You are on page 1of 2

Bất kỳ sản phẩm nào bạn đang sử dụng hàng ngày, chiếc điện thoại, máy tính hay

đơn
giản như chai nước đều có cho mình một vòng đời riêng. Tuy nhiên, khái niệm vòng
đời sản phẩm đôi khi có thể bị hiểu sai rằng đó là quá trình từ khi sản phẩm được
người tiêu dùng bỏ tiền ra mua cho đến khi chúng không còn khả năng sử dụng hay bị
thay thế bằng một sản phẩm khác. Nhưng thực tế thì không phải như vậy. Và hôm nay
mình sẽ cung cấp đến cho các bạn những thông tin bao gồm khái niệm, sự ra đời, các
giai đoạn cũng như ưu nhược điểm của vòng đời sản phẩm.
I. Khái niệm về lý thuyết vòng đời sản phẩm
Lí thuyết về vòng đời sản phẩm (Product life theory) là lí thuyết tìm cách lí giải những
thay đổi trong xu thế phát triển của thương mại quốc tế theo thời gian. Lí thuyết về
vòng đời sản phẩm được xây dựng trên cơ sở một chuỗi các quá trình đổi mới và
quảng bá sản phẩm nối tiếp nhau.
II. Sự ra đời của lý thuyết
Raymond Vernon là người đầu tiên đưa ra học thuyết về vòng đời sản phẩm vào giữa
thập niên 60 của thế kỉ trước.
Lí thuyết dựa trên những quan sát thực tế là trong suốt thế kỉ XX một tỉ lệ rất lớn các
sản phẩm mới của thế giới đã được phát triển bởi các doanh nghiệp Mỹ và được tiêu
thụ đầu tiên tại thị trường Mỹ (ví dụ như ô tô sản xuất đại trà, máy thu hình, máy ảnh
chụp lấy liền, máy photocopy, máy tính cá nhân, và các chíp bán dẫn).
Để giải thích thực tế này, Vernon lập luận rằng sự thịnh vượng và qui mô của thị
trường Mỹ đã mang lại cho các doanh nghiệp Mỹ một động lực rất lớn đề phát triển
các sản phẩm tiêu dùng mới. Ngoài ra, chi phí nhân công cao tại Mỹ cũng khiến cho
các doanh nghiệp Mỹ nảy ra sáng kiến phải phát triển các quy trình tiết kiệm chi phí
sản xuất.
III. Các giai đoạn sản phẩm trong lý thuyết.
Raymond Vernon cho rằng, từ thời điểm một sản phẩm được lên ý tưởng cho đến khi
biến mất hoặc bị thay thế, nó sẽ trải qua 4 giai đoạn chính:
- Giai đoạn 1 (giai đoạn sản phẩm mới): khi sản phẩm mới được tung ra thị trường,
nước tiêu dùng sản phẩm cũng là nước sản xuất vì có mối quan hệ gắn bó giữa đổi
mới và nhu cầu. Nước sản xuất ban đầu này - thường là các nước công nghiệp tiên tiến
- trở thành nước xuất khẩu sang các nước có thu nhập cao khác.
- Giai đoạn 2 (giai đoạn tăng trưởng): sản xuất bắt đầu diễn ra ở các nước công nghiệp
hàng đầu khác và dần dần thay thế cho hàng xuất khẩu của nước đổi mới sang các thị
trường này.
- Giai đoạn 3 (giai đoạn chín muồi): bắt đầu khi nhu cầu của các nước khác về sản
phẩm mới đạt tới quy mô cho phép các nhà sản xuất thu được lợi thế của sản xuất quy
mô lớn và bản thân họ trở thành các nhà xuất khẩu ròng (tức xuất khẩu lớn hơn nhập
khẩu) sang các nước không sản xuất sản phẩm mới, qua đó thay thế cho hàng xuất
khẩu từ nước đổi mới.
- Giai đoạn 4 (giai đoạn suy thoái): khi công nghệ và sản phẩm ngày càng được tiêu
chuẩn hóa và ngay cả những công nhân không được đào tạo cũng có thể sản xuất, các
nước đang phát triển có chi phí thấp bắt đầu xuất khẩu sản phẩm này và họ tiếp tục
thay thế xuất khẩu của nước đổi mới. Cũng trong giai đoạn này, nước đổi mới dã
chuyển sang sản xuất các sản phẩm mới khác.
Hình ảnh minh họa vòng đời sp
IV. Ví dụ thực tế về vòng đời sản phẩm
Sau đây, mình sẽ ví dụ về vòng đời của 1 sản phẩm để bạn có thể nắm bắt một cách rõ
ràng, cụ thể nhất về những thông tin mà mình chia sẻ ở trên.
V. Đánh giá lý thuyết vòng đời sản phẩm
Ưu điểm:
Là một sự giải thích khá chính xác các mô hình trao đổi trong thương mại quốc tế.
( Mô hình này khái quát trình tự từ khâu nghiên cứu và phát triển tới khâu sản xuất và
tiêu thụ một sản phẩm mới sẽ diễn ra tuần tự từ nước phát triển cao chuyển sang các
nước phát triển thấp hơn tới các nước đang phát triển theo xu hướng tìm tới địa điểm
có chi phí sản xuất thấp hơn).
Nhược điểm:
Xét từ quan điểm nhận thức của người Châu Á và người Châu Âu thì lập luận của
Vernon dường như là một quan điểm mang tính vị kỷ dân tộc ngày càng lỗi thời.

https://camnest.vn/ly-thuyet-vong-doi-san-pham-san-pham-sinh-ra-roi-chet-di-nhu-
the-nao/

You might also like