang tính đại diện của khách thể, bao chứa đối tượng nghiên cứu
• Khả năng được hỗ trợ về kinh phí, phương tiện, thiết bị thực nghiệm đảm bảo thực hiện
nội dung nghiên cứu
• Quỹ thời gian để có thể hoàn tất công trình nghiên cứu
3. Khái niệm trung tâm của đề tài nghiên cứu
- Việc xác định khái niệm trung tâm là nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu khoa học.
- Khái niệm trung tâm là khái niệm bao chứa đối tượng nghiên cứu được sử dụng như một công
cụ nhận thức trong quá trình thực hiện đề tài. Xác định được khái niệm trung tâm là xác định
được bản chất và sự khác biệt của sự vật, hiện tượng hay quá trình, đây là bước quan trọng nhất
trong xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Khái niệm là tên gọi của sự vật hiện tượng, là công cụ để tư duy và trao đổi thông tin vì vậy nếu
khái niệm không chính xác có thể dẫn đến sai lệch về kết quả nghiên cứu. Các khái niệm được
nghiên cứu bằng định nghĩa, một số được sử dụng phổ biến như: định nghĩa xác định nguồn gốc,
định nghĩa chỉ rõ đặc trưng,.. Dù là cách thức nào cũng phải đảm bảo về tính khoa học và rõ ràng
về nội dung khái niệm
- Quá trình khái niệm hóa và thao tác hóa là hai hoạt động ngược chiều nhưng liên quan mật thiết
với nhau. Nhà nghiên cứu cần thực hiện các thao tác logic đối với khái niệm để chuyển từ khái
niệm này sáng khái niệm khác, từ rộng sang hẹp và ngược lại bằng hai thao tác thường được dùng
sau:
• Mở rộng khái niệm là mở rộng từ khái niệm hẹp sang khái niệm rộng bằng việc bỏ bớt
những thuộc tính trong nội hàm của khái niệm xuất phát
• Thu hẹp là thao tác ngược lại với mở rộng, xác định được những thuộc tính mới bổ sung
vào khái niệm đã có nht
- Thao tác phân chia khái niệm là dựa vào khái niệm để vạch rõ các khái niệm hẹp hơn hàm chứa
trong khái niệm ấy. Hai hình thức phân chia khái niệm thường dùng:
• Phân loại khái niệm: Thao tác logic nhằm vào nội hàm của khái niệm để vạch rõ các khái
niệm hẹp hơn hàm chứa trong khái niệm ban đầu. Kết quả cho thấy thuộc tính đặc trưng
của sự vật từ đó cho biết cấu trúc, mối quan hệ và quy luật của sự vật hiện tượng
• Phân đôi khái niệm: Thao tác phân chia khái niệm ban đầu thành những khái niệm đối lập
về nội hàm. Nhà nghiên cứu cần tìm một dấu hiệu bản chất của sự vật hiện tượng rồi tìm
bản chất ngược lại sẽ cho ra khái niệm đối lập
4. Các nhân tố, điều kiện ảnh hưởng và quy định đối tượng nghiên cứu
• Các điều kiện, nhân tố ảnh hưởng chi phối cả tích cực và tiêu cực
• Điều kiện khách quan: Gồm những quy luật khách quan, những hiện tượng vốn có, đang
tồn tại hiện thực như những điều kiện, tiền đề chi phối đối tượng
• Nhân tố chủ quan: Gồm trình độ nhận thức, thái độ nguyện vọng, ý chí,... của chủ thể hoạt
động trong đối tượng nghiên cứu được xem xét
=> Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan là cơ sở để người nghiên cứu phân tích, đánh giá
và trình bày những phương hướng và giải pháp tác động đến đối tượng khảo sát một cách khoa
học
5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
• Mục tiêu kết quả dự kiến về mặt nội dung mà nhà nghiên cứu vạch ra và thực hiện, thường
dưới dạng sơ đồ cây mục tiêu gồm 1 mục tiêu gốc và các mục tiêu nhánh có quan hệ hệ
thống
• Các mục tiêu nhánh tác động với nhau thực hiện mục tiêu chính của đề tài.
• Cây mục tiêu là cơ sở để triển khai nội dung và tổ chức nghiên cứu
=> Từ cây mục tiêu ta có thể xác định nhiệm vụ nghiên cứu, đó là những nội dung cụ thể cần
triển khai để thực hiện những mục tiêu đã định
Câu 14: Nêu tên một đề tài khoa học và xác định khách thể nghiên cứu, đối tượng nghiên
cứu, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng khảo sát, phạm vi nghiên cứu và xác định kết
cấu nội dung của đề tài ấy.
Đề tài: Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền hiện nay.
• Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của các sinh viên hiện đang học tập tại Học viện
Báo chí và Tuyên truyền.
• Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tự học 500 sinh viên ngẫu nhiên thuộc Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
• Mục tiêu: Nghiên cứu lý luận về vấn đề tự học và khảo sát thực trạng tự học của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tự
học của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
• Nhiệm vụ nghiên cứu:
• Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề tự học và tầm quan trọng
của việc tự học đối với sự phát triển của sinh viên nói chung và sinh viên Học viện
báo chí và Tuyên truyền nói riêng.
• Khảo sát nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học, đồng thời đánh giá thực trạng
của vấn đề tự học của sinh viên Học viện báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
• Tìm hiểu những khó khăn trong quá trình tự học, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục
và đẩy mạnh hoạt động tự học của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
• Đối tượng khảo sát: 500 sinh viên ngẫu nhiên thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
• Phạm vi nghiên cứu: Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
• Kết cấu nội dung của đề tài:
I. Mở đầu.
Tính cấp thiết của đề tài.
II. Cơ sở lý luận.
2.1. Một số khái niệm trong đề tài.
2.2. Cơ sở lý luận về vấn đề tự học.
2.2.1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề tự học.
2.2.1.1. Vấn đề tự học trên thế giới.
2.2.1.2. Vấn đề tự học ở Việt Nam.
2.2.2. Các quan niệm về vấn đề tự học.
2.2.4. Định nghĩa, nguyên tắc, điều kiện về cách tự học hiệu quả
2.2.5. Đặc điểm tự học ở Đại học.
III. Nghiên cứu về biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
3.1. Nội dung nghiên cứu.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
3.3. Kết quả nghiên cứu.
3.3.1. Thực trạng vấn đề tự học của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
hiện nay.
3.3.2. Nhận thức của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền về vấn đề tự học.
3.3.3. Các hình thức tự học của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
3.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
3.3.5. Những khó khăn trong quá trình tự học của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
3.3.6. Biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền hiện nay.
3.3.6.1. Về phía giảng viên.
3.3.6.2. Về phía sinh viên.
3.3.6.3. Các điều kiện phục vụ tự học khác.
IV. Kết luận.
15. Nêu tên một đề tài luận chứng tính cấp thiết nghiên cứu, xác định phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu, phân tích điều kiện và nhân tố tác động đến đối tượng nghiên
cứu, thao tác hóa khái niệm công cụ cho đề tài ấy.
Đề tài: BIÊN TẬP NGÔN NGỮ SÁCH GIÁO KHOA LỚP 1 TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1, Tính cấp thiết nghiên cứu
Ngôn ngữ đã ra đời từ rất lâu, phát sinh từ lao động và được phát triển để đáp ứng những nhu cầu
của đời sống đặt ra. Song hành cùng sự phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ cũng đã trải
qua những chặng đường khúc khuỷu, quanh co, phức tạp trước khi nó trở thành một bản thể hoàn
chỉnh, đa dạng và sinh động như ngày nay. Trong cuốn “Dẫn luận Ngôn ngữ học”, GS.TS Nguyễn
Thiện Giáp cũng đã viết: “Ngôn ngữ là người bạn đường không thể thiếu của con người. Sự kỳ
diệu, vẻ đẹp và ý nghĩa của ngôn ngữ loài người thường xuyên khuấy động những con tim, khối
óc tò mò và nhạy cảm.”
Ngôn ngữ càng quan trọng hơn đối với học sinh lớp 1, bởi tại thời điểm này, ngôn ngữ của các
em mới bắt đầu được hình thành và tích luỹ. Sự phát triển ngôn ngữ sẽ kích thích các hoạt động
trí tuệ, góp phần hoàn thiện hơn các thao tác tư duy và giúp các em hình thành quy luật và hiểu
được các quy luật trong cuộc sống. Chính vì vậy, ngôn ngữ được sử dụng trong giáo dục học sinh
lớp 1 phải là ngôn ngữ đạt chuẩn tuyệt đối. Tuy nhiên, nhiều nội dung trong sách giáo khoa lớp
một mới hiện nay lại sử dụng ngôn ngữ địa phương, không mang tính phổ thông, điều này đã dẫn
đến việc học sinh không thể nắm bắt chính xác được thông tin bài học, gây ảnh hưởng lớn tới sự
phát triển toàn diện của các em. Biên tập viên được ví như người “gác cửa” cho việc sản xuất và
truyền bá các giá trị tinh thần của xã hội, và ngôn ngữ chính là “vũ khí” quyết định họ sẽ sản xuất
và truyền bá như thế nào. Thế nên, việc đưa ngôn ngữ thiếu chuẩn mực như vậy vào sách giáo
khoa đã chỉ ra sự cẩu thả, hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, và không nắm được tâm lý lứa tuổi
học sinh lớp 1 của đội ngũ biên soạn. Rõ ràng, hậu quả của vấn đề này là rất lớn. Nhận thức được
thực trạng đáng báo động này, nhóm em đã chọn đề tài Biên tập ngôn ngữ trong hoạt động xuất
bản sách giáo khoa lớp 1 làm đề tài nghiên cứu cho bài tập lần này.