You are on page 1of 42

Đề: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “Nói với con”

của Y Phương

“Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

*MB:
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ là… Trái tim”, “Nói với con” của Y Phương là một trong những bài thơ như
thế. Y Phương là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại. Thơ của ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong
sáng, cách tư duy hình ảnh của con người miền núi, “Nói với con” là bài thơ tiêu biểu nhất. Được sáng tác 1980, tác
phẩm đã ngợi ca tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân
tộc mình. Trong đó, đoạn thơ sau được đánh giá là tiêu biểu nhất:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

*TB:
1- Phân tích đoạn thơ
a- Mở đầu đoạn thơ, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, cội nguồn hạnh phúc chính là
gia đình và quê hương:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
-Nhịp thơ 2/3 cấu trúc đối xứng nhiều từ được láy lại tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt. Con lớn lên trong tình
yêu thương, sự nâng niu và mong chờ của cha mẹ. Nhiều từ láy, kết hợp với nhịp thơ 2/3 tạo ra âm điệu tươi vui,
quấn quýt bằng những hình ảnh cụ thể: “chân phải – chân trái” “một bước – hai bước” “tiếng nói – tiếng cười”. Ta
hình dung một hình ảnh bình dị trong đời sống: đứa con đang tập đi, từng bước đi, tiếng nói, tiếng cười của con đều
được cha mẹ nâng niu đón nhận. Tác giả tạo ra được không khí ấm áp, quấn quýt và hạnh phúc. Từng bước đi, từng
tiếng nói, tiếng cười đều được cha mẹ chăm chút, đón nhận
- Người cha cho con biết niềm vui của lao động và tình nghĩa của quê hương Con sẽ lớn lên trong câu hát, nhịp sống
và lao động của người đồng mình: cuộc sống tươi vui: “Đan lờ cài nan hoa/Vách nhà ken câu hát” Tác giả diễn tả
những động tác cụ thể trong lao động, vừa nói lên cuộc sống lao động gắn bó, vừa hòa quyện niềm vui Hình ảnh
thiên nhiên che chở, nuôi dưỡng con về tâm hồn và lối sống. Người cha nhắc tới ngày cưới - ngày đầu tiên đẹp nhất
trên đời - đó là điểm tựa của hạnh phúc.
→ Người cha muốn nói với người con vẻ đẹp của vùng quê giàu truyền thống và nghĩa tình. Tác giả muốn khái quát
điều lớn lao: Con sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên bằng tình yêu thương trong sự nâng đón, vỗ về, mong chờ của
cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha và mẹ những âm thanh sống động, vui tươi là biểu hiện của không khí gia
đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc, tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con
người.
b- Trong mạch chảy cảm xúc đó, tác giả cũng khẳng định bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết hạnh phúc, quê
hương thơ mộng nghĩa tình và cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con
được bồi đắp thêm lên:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
- Tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người miền núi – nơi sinh dưỡng của chính mình để nói
những điều chân thực về quê hương rừng núi. Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương
“Cụm từ “người đồng mình” được nhắc nhiều lần khẳng định phẩm chất của người đồng mình, những người có lời
nói giản dị, mộc mạc gợi sự yêu thương, gần gũi. Người đồng mình: Người vùng mình, người miền mình; người
cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, cùng một dân tộc . Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết
“con ơi”. Người cha đã có cách lý giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể hiểu được “Người đồng
mình” đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp.
- "Lờ" là một dụng cụ dùng đánh bắt cá được đan bằng những nan tre, mây, được vót tròn. Cái dụng cụ bình dị ấy
vừa là phương tiện lao động phục vụ đời sống, vừa là một sáng tại đầy chất văn hóa. bởi vì, mỗi vành nan được vót,
chuốt thật tỉ mỉ bằng đôi bàn tay cần cù, khéo léo của người lao động. Cuộc sống của con người bản mình được gợi
lên qua các hình ảnh đẹp đậm màu sắc dân tộc, cụm từ “đan lờ cài nan hoa” gợi lên sự khéo léo của người dân bản
làng trong cuộc sống hằng ngày. Những động từ “đan, ken, cài” rất gợi cảm giúp người đọc hình dung được những
công việc cụ thể của con người trên quê hương và gợi ra tính chất gắn bó hòa quyện, quấn quýt của con người và
của quê hương, xứ sở.
c - Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê hương giàu đẹp nghĩa tình.
Quê hương của người đồng mình với hình ảnh quen thuộc
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
Y Phương rất tinh tế khi chỉ chọn một hình ảnh “hoa” để nói về cảnh quan núi rừng. Một hình ảnh bình dị nhưng có
sức gợi lớn lao về những gì đẹp đẽ nhất và tinh túy nhất. Hoa ở đây vừa là hoa của núi rừng vừa là hình ảnh thẩm
mỹ góp phần diễn đạt điều tác giả muốn khái quát chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm hồn
cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương với con. Đó chính là một
nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi con người bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp
từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của con
người. Tác giả đã nhân hóa “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho” để giúp người đọc có thể nhận ra lối sống tình
nghĩa của “người đồng mình” – Quê hương chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm đềm.
2- Bình luận:
Bài thơ đã thể hiện sự thành công nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thể thơ tự do, lối diễn đạt mộc mạc thô sơ, hình
ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát, ngôn ngữ mộc mạc. Bài thơ được làm theo thể thơ tự do phóng khoáng làm cho
cảm xúc, giọng điệu thơ trìu mến, thiết tha. Ngôn ngữ thơ cụ thể, hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo sinh
động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Bài thơ thể hiện tình
cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về
sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn
lên trong cuộc sống. Tất cả đã giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con cao quý, xúc động
góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với con cái cũng như những kỳ vọng lớn lao mong muốn thế hệ
sau sẽ kế tục phát triển những truyền thống quý báu của quê hương.

*KB:
“Nói với con” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương. Phải có một
nguồn cảm xúc mãnh liệt với mảnh đất, con người quê hương, tác giả mới có thể viết lên được những vần thơ trần
đầy cảm xúc đến vậy. Bài thơ đã khép lại những nguồn cảm xúc tác giả mang đến vẫn để lại trong lòng người đọc
những cảm xúc trào dâng.

Đề: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương

Người đồng mình thương lắm con ơi


Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
(Trích Nói với con – Y Phương)
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ là… Trái tim”, “Nói với con” của Y Phương là một trong những bài thơ
như thế. Y Phương là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại. Thơ của ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ,
trong sáng, cách tư duy hình ảnh của con người miền núi, “Nói với con” là bài thơ tiêu biểu nhất. Được sáng tác
1980, tác phẩm đã ngợi ca tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc mình. Trong đó, đoạn thơ sau được đánh giá là tiêu biểu nhất:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
………………………
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
a-Cha nhắc con về những phẩm chất tốt đẹp đáng quý của người đồng mình. Người đồng mình giàu ý chí, nghị lực,
biết lo toan và giàu mơ ước. Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao
động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.”
- Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần gây ấn tượng không phai mờ về con người quê hương. Lời gọi
con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành “người đồng mình thương lắm con ơi”. Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm
xúc “thương lắm con ơi” đó là tình cảm yêu thương, yêu thương một cách xót xa các cách nói cụ thể “cao đo nỗi
buồn. Xa nuôi chí lớn” kết hợp với lối nói khái quát “người đồng mình” gợi lên ý nghĩa sâu sắc lấy sự từng trải để
đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa.
-Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như “Sông, suối, thác, ghềnh” gợi lên những khó khăn gian khổ và sức
mạnh vượt qua của những con người quê hương. Điệp ngữ “không chê, không lo” và cách nói tha thiết “vẫn muốn”
nhấn mạnh sự chấp nhận không sợ gian khổ nghèo đói của “người đồng mình”.
-Các hình ảnh cụ thể “đá, thung, những thác, những ghềnh”. Kết hợp cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” nhấn mạnh sự
không nhụt chí của đồng bào mình. Gửi những lời tự hào không giấu diếm đó, người cha ước mong, hi vọng người
con phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình, có nghĩa.
-> Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã
trải qua. Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy
cái xa của đất để đo ý chí con người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử
thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ. Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn,
còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai
tốt đẹp của dân tộc.
Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
+ Phép liệt kê với những hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” -> gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn,
cực nhọc của những người đồng mình.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê
hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có
thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy
chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy
vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ
vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong
trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
- Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa
hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
-Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà
con dân tộc Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó. Cụm từ
“chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.
-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể
“thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương:
- Lối nói của Y Phương đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
-Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực chỉ truyền thống làm nhà kê đá
cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng
sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê hương là
điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.
-Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê
hương tốt đẹp của người đồng mình. Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người quê
hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Tác giả sử dụng việc “đục đá” nhấn
mạnh nghị lực, sự cần cù nhẫn nại của con người trong lao động. Đó là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về
quê hương, một quê hương nhọc nhằn vất vả. Trong lời tự hào, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp
nối, phát huy truyền thống sống có nghĩa tình, chung thủy với quê hương
b- Phẩm chất của con người, quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức
bên ngoài và giá trị tình thần bên trong của người miền núi:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
B1-Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Họ mộc mạc, thô sơ da thịt không
khéo léo trong lời nói nhưng ý nghĩa, phẩm chất của họ thật cao đẹp: giàu chí khí, niềm tin, khát vọng xây dựng quê
hương
- Ý chí và mong ước ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:
B2- Bài thơ được khép lại bằng niềm mong ước cháy bỏng ẩn trong lời thủ thỉ dặn dò con tha thiết nhưng cũng đầy
nghiêm nghị của mệnh lệnh trái tim.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
B2.1
- Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết,
khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho
thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào một trang đời mới.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường” có một thứ qúy giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí,
nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao
của cha, hy vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
- Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ
còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người
con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời cha dặn.
B2.2 Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải
giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và
vươn lên bằng ý chí của mình. Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự
hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Người cha trong bài thơ của Y Phương đã vun đắp cho con một hành trang quí vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con
cài lên ngực thì cha là cánh chim cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha
cho con tinh thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp. Giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang
nghiêm. Các hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa,
mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ
là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về niềm tin, nghị
lực, ý chí vươn lên. Câu thơ ngắn lại như khắc sâu, cơ cấu chỉ hai tiếng nhưng người cha muốn khuyên con qua cách
nhắc lại một phẩm chất của người đồng mình là phải sống cho cao đẹp. Trong những lời thơ cuối cùng ấy, người cha
dặn dò con cần tự tin mà vững bước trên đường đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình. Con
sống được như thế chính là con phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha ông của quê hương yêu dấu.

2- Bình luận:
Bài thơ đã thể hiện sự thành công nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thể thơ tự do, lối diễn đạt mộc mạc thô sơ, hình
ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát, ngôn ngữ mộc mạc. Bài thơ được làm theo thể thơ tự do phóng khoáng làm cho
cảm xúc, giọng điệu thơ trìu mến, thiết tha. Ngôn ngữ thơ cụ thể, hàm súc, nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ độc đáo sinh
động mang đậm bản sắc thơ ca miền núi cũng là những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Bài thơ thể hiện tình
cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về
sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn
lên trong cuộc sống. Tất cả đã giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ về tình cha con cao quý, xúc động
góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với con cái cũng như những kỳ vọng lớn lao mong muốn thế hệ
sau sẽ kế tục phát triển những truyền thống quý báu của quê hương.
* Kết bài: “Nói với con” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Y Phương. Phải
có một nguồn cảm xúc mãnh liệt với mảnh đất, con người quê hương, tác giả mới có thể viết lên được những vần
thơ trần đầy cảm xúc đến vậy. Bài thơ đã khép lại những nguồn cảm xúc tác giả mang đến vẫn để lại trong lòng
người đọc những cảm xúc trào dâng.
Đề: Cảm nhận của anh/chị về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...
(Trích Viếng lăng Bác – Viễn Phương)
Mở bài:
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “thơ là...trái tim”, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là bài thơ như thế. Viễn
Phương là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại. Thơ của ông nhẹ nhàng, giàu tình cảm và chất mộng mơ, tinh tế,
”Viếng lăng Bác” là bài thơ tiêu biểu nhất. Được sáng tác 1976, tác phẩm đã diễn tả được niềm xúc động thiêng
liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Bài thơ là
tiếng lòng trào dâng của tác giả. (Nếu phân tích khổ thơ thì chép khổ thơ đó vào)
Thân bài:
1.Phân tích
a. Đến với khổ thơ đầu trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, ta bắt gặp niềm cảm xúc trào dâng của tác giả khi đến thăm
lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
A1. Mở đầu đoạn thơ là lời thơ tự sự “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gỏn gọn như lời thông báo nhưng lại gợi
ra tâm trạng xúc động của người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi giờ mới được ra viếng Bác.
- Cách dùng đại từ xưng hô “con” gần gũi thân thiết, ấm áp tình thân thương diễn tả tâm trạng của người con ra
thăm cha sau bao ngày xa cách.
-Tác giả sử dụng lối nói giảm nói tránh “thăm” thay cho từ “viếng” để giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát
-> Tác giả khẳng định Bác Hồ còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
A2. – Hình ảnh hàng tre vừa mang tính chất tả thực lại vừa tượng trưng giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Hàng tre
“bát ngát trong sương” là hình ảnh thực hết sức thân thuộc của làng quê đất nước Việt Nam bên lăng Bác. Hàng tre
“xanh xanh Việt Nam. Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là hình ảnh ẩn dụ là biểu tượng của dân tộc Việt Nam với
vẻ đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ, kiên cường.
-Thán từ “ôi” đứng đầu câu thể hiện niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre
-> Hình ảnh ẩn dụ trên đã gợi liên tưởng đến hình ảnh đến hình ảnh cả dân tộc bên Bác đoàn kết, kiên cường thực
hiện lí tưởng của Bác, của dân tộc.
b-Trong mạch chảy cảm xúc đó, khổ thơ thứ hai, tác giả đã bày tỏ những suy ngẫm, sự tôn kính khi đứng trước lăng
Người:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
B1. Tác giả đã sử dụng cặp câu thơ những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi nhau “ngày ngày mặt trời đi qua trên
lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, gợi lên sự liên kết về hình ảnh và ngữ nghĩa. Hình ảnh “mặt trời” đi qua
trên lăng là hình ảnh mặt trời thực, mặt trời tự nhiên đem lại nguồn sáng cho thế gian. Đó là sức sống của muôn loài.
Còn “mặt trời trong lăng” là mặt trời ẩn dụ, chỉ Bác Hồ kính yêu. Tác giả nhấn mạnh “mặt trời rất đỏ” nhấn mạnh
trái tim nhiệt huyết chân thành vì nước vì dân của Bác. Bác cũng đã ra đi nhưng mãi thuộc về vĩnh cửu đối với hàng
triệu con người Việt Nam. Thông qua hình ảnh ẩn dụ “mặt trời”, nhà thơ nêu lên sự vĩ đại của Bác, đồng thời thể
hiện niềm tôn kính, lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta với Bác
B2. –Nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh nữa về Bác “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ /Kết tràng hoa
dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Nhịp thơ chậm rãi, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào viếng Bác gợi
lên thời gian cứ trôi ngày tiếp ngày nhưng dòng người vẫn nối nhau vào lăng viếng Bác.
-Nguồn cảm xúc thăng hoa, tác giả liên tưởng dòng người thành một tràng hoa trước lăng. Mỗi con người viếng lăng
giống như bông hoa đẹp dâng lên Bác cả tấm lòng, cả cuộc đời, cả nỗi thương nhớ: Điệp từ “ngày ngày” kết hợp từ
“thương nhớ” nhấn mạnh tấm lòng dân tộc Việt Nam đối với Bác. Hình ảnh hoán dụ thật đẹp “bảy mươi chín mùa
xuân” đã nhấn mạnh: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống cuộc đời thật đẹp làm ra mùa xuân cho đất
nước
-> Hình ảnh “tràng hoa” một lần nữa tô đậm thêm sự tôn kính, biết ơn, tự hào của tác giả cũng như dân tộc Việt
Nam đối với Bác.
c. –Trong mạch chảy cảm xúc của niềm biết ơn thành kính, tác giả đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi
nhìn thấy Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
C1. –Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yêu kính, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian
trong lăng Bác. Bác đang ngủ, giấc ngủ bình yên thanh bình và vĩnh hằng của một con người cống hiến trọn vẹn
cuộc đời cho cuộc sống bình yên của nhân dân đất nước.
-Nếu như Hải Như muốn được canh giấc ngủ của Người thì giờ đây Viễn Phương lại để cho vầng trăng ôm ấp, tỏa
sáng giấc ngủ của Người. Tác giả rất tinh tế khi gợi lại ánh trăng tri kỉ của Bác.
C2. –Hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” gợi lên tâm trạng xúc động của nhà thơ. Bác ra đi
nhưng hòa vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh
viễn trên cao.
-Với lối nói cụ thể trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”, tác giả đã diễn tả nỗi đau xót vì sự ra đi của Người.
Nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức khi đứng trước
thi thể của Người.
-> Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
d. Khổ thơ thứ tư đã diễn tả cảm xúc lưu luyến, bịn rịn, tiếc nuối không muốn rời xa Bác của nhà thơ:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
D1. –Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình thương sâu
lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là triệu con
tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau cùng tác giả.
-Điệp từ “muốn làm” kết hợp lối biểu cảm trực tiếp và gián tiếp diễn tả tâm trạng lưu luyến, ước muốn, sự tự nguyện
chân thành của tác giả.Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc
chưa một lần gặp Bác. Muốn làm chim hót, âm thanh của thiên nhiên đẹp đẽ, trong lành. Muốn làm đóa hoa tỏa
hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ. Muốn làm cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
D2. –Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại bài thơ với một nét nghĩa, bổ sung “cây tre trung hiếu”.
Sự lặp lại như thế đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng làm đậm nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và
dòng cảm xúc được trọn vẹn.
->Bài thơ được khép lại vừa là lời ước nguyện vừa là một lời hứa thiêng liêng: Dân tộc Việt Nam mãi mãi trung
thành với con đường cách mạng mà Bác đặt ra.
2. Bình luận
- Đánh giá nghệ thuật
- Đánh giá nội dung
Bài thơ đã thể hiện sự thành công về nội dung và nghệ thuật. Giọng thơ thành kính trang nghiêm, nhịp thơ chậm rãi,
từ ngữ và hình ảnh giàu chọn lọc. Lời thơ dung dị mà cô đúc, giàu cảm xúc Tất cả đã góp phần diễn tả niềm xúc
động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác
Kết bài: “Viếng lăng Bác” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Viễn Phương.
Phải có một nguồn cảm xúc mãnh liệt, sự tài hoa tinh tế, tác giả mới có thể viết lên được những vần thơ tràn đầy
cảm xúc đến vậy. Tác phẩm đã khép lại nhưng nguồn cảm xúc tác giả mang đến vẫn để lại trong lòng người đọc
những cảm xúc trào dâng.
Đề: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Mở bài:
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “thơ là...trái tim”, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là bài thơ như thế. Viễn
Phương là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại. Thơ của ông nhẹ nhàng, giàu tình cảm và chất mộng mơ, tinh tế,
”Viếng lăng Bác” là bài thơ tiêu biểu nhất. Được sáng tác 1976, tác phẩm đã diễn tả được niềm xúc động thiêng
liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Trong đó,
đoạn thơ sau được đánh giá tiêu biểu cho tiếng lòng của nhà thơ với Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
…………………………………………………………..
…………………………………………………………………
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Thân bài:
1.Phân tích
a. Đến với khổ thơ đầu trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, ta bắt gặp niềm cảm xúc trào dâng của tác giả khi đến thăm
lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
A1. Mở đầu đoạn thơ là lời thơ tự sự “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gỏn gọn như lời thông báo nhưng lại gợi
ra tâm trạng xúc động của người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi giờ mới được ra viếng Bác.
-Cách dùng đại từ xưng hô “con” gần gũi thân thiết, ấm áp tình thân thương diễn tả tâm trạng của người con ra thăm
cha sau bao ngày xa cách.
-Tác giả sử dụng lối nói giảm nói tránh “thăm” thay cho từ “viếng” để giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát
-> Tác giả khẳng định Bác Hồ còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
A2. – Hình ảnh hàng tre vừa mang tính chất tả thực lại vừa tượng trưng giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Hàng tre
“bát ngát trong sương” là hình ảnh thực hết sức thân thuộc của làng quê đất nước Việt Nam bên lăng Bác. Hàng tre
“xanh xanh Việt Nam. Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là hình ảnh ẩn dụ là biểu tượng của dân tộc Việt Nam với
vẻ đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ, kiên cường.
-Thán từ “ôi” đứng đầu câu thể hiện niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre
-> Hình ảnh ẩn dụ trên đã gợi liên tưởng đến hình ảnh đến hình ảnh cả dân tộc bên Bác đoàn kết, kiên cường thực
hiện lí tưởng của Bác, của dân tộc.
b-Trong mạch chảy cảm xúc đó, khổ thơ thứ hai, tác giả đã bày tỏ những suy ngẫm, sự tôn kính khi đứng
trước lăng Người:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
B1. Tác giả đã sử dụng cặp câu thơ những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi nhau “ngày ngày mặt trời đi qua trên
lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, gợi lên sự liên kết về hình ảnh và ngữ nghĩa. Hình ảnh “mặt trời” đi qua
trên lăng là hình ảnh mặt trời thực, mặt trời tự nhiên đem lại nguồn sáng cho thế gian. Đó là sức sống của muôn loài.
Còn “mặt trời trong lăng” là mặt trời ẩn dụ, chỉ Bác Hồ kính yêu. Tác giả nhấn mạnh “mặt trời rất đỏ” nhấn mạnh
trái tim nhiệt huyết chân thành vì nước vì dân của Bác. Bác cũng đã ra đi nhưng mãi thuộc về vĩnh cửu đối với hàng
triệu con người Việt Nam. Thông qua hình ảnh ẩn dụ “mặt trời”, nhà thơ nêu lên sự vĩ đại của Bác, đồng thời thể
hiện niềm tôn kính, lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta với Bác
B2. –Nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh nữa về Bác “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ /Kết tràng hoa
dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Nhịp thơ chậm rãi, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào viếng Bác gợi
lên thời gianh cứ trôi ngày tiếp ngày nhưng dòng người vẫn nối nhau vào lăng viếng Bác.
-Nguồn cảm xúc thăng hoa, tác giả liên tưởng dòng người thành một tràng hoa trước lăng. Mỗi con người viếng lăng
giống như bông hoa đẹp dâng lên Bác cả tấm lòng, cả cuộc đời, cả nỗi thương nhớ: Điệp từ “ngày ngày” kết hợp từ
“thương nhớ” nhấn mạnh tấm lòng dân tộc Việt Nam đối với Bác. Hình ảnh hoán dụ thật đẹp “bảy mươi chín mùa
xuân” đã nhấn mạnh: con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống cuộc đời thật đẹp làm ra mùa xuân cho đất
nước
-> Hình ảnh “tràng hoa” một lần nữa tô đậm thêm sự tôn kính, biết ơn, tự hào của tác giả cũng như dân tộc Việt
Nam đối với Bác.
c. –Trong mạch chảy cảm xúc của niềm biết ơn thành kính, tác giả đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi
nhìn thấy Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
C1. –Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yêu kính, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian
trong lăng Bác. Bác đang ngủ, giấc ngủ bình yên thanh bình và vĩnh hằng của một con người cống hiến trọn vẹn
cuộc đời cho cuộc sống bình yên của nhân dân đất nước.
-Nếu như Hải Như muốn được canh giấc ngủ của Người thì giờ đây Viễn Phương lại để cho vầng trăng ôm ấp, tỏa
sáng giấc ngủ của Người. Tác giả rất tinh tế khi gợi lại ánh trăng tri kỉ của Bác.
C2. –Hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” gợi lên tâm trạng xúc động của nhà thơ. Bác ra đi
nhưng hòa vào thiên nhiên đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh
viễn trên cao.
-Với lối nói cụ thể trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trog tim”, tác giả đã diễn tả nỗi đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi
đau quăn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức khi đứng trước thi
thể của Người.
-> Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
2. Bình luận
- Đánh giá nghệ thuật
- Đánh giá nội dung
Bài thơ đã thể hiện sự thành công về nội dung và nghệ thuật. Giọng thơ thành kính trang nghiêm, nhịp thơ chậm rãi,
từ ngữ và hình ảnh giàu chọn lọc. Lời thơ dung dị mà cô đúc, giàu cảm xúc. Tất cả đã góp phần diễn tả niềm xúc
động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác
Kết bài: “Viếng lăng Bác” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Viễn Phương.
Phải có một nguồn cảm xúc mãnh liệt, sự tài hoa tinh tế, tác giả mới có thể viết lên được những vần thơ tràn đầy
cảm xúc đến vậy. Tác phẩm đã khép lại nhưng nguồn cảm xúc tác giả mang đến vẫn để lại trong lòng người đọc
những cảm xúc trào dâng.

Đề: Cảm nhận của anh chị về bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng


Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
(Ngữ văn 9, tập 2)

*Mở bài:
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ là tâm hồn, thơ là cuộc sống, thơ là tiếng hát của trái tim.”, “sang thu”
của Hữu Thỉnh là một trong những bài thơ như thế. Hữu Thỉnh là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại trưởng
thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông ấm áp tình người, giàu sức gợi cảm, tinh tế, “sang thu” là bài thơ
tiêu biểu nhất. Được sáng tác năm 1977, tác phẩm không chỉ mang đến một bức tranh mùa thu quê hương với bước
chuyển mình tinh tế, mà còn thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương đất nước. Trong đó, đoạn thơ sau được đánh
giá tiêu biểu nhất (Trích dẫn đoạn thơ yêu cầu phân tích vào)
*Thân bài: 1. Phân tích bài thơ
a. Đến với khổ thơ đầu tiên, ta bắt gặp những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của trời đất
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
a1. Bài thơ được mở đầu bằng phát hiện bất ngờ “Hương ổi phả trong gió se”. Với Nguyễn Đình Thi, mùa thu đến từ
hương cốm, thì với Hữu Thỉnh mùa thu đến từ hương ổi. Đó là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm
nhận từ mùi ổi chín rộ. Một tín hiệu mùa thu rất đặc trưng.
-Động từ “phả” gợi sự tỏa vào, trộn lẫn hương ổi, thoảng bay trong không gian hòa quyện với thiên nhiên đất trời
đánh thức mọi giác quan con người bởi độ thơm nồng quyến rũ.
a2.-Hình ảnh quyến rũ “sương” kết hợp từ láy “chùng chình” gợi lên những hạt sương li ti giăng mắc như một làn
sương mỏng nhẹ nhàng trôi.
-Từ láy “chùng chình” đã được sử dụng tinh tế gợi sự quyến luyến của ánh sương mai trước cửa. Ánh sương mai
giăng mắc chùng chình như không muốn rời xa thể hiện bước đi nhẹ nhàng, êm ái của mùa thu. Sương thu được tác
giả ví von như người thiếu nữ e ấp, dịu dàng ở tuổi xuân thì mong manh mà quyến rũ.
- Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đủ tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lời thơ lại
càng lung linh huyền ảo.
+ Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai
“Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp
đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng manh, mềm mại, giăng mắc màn
khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình
yên.
+ Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình”. Phép tu từ ấy khiến cho sương thu như chứa đầy tâm
trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.
=> Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu
đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt:
“Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng
khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ
hồ quá. Đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên
nhiên, yêu cuộc sống.
a3.-Sự kết hợp tinh tế của các từ ngữ “bỗng, phả, hình như” đã diễn tả được tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng, bối
rối, giật mình reo vui, hạnh phúc của tác giả trong khoảnh khắc giao mùa của cảnh vật.
-Sự hòa quyện của các giác quan đã giúp tác giả cảm nhận được hơi thở của mùa thu càng lúc càng rõ nét hơn qua
hương thu, sương thu, gió thu. Tâm hồn thi sĩ cùng chùng chình, bịn rịn, lưu luyến với phút giao mùa của cảnh vật.
b.-Trong mạch chảy cảm xúc đó, khổ thơ tiếp theo đã diễn tả được hình ảnh thiên nhiên trong khoảnh khắc sang thu
bằng những hình ảnh quen thuộc làm nên bức tranh mùa thu đẹp đẽ trong sáng.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
b1. Tác giả cảm nhận thu sang làm cho mọi sự vật trở nên xáo động và khoác lên mình một màu áo mới, hoạt động
mới. Hình ảnh đối lập “Sông được lúc dềnh dàng - Chim bắt đầu vội vã” để gợi lên sắc màu riêng độc đáo của mùa
thu. Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại hiền hòa trôi một cách nhàn hạ sau những ngày hè nước lũ gợi lên vẻ
đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Còn những cánh chim chiều lại bắt đầu vội vã bay về phương nam
tránh rét trong những buổi hoàng hôn. Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh
vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào
những ngày giao mùa. Ý thơ đồng thời còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: Sự chuyển động của dòng sông,
của cánh chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước. Cả đất nước ta vừa trải qua chiến tranh tàn khốc mới
có được hòa bình, và giờ đây mới được sống một cuộc sống yên bình, êm ả. Nhưng rồi mỗi người dân Việt Nam
cũng lại bắt đầu hối hả nhịp sống mới để xây dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng
b2.-Khoảnh khắc tinh tế khúc giao mùa được tác giả sử dụng qua hình ảnh liên tưởng đắc điệu “Có đám mây mùa hạ
vắt nửa mình sang thu”. Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại nhờ lưu luyến của bầu
trời sang thu. Hình ảnh mùa thu đã được hiện lên rõ nét hơn bởi sự vận động của sự vật và thời gian. Hạ đang qua và
thu đang tới. Hình ảnh đó giống như cuộc chia tay đầy vấn vương của một cặp tình nhân. Trong thơ ca Việt Nam,
không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến –
“Thu điếu”). “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Huy Cận – “Tràng giang” Hữu Thỉnh dùng động từ “vắt” để gợi ra
trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh,
cao rộng
b3.-Với sự cảm nhận tinh tế qua nhiều giác quan sự liên tưởng thú vị bất ngờ, tâm hồn nhạy cảm tác giả đã diễn tả
thành công bước chuyển biến diệu kỳ của bức tranh cảnh vật từ hạ sang thu. Ta cảm nhận được thu đến không ồn ào
như hạ, không lạnh giá như đông, không ấm nồng như xuân. Mùa thu thật đẹp và gợi hồn thơ. -> Có lẽ đây là hai
câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức
tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ. Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu
trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của
cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải
chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu
Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
c.-Bài thơ được khép lại bằng những cảm xúc thu lắng đọng và quan niệm nhân sinh sâu sắc qua hai hình ảnh cụ thể:
nắng-mưa
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
c1.-Những hình ảnh “nắng” là hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Mưa cũng đã ít đi. Tác giả dùng từ “vơi” gợi lên những ý
nghĩa sâu sắc. Với lối diễn đạt tinh tế và sâu sắc “vẫn còn, đã vơi dần, bớt bất ngờ” Không chỉ cho ta thấy mùa thu
đã đến mà còn mang triết lý sâu sắc về đời sống con người.
c2.-Hình ảnh “Sấm cũng bớt bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi” gợi ý nghĩa tả thực và triết lý sâu sắc. Hình tượng
sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ. Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên
vào thu không còn giật mình bất ngờ bởi tiếng sấm của mùa hạ. Cũng từ đó tác giả gửi gắm triết lý sâu sắc về đời
sống con người. Khi con người ta từng trải, thí những going tố, thăng trầm của cuộc đời ít làm cho người ta bất ngờ,
bị động, con người càng trở nên vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời mỗi người là một chứng
nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế tiếc nuối, vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm trạng ấy đã
được nhà thơ gửi vào cảnh vật vào trạng thái thiên nhiên nhằm khắc họa thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình
sang thu. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy
nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi
đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường
của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những
chấn động của cuộc đời. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời
mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của
ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

2. Đánh giá chung (bình luận): -Nghệ thuật


-Nội dung
- Tác phẩm đã thể hiện sự thành công nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Thể thơ ngũ ngôn giàu sáng tạo. Hình ảnh
thơ gần gũi bình dị, ngôn ngữ thơ giàu chọn lọc, giọng thơ giàu cảm xúc, nhịp thơ nhịp nhàng, khoan thái. Tất cả đã
góp phần thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Qua đó, ta cảm
nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương và những triết lý sâu sắc của tác giả.
*KB: “Sang Thu” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh. Phải có một
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, tài năng trong nghệ thuật tác giả mới có thể viết lên được những vần thơ tràn đầy cảm
xúc đến vậy. Tác phẩm đã khép lại nhưng vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa vẫn để lại
trong lòng người đọc những cảm xúc trào dâng.
ĐỀ: Cảm nhận của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Mùa xuân người cầm súng


Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả


Tất cả như xôn xao...
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Ta làm con chim hót


Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Mùa xuân - ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

* Mở bài:
Như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ là tâm hồn, thơ là cuộc sống, thơ là tiếng hát của trái tim”, “Mùa xuân
nho nhỏ” của Thanh Hải là một trong những bài thơ như thế. Thanh Hải là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại.
Thơ của ông nhạy cảm, tinh tế, giàu cảm xúc bình dị, đôn hậu, chân thành, “Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ tiêu biểu
nhất. Được sáng tác 1980, bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời và ước
nguyện được cống hiến cho đất nước một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, của nhà thơ.
Trong đó, đoạn thơ sau được đánh giá là tiêu biểu nhất (Trích đoạn thơ vào – chép hai câu đầu và hai câu cuối).
Thân bài:
Phân tích:
a) Đến với đoạn thơ sau trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, ta bắt gặp bức tranh mùa xuân thiên nhiên tươi
đẹp, hiền hòa, đầy sức sống của xứ Huế
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

a1) - Với các hình ảnh thơ đẹp, bình dị: Bông hoa tím, dòng sông xanh, âm thanh tiếng chim chiền chiện, tác giả đã
mở ra bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui, rộn rã.
- Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng từ ngữ gợi cảm, gợi tả kết hợp đảo cấu trúc câu “Mọc giữa dòng sông xanh” nhấn
mạnh vẻ đẹp đầy đủ màu sắc, âm thanh, đường nét của bức tranh thiên nhiên và làm nổi bật vẻ đẹp của bông hoa.
Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng.
- Sự kết hợp giữa màu sắc và âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời gợi lên bức tranh sinh động -> Tiếng
chim trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan tỏa không dứt làm cho không khí của mùa xuân trở nên náo nức lạ
thường.
a2)
- Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi
hứng” diễn tả cảm giác say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh trời đất vào xuân.
- Sự chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay
“hứng” xiết bao yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.
 Đó là cảm xúc say sưa, ngất ngây của nhà thơ trong cảnh đất trời vào xuân.

b) Trong mạch chảy cảm xúc đó, khổ thơ tiếp theo đã mở ra bức tranh mùa xuân của đất nước và những con người
mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào mùa xuân mới:

“Mùa xuân người cầm súng


Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
b1) - Hình ảnh biểu tượng “người cầm súng”, “người ra đồng” gợi lên mùa xuân của con người đang lao động và
chiến đấu của đất nước vất vả, gian lao đang đi lên phía trước. Hình ảnh dân tộc Việt Nam kết tụ lại ở “người cầm
súng” và “người ra đồng”.
- Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý nghĩa trong hình ảnh người lính và người nông dân với từ
“lộc”. “Lộc” là chồi non, là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc.
- Hình ảnh ẩn dụ “Lộc giắt đầy trên lưng”, “Lộc trải dài nương mạ” gợi lên hình ảnh những con người lao động,
chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa để gặt hái mùa xuân về cho đất nước.
 Đây là mùa xuân của con người lao động và chiến đấu.
b2) Từ mùa xuân của con người lao động, chiến đấu, tác giả cảm nhận về mùa xuân của đất nước vất vả và gian lao
đang đi lên phía trước:

“Ðất nước bốn nghìn năm


Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”

b2.1) Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu gợi lên sức xuân phơi phới
mãnh liệt trong mỗi con người và nhớ đến niềm tự hào của đất nước. Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên
nhiên đến con người đều hối hả, xôn xao. Mang tình sông núi, Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào về
chiều dài lịch sử bốn nghìn năm của đất nước: Đó là truyền thống anh hùng trong đánh giặc, cần cù trong xây dựng,
là truyền thống nhân ái, khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy được xây đắp nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt,
thậm chí cả xương máu của biết bao thế hệ con người. Trong quá trình xây dựng đất nước, nước ta còn vất vả, gian
lao nhưng vẫn ngời sáng, cứ tiến về phía trước như một vì sao sáng.
b2.2) Tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh nhân hóa đẹp “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” để ngợi ca vẻ
đẹp tráng lệ, trường tồn của đất nước và niềm tin sáng ngời của nhà thơ về đất nước. Ba tiếng “cứ đi lên” đã thể hiện
ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng đất nước giàu mạnh. Đặt bài thơ vào những năm 1980,
khi đất nước ta đang phải đương đầu với bao khó khăn thì ta càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin
của Thanh Hải vào quê hương đất nước.
c) Trong mạch chảy cảm xúc đó, nhà thơ muốn góp một mùa xuân nho nhỏ của mình để làm nên một mùa xuân lớn,
mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến ”
c1) - Hình ảnh thơ tự nhiên giàu sức gợi tả đã giúp tác giả gửi gắm ước nguyện: Tiếng chim hót trong rộn rã tiếng
chim ca, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương sắc, một nốt trầm âm thầm lặng lẽ để nhập vào khúc ca
tiếng hát của nhân dân.
- Những hình ảnh ấy được nhắc tới ở khổ thơ đầu lặp lại ở khổ thơ này trong giọng thơ nhẹ nhàng, êm ái, ngọt ngào
mang ý nghĩa mới mẻ. Đó là niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
 Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ. Điệp từ “ta”
như một lời khẳng định sự hòa quyện cái ta của mình và cái ta chung của mọi người. Ước nguyện, tiếng lòng đó
không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta.
c2) Đó là lẽ sống cống hiến cho đời, lặng lẽ, khiêm tốn không kể gì đến tuổi tác:
“ Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc “
- Thái độ “lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ và vô cùng đáng quý vì
đó là những gì đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao khi nhà thơ đã qua tuổi xuân của cuộc đời vẫn ước
được làm một mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao của đất nước.
- Điệp ngữ “dù là” như một lời khẳng định của tác giả với mình phải kiên trì thử thách với thời gian tuổi già, bệnh
tật để mãi là mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương dân tộc.
 Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn, gợi sự lan tỏa sức xuân tâm hồn trong cả bài thơ.
Ước nguyện của nhà thơ là mỗi người phải biết sống, cống hiến cho cuộc đời. Dâng hiến, hòa nhập nhưng phải giữ
được nét riêng của mỗi người.
c3) Những câu thơ cuối mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Nó như tiếng tâm tình, thủ thỉ,
như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa tình:
“ Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam Ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Cùng với ước nguyện ấy, khúc Nam Ai, Nam Bình ở khổ thơ kết nói lên niềm tin yêu tha thiết với quê hương đất
nước, cuộc đời. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, ta càng trân trọng, cảm động biết bao tình cảm tác giả dành
cho đất nước.
2) Bình luận:
Bài thơ đã thể hiện sự thành công nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Thể thơ 5 chữ, nhạc điệu trong sáng, da thiết,
gần gũi với dân ca. Sử dụng cách gieo vần độc đáo, phép tu từ phong phú, đa dạng, ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, câu
từ thơ độc đáo, giọng thơ giàu cảm xúc. Tất cả đã góp phần diễn tả thành công tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn
bó với đất nước, với cuộc đời, ước nguyện cống hiến cho đất nước của nhà thơ.
*Kết bài:
“Mùa xuân nho nhỏ” xứng đáng là bài thơ tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Thanh Hải. Phải
có nguồn cảm xúc mãnh liệt, tài hoa tinh tế về nghệ thuật, tác giả mới có thể viết lên được những vần thơ tràn đầy
cảm xúc đến vậy. Bài thơ (đoạn thơ) đã khép lại nhưng nguồn cảm xúc tác giả mang đến vẫn để lại trong lòng người
đọc những cảm xúc trào dâng.

Đề: phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm lặng lẽ Sapa

Mở bài:
Có ý kiến cho rằng: “Thiên chức của nhà văn là phải nhặt được hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn con
người”, Thành Long đã làm được điều đó trong tác phẩm Lặng lẽ SaPa. Thành Long là cây bút cần mẫn nghiêm túc
nhiệt thanfhh bám sát thực tế. Sáng tác của ông luôn thể hiện sự lịch lãm, tài hoa tinh tế gợi về cuộc sống mới, lặng
lẽ Sa Pa là tác phẩm tiêu biểu nhất. Được sáng tác 1970, tác phẩm đã khám phá ngợi ca vẻ đẹp con người lao động
vô tư và lặng thầm cống hiến cho đất nước. Trong đó, tác giả đã khai thác thành công nhân vật anh thanh niên với
những vẻ đẹp đáng ngưỡng mộ.
1- Giới thiệu khái quát
- Tình huống cơ bản của truyện chính là cuộc gặp gỡ tình cờ của người thanh niên làm việc một mình trong trạm khí
tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy - ông hoạ sĩ và cô kĩ sư lên thăm chốc lát nơi ở và làm việc
của anh.
- Ý nghĩa: cuộc gặp gỡ tình cờ là cơ hội thuận tiện để nhân vật chính không chỉ xuất hiện 1 cách tự nhiên qua cái
nhìn cảm xúc của những nhân vật khác về anh và những người như anh mà còn tác động đến tình cảm và suy nghĩ
của các nhân vật ấy. Qua đó tác giả làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: "Trong cái lặng im...cho đất nước".
2. Phân tích hân vật anh thanh niên:
a. Hoàn cảnh sống và làm việc
- Anh thanh niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng làm
bạn với mây mù và cỏ cây. Theo giới thiệu của bắc lái xe anh là người "cô độc nhất thế gian", anh "thèm người" đến
mức đã từng chặt cây ngang đường xe chạy để được trông và nghe được tiếng người nói.
- công việc của anh là: "đo gió, đo mưa, đo nắng tính mây đo chấn động mặt đất....". Công việc đơn giản nhưng đòi
hỏi sự thẩm mỹ chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao vì mỗi ngày phải thực hiện đúng 4 giờ ốp (đặc biệt là lúc
1g sáng và những ngày mưa rét).
- Sự vắng vẻ heo hút và công việc đơn điệu là thử thách với tuổi trẻ. Nhưng cái gian khó nhất đối với anh phải vượt
qua sự cô đơn vắng vẻ nơi núi cao ko một bóng người.
=> Những khó khăn là vậy nhưng anh đã vượt lên để sống đẹp và làm việc có ích cho cuộc đời.
b. Phẩm chất tốt đẹp của anh thanh niên
*Anh có suy nghĩ lý tưởng tình cảm cao đẹp:
- Suy nghĩ về cuộc sống: anh sống gắn bó với sự nghiệp của đất nước có trách nhiệm với cuộc đời đất nước có chiến
tranh anh xin ra trận ko được anh xung phong làm công tác khí tượng trên núi cao.
- Suy nghĩ về công việc:
+ Anh hiểu và yêu công việc thầm lặng của mình bởi đó là công việc có ích cho cuộc sống cho mọi người.
+ Anh coi công việc là bạn: "khi ta làm việc là với công việc là đôi sao gọi là 1 mình được?... công việc của cháu
gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất".
+ Đối với anh hạnh phúc là công việc là sự cống hiến.
=> Chính những suy nghĩ đẹp ấy đã khiến anh yêu cuộc sống và con người xung quanh giúp anh có thêm nghị lực
để vươn lên, để sống đẹp đầy ý nghĩa.
*Anh có những hành động đẹp:
- Anh vượt lên mọi khó khăn để sống và làm việc, chiến thắng hoàn cảnh và chiến thắng chính mình.
- Anh tự nguyện, tự giác, yên tâm công tác, luôn hoàn thành xuất sắc công việc.
- Với lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm anh đã rất thạo nghề, giỏi nghề: "ban đêm không nhìn thấy bằng mắt
nhìn gió lay là hay nhìn trời…có thể nói được mây tính được gió".
- Anh làm việc rất hiệu quả góp phần vào chiến công chung của dân tộc (giúp bộ đội hạ được nhiều máy bay
Mỹ trên cầu Hàm Rồng).
- Ngoài ra, anh cũng nỗ lực không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ hiểu biết qua việc đọc sách. Anh gọi
sách là bạn, là niềm vui trong cuộc sống.
*Anh có phong cách sống đẹp:
- Anh tổ sắp xếp cho minh một cuộc sống khoa học ngăn nắp phong phú cả vật chất lẫn tinh thần một cuộc
sống chủ động và có ích lợi cho đời.
- Anh trồng một vườn hoa rực rỡ làm đẹp cho nơi ở của mình.
- Anh còn nuôi gà để tự cung cấp thức ăn cho mình.
- Anh là người luôn quý trọng tình cảm chân thành cởi mở với mọi người. Anh là người hiếu khách mời họ
lên chơi phá trà đón khách, lưu luyến khi chia tay với khách.
- Anh gửi biếu vợ bác lái xe bị ốm cứ tâm thất tặng hoa cho cô kỹ sư, tặng giỏ trứng cho ông họa sĩ.
- Anh có tác phong làm việc khoa học nghiêm túc các có tính kỉ luật cao đúng giờ giấc và chính xác đến từng
phút "Trời ơi chỉ có 5p", đếm từng phút vì sợ hết ba mươi phút gặp gỡ cũng ngắn ngủi quý báu.
- Anh cũng rất khiêm tốn luôn đề cao người khác say sưa cả ngợi mọi người ( ông hoạ sĩ muốn vẽ chân dung
anh,anh đã giới thiệu người khác mà anh cho họ xứng đáng hơn như,ông kỹ sư vườn rau anh cán bộ cứa
sét.
=> Tóm lại chỉ bằng 1 số chi tiết và chỉ xuất hiện trong 30p gặp gỡ ngắn ngủi tác giả đã phát hoạ được nhân vật anh
thanh niên với những nét đẹp về tinh thần tình cảm cách sống và những suy nghĩ trong cuộc sống về ý nghĩa công
việc anh chính là đại diện tiêu biểu cho những người ở Sa Pa là chân dung người lao động mới.

3- Đánh giá chung:


- Đánh giá nghệ thuật
- Đánh giá nội dung
- Đánh giá ý kiến
- III. Đánh giá chung
Tác phẩm đã thể hiện thành công về nghệ thuật và nội dung. Cốt truyện đơn giản, xoay quanh một tình
huống đó là có cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ và một anh thanh niên làmcông tác khí tượng.
Xây dựng nhân vật chân dung, nhân vật được ghi lại được đánh giá qua những cảm nhận trực tiếp, miêu tả tinh tế.
Chất thơ của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng phụ trợ đắc lực cho bài ca đó là những ý nghĩ, cảm xúc của người trong cuộc và
vẻ đẹp rất đỗi nên thơ, nên hoa, nên nhạc của lối sống mà nhân vật chính gợi ra. Tất cả đã góp phần khắc họa thành
công hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một
mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc
thầm lặng
* Kết bài
Lặng lẽ SaPa xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thành Long.
Tác phẩm đã giúp ta thêm thấu hiểu và trân trọng hơn công việc và sự cống hiến thầm lặng của anh thanh niên.
Chính sự dặc sắc về nghệ thuật, sự phong phú về nội dung đã góp phần khắc họa thành công vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt
Nam trong xây dựng, bảo vệ đất nước.
Đề: Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
* Mở bài:
Lê Minh Khuê là gương mặt tiêu biểu trưởng thành trong những năm Kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Lê
Minh Khuê là cây bút chuyên về truyện ngắn. Sáng tác của bà chủ yếu viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở
tuyến đường Trường Sơn, “Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm tiêu biểu nhất. Được sáng tác 1971, tác phẩm đã làm
nổi bật tâm hồn tỏa sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc
quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Trong đó, tác giả đã khắc họa thành
công nhân vật Phương Định, một biểu tượng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ.
* Thân bài:
1 - Giới thiệu khái quát về Phương Định:
Phương Định là con gái Hà Nội vào chiến trường đánh giặc, cô mang theo những kỉ niệm đẹp của một thời học
sinh. Đây là nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lòng
người đọc.
2 - Cảm nhận - phân tích về Phương Định:
a - Đến với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ta bắt gặp Phương Định hiện lên là cô gái hồn nhiên, ngây thơ, tinh
nghịch.
- Phương Định là nữ sinh thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Cô đã có thời học sinh ngây thơ, hồn nhiên.
Những hoài niệm đó thật đáng yêu luôn ngự trị trong tâm hồn Phương Định.
- Chi tiết cơn mưa đá ngắn ngủi xuất hiện ở cuối tác phẩm đã làm sống dậy trong cô bao niềm vui trẻ thơ: cô nhớ
về mẹ, cái cửa sổ căn nhà. Cô nhớ về thành phố, gia đình, tuổi thơ thanh bình của mình.
- Trước tàn khốc của chiến tranh, Phương Định vẫn nhạy cảm, hồn nhiên, mơ mộng, thích ca hát.
- Cô đem cả lòng say mê ca hát vào chiến trường Trường Sơn ác liệt. Cô thích hát những hành khúc bộ đội, những
bài dân ca.
- Phương Định còn là một cô gái xinh xắn và tự tin, hài hước, khiêm tốn. Biết mình là cô gái xinh xắn được nhiều
anh bộ đội để ý đến, nhưng cô không săn sóc vồn vã mà vẫn giữ được tính cách kiêu kì đáng yêu của cô gái Hà Nội.
- Cô luôn yêu mến đồng đội của mình, yêu mến và cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường
Trường Sơn.
 Với lối trần thuật lôi cuốn, tác giả đã làm nổi bật được những nét tính cách đáng yêu, đáng quý ở Phương Định.
b - Bên cạnh nét hồn nhiên, tinh nghịch, Phương Định còn là một cô gái rất anh hùng trong công việc.
- Phương Định xung phong ra mặt trận để giành độc lập tự do cho tổ quốc. Cô ra “đi không tiếc tuổi” thanh xuân
của mình.
- Trong từng lời nói, hành động, suy nghĩ, Phương Định luôn thể hiện phẩm chất anh hùng. Cô kể: “Chúng tôi có
ba người. Ba cô gái chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân giao điểm. Con đường đi qua được hang bị đánh lở
loét.” Cô nói về công việc của mình gọn gàng, khô khốc, tĩnh nhẹ như không: “Việc của chúng tôi là ngồi đấy. Khi
có bom nổ thì chạy lên, bom chưa nổ nếu cần thì phá bom”. Cô nghĩ về công việc của mình khá giản dị. Cô cho là
cái thú riêng: “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói không khí bàng hoàng máy bay đang ầm ĩ xa dần”.
 Với những chi tiết vừa cụ thể vừa khái quát, tác giả đã làm nổi bật được sự lớn lên, mạnh mẽ, đáng phục của
Phương Định.
c - Phương Định còn là một cô gái có tinh thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm.
- Lúc đến gần quả bom, trong không khí căng thẳng vắng lặng đến rợn người, bỗng cô không sợ nữa. Phương
Định quyết định không đi khom.
- Khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức khắc, cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn và căng
như dây đàn. Cô đã nhanh và mạnh mẽ không một phút chậm trễ.
- Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Thế mà, cô vẫn không run tay vẫn tiếp tục cái
công việc đáng sợ đó.
- Phương Định cảm nhận: “Quen rồi. Một ngày tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít là ba lần. Tôi có nghĩ đến
cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt không cụ thể”.
 Chính cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm yêu mến và sự
kính phục một cô nữ sinh nhỏ bé hồn nhiên giàu mơ mộng và nhạy cảm mà cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với
những kì tích khắc ghi trên những tuyến đường Trường Sơn bi tráng.
d - Phương Định là cô gái giàu tình cảm dành cho đồng chí đồng đội.
- Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao, vỗ về chăm sóc cho Nho tận
tình như cô y tá.
- Họ luôn đối xử với nhau như chị em ruột, cô còn dành tình cảm trân trọng yêu mến cho những người chiến sĩ
đang trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường.
- Ở Phương Định nét đẹp còn được ngời sáng trong tình đồng đội thắm thiết. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan
tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội
trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu và vắt
nhưng khi chiến đấu lại rất dũng cảm. Trong cuộc việc, ai cũng gờm chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết, táo bạo. Với
Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay. “trông nói nhẹ mát như một que kem trắng.
Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc như một người y tá: “moi
đất, bế Nho đặt lên đùi”, “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái
ca sắt…”. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con
đường ra mặt trận. Với cô “những người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc
quân phục có ngôi sao trên mũ”.
-> Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Chính điều đó đã tiếp thêm sức
mạnh cho cô để cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đó là tình đồng đội thiêng liêng cao cả.
d. Lí tưởng sống cao đẹp, tinh thần dũng cảm, giàu lòng tự trọng:
- Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định được tỏa sáng ở lí tưởng sống cao đẹp và tinh thần dũng cảm, không sợ gian
khổ, hi sinhRời ghế nhà trường phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thể hệ của mình “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” để giành độc lập, tự do của Tổ quốc. Cô ra đi mà không
tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho đất nước:
“Ôi Tổ quốc! Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”.
- Đối mặt với nguy hiểm, cô và những người đồng đội của mình thật sự là những anh hùng. Phương Định nghĩ về
hoàn cảnh sống nơi đây một cách giản dị và cho là có cái thú riêng: “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói,
không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân
chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng
nhất định sẽ nổ…”. Công việc phá bom đầy nguy hiểm và phải luôn đối mặt với thần chết được cô kể với giọng điệu
bình thản, pha sự hóm hỉnh: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Thật là biết
đùa trước gian khó.
- Đặc biệt, hi sinh mất mát của bản thân cũng được Phương Định coi hết sức nhẹ nhàng: “Tôi bây giờ vẫn còn một
vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên Tôi không vào viện quân y”. Nếu không có cái nhìn lạc quan và một
tinh thần dũng cảm thì Phương Định không thể có cách nói bình thản như thế. Có thể khẳng định rằng: Phương Định
và những đồng đội của cô thực sự là những người anh hùng, nhưng là những anh hùng mà không tự biết. Chính điều
đó, khiến cho nhân vật Phương Định trở nên đáng mến.
3 - Bình luận:
Tác phẩm đã thể hiện sự thành công nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Ngôi kể
thứ nhất gợi sự chân thực lôi cuốn cho tác phẩm. Nhan đề gợi nhiều cảm xúc. Ngôn ngữ vừa gần gũi vừa lãng mạn. -
Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lý. Ngôn
ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình.Tất cả đã góp phần diễn tả thành công vẻ đẹp tâm hồn
hồn nhiên, trong sang, mơ mộng nhưng cũng rất dũng cảm kiên cường của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ.
* Kết bài:
“Những ngôi sao xa xôi” xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của Lê Minh
Khuê. Phải có một nguồn cảm xúc mãnh liệt, ngòi bút tài hoa, tác giả mới có thể viết lên được những trang viết tràn
đầy cảm xúc đến vậy. Tác phẩm đã khép lại nhưng nhân vật Phương Định vẫn để lại trong lòng người đọc những
cảm xúc trào dâng.
Đề: Phân tích diễn biến tâm trạng, lòng yêu nước, yêu làng của ông Hai trong tác phẩm Làng của nhà văn
Kim Lân
Mở bài:
Có ý kiến cho rằng: “Thiên chức của nhà văn là nhặt được hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn con người, nhà
văn Kim Lân đã làm được điều đó khi khai thác thành công vẻ đẹp tâm hồn yêu làng, yêu nước của ông Hai.Kim
Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đai. Sáng tác của ông là những
trang viết chân thực xúc động về đề tài nông thôn và người nông dân, Làng là tác phẩm tiêu biểu nhất. Được sáng
tác năm 1948, tác phẩm ngợi ca tình yêu làng tha thiết của người nông dân Việt nam trong kháng chiến chống Pháp.
Trong đó, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai một biểu tượng cho tình yêu làng tha thiết, mãnh liệt.
Thân bài:
1- GTKQ ông Hai: Tình huống truyện dẫn đến những thay đổi, chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Hai
–         Ông Hai là một người nông dân yêu làng, ở nơi tản cư mới, làng chính là niềm tự hào của ông
–  Một ngày ông nghe được tin dữ – làng Chợ Dầu theo giặc, làm Việt gian. Chính hoàn cảnh có tính bước ngoặt ấy
đã đẩy nhân vật ông Hai vào tình huống đầy thử thách và giúp ông bộc lộ tính cách, tâm trạng của mình.
2.Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai
a. Trước khi nghe tin làng Dầu theo giặc, ông Hai luôn nhớ nhung và tự hào mãnh liệt về làng của mình
-Ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông Hai hòa nhập với tình yêu nước,
-Xa làng ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay đổi tâm tính: “Lúc nào ông cũng thấy bực bội, ít nói, ít
cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí là gắt, hơi một tí là chửi”.
-Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường: “Hai con mắt ông sáng hắt lên, cái mặt biến chuyển
hoạt động”.
-Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta:
+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì trên tháp rùa.
+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.
+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống được tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ mà
“ruột gan ông lão cứ múa cả lên”.
=>Đó là niềm vui của một người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niêm vui mộc
mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.
b. khi nghe tin làng Dầu theo giặc, ông tủi hổ, đau đớn:
b1- Khi mới nghe tin dữ về làng
-tin dữ quá đột ngột khiến ông Hai xúc động đến sững sờ: “Cổ họng ông lão nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân. Ôn
lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.
-Khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng
định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin.
- Từ lúc ấy, tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh, day dứt.
Khi mới nghe tin dữ về làng:
-Về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con mà:”Nước mắt ông cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ
con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.
-Ông giận lũ ngườitheo giặc, nắm chặt hai tay mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”.
-Rồi ông ngờ ngợ, niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.
=> Ông Hai đau xót, tủi hổ trước tin dữ về làng ông.
B2-Mấy ngày sau đó:
-Ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài: “một đám đông túm lại, ông cũng
để ý, dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.
- Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, tưởng như người ta đang để ý, bàn tán đến “cái chuyện ấy”, cứ thoáng nghe là thấy
những tiếng Tây, Việt gian, Cam nhông,... là ông lại nín thít.
-Ông Hai cảm thấy mình có lỗi trong việc làng ông theo Tây.
=> Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai.
B3-khi mụ chủ nhà biết chuyện, tâm trạng của ông Hai đầy xung đột giằng xé
-Khi mụ chủ nhà biết chuyện và có ý đuổi khéo gia đình ông đi, ông Hai đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc
hoàn toàn:
+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trở về làng”, tuy nhiên ông lại gạt bỏ ngay ý nghĩ đó, bởi “Làng đã theo Tây, về làng
là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”.
+ Chính vì thế ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì
phải thù”.
-> Quyết định ấy khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ, thiêng liêng, rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng
quê. Niềm tin vào cách mạng vào kháng chiến đã giúp ông có được sự lựa chọn đó.
-Nhưng dù xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế ông càng đau xót, tủi hổ:
+ Đau xót không biết tâm sự cùng ai, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào những lời tâm sự thu thỉ với đứa con
còn rát ngây thơ.
+ Yêu làng Dầu, ông muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng: “Nhà ta ở làng chợ Dầu”.
+ Đó cũng là tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên
đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông”.
+Tình cảm ấy sâu nặng, thiêng liêng: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết
có bao giờ dám đơn sai”.
+ Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về làng.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời
tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình
trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: "ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biểu
lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: có bao giờ dám đơn sai. Chết
thì chết có bao giờ dám đơn sai.
=>Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao. Bởi đó là nỗi đau của một con người coi trọng danh dự của làng như của
chính bản thân mình.
c. Khi tin đồn được cải chính, tâm trạng ông Hai tràn ngập niềm vui, niềm hạnh phúc.
-Thái độ của ông Hai thay đổi hẳn: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
-Ông lại lật đật đi khắp nơi khoe làng. Ông khoe: “Tây nó đốt nhà tôi rồi các bác ạ, đốt nhẵn!”. Đối với người nông
dân, căn nhà là cả cơ nghiệp cả cuộc đời, vậy mà ông hả hê loan báo cái tin ấy một cách cho mọi người biết một
cách đầy tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của đời mình.
Điều đó chứng tỏ ông vui một cách chân thành với niềm vui chung. Ngồi nhà mất nhưng danh dự còn, thế là ông
mừng.
-Đó là nỗi lòng sung sướng hồn nhiên nhưng thật sự xúc động của ông Hai.
=> Ta thấy ở ông Hai tình yêu làng quê và tình yêu nước được đặt cao hơn nỗi mất mát cá nhân.
3Đánh giá chung
-Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: tác giả đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để thử thách nhân vật,
để nhân vật tự bộc lộ chiều sâu tâm trạng.Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật: Khắc họa thành công nhân vật ông Hai
qua những diễn biến nội tâm: suy nghĩ, hành động, lời nói,... Đặc biệt là các đoạn độc thoại, đối thoại và độc thoại
nội tâm.Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ rất đặc sắc: có ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ, vừa có ngôn ngữ chung
của người nông dân vừa mang đậm cá tính của nhân vật.Cách trần thuật truyện linh hoạt, tự nhiên. Kim Lân trong
truyện ngắn làng đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai. Ông Hai là hiện thân cho những người nông dân đi tản
cư với tình yêu nước, yêu làng tha thiết và luôn sục sôi tinh thần kháng chiến.
* Kết bài:
Làng xứng đáng là tác phẩm tiêu biêu trong sụ nghiệp sáng tác của Kim Lân. Tác phẩm cho ta thêm yêu và
tự hào hơn vẻ đẹp của người nông dân Việt Namm trong kháng chiến. Chính sự đặc sắc về nghệ thuật, sự phong phú
về nội dung đã góp phần khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một biểu tượng cho tình yêu làng, yêu nước.

ĐỀ 1. Cảm nhận về tình bà cháu qua bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

DÀN Ý:
I. Mở bài:
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, tình bà cháu thiêng liêng.
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác
những kỷ niệm và mơ ước của tuổi trẻ.
- Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1913 khi tác giả còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô.
- Bài thơ gợi lại những kỷ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía, thiêng liêng & cảm động.
Mở bài tham khảo: Bằng Việt là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thường đi
sâu khai thác những kỉ niệm thời thơ ấu, gợi nên những khao khát, ước mơ tuổi trẻ. Bếp lửa là một bài thơ im đậm
dấu ấn phong cách của ông. Tác phẩm là dòng kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu được ông ghi lại khi đang học
tập tại nước ngoài. Qua đó cho thấy tấm lòng kính yêu và niềm biết ơn vô hạn với bà, cũng chính là tình yêu đối với
quê hương, đất nước.
II. Thân bài
1. Khái quát hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Tham khảo:
Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác
phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu
Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp
lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
2. Cảm nhận về tình bà cháu trong bài thơ.
LĐ1. Hình ảnh bếp lửa nơi xứ người gợi lên nỗi nhớ bà, nhớ quê hương.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Điệp từ “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng
định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ.
- “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm
mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu
nồng đượm”.
+ Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức.
+ Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công
việc nhóm bếp cụ thể.
- Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vã, nhọc nhằn, lam lũ của đời
bà.
=>Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về
bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
LĐ2. Hình ảnh bếp lửa gợi hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà.
* Bốn khổ thơ tương ứng với ba kỉ niệm của khoảng thời thơ ấu của nhà thơ sống bên bà. Đó là những kỉ niệm bên
bếp lửa và bên người bà kính yêu. Đoạn thơ thấm thía bởi sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với
trữ tình.
*Năm lên 4 tuổi: Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách
cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh
trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng
ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau
đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.
- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia
đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người lao động.
- Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” và cụm từ “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại
hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay,
đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế!
- Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – đã “hun nhèm mắt cháu” để đến
bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người
cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi
khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu.
*. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
- “Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ
tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương.
- Kháng chiến bùng nổ “mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe, dạy
cháu làm, chăm cháu học”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày
ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân
tộc.
-> Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc tình thương bao la, sự chăm chút
hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể hiện được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà
của tác giả được thể hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
- Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của
tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm,
nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi
tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao!
Nó diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà.
Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với
chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của
bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ
nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là năm giặc tàn phá làng quê:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
- Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn
trong khói lửa của chiến tranh.
- Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến
cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ
mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã
làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
- Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu
thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không
nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
LĐ3. Suy ngẫm của người cháu về bà và cuộc đời bà.
*. Hình ảnh người bà và những kỷ niệm năm tháng tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
- Từ hình ảnh “bếp lửa” thực chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng
nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của
niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu
nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.
- Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”,
“chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
- Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự
hào.
=> Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người
nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa
* Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau.
- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn
tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vã và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà. Tình
thương yêu tác giả dành cho bà.
- Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng
là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.
- Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lượt gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động nhóm lửa, bà đã nhóm dậy những gì
thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:
+ Tình yêu thương
+ Niềm vui
+ Tình làng nghĩa xóm.
+ Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ
-> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi
người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân
tộc mình, nhân dân mình.
- Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc
dâng trào, tác giả đã phải thốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
=> Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ.
LĐ4. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết.
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã
lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”,
“niềm vui trăm ngả” nhưng khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu
có nhau.
=> Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ
mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước
bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
3. Đánh giá
Thể thơ tám chữ kết hợp với 7 chữ,9 chữ phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và suy ngẫm về bà. Sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận. Giọng điệu thơ tâm tình, thiết tha, tự nhiên, chân thành.
Đặc biệt việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Mạch cảm xúc xen với
lời kể, cùng hình ảnh thơ lan tỏa hiện lên rõ nét đã để lại dấu ấn sâu đậm về người bà. Bài thơ là những hồi tưởng và
suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà vàtình bà cháu. Qua đó,
bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước.
III. Kết bài
- Đánh giá chung về đoạn thơ
- Đoạn thơ khơi gợi trong em những tình cảm, trách nhiệm gì? Em học được bài học gì?
Tham khảo: Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện
độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa,
khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho
người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu
và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu: tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh, lòng vị
tha và sự bác ái.

ĐỒNG CHÍ (1948)


- Chính Hữu –
==========&=========

ĐỀ 1: Cảm nhận của em về tình đồng chí đồng đội của người lính qua bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu.
DÀN Ý:
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm, nêu cảm nhận về tình đồng chí
- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất
nhiều các tác giả tiêu biểu.
- Khái quát nét riêng độc đáo của Chính Hữu và Đồng chí - một bài thơ viết theo đề tài người lính: Chính Hữu xuất
hiện trên thi đàn với phong cách thơ bình dị. Bài thơ Đồng chí tuy vẫn đi vào đề tài người lính nhưng đã vượt qua tất
cả những xáo mòn để mang đến những cảm xúc rất chân thực về tình đồng chí nơi trái tim.
- Tình đồng chí gắn bó thiêng liêng cao cả.
Mở bài tham khảo: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh cao quý
nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao
đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính
Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của
người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của
anh bộ đội thời kháng chiến.
II. Thân bài
1. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm
- Bài thơ ra đời đầu năm 1948, giữa lúc nhà thơ và đồng đội hoạt động chống lại cuộc tấn công của Pháp lên chiến
khu Việt Bắc.
- Ra đời trong hoàn cảnh khó khăn nhưng bài thơ có thể đã như một lời động viên tinh thần cho chính tác giả Chính
Hữu, làm sang trọng thêm hồn thơ chiến sĩ của ông.
2. Cảm nhận về tình đồng chí đồng đội của người lính.
LĐ1. 7 câu thơ đầu: Sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí
- Cùng chung hoàn cảnh xuất thân (Hai câu đầu).

    + Cấu trúc song hành, đối xứng; thành ngữ: “quê anh” – “làng tôi” “nước mặn đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá”:
Họ xuất thân từ “nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi
trung du.

    + “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo khó, cằn cỗi, xác xơ,
        ⇒ Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính
cách mạng.
- Cùng chung lý tưởng, mục đích (Hai câu tiếp)
    + “Đôi người xa lạ”: Hai đối tượng “anh”- “tôi” vốn không quen biết nhau.
    + “Chẳng hẹn quen nhau”: Tuy sự quen nhau là không hẹn trước, nhưng chính việc cùng hoàn cảnh xuất thân,
cùng mục đích lý tưởng tham gia chiến đấu đã dẫn họ đến với nhau, làm họ nảy nở tình cảm cao đẹp.
- Sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí là ở sự sẽ chia, cảm thông và thấu hiểu (3 câu thơ tiếp)
    + Hình ảnh song hành “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với
nhau những hó khăn hiểm nguy khi thực hiện nhiệm vụ.
    + Những người chiến sĩ còn chia sẻ với nhau những gian khó đời thường “đêm rét chung chăn”, hiểu rõ về nhau
để trở thành “tri kỉ”.

    + Dòng thơ được tách riêng đi cùng dấu chấm than: Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên làm bừng sáng cả bài thơ, là
điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh. Hai tiếng “đồng
chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.

=> Tình đồng chí gắn bó bền chặt ….


LĐ2. 10 câu thơ tiếp: Những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
- 3 câu đầu: Tình đồng chí là cảm thông sẽ chia những tâm sự thầm kín, thấu hiểu nổi lòng của nhau.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lunglay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

    + Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với
họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”.
    + Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện
quyết tâm chiến đấu “mặc kệ”.

Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt gặp điểm tương đồng trong tâm hồn những người lính:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.


⇒ Tình cảm đồng chí thân thiết gắn bó, chia sẻ thấu hiểu với nhau những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ.
- 7 câu tiếp: Đồng chí là cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn trong đời lính.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh


Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

    + Hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi: Họ san sẻ cùng nhau, cùng nhau trải qua những “cơn ớn lạnh”, những khi
“sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” - họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét rừng hành hạ.
    + Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách
vai...không giày”: Sự thiếu thốn về vật chất không làm tình cảm của họ phai nhạt đi, ngược lại làm cho họ quyết tâm
hơn với lí tưởng, mục tiêu.
    + Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”: là hình ảnh đẹp biểu hiện của tình đồng chí trực tiếp nhất, họ
nắm tay nhau - cái nắm tay để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm -> Cử chỉ cảm động chan chứa tình
cảm chân thành của người lính.
=> Tình đồng chí gắn bó bởi sự sẽ chia cả vật chất lẫn tinh thần, chính điều đó tạo nên sức mạnh để cùng nắm tay
nhau thực hiện nhiệm vụ lý tưởng, mục tiêu.
LĐ3. 3 câu cuối: Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ của tình đồng chí
- 2 câu đầu: Nhiệm vụ gian khổ của người lính
    + Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối ⇒ hoàn cảnh khắc nghiệt.
    + Nhiệm vụ của những người lính chiến: đứng gác, phục kích sẵn sàng “chờ giặc tới”.
⇒ Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách, gian lao, hình ảnh của họ đứng cạnh bên nhau vững chãi làm mờ đi
sự gian khổ, ác liệt của chiến tranh, chính tình đồng chí giúp họ thăng hoa, lãng mạn và bình thản trong mọi hoàn
cảnh.
- Câu cuối “Đầu súng trăng treo”: hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú
vị vừa thực, vừa mang tính biểu tượng cao:
+ Thực: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh rừng ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh
sáng qua lớp sương mờ trắng đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo. Trong khi đó, người chiến sĩ
khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao như chạm vào vầng trăng và trăng như treo trên đầu súng.
    + Biểu tượng: “Súng”: biểu tượng cho người chiến sĩ, chiến tranh, mất mát đau thương chết chóc… “Trăng”: biểu
tượng cho thi sĩ, hoà bình, bình yên hạnh phúc trong lành…
+ Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau
vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng
        ⇒ Sự kết hợp 2 yếu tố hiện thực và lãng mạn, hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người
lính, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh bình nơi quê hương ⇒ Tình
đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần.
3. Đánh giá.
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ Đồng chí:
+ Thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ cô đọng, hình ảnh chân thực bình dị gợi tả có sức khái quát cao, nhằm diễn tả cụ thể
tình cảm thiêng liêng cao đẹp - tình đồng chí.
+ Giọng thơ sâu lắng, xúc động như lời tâm tình tha thiết.
III. Kết bài
- Đánh giá chung về bài thơ.
- Liên hệ cảm nhận riêng của bản thân về tình bạn trong thời đại hiện nay.
Tham khảo: Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính
mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái
hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc
theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẫm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận
đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao
cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy
lòng hy sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng chí” trên những trang
giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm
tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về. Càng tự hào hơn về tình bạn, tình đồng chí, đồng nghiệp trong xã
hội ngày nay.
Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và
những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân
đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
====================HẾT===================
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH (1969)
- Phạm Tiến Duật -
==========&=========

ĐỀ 1: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ
Phạm Tiến Duật.

DÀN Ý:
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, cảm nhận chung về bài thơ
- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất
nhiều các tác giả tiêu biểu.
- Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật- một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người
lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.
II. Thân bài
1. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm
- Bài thơ ra đời vào năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác
liệt
- Bài thơ là lời ngợi ca vẻ đẹp của người lính cách mạng thời bấy giờ
2. Cảm nhận về hình ảnh người lính
LĐ1. Tư thế thế ung dung hiên ngang giữa chiến trường bom đạn khốc liệt của người lính - Khổ 1+2
Ung bung….
Nhìn đất ….
- 2 câu thơ nhấn mạnh tư thế ung dung, đường hoàng đĩnh đạc của người lính, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian
khổ không hề run sợ né tránh.
- 4 câu thơ tiếp theo:
    + Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” và phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”-> tả thực cảm
nhận của người lính với thế giới bên ngoài.
    + “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”: tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận-> con đường ấy còn là
con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước.
        ⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua
khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.
        ⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu.
LĐ2. Họ luôn mang trên mình tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi
của người lính - Khổ 3+4
- 2 câu thơ đầu khổ 3 và 2 câu thơ đầu khổ 4 là thái độ sẵn sàng chấp nhận những khó khăn hiểm nguy.
    + Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa
tuôn mưa xối”.
    + Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng
chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu.
- 2 câu thơ cuối khổ 3 và 2 câu thơ cuối khổ 4 là thái độ lạc quan, đáng yêu.
    + Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”
    + Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” và phép ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của
các anh.
        ⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân
trọng.
LĐ3. Tình đồng chí đồng đội thắm thiết - Khổ 5+6
- 4 câu thơ khổ 5:
    + “Đã về đây họp thành tiểu đội”: Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập
hợp thành “tiểu đội xe không kính”
    + “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho
nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết.
- 2 câu thơ đầu khổ 6:
    + “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung
và coi đó như một lẽ tự nhiên.
    + “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe
định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo.
        ⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu, vượt
qua những khó khăn hiểm nguy.
- 2 câu thơ cuối khổ 6:
    + Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ gãy gọn: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường
mới.
    + Hình ảnh “trời xanh thêm”: ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng,
đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình.
=> Tình đồng chí của người lính thật thiêng liêng và nhờ đó họ có thêm sức mạnh để chiến đấu.
  LĐ4. Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam - Khổ 7
- 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui
xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ.
- Tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, cái bên trong và bên ngoài, giữa cái có và không.
- 2 câu cuối
    + Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn.
    + “Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và
sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, tinh thần dũng cảm.
=> Ý chí quyết chiến quyết thắng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
3. Đánh giá:
Thể thơ tự do phù hợp với cảm xúc, ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp
tu từ quen thuộc…Bài thơ đã khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung
hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và ý chí giải phóng miền Nam. Vẻ đẹp của các
anh cũng là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên những năm đánh Mĩ.
III. Kết bài
- Cảm xúc ấn tượng của bản thân.
- Thế hệ trẻ học tập được điều gì?
Kết bài tham khảo:
Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu của
thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Họ sẵn sáng
làm bất cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm tin, một niềm lạc quan tin
tưởng vào chiến thắng. Đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh. Thế hệ trẻ ngày nay cần
phát huy tinh thần và thái độ đó của người lính để sống chiến đấu làm việc hết mình cống hiến cho tổ quốc.
-----------------------------------------------------------
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
- Nguyễn Dữ -

ĐỀ 1. Vẻ đẹp và số phận của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
Dàn ý:
a) Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
Tất cả mọi thứ trên thế gian này theo thời gian đều sẽ bị bào mòn và băng hoại chỉ có duy nhất nghệ thuật,
mình nó không thừa nhận cái chết. Có những tác phẩm dù trải qua bao nhiêu thế kỉ, qua sự thách thức của dòng đời,
nó vẫn còn nguyên sức sống của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm như thế. Đọc tác
phẩm này người đọc không khỏi ấn tượng trước vẻ đẹp tâm hồn và số phận bi thảm của nhân vật Vũ Nương – nhân
vật chính của truyện.
b) Thân bài
1. Khái quát chung vê tác phẩm
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng văn
được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ
tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái
Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương,
tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau thương của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Vẻ đẹp và số phận oan nghiệt của người phụ nữ:
2.1. Vẻ đẹp
LĐ1: Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo, tế nhị, biết nhún nhường.
Điều đó được thể hiện trong lời giới thiệu của của tác giả và trong chính cuộc sống của nàng với Trương Sinh
- Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na
lại thêm tư dung tốt đẹp”. Như vậy, chỉ với một câu nói ngắn gọn, Nguyễn Du đã khái quát một cách đầy đủ và trọn
vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, nàng không chỉ đẹp về hình thức bên ngoài mà còn có một tâm hồn đẹp, ở nàng
hội tụ đầy đủ cả công – dung – ngôn – hạnh.
- Và cũng bởi mến vì dung hạnh của nàng nên Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Chi tiết này càng tô
đậm thêm vẻ đẹp của Vũ Nương. Nhưng điều đó có nghĩa là ngay ở phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã xây
dựng giữa hai nhân vật này là một sự cách bức. Nếu như Vũ Nương xinh đẹp nết na đức hạnh thì Trương Sinh lại
có tính đa nghi. Trương Sinh lại có cái quyền của một người đàn ông trong xã hội phong kiến Nam quyền, có quyền
của nhà giàu đã phải bỏ trăm lạng vàng để cưới vợ. Với sự cách bức như thế thì hẳn là cuộc sống của Vũ Nương sẽ
gặp rất nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, Trương Sinh với vợi lại luôn phòng ngừa quá sức nhưng Vũ Nương luôn giữa
gìn khuôn phép, không từng để vợ chồng phải đến thất hòa. Nếu không phải là một người phụ nữ khéo léo, tế nhị
thì hẳn là nàng sẽ không giữ được hòa khí trong gia đình như vậy.
LĐ2: Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, Vũ Nương còn là một người vợ yêu thồng,
một người mẹ thương con và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp ấy của nàng được Nguyễn Du làm nổi
bật khi Trương Sinh ra trận.
- Trương Sinh và Vũ Nương cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải ra trận bởi Trương Sinh tuy con
nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính vào buổi đầu. Lúc tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy
mà rằng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn
lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già
triền miên lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.”
=>Rõ ràng là trong lời nói của Vũ Nương ta nhận ra tình cảm tha thiêt mà nàng dành cho chồng. Nàng mong
chồng trở về bình yên chứ không cần công danh hiển hách. Nàng lo cho nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận
và dự cảm cả nỗi cô đơn trong những ngày vắng bóng chồng. Nàng không một lời than vãn về những vất vả mà
mình sẽ phải gánh vác. Những lời nói của Vũ Nương cảm động đến mức khiến cho những người xung quanh ai nấy
đều ứa hai hàng lệ và có lẽ người đọc cũng không khỏi động lòng.
- Rồi Trương Sinh ra trận ra trận, Vũ Nương ở nhà nhớ chồng da diết. Nguyễn Dữ cũng viết về nỗi nhớ ấy của
nàng “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể
chân trời không thể nào ngăn được”. Bằng một vài hình ảnh ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã diễn tả trọn vẹn nỗi
nhớ triền miên, dai dẳng, ngày qua ngày, tháng qua tháng của Vũ Nương với người chồng nơi chiến trận của nàng.
Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò
võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong
mọi thời loạn lạc xưa nay:
 "… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
     Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
     Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung,
thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
-  Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ, Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen
bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình
để thuyết phục chồng "Thiếp vốn con kẻ khó, nay được nượng tựa nhà giàu, xum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh, cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn chẳng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường
hoa chưa hề bến gót, đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói ...." Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho
thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ
Nương.
-  Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh
vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên
vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ. Nàng muốn để con trai mình bớt đi cảm giác
thiếu vắng tình cảm của người cha, luôn cảm nhận được hình bóng của người cha bên cạnh. Tình yêu thương của
nàng dành cho chồng, cho con chính là minh chứng của niềm khát khao hạnh phúc gia đình mà người phụ nữ dù ở
thời nào cũng mong muốn có được.
LĐ3: Cùng với tình yêu thương chồng con, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo
Xưa nay mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu rất phức tạp. Người xưa thường nói Trời mưa ướt lá dai bì/ Con mẹ,
mẹ xót, xót gì con dâu! Thế nhưng Vũ Nương đã hóa giả được những định kiến ấy. Chồng xa nhà, nàng đã thay
chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo
để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn
trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ
già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc
đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ" . Những
lời nói của bà cụ hơn hẳn ngàn vạn lời kể của nhà văn. Nó một lần nữa chứng minh rằng Vũ Nương là một người
con dâu hiếu thảo.
- Liên hệ: Thúy Kiều: Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chồng khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du – một cô gái sẵ sang bán thân mình để cứu cha và em. Có thể nói rằng tấm lòng
thủy chung hiếu thảo là nét phẩm chất chung của những người phụ nữ trong XHPK. Họ đáng để chúng ta trân trọng
và yêu thương.
2.2. Số phận oan nghiệt
Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng
làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng
hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.
- Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi  bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi
nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng.
Vũ Nương vốn “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “nói với
mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông
trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có
chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải
luôn chịu đựng sự xét nét “phòng ngừa quá sức” của chồng.
- Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong
số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh”
của đời người chinh phụ. Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm nỗi cô đơn vì phòng không gối chiếc đã bào mòn
tuổi xuân của Vũ Nương.
- Ngày Trương Sinh trở vể những tưởng hạnh phúc sẽ đến với nàng để bù đắp cho những tháng ngày cô đơn vất vả.
Tuy nhiên khi Trương Sinh trở về cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai
vừa lên ba tuổi, về “một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay
ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương
Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn
cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé lòng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…”  Bi kịch dâng
tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Còn gì đớn
đau, còn gì bi thương hơn thế???...
- Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi,
vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho
được khi quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn
Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “Đa tạ tình
chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn
gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang
đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
3. Đánh giá
Như vậy, bằng cách kể chuyện tự nhiên, cảm động, các yếu tố kì ảo, hoang đường, “Chuyện người con gái
Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công nhân vật Vũ Nương – một người phụ nữ có nhiều phẩm chất
tốt đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Có thể nói cuộc đời của người con gái nam Xương là một minh chứng
rõ nét cho vẻ đẹp tâm hồn và số phận khổ đau bất hạnh của người phụ nữ Việt nam trong xã hội phong kiến. Thông
qua tác phẩm này ta nhận ra cái tâm và cái tài của tác giả, nhận ra sự cảm thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân
vật của mình và cho cả những người phụ nữ trong xã hội xưa.
c) Kết bài
“Chuyện người con gái nam xương” là một áng văn hay thành công về mặt dựng truyện, khắc hoạ nhân vật, kết
hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn. Truyện đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp.
Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ trong XHPK.
Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng, về cách hành
xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người. Và có lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch
sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH


ĐỀ 1: Cảm nhận của em về đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích
DÀN Ý:
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm, nêu cảm nhận
- Giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Du: đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một cây bút xuất sắc
của nền văn học
- Truyện Kiều là tác phẩm được coi là hồn dân tộc; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ Truyện Kiều,
qua đoạn trích nhà thơ đã vô cùng tinh tế và sâu sắc khi diễn tả được tâm trạng của Thúy Kiều qua cảnh vật.
II. Thân bài
1. Khái quát chung về đoạn trích:
- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” gồm 22 câu thơ lục bát, nằm ở phần 2 “Gia biến và lưu lạc” trong tác phẩm
“Truyện Kiều”.
- Đoạn trích miêu tả một cách rõ nét tâm trạng của Thúy Kiều trong những tháng ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích để từ đó làm nổi bật nỗi bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
2. Cảm nhận về đoạn trích
LĐ1. Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thúy Kiều (6 câu thơ đầu)
* Bốn câu thơ đầu là bức họa về hoàn cảnh, không gian nơi Thúy Kiều ở:
+ Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng
của Kiều.
+ “Khóa xuân”: khóa kín tuổi xuân, ở nơi đây, con người đã chẳng còn mong chờ đến tuổi thanh xuân nữa.
+ “Non xa- trăng gần” đối nhau: tạo không gian xa rộng, nơi đây Kiều không có một người thân quen.
+ Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề” đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người.
+ Cảnh vật vốn có đường nét, màu sắc nhưng lại không đẹp, đã vậy còn gợi cảm giác cô đơn, rợn ngợp
⇒ Ở đây tác giả sử dụng vô cùng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình.
* 2 câu thơ sau: Tình của Kiều
+ Từ láy “bẽ bàng”: diễn tả nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, trong tâm trí nàng vẫn còn in đậm những sự việc vừa mới
xảy ra: bị Mã Giám Sinh làm nhục, bị ép làm gái lầu xanh rồi giờ bị giam lỏng nơi đây
+ Thành ngữ “mây sớm đèn khuya”: chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ
+ So sánh “Nửa tình nửa cảnh như chia tâm lòng”: nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa
dành cho tình
⇒ Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng quạnh hiu để khắc họa rõ tâm
trạng cô đơn của Kiều
LĐ2. Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều (8 câu thơ tiếp)
* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu)
+ “Người dưới nguyệt chén đồng”: chỉ chàng Kim cùng lời thề nguyền đính ước
+ Động từ “tưởng”: Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp bên Kim Trọng
+ Hai động từ “trông, chờ” được tách ra đi kèm với các danh từ chỉ thời là “rày, mai”: Thúy Kiều lo chàng Kim
cũng nhớ Kiều tha thiết
+ Thành ngữ biến thể “bên trời góc bể”: gợi ra không gian quê người xa xôi, cách trở.
+ Ẩn dụ “tấm son” kết hợp với câu hỏi tu từ “gột rửa bao giờ cho phai” tạo ra hai cách hiểu: thứ nhất tấm lòng Kiều
không bao giờ quên được chàng Kim và thứ hai là tấm thân của Kiều đã bị làm nhục bao giờ mới gột rửa được.
⇒ Sự thủy chung son sắt của Kiều với người yêu
* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu tiếp theo)
Kiều nhớ thương cha mẹ:
+ Động từ “xót” lại kết hợp với câu hỏi tư từ: thể hiện sự đau đớn của nàng khi nhớ về cha mẹ
+ “Nắng mưa”: ẩn dụ thời gian trong tâm tưởng của Kiều khi xa gia đình
+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”: làm nổi bật sự lo lắng của Kiều, rồi đây ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi oi nóng, ai
sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời giá lạnh
⇒ Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy Kiều vẫn lo cho cha mẹ ⇒ một người con có hiếu
LĐ3. Tâm trạng đau buồn của Kiều và dự cảm trước tương lai sóng gió (8 câu thơ cuối)
* 2 câu đầu: Bức tranh cửa bể lúc hoàng hôn
+ “Mênh mông cửa bể chiều hôm”: Giữa không gian bao la mênh mông Kiều cảm thấy nhớ quê hương, một nỗi
buồn trào dâng da diết
+ Hình ảnh “con thuyền” gợi sự cô đơn, Kiều đang nhớ gia đình, không biết bao giờ mới được trở về
⇒ Nhìn cánh buồm lẻ loi trôi nỗi giữa sóng nước Kiều nghĩ đến thân phận mình cũng đang bị dòng đời đưa đẩy.
* 2 câu tiếp: Cảnh hoa trôi mặt nước
+ “Buồn trông”: gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô
định
+ Từ “trôi”: chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, nhũng cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều
cũng thế
* 2 câu tiếp: Cảnh nội cỏ rầu rầu
+ Từ “rầu rầu” được nhân hóa chỉ màu sắc của cỏ ⇒ thiên nhiên như nhuốm màu tâm trạng ⇒ bút pháp tả cảnh ngụ
tình
+ Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều
⇒ Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng, đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ của Thúy Kiều
* 2 câu cuối: Cảnh giông bão sóng gió và niềm dự cảm tương lai
+ Hình ảnh dữ dội xuất hiện: “gió cuốn mặt duyềnh”: ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều,
những tai ương sắp ập đến đời nàng
+ Nhân hóa “sóng kêu”: gợi hình dung Kiều chới với giữa cái bất tận sục sôi trong lòng Kiều và quanh Kiều
+ “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: Trong lòng Kiều là tiếng sóng của buồn đau sợ hãi, dự cảm sóng gió
dường như đang tiến đến rất gần Kiều
⇒ Câu thơ thể hiện dự cảm của Thúy Kiều về tương lai của mình nhiều gian truân sóng gió.
III. Kết bài
- Đánh giá chung về đoạn trích.
- Cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm mà đoạn trích gợi cho bản thân?
Tham khảo: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm
trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người.
Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho
thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân
vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

-----------------------------------------------------------------------

You might also like