You are on page 1of 22

1. Phân tích các điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.

Liên hệ thực tiễn phát triển


kinh tế hàng hoá ở Việt nam.

*Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá:

Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là có phân công lao động xã hội và có sự
tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.

A, Phân công lao động xã hội

Phân công lao động xã hội chính là điền kiện cần cho sản xuất hàng hóa ra đời. Phân công lao động
xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội
tạo sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất.

Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên, kĩ thuật, năng khiếu,
sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội
như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.

Phân công lao động có vai trò đó là làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân
công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Ngoài ra, phân công lao động xã hội còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do đó ngày
càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất hàng hóa
ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.

B,Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất

Bên cạnh điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều kiện đủ, đó là phải có
sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự
độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế
hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hoá.

Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư
liệu sản xuất quy định.

Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả
là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm
hữu nô lệ. Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là
chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản
phẩm lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những
người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã
hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu
dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới
những hình thái hàng hóa.
Cơ sở thứ ba đó là do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất quy
định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền sở hữu mà còn khác biệt ở quyền sử
dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác nhau của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về
kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc
trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có
thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng hóa, sản
phẩm của lao động trở thành hàng hóa.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho sản phẩm làm ra thuộc
quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ mới có quyền mang nó đi bán. Thêm
vào đó, sự tách biệt ấy còn làm cho quan hệ trao đổi của chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi
hàng hóa, vì sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh
tế độc lập với nhau. Chính vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc
ngang giá mới công bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.

Trên đây là hai điều kiện cần và đủ để có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai
điều kiện sẽ không có sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch
sử tức là nó chỉ tồn tại khi có cả hai điều kiện và mất đi khi một trong hai điều kiện đó mất đi.

*Thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam

tháng 12/1986, tại đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đãcó quyết định quan trọng trong việc đổi mới
nền kinh tế, thay thế nền kinh tế tậptrung quan liêu bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Và
từ đó, nền kinh tếsản xuất hàng hóa đã trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy công nghiệp hóa –
hiệnđại hóa và phát triển bền vứng đất nước; giúp nền kinh tế của nước ta từng bướchội nhập với sự
đi lên không ngừng của khu vực và thế giới, đạt được nhiều thànhtựu quan trọng

-thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị trường hàng hoá
với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông đã làm cho hàng
hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc và ngăn trở.

-trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu
khác nhau.

-quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu hụt hàng hoá
sang trạng thái đủ và dư thừa.

-thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù ở mức độ còn
hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh
hưởng đến thị trường trong nước.

-thị trường quốc tế của VIệt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất

Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm gần đây.

-sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi mới.
Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường.

2,Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá. Liên hệ thực tiễn với hoạt động sản xuất một hàng
hoá/dịch vụ.
* Hai thuộc tỉnh của hàng hóa - Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như
những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ...

-Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

a) Giá trị sử dụng của hàng hóa

+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.

+ Bất cứ một vật phẩm nào là hàng hóa hay không cũng có một hay một số công dụng nhất định.
Chính công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ, công dụng của gạo
là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn...

+ Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên của thực thể hàng hóa đó
quyết định nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ
chức sản xuất.

+ Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ
thuật và của lực lượng sản xuất nói chung. Chẳng hạn, than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt
(đun, sưởi ấm), khi khoa học - kỹ thuật phát triển hơn nó còn được dùng làm nguyên liệu cho một
số ngành công nghệ hoá chất. + Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng
giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử
dụng ngày càng cao.

+ Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.

b) Giá trị của hàng hóa

+ Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là một
quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử
dụng loại khác.

Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc.

Tức là 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.

+ Hai hàng hóa khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ
sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là giá trị sử dụng của chúng, bởi vì, giá trị sử dụng của
vải là để mặc, hoàn toàn khác với giá trị sử dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và thóc
đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các
hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là
trao đổi lao động của mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy.

+ Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa. Giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung,
là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
*Liên hệ về sản xuất một loại hàng hoá/dịch vụ:

Trong trao đổi, mua bán hàng hóa nông sản, nông dân luôn muốn bán sản phẩm với giá cao. Nhưng
đôi khi điệp khúc được mùa mất giá diễn ra thường xuyên. Vì vậy, họ áp dụng nhiều biện pháp tiên
tiến để bán nông sản với giá cao nhất như đầu tư vào khâu bảo quản đợi giá cao thì bán, hoặc đa
dạng hóa đầu ra như chế biến phơi khô, sấy khô… để sản phẩm có giá trị cao hơn…

3, Phân tích vấn đề lượng giá trị hàng hoá. Rút ra ý nghĩa thực tiễn về tăng năng suất và tăng
cường độ lao động trong sản xuất hàng hoá

*Phân tích

Giá trị của hàng hoá là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá.

Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Trên
thực tế có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay
nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá không giống
nhau, tức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Vì vậy, lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng
thời gian lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã
hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện
sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết bị trung bình, với trình độ thành thạo trung
bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

a,Trình độ thành thạo trung bình tức trình độ nghề, trình độ kỹ thuật, mức độ khéo léo của đại đa số
người cùng sản xuất mặt hàng nào đó

b) Cường độ lao động trung bình là cường độ lao động trung bình trong xã hội, sức lao động phải
được tiêu phí với mức căng thẳng trung bình, thông thường.

c,Điều kiện bình thường của xã hội tức là muốn nói dụng cụ sản xuất loại gỡ là phổ biến, chất
lượng nguyên liệu để chế tạo sản phẩm ở mức trung bình.

Cũng cần chú ý rằng, trình độ thành thạo trung bình, cường độ trung bình, điều kiện bình thường
của xã hội đối với mỗi nước, mỗi ngành là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng
sản xuất.

Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao
phí lao động cá biệt) của người sản xuất hàng hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó trên thị
trường. Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, do đó lượng giá trị
hàng hoá cũng không cố định. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị của
hàng hoá cũng thay đổi.

Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá, mới là cái quy định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy.

*ý nghĩa thực tiễn về tăng năng suất và cường độ lao động trong sản xuất hàng hoá

-Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm được
người lao động sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động tăng lên nghĩa là cùng
trong một khoảng thời gian lao động đó mà số lượng hàng hóa tăng lên, làm cho thời gian lao động
cần thiết để tạo ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó mà giá trị của một đơn vị hàng hóa cũng
sẽ giảm xuống.

-Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian, Nếu
cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra sẽ tăng lên, đồng thời sức hao phí lao
động để sản xuất ra lượng hàng hóa đó cũng tăng lên, vì vậy mà giá trị của một đơn vị hàng hóa
cũng không đổi.

-Ý nghĩa: + tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động đều dẫn đến lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian lao động tăng lên

+ năng suất lao động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế có năng suất cao nghĩa là nền
kinh tế đó có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn với cùng một lượng nguyên liệu/yếu
tố đầu vào, hoặc tăng năng suất lao động tạo ra lợi nhuận lớn hơn và thêm cơ hội đầu tư.

Đối với người lao động tăng năng suất lao động dẫn tới lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt
hơn. Về lâu dài, tăng năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với tạo việc làm.

Đối với Chính phủ, tăng năng suất lao động giúp tăng nguồn thu từ thuế.

+tăng năng suất lao động (NSLĐ) là một nhiệm vụ quan trọng, vừa có ý nghĩa thời sự nhằm sớm
thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược
nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, giúp Việt
Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực.

4,phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ:

Nguồn gốc của tiền tệ:

-Từ khi nền sản xuất hàng hóa ra đời, nhu cầu buôn bán trao đổi trở nên phổ biến-> cần có thước đo
về giá trị của các hàng hóa, từ đó tiền tệ ra đời. -Trải qua chiều dài lịch sử, tiền tệ đã trải qua bốn
hình thái từ đơn giản đến phức tạp sau đây:4 hình thái đo lường giá trị đã có trong lịch sử: Hình thái
giản đơn: trao đổi đơn nhất một hàng hóa này lấy một hàng hóa khác. Nguồn gốc: Hình thái này
xuất hiện khi xã hội cộng đồng nguyên thủy tan rã, trao đổi lúc đầu mang tính chất ngẫu nhiên và
trực tiếp. Đặc điểm: Dựa trên sự trao đổi trực tiếp hàng- hàng, Việc trao đổi, tỉ lệ trao đổi là ngẫu
nhiên Hình thái mở rộng của giá trị: trao đổi thường xuyên một loại hàng hóa này lấy nhiều hàng
hóa, phạm vi vật ngang giá được mở rộng. Nguồn gốc: Lực lượng sx và phân công lao động XH
phát triển hơn đưa đến kết quả là NSLĐ tăng lên, sp thặng dư nhiều hơn, do đó, trao đổi trở nên đều
đặn và thường xuyên hơn. Khi đó giá trị có hình thái đầy đủ hay mở rộng. Đặc điểm: Dựa trên trao
đổi trực tiếp hàng- hàng, Mỗi hàng hóa có quá nhiều vật ngang giá Hình thái chung của giá trị: chọn
một vật ngang giá làm vật ngang giá chung. Nguồn gốc: LLSX và phân công lao động xã hội tiếp
tục phát triển cao hơn, trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và mở rộng hơn nữa. Trong quá
trình trao đổi, đã xuất hiện một hàng hóa được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị có thể
dùng để đổi lấy mọi hàng hóa. Hình thái chung của tiền tệ ra đời.Đặc điểm: Trao đổi thông qua vật
chung gian: hàng- vật ngang giá chung- hàng , Mỗi cộng đồng có một vật ngang giá khác nhau.
Hình thái tiền tệ: xã hội chọn một vật ngang giá duy nhất để trao đổi ( tiền tệ ) Nguồn gốc: Khi lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất và thị trường ngày càng
mở rộng thì việc có nhiều vật là vật ngang giá chung của từng vùng miền làm cho trao đổi khó
khăn, do đó cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất và cố định. Khi vật ngang giá
chung được cố định lại ở một hàng hóa độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện.
Bản chất của tiền tệ:

· Là một loại hàng hóa đặc biệt

· Được xã hội chọn làm vật ngang giá duy nhất

· Dùng để đo lường giá trị hàng hóa và làm phương tiện trung gian trao đổi.

· Con người thường dùng vàng, bạc làm vật ngang giá trong trao đổi vì chúng có giá trị cao và có
giá trị sử dụng đa dạng.

· Chức năng của tiền tệ

· Là thước đo giá trị: Con người dùng tiền để đo lường giá trị của mọi hàng hóa khác.

· Nếu so sánh giá trị tài sản trong dài hạn phải quy đổi tài sản sang vàng, bạc.

· Là phương tiệc cất trữ: Cất trữ là trạng thái đưa tiền tệ ra khỏi lưu thông.(phải dự trữ vàng, bạc
không nên dự trữ tiền, do tiền dễ bị mất giá)

· Là phương tiện lưu thông: Con người dùng tiền làm phương tiện trung gian trao đổi. H-T-H

· Là phương tiện thanh toán: Dùng tiền để chi trả cho các nghĩa vụ kinh tế, làm gián đoạn quan hệ
trao đổi H-H, xuất hiện mưa bán trả chậm.

· Chức năng tiền tệ thế giới: Dùng tiền để thanh toán thương mại quốc tế

Cho đến thế kỉ XIX, trao đổi buôn bán bằng vàng. Hiện nay, trao đổi bằng tiền tệ thông qua hệ
thống tỉ giá hối đoái

5,phân tích quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể cơ bản trong nền kinh tế thị trường.
Liên hệ thực tiễn

*Quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể cơ bản:

1, Người sản xuất

-Quyền lợi

· . Quyết định và công bố mức chất lượng sản phẩm do mình sản xuất, cung cấp.

· Quyết định các biện pháp kiểm soát nội bộ để bảo đảm chất lượng sản phẩm.

· Lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù hợp để thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất
lượng sản phẩm, hàng hóa.

· Sử dụng dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các dấu hiệu khác cho sản phẩm theo quy định của pháp
luật.

· Yêu cầu người bán hàng hợp tác trong việc thu hồi và xử lý hàng hóa không bảo đảm chất lượng.
· Khiếu nại kết luận của đoàn kiểm tra, quyết định của cơ quan kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền.

· Được bồi thường thiệt hại trong trường hợp bị cá nhân, tổ chức có liên quan

-Nghĩa vụ

· . Tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với sản phẩm trước khi đưa ra thị trường và chịu
trách nhiệm về chất lượng sản phẩm do mình sản xuất.

· Thể hiện các thông tin về chất lượng trên nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo hàng hóa
theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.

· Thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

· Cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa cho người bán hàng và
người tiêu dùng.

· Thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa.

· Cung cấp thông tin về việc bảo hành và thực hiện việc bảo hành sản phẩm, hàng hóa cho người
mua, người tiêu dùng.

· Sửa chữa, hoàn lại hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết tật bị người bán hàng, người tiêu
dùng trả lại.

· Kịp thời ngừng sản xuất, thông báo cho các bên liên quan và có biện pháp khắc phục hậu quả khi
phát hiện sản phẩm, hàng hóa gây mất an toàn hoặc sản phẩm, hàng hóa không phù hợp với tiêu
chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.

· Thu hồi, xử lý sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng. Trong trường hợp phải tiêu huỷ
hàng hóa thì phải chịu toàn bộ chi phí cho việc tiêu huỷ hàng hóa và chịu trách nhiệm về hậu quả
của việc tiêu huỷ hàng hóa theo quy định của pháp luật.

· Bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.

· Tuân thủ các quy định, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

· Trả chi phí thử nghiệm, chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp; chi phí lấy mẫu, thử nghiệm; chi
phí lấy mẫu, thử nghiệm, giám định.

· Chứng minh kết quả sai và lỗi của tổ chức đánh giá sự phù hợp theo quy định của Luật chất lượng
sản phẩm hàng hóa.

2,Người tiêu dùng

-quyền lợi:

Quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản: quyền được mua những hàng hóa dịch vụ thiết yếu đáp ứng
cho cuộc sống như ăn ở, chăm sóc sức khỏe, đi lại....
+ Quyền được an toàn: người tiêu dùng được bảo vệ, chống lại hàng hóa, dịch vụ, quá trình sản
xuất có hại đến sức khỏe, đời sống và quyền lợi chính đáng của họ.

+ Quyền được thông tin: người tiêu dùng có quyền được cung cấp thông tincần thiết về hàng hóa,
dịch vụ mà họ sử dụng để có thể tự quyết định việc cótiêu dùng hay không dựa trên thông tin đó. +
Quyền được lựa chọn: người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn, quyếtđịnh tiêu dùng hàng hóa

+ Quyền được lắng nghe: người tiêu dùng được quyền phản hồi, đánh giá, góp ý đối với nhà sản
xuất, kinh doanh về các loại hàng hóa do họ cung ứng.

+ Quyền được khiểu nại và bồi thường: khi gặp những thiệt thòi, những điều không vừa ý về hàng
hóa hay nhà sản xuất (VD mua phải hàng lỗi, hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái) người tiêu
dùng có quyền được khiếu nại, nếu khiếu nại được xác nhận là chính xác thì người tiêu dùng có
quyền được bồi thường.

+ Quyền được giáo dục và đào tạo về tiêu dùng: là điều kiện cần thiết để các quyền của người tiêu
dùng được thực hiện. Giáo dục người tiêu dùng về những kiến thức, kỹ năng tiêu dùng sẽ giúp
người tiêu dùng biết vị thế của mình trong xã hội, từ đó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân. + Quyền được có môi trườngsống (gồm vật chất và xã hội) lành mạnh: người tiêu dùng
trong một thị trường trao đổi, mua bán văn minh, không có các tệ nạn như: buôn bán ma túy, buôn
lậu,..

Trách nhiệm:

+ Bảo vệ quyền lợi của mình, của doanh nghiệp, của xã hội một cách hợppháp

+ Trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Từ bỏ những nhu cầu gây ảnh hưởng xấu
đến tự nhiên, xã hội như ăn thịt động vật hoang dã gây mất cân bằng sinh thái.

+ Tuyên truyền đến những người xung quanh về kiến thức, kỹ năng tiêu dùng như cách lựa chọn
hàng hóa chất lượng, nhà sản xuất uy tín,..

+ Sử dụng quyền lợi tiêu dùng dưới sự cho phép của pháp luật nhà nước.

+ Công tâm, khách quan đánh giá sản phẩm, khiếu nại đúng sự thật trongtrường hợp mua phải hàng
kém chất lượng, hàng giả,.. + Lên án, tố cáo những cá nhân, tổ chức mua bán hàng hóa trái quy
định pháp luật và không tiêu dùng những hàng hóa đó.

3. Các chủ thể trung gian trong thị trường

-Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ thể sản xuất,
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường..

-Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị của hàng hóa cũng
như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.

-Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không
phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung gian phong phú trên tất
cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung
gian môi giới khoa học công nghệ... Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất hợp pháp...). Những trung gian này cần được loại
trừ.

4. Nhà nước

-Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục những khuyết tật của thị trường.

-Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế thông qua
việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy sức sáng tạo của họ. Việc
tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ phía nhà nước sẽ làm kim hãm động lực
sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các rào cản như vậy phải được loại bỏ.

-Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật của nền kinh
tế thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.

6) Phân tích nội dung yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị
trường.
Nội dung của quy luật giá trị:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm
sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí
lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được. Trong trao
đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng
hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau
hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
Yêu cầu:
Đối với sản xuất: phải sản xuất ra hàng hoá với hao phí lao động cá biệt
bằng hoặc thấp hơn hao phí lao động xã hội cần.
Đối với lưu thông: phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã
hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt
Tác dụng:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: điều hoà, phân bổ các
yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
- Người sản xuất chuyển hướng sản xuất từ ngành lợi nhuận thấp sang ngành lợi nhuận cao
- Điều tiết hàng từ nơi giá thấp sang nơi giá cao
Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng
xuất lao động vì mục tiêu lợi nhuận.
⁺ Để có giá trị cá biệt hàng hoá nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Người
- sản xuất phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ, tổ chức sản xuất hợp
lí, áp dụng công nghệ mới, … Kết quả năng suất lao động xã hội tăng
lên, chi phí sản xuất hàng hoá giảm xuống.
Thứ ba, phân hoá người giàu, người nghèo một cách tự nhiên.
⁺ Trong cạnh tranh, người sản xuất nào nhạy bén với thị trường, có hao
- phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ có thu nhập cao
và trở nên giàu có. Ngược lại, nếu giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hôi,
dẫn đến thua lỗ, phá sản.
→ Quy luật giá trị vừa có cả những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động
 Quy luật vừa có tác động tích cực lẫn tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan
trên thị trường nên cần có sự điều tiết của nhà
nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy các tác động tích cực

7) Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
sức lao động.
• Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao động sản xuất.
Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá
khi có hai điều kiện sau:
Một là người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao động của
mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản con người
có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của
mình. Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ
phong kiến.
Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ
trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách
nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động
biến thành hàng hoá.
Phân tích được 2 thuộc tính của hàng hóa:
- Giá trị sử dụng: Khái niệm; mặt chất: do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định; mặt lượng: do
trình độ khoa học, công nghệ quy định; trong nền KTHH, GTSD là vật mang GTTĐ và là một phạm trù
lịch sử.
- Giá trị: Khái niệm giá trị trao đổi 1m vải =5kg thóc; khái niệm giá trị
- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính: thống nhất và mâu thuẫn.
Giải thích tại sao hàng hóa lại có hai thuộc tính: (nếu hỏi thêm câu này thì chép vào)
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là vì lao động sản xuất hàng hóa có
tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Không phải có hai thứ lao động khác nhau, mà chỉ có một loại lao động sản xuất hàng hóa,
nhưng loại lao động đó được xem xét ở hai mặt. Nếu với mục đích tìm hiểu xem người lao động đã
lao động như thế nào, bằng cách nào để tạo ra sản phẩm hàng hóa thì đó là lao động cụ thể. Cũng
lao động sản xuất hàng hóa đó, nhưng lại xem xét để biết nó tốn bao nhiêu sức lực, hết bao nhiêu
thời gian thì đó là lao động trừu tượng.
8) Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư thông qua một ví dụ, làm rõ bản chất của
tư bản, giá trị thặng dư và kết cấu giá trị của hàng hoá.

Để sản xuất ra 10 kg sợi, một nhà tư bản chi phí các yếu tố sản xuất như sau:
- Mua 10 kg bông hết 20 000 USD
- Mua sức lao động của công nhân trong 1 ngày (10 giờ) hết 5.000 USD.
- Hao mòn máy móc để chuyển 1kg bông thành sợi hết 3.000 USD
Giả sử trong 5 giờ đầu của ngày lao động, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy móc
cán và xe 10 kg bông thành sợi, theo đó giá trị của bông (20.000) và phần hao mòn máy móc
(3.000) được chuyển vào sợi; bằng lao động trừu tượng, người công nhân đã tạo ra một lượng giá
trị mới bằng giá trị sức lao động (5.000). Như vậy, giá trị của 10 kg sợi là 28.000 USD
Nếu nhà tư bản chỉ yêu cầu người công nhân làm việc trong 5giờ thì nhà tư bản không có lợi
lộc gì, không đạt được mục đích là kiếm giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản mua sức lao động trong
một ngày (10 giờ) thì phải sử dụng số hàng đã mua đó trong cả ngày.
Trong 5 giờ lao động tiếp theo của ngày lao động, nhà tư bản chỉ phải chi phí các yếu tố sản
xuất như sau:
- Mua thêm 10 kg bông hết 20.000 USD.
- Hao mòn máy móc để chuyển 10 kg bông thành sợi hết 3.000 USD.
Quá trình lao động lại tiếp tục diễn ra và kết thúc quá trình này, người công nhân lại tạo ra
10 kg sợi có giá trị là 28.000 USD
Như vậy, sau một ngày nhà tư bản đã có 20 kg sợi với giá trị là 56.000 nhưng chỉ phải bỏ ra
51.000. So với số tư bản ứng trước (51.000) sản phẩm sợi thu được có giá trị lớn hơn là 5.000. Đó là
giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được.
Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm
thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Mục đích của nhà tư bản đã đạt được, mặc dù vẫn theo đúng quy luật trao đổi: mua bán
ngang giá. Đến đây chúng ta có thể giải thích rõ hơn mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
trong quá trình lưu thông, nhà tư bản trả đúng giá trị của hàng hoá sức lao động; trong quá trình sản
xuất, công nhân tạo ra một giá trị mới bằng giá trị sức lao động của mình cộng thêm giá trị thặng
dư; nhà tư bản đem bán hàng hoá có chứa đựng giá trị thặng dư, nên thu được nhiều tiền hơn so với
số tiền bỏ ra ban đầu.
9) Phân tích bản chất, nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận thương nghiệp
+ Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn để khác nhau. Lĩnh vực lưu
thông cũng như hoạt động của các nhà tư bản thương nghiệp đúng là không tạo ra được giá trị thặng
dư, nhưng do vị trí, tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của sản xuất và tái sản xuất
nên các nhà tư bản thương nghiệp vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư cùng với
các nhà tư bản công nghiệp và phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thương nghiệp được chia
chính là lợi nhuận thương nghiệp.
+ Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh
vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp, để nhà tư bản
thương nghiệp tiêu thụ hàng cho mình.
+ Tại sao nhà tư bản công nghiệp lại nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị
thặng dư? Điều đó được giải thích như sau:
*    Tư bản thương nghiệp hoạt, động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai đoạn của
quá trình tái sản xuất. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này nếu không có lợi nhuận thì nhà tư bản
thương nghiệp không thể tiếp tục đảm nhiệm công việc đó. Vì vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế của
nhà tư bản thương nghiệp mà nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nó một phần lợi nhuận.
*    Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất.
*    Tư bản thương nghiệp góp phần mỏ rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.
*    Do tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, nên tư bản công nghiệp có thể rảnh tay
trong lưu thông và chỉ tập trung đẩy mạnh sản xuất. Vì vậy, tư bản của nó chu chuyển nhanh hơn,
năng suất lao động cao hơn và nhờ đó lợi nhuận cũng tăng lên.
Nguồn gốc, bản chất của lợi tức
Người đi vay thu được lợi nhuận bình quân, do phải đi vay tiền của người khác cho nên người đi
vay phải khấu trừ một phần của lợi nhuận bình quân thu được để trả cho người cho vay.
Vậy là, lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà người đi vay phải trả cho người cho vay vì
đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi của người cho vay. Đây là quan hệ kinh tế phản ánh quan hệ lợi ích
giữa người đi vay với người cho vay. Song về thực chất, lợi tức đó là một phần của giá trị thặng dư
mà người đi vay đã thu được thông qua sử dụng tiền vay đó.
Tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản có đặc điểm:
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu. Chủ thề sở hữu tư bản không phải là chủ thể sử
dụng, chủ thể sử dụng tư bản chỉ được sử dụng trong một thời hạn nhất định và không có quyền sở
hữu.
Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt.
Người bán không mất quyền sở hữu, người mua chỉ được quyền sừ dụng trong một thời gian. Sau
khi sử dụng, tư bản cho vay không mất giá trị sử dụng và giá trị mà được bảo tồn, thậm chí còn tăng
thêm.
Giá cả của tư bản cho vay được quyết định bởi giá trị sử dụng của nó là khả năng thu được lợi
nhuận bình quân, do đó không những không được quyết định bởi giá trị, mà còn thấp hơn nhiều so
với giá trị
Thử ba, là hình thái tư bản phiến diện nhất song được sùng bái nhất
Nguồn gốc, bản chất của địa tô:
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đàu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Cũng
như các nhà tư bản ki inh doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông
nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân.
Khác với các chủ thể kinh doanh khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả
một lượng tiền cho địa chủ vì đã thuê đất của họ. Đe có tiền trả cho địa chủ, ngoài số lợi nhuận bình
quân thu được tương tự như kinh doanh trên các lĩnh vực khác, nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực
nông nghiệp còn thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân nữa, tức
là lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận siêu ngạch này phải trả cho địa chủ dưới dạng địa tô. C.Mác khái
quát, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các
nhà tư bản kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp phải trả cho địa chủ.
Theo C.Mác, có các hình thức địa tô như:
i) Địa tô chênh lệch. Trong đó, địa tô chênh lệch I là địa tô mà địa chủ thu được do chỗ cho
thuê ruộng đất tốt và độ màu mỡ cao, điều kiện tự nhiên thuận lợi. Địa tô chênh lệch II là
địa tô mà địa chủ thu được do chỗ cho thuê mảnh đất đã dược đầu tư, thâm canh và làm
tăng độ màu mỡ của đất.
ii) Địa tô tuyệt đối, là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê, không kề độ màu
mỡ tự nhiên thuận lợi hay do thâm canh. Đó là phần lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi
nhuận bình quân được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất
chung của nông sản

10) Phân tích bản chất tích luỹ, các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ và quy luật
chung của tích luỹ trong nền kinh tế thị trường.
TÍCH LŨY TƯ BẢN là sự chuyển hóa không ngừng một phần giá trị thặng dư thành tư bản -
cũng có nghĩa là tư bản hóa giá trị thặng dư.
Với bản chất khát vọng không có giới hạn về giá trị thặng dư đã khiến cho tư bản không
ngừng mở rộng sản xuất để đạt mục tiêu không ngừng tăng qui mô giá trị thặng dư. Do đó
thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản.
Nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ:
+ Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động; cắt giảm tiền
lương công nhân.
+ Trình độ tăng năng suất lao động xã hội
+ Sự chênh lệch tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng.
+ Qui mô của tư bản trước
Quy luật chung của tích luỹ:
- Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
- Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
- Quá trình tích luỹ tư bản làm cho phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc

11. Phân tích các đặc điểm của độc quyền và những biểu hiện mới của nó trong thời đại ngày
nay.
*Đặc điểm
-Độc quyền là hiện tượng trên thị trường chỉ có một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp
câu kết với nhau chiếm vị trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho phép họ
kiểm soát trọn vẹn giá cả sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác
thâm nhập thị trường.
- Độc quyền là hậu quả tất yếu của quá trình cạnh tranh không được định hướng và điều chỉnh: từ
cạnh tranh lành mạnh chuyển sang cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới cạnh tranh mang tính độc
quyền và cuối cùng xuất hiện độc quyền. Độc quyền làm tê liệt cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm sự
phát triển kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, tác động xấu đến công bằng
xã hội, tạo sức ì đối với chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền.
Cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát độc quyền:
chính sách thuế, quản lí giá sản phẩm, điều chỉnh độc quyền, chống các-ten, tơ-rớt...
-Độc quyền có hai loại là độc quyền thường và độc quyền tự nhiên:
+)Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản
phẩm, không có loại hàng hóa nào thay thế gần gũi. Ở dạng thuần tuý nhất, độc quyền thường là
trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người sản xuất và bán ra sản phẩm không có loại hàng hoá
nào thay thế gần gũi. Mặc dù trên thực tế không có độc quyền thuần tuý, vì các hàng hoá nói chung
đều ít nhiều có sản phẩm thay thế, nhưng những gì phân tích cho mô hình độc quyền này sẽ giúp
làm sáng tỏ tính phi hiệu quả của nó và sự cần thiết của các biện pháp can thiệp của chính phủ. Tuy
nhiên, trên thực tế không có loại độc quyền thường.
+)Độc quyền tự nhiên là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá trình sản xuất đã cho
phép hãng có thể liên tục giảm chi phí sản xuất khi quy mô sản xuất mở rộng, do đó đã dẫn đến
cách tổ chức sản xuất hiệu quả nhất là chỉ thông qua một hãng duy nhất. Chẳng hạn, độc quyền
trong ngành điện là một ví dụ cho hình thức độc quyền tự nhiên.
 Độc quyền là hiện tượng trên thị trường chỉ có một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp
câu kết với nhau chiếm vị trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho phép họ
kiểm soát trọn vẹn giá cả sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác
thâm nhập thị trường.
*Biểu hiện
Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Ngày nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có biểu hiện mới bên cạnh các
công ty độc quyền lớn xuyên quốc gia còn diễn ra sự phát triển mạnh mẽ của các xínghiệp vừa và
nhỏ.
- Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra quá trình hình
thành sự liên kết giữa các độc quyền theo cả chiều ngang và chiều dọc, cả trong và ngoài nước. Từ
đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới ra đời
- Các xí nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ của các
xí nghiệp vừa và nhỏ là do:
+)Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên
môn hóa sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công (hệ thống các vệ tinh của độc quyền).
Sự kiểm soát của độc quyền về kinh tế và khoa học công nghệ được thực hiện dưới hình thức quan
hệ hợp tác giữa độc quyền và các xí nghiệp vừa và nhỏ, các xí nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào
độc quyền về nhiều mặt.
+)Thứ hai, doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh, đó là: nhạy cảm đối với thay đổi trong sản
xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi
hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật mà không cần chi phí bổ sung; có thể kết hợp
nhiều loại hìnhkỹ thuật để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ
tầng hạn chế.
Các tổ chức độc quyền luôn có xu hướng bành trướng quốc tế, hiện nay thường tồn tại dưới hình
thức các công ty xuyên quốc gia hoặc liên minh với nhà nước hình thành tư bản độc quyền nhà
nước
Biểu hiện mới về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Ngày nay, do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, trong nền
kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt các ngành
thuộc «phần mềm» như dịch vụ, bảo hiểm… ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Để thích ứng với sự
biến đổi đó, phạm vi liên kết, nội dung liên kết, mức độ liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, dưới
hình thức các tổ hợp như : công – nông – thương – tín – dịch vụ hay công nghiệp – quân sự - dịch
vụ quốc phòng…
Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được phát hành
rộng rãi (cả trong nước và nước ngoài), khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư cũng có
thể trở thành cổ đông… kéo theo đó «chế độ tham dự» được bổ sung thêm bằng «chế độ ủy
nhiệm». Các chủ sở hữu lớn vừa khống chế trực tiếp vừa khống chế gián tiếp thông qua biến động
trên thị trường tài chính, buộc các nhà quản lý phải tuân theo lợi ích của chúng.
Để thích ứng với quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính thành lập các
ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, thực hiện việc điều tiết các Concern và Conglomerate
xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới
là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế…….
12.Phân tích nguyên nhân ra đời, bản chất và đặc điểm của độc quyền nhà nước trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
-Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế trong đó các cá nhân hoặc doanh nghiệp tư nhân sở hữu
tư liệu sản xuất
*Nguyên nhân ra đời

-Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì chủ nghĩa tư bản độc quyền đã xuất hiện xuất hiện. Độc
quyền là vị trí thống trị một ngành hoặc một lĩnh vực của một công ty, đến mức loại trừ tất cả các
đối thủ cạnh tranh khả thi khác. Các công ty độc quyền thường không được khuyến khích ở các
quốc gia có thị trường tự do. Chúng được coi là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khoét sâu giá cả và
chất lượng giảm sút do thiếu sự lựa chọn thay thế cho người tiêu dùng. Họ cũng có thể tập trung
của cải, quyền lực và ảnh hưởng vào tay một hoặc một vài cá nhân. Mặt khác, độc quyền của một
số dịch vụ thiết yếu như tiện ích có thể được các chính phủ khuyến khích và thậm chí thực thi.
Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền này chủ yếu do:

+)Nguyên nhân thứ nhất, là do sự phát triển và tiến bộ khoa học – kỹ thuật làm xuất hiện những
ngành sản xuất mới mà ngay từ đầu đã là những ngành có trình độ tích tụ cao và nó đã làm lực
lượng sản xuất ngày càng trở nên phát triển hơn trước. Khi những ngày sản xuất ứng dụng khoa học
công nghệ là máy móc thì sẽ đòi hỏi việc áp dụng những hình thức kinh tế tổ chức mới đối với
những xí nghiệp lớn này.

+)Nguyên nhân thứ hai, chủ nghĩa tư bản được quyền ra đời do có sự cạnh tranh tự do rất ngay gắt.
Khi sự ra đời và tiễn bộ của khoa học kỹ thuật thì buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng
quy mô tích luỹ. Còn đối với những doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc bị các đối thủ
mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Từ đó đã xuất hiện
sự độc quyền tròng mọt ngành sản xuất để có thể phát triển và tồn tại được của các doanh nghiệp.

+)Nguyên nhân thứ ba, khi nền kinh tế có sự chênh lệch giữ cung và cầu ắt sẽ sảy ra cuộc khủng
hoàng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. Các công ty muốn thoát khỏi khủng
hoảng  thì cũng phải liên kết tập trung lại để sản xuất.

+)Bốn là, Khi các công ty tập trung và liên kết lại để kinh doanh thì tiếp tục có sự cạnh tranh giữa
các xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh này ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại,
vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.

*Bản chất

Chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ xuất hiện khi chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ
nhất định. Mới đầu khi chưa hoàn toàn là chủ nghĩa tư bản độc quyền thì các tư bản độc quyền chỉ
có trong một số ngành, một số lĩnh vực của nền kinh tế. Những đến khi sức mạnh của các tổ chức
độc quyền đã được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền kinh tế
thì lúc này tư bản độc quyền đã thực sự là chủ nghĩa tư bản đúng nghia và nó đem trong mình
những bản chất riêng biệt sau:

-Độc quyền có đặc điểm là không có cạnh tranh, có thể dẫn đến chi phí cao cho người tiêu dùng,
sản phẩm và dịch vụ kém chất lượng, và các phương thức kinh doanh tham nhũng.

-Một công ty thống trị một lĩnh vực kinh doanh hoặc ngành công nghiệp có thể sử dụng vị trí đó để
làm lợi thế của mình với chi phí của khách hàng. Nó có thể tạo ra sự khan hiếm giả tạo, cố định giá
cả và phá vỡ quy luật tự nhiên của cung và cầu. Nó có thể cản trở những người mới tham gia vào
lĩnh vực này và ngăn cản quá trình thử nghiệm hoặc phát triển sản phẩm mới. Người tiêu dùng, bị
từ chối quyền lựa chọn đối thủ cạnh tranh, là thương xót của họ.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền có một thị trường độc quyền thường trở nên không công bằng, bất bình
đẳng và kém hiệu quả.

Đồng thời thì sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của
chủ nghĩa tư bản

*Đặc điểm

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc điểm như
sau:

– Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Nền kinh tế trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền đucợ thể hiện rõ nhất ở các xí nghiệp ở
Pháp, Mỹ, Anh trong những năm 1900 thì với 1% tổng số xí nghiệp nhưng tổng số máy bay hơi
nước và điện lực chiếm hơn ¾, số lượng công nhân và tổng số sản phẩm được làm ra chiếm gần
một nửa so với toàn thế giới.

Đồng thời các doanh nghiệp và xí nghiệp lớn cạnh tranh nhau gay gắt và có những doanh nghiệp và
xí nghiệp liên kết nhau để nắm độc quyền.

– Thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền có tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính

Khi các ngân hàng nhỏ và vừa không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ yêu cầu của các xí nghiệp
lớn với mức độ tích tụ cao trong sản xuất công nghiệp thì để đáp ứng với điều kiện của mình thì các
tổ chức độc quyền công nghiệp đã tìm đến các ngân hàng lớn hơn.

Do đó, đã thể hiện đucợ đặc điểm của chủ nghĩa tư bả độc quyền thông qua việc các ngân hàng nhỏ
phải chấm dứt hoạt động hoặc sáp nhập vào ngân hàng lớn để tồn tại. Cũng chính vì vậy đã dẫn đến
sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng

– Thứ ba, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ xuất khẩu tư bản: Việc chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhằm chiếm đoạt giá trí thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác thồng qua việc xuất khẩu giá trị của
các nước nhập khẩu tư bản.

13.Phân tích tính tất yếu và đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.

*Tính tất yếu

Kinh tế thị trường định hướng xhcn ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của kinh
tế thị trường đồng thời góp phần từng bước xác lập một xã hội mà dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
văn minh, công bằng, có sự điều tiết của nhà nước do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

- Phân tích tính tất yếu khách quan:


1) Kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với tính quy luật phát triển của

khách quan. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, ở Việt Nam những
điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa không mất đi mà còn phát triển mạnh
cả về chiều rộng và chiều sâu, sự phát triển kinh tế hàng hóa tất yếu hình thành kinh tế thị
trường.Như vậy, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.

2) Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước.Kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã
đạt được so với các mô hình kinh tế phi thị trường, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và hiệu quả cao. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển
theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.Xét trên góc độ đó, sự phát triển kinh tế thị trường không
hề mâu thuẫn mà còn là cơ sở vật chất tạo điều kiện thực hiện những mục tiêu XHCN.

3) Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân
mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.Sự tồn tại của kinh tế
thị trường ở nước ta tạo ra một động lực quan trọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam
không thể lựa chọn mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân
về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

*Đặc trưng

Những đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

1) Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”.

2) Về quan hệ sở hữu: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều
hình thức ở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là động lực quan trọng, kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt
để phât triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,
hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.

3) Về quan hệ quản lý nền kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có đặc trưng
là do Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sự làm
chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho CNXH vì " dân giàu, nước mạnh,dân chủ, công bằng văn minh"

Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính sách và
các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những khuyết tật của
kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam.

4) Về quan hệ phân phối: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân
phối, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, góp phần cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội trong sử dụng các nguồn lực kinh tế và đóng góp của họ
trong quá trình lao động và sản xuất, kinh doanh.

5) Quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là
điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt
đẹp cảu chế độ xã hội chue nghĩa mà chúng ta phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá
độ lên CNXH.

14. Phân tích tính tất yếu và nội dung công nghiệp hóa, hiện đai hóa ở Việt Nam.
Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam được thể hiện rõ nét, xuất phát từ 4
nguyên nhân chủ yếu, bao gồm:
 Quy luật phổ biến của sự phát triển

 Do yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
 Do yêu cầu rút ngắn khoảng cách tụt hậu về mọi mặt giữa Việt Nam và thế giới
 Do yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao
Làm rõ 4 nguyên nhân trên là cơ sở để khẳng định tính tất yếu và khách quan của công nghiệp hóa
hiện đại hóa tại Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. Quy luật phổ biến của sự phát triển


Trước hết, công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta được xem như một quy luật phổ biến của sự
phát triển. Quy luật ấy thể hiện thông qua sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển của
xã hội.
1.1.  Quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất tiến tới phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện
đại hóa trong phát triển lực lượng sản xuất được chỉ rõ ở những nội dung sau:

 Cơ khí hóa nền sản xuất xã hội


Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động mạnh mẽ tới nền sản xuất của mỗi quốc gia. Nó
thay đổi về chất của nền sản xuất, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời chuyển biến nền sản xuất thủ công sang sản xuất cơ khí dựa vào
tiến bộ của khoa học – công nghệ.

 Áp dụng thành tựu khoa học – công nghệ


Sự ra đời của những thành tựu khoa học kỹ thuật là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Từ đây, nhân loại vận dụng những thành tựu này phục vụ trong sản xuất, góp phần
nâng cao năng suất lao động, phát triển nhanh chóng nền kinh tế.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ hội để các nước đang phát triển như Việt Nam tiếp
cận và chuyển giao khoa học – công nghệ ở trình độ tiên tiến. Muốn phát triển nhanh chóng về mọi
mặt không có cách nào khác là phải dựa vào những thành tựu khoa học hiện đại.

 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực


Nguồn nhân lực là chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Cũng chính điều này là tiền đề để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
đã qua đào tạo, có tay nghề thành thạo, chủ động, sáng tạo và nắm vững công nghệ.

 Chuyển dịch cơ cấu lao động


Khi thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, ngoài chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thì cơ cấu lao
động cũng chuyển biến theo hướng tích cực. Nguồn lao động chuyển từ khu vực sử dụng nhiều lao
động chân tay sang lĩnh vực gắn liền với kinh tế tri thức.

1.2.  Quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội


Theo thời gian, tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa không chỉ nằm ở sự phát triển kinh tế
mà hơn hết là sự phát triển mọi mặt của xã hội:
 Nâng cao chất lượng cuộc sống
Công nghiệp hóa hiện đại hóa thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, năng suất lao động tăng,
tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập. Bên cạnh đó người dân có cơ hội hưởng phúc lợi xã hội, tiếp
cận dịch vụ giáo dục, y tế…

 Ổn định chính trị - xã hội


Công nghiệp hóa hiện đại hóa còn là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, củng cố quốc phòng an ninh, giữ gìn trật tự xã
hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là mục tiêu hàng đầu

2. Yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
Thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là con đường vững chắc để Việt Nam xây dựng
hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đây là một tiến trình lâu dài và là quy luật
mang tính tất yếu của của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

2.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội


 Cơ sở vật chất – kỹ thuật
Cơ sở vật chất – kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất do con người tạo ra
để tiến hành sản xuất. Nó là mặt chủ đạo của sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của
nhân loại theo dòng chảy lịch sử .

 Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội


Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội bao gồm toàn bộ yếu tố vật chất của lực lượng lượng
sản xuất do con người tạo ra thích ứng với trình độ phát triển khoa học công nghệ hiện đại để tạo ra
của cải vật chất cho xã hội.

2.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa trong xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội mang tính tất yếu của công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta, bởi vì:

 Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội mang tính kế thừa
Quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội kế thừa cơ sở vật chất - kỹ thuật có sẵn của chủ nghĩa tư bản.
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội cần một cuộc cách mạng tái kiến thiết quan hệ sản xuất ở trình
độ cao, vận dụng những tiến bộ của khoa học – công nghệ hiện đại, đổi mới nền kinh tế theo hướng
hiệu quả hơn.

 Cơ sở vật chất – kỹ thuật là động lực phát triển đất nước


Việt Nam là đất nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa. Chính vì thế tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội là điều tất yếu.

3. Rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa Việt Nam và thế giới
Việt Nam là một đất nước đang phát triển với nhiều thành tựu nổi bật. Thực hiện rút ngắn khoảng
cách tụt hậu giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những yêu cầu
mang tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa.

3.1. Yêu cầu thu hẹp khoảng cách giữa Việt Nam và thế giới
 Thu hẹp khoảng cách giữa Việt Nam và thế giới
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần đưa Việt Nam phát triển nhanh chóng, tiến tới thu hẹp
khoảng cách tụt hậu so với thế giới về kinh tế, khoa học – công nghệ, giáo dục, y tế và các lĩnh vực
khác. Đó là cơ hội để nước ta hội nhập sâu rộng, chuyển giao công nghệ, tiếp biến văn hóa với các
dân tộc, quốc gia.

 Các yếu tố được rút ngắn


Thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa rút ngắn khoảng cách tụt hậu qua các yếu tố như:

-  Năng suất lao động

-  Cơ cấu sản xuất

-  Chất lượng nguồn lao động

-  Thu nhập bình quân đầu người

-  Tăng trưởng nền kinh tế…

4. Yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao


Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ yêu cầu tạo ra năng
suất lao động xã hội cao. Sự phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật đảm bảo sự phát triển quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.

4.1. Sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa tạo ra hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, là tiền đề thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Cụ thể:

 Phát triển lực lượng sản xuất


Cơ sở vật chất - kỹ thuật xã hội chủ nghĩa thay đổi chất của nền sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển khoa học – kỹ thuật, hình thành ý thức xã hội mới.

Công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thủ
công được thay thế bằng đội ngũ lao động sử dụng máy móc, trang thiết bị tiên tiến.
 Hoàn thiện quan hệ sản xuất
Công nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với
yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến tới củng cố và
nâng cao vị thế của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân gắn với
yếu tố tri thức.
4.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa trong nâng cao năng suất lao động xã hội
Tính tất yếu của công nghiệp hoá hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội
cao 

 Nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
 Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội nhờ chuyển nền kinh tế từ chỗ dựa trên kỹ thuật thủ
công sang nền kinh tế dựa vào kỹ thuật cơ khí thủ công. Đồng thời chuyền nền văn minh
nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp.
 Nếu áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ vào những ngành trong nền kinh tế
quốc dân thì những thành tựu này được kết nối, gắn liền với quá trình hiện đại hóa và cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
 Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực khi đất nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Thứ hai, xây dựng cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, hiện đại và đạt hiệu quả cao
 Cơ cấu kinh tế chính là tổng thể hữu cơ giữa các thành phần kinh tế. Có hai loại cơ cấu kinh
tế là cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong khi đó, cơ cấu của ngành kinh
tế sẽ đóng vai trò trung tâm, quan trọng và cốt lõi nhất.
 Tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là chuyển dịch cơ cấu, cấu trúc
của nền kinh tế kém hiệu quả, bị tụt hậu theo hướng nền kinh tế hiện đại và hiệu quả hơn.
Xu hướng của sự chuyển dịch, thay đổi này là hướng từ một nền cơ cấu kinh tế nông nghiệp
sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và sau đó phát triển thành cơ cấu kinh tế
công, công nghiệp và dịch vụ.
 Cơ cấu lao động cũng sẽ được chuyển dịch theo hướng gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Đây là một trong những tiền đề làm chi phối xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động từng
thời kỳ ở nước ta.
Thứ ba, củng cố và làm tăng cường các địa vị lãnh đạo trong quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa
 Đồng thời, hướng tới việc xác lập địa vị thống trị trong các mối quan hệ sản xuất xã hội trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
 Từ đó nên chúng ta cần nhận thức đúng đắn về tính tất yếu khách quan và tác dụng to lớn của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và lựa chọn ngành, sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao,
đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Tiếp thu và ứng dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Học tập, nâng cao tình độ học vấn, kinh
nghiệm và nghiệp vụ, đáp ứng nguồn lao động có kỹ thuật cho nền kinh tế, cho doanh
nghiệp.
 Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá tình phát triển vì
nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới.
Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò tạo điều kiện, tiền
đề vật chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình
hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt
Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được
xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật-
công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội
Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công
nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh

You might also like