You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN


HỌC PHẦN KINH TẾ LAO ĐỘNG

ĐỀ TÀI: ĐỂ GIẢM TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP TẠI VIỆT


NAM TRONG THỜI GIAN TỚI, NÊN TĂNG SỐ LƯỢNG SINH
VIÊN THEO HỌC VÀ TỐT NGHIỆP BẬC ĐẠI HỌC HOẶC SAU
ĐẠI HỌC

Lớp HP: 2237FECO1611


Nhóm: 11
Giảng viên hướng dẫn: Phan Thị Thu Giang

Hà Nội, tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Phạm vi nghiên cứu 5
B. NỘI DUNG 6
CHƯƠNG I: Bối cảnh thất nghiệp và việc làm đối với lao động trẻ 6
1. Bối cảnh thất nghiệp của lao động trẻ tại Việt Nam 6
2. So sánh với các quốc gia trên thế giới và trong khu vực 8
CHƯƠNG II: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thất nghiệp của sinh
viên sau tốt nghiệp 10
Chương III: Đánh giá nhận định 15
Chương IV: Giải pháp 23
C. KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

2
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN

TÊN THÀNH MÃ SINH ĐIỂM


STT NHIỆM VỤ NHẬN XÉT
VIÊN VIÊN ĐÁNH GIÁ

LÀM PHẦN III.


81 BÙI THỊ SƯƠNG 21D260210 ĐÁNH GIÁ
NHẬN ĐỊNH

NGUYỄN TUẤN LÀM PHẦN IV.


82 21D260010
TÀI GIẢI PHÁP

NGUYỄN TIẾN TỔNG HỢP


83 21D260011
THÀNH WORD

THẠCH
84 NGUYỄN NGỌC 21D260151 LÀM PPT
THẢO

85 LÝ THỊ THU 21D260212 LÀM PHẦN I

NGÔ THỊ HỒNG


86 21D260152 THUYẾT TRÌNH
THU

NGUYỄN HOÀI
87 21D260215 THUYẾT TRÌNH
THƯƠNG

PHAN THỊ
88 21D260155 LÀM PHẦN II
THƯƠNG

3
A. LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 

Đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập với những chính sách mở của giao
lưu hợp tác với các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới, tử nền kinh tế
bao cấp tập trung đất nước không phát triển đi lên được, người giỏi có năng lực
không được trọng dụng không có khả năng phát triển phát huy năng lực thì giờ đây
đất nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh phát triển phát huy được rất nhiều mặt tích cực đặc biệt là
ta đã nhìn thấy được một bộ mặt mới của đất nước. Mặt tích cực đáng chú ý là sự
cố gắng vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi
của công việc. Có được điều đó thì sự cố gắng vươn lên của lớp lao động trẻ là rất
quan trọng để có thể đáp ứng nhu cầu , đòi hỏi ngày càng cao của công việc, của
nền kinh tế thị trưởng. Sự phát triển mở rộng, hội nhập kinh tế thị trường đã thực
sự mang lại những cơ hội làm việc cho những sinh viên năng động, đầy năng động,
linh hoạt. Nhưng những sinh viên ra trường không phải ai cũng có thể đáp ứng nhu
cầu của công việc, dẫn tới tình trạng thất nghiệp  của sinh viên sau khi ra trường
hiện nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.  

Đất nước càng phát triển bao nhiêu ngoài những công nghệ hiện đại phục vụ cho
kinh doanh sản xuất thì một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của đất
nước là lực lượng lao động, trong nền kinh tế thị trường ngày nay lực lượng lao
động là những sinh viên được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng…Tuy
nhiên, tính tới thời điểm năm 2020, theo số liệu của Tổng cục Thống kê tại Báo
cáo điều tra lao động việc làm có khoảng 400,000 lao động trẻ thất nghiệp. Và một
thực tế đáng báo động nữa là con số này không ngừng tăng mỗi năm. Vậy câu hỏi
đặt ra của những nhà quản lý, của đất nước là nguyên nhân vì sao dẫn tới tình trạng
đó? Phải chăng là do quá trình đào tạo của các trường đại học còn nhiều mặt chưa
được hoặc nghịch lý số lượng sinh viên đông nhưng chất lượng chưa tương xứng
đã khiến các cử nhân sau khi ra trường khó có thể tìm cho mình một công việc
thích hợp.
4
Qua những vấn đề cấp thiết trên, nhóm em đã lựa chọn đề tài: “Để giảm tình trạng
thất nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới, nên tăng số lượng sinh viên theo học
và tốt nghiệp bậc đại học hoặc sau đại học”

2. Mục tiêu nghiên cứu

  Nội dung đề tài gồm 4 chương: 

Chương I: Bối cảnh thất nghiệp đối với lao động trẻ

Chương II: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thất nghiệp của sinh viên sau tốt
nghiệp 

Chương III: Đánh giá nhận định 

Chương IV: Giải pháp để giải quyết vấn đề thất nghiệp của sinh viên 

5
B. NỘI DUNG

Chương I. Bối cảnh thất nghiệp đối với lao động trẻ

Hơn 2 năm qua, lực lượng lao động trẻ trên toàn thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng đã chịu rất nhiều ảnh hưởng do những biến cố toàn cầu như dịch
bệnh, xung đột tác động lên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhiều lao động trẻ đã
bị từ chối trước cánh cửa việc làm và phải đối diện với thực tế thất nghiệp hoặc
chật vật tìm kiếm cho mình cánh cửa việc làm mới.

1.  Bối cảnh thất nghiệp đối với lao động trẻ tại Việt Nam

Thanh niên (cụ thể từ độ tuổi 15-24) được xem là một trong những nhóm lao động
dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các biến động trên thị trường lao động. Vì vậy, thất
nghiệp thanh niên luôn được xem là vấn đề quan tâm của xã hội. Số liệu chỉ ra
rằng năm 2020, dân số thanh niên (tuổi từ 15-24 chiếm khoảng 16,6% tổng dân số
từ 15 tuổi trở lên trong cả nước, và chiếm tới 35,4% tổng số lao động thất nghiệp
(tương đương khoảng 436,9 nghìn người). Năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp của thanh
niên cao hơn khoảng 4,4 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của những người từ 25 tuổi trở
lên.

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2020

6
Vậy tỉ lệ thất nghiệp của lao động theo trình độ học vấn, đặc biệt là lao động
trẻ đã tốt nghiệp đại học và sau đại học như thế nào, ta sẽ cùng tìm hiểu qua bảng
số liệu sau:
Bảng 1. Cơ cấu của lao động thất nghiệp theo trình độ học vấn cao nhất đạt được
Trình độ học vấn Tỷ trọng
Chung Nam Nữ
Tổng số 100 100 100
Chưa qua đào tạo/đi học 1,6 1,3 1,9
Giáo dục phổ thông
Chưa tốt nghiệp tiểu học 5,1 5,2 5
Tốt nghiệp tiểu học 14,5 16,1 13,3
Tốt nghiệp THCS 19 21,4 17,1
Tốt nghiệp THPT 16,7 18,8 15,1
Đào tạo nghề/chuyên
nghiệp
Sơ cấp 4,6 9,2 1
Trung cấp 7,6 4,9 9,7
Cao đẳng 10,1 7,2 12,3
Đại học trở lên 20,7 15,8 24,6
Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2020
Số liệu cho thấy tỷ trọng của nhóm có trình độ “tốt nghiệp đại học trở lên” là
cao nhất (20,7%) tiếp đến là nhóm có trình độ “tốt nghiệp THCS và tốt nghiệp
THPT” tương ứng là 19,0% và 16,7% trong tổng số người thất nghiệp. Nhóm có tỷ
trọng số người thất nghiệp thấp nhất là “chưa qua đào tạo/đi học” và “sơ cấp” với
tỷ lệ tương ứng là 1,6% và 4,6%. Nhóm có tỷ trọng số người thất nghiệp cao nhất
là nhóm người có trình độ từ đại học trở lên có thể do họ cố gắng tìm một công
việc phù hợp với trình độ đào tạo. Nhóm có trình độ “tốt nghiệp THCS và tốt
nghiệp THPT” tỷ trọng số người thất nghiệp cũng tương đối cao có thể do lực
lượng học sinh mới tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông còn có ý
định tiếp tục đi học nên chưa sẵn sàng tham gia thị trường lao động.
7
Phân tổ tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ cho thấy nhóm những người có trình độ
cao đẳng và đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất, tương ứng là (6,07% và
4,26%) và những người chưa từng đi học và chưa tốt nghiệp Tiểu học có tỷ lệ thấp
nhất (1,35% và 1,67%). Có hiện trạng này là do nhóm lao động có trình độ chuyên
môn thấp thường sẵn sàng làm các công việc giản đơn và không đòi hỏi chuyên
môn cao với mức lương thấp trong khi những người có trình độ học vấn cao lại cố
gắng tìm kiếm công việc với mức thu nhập phù hợp hơn. Ngoài ra, chính sách
tuyển lao động của các nhà tuyển dụng đối với nhóm lao động có trình độ cao cũng
ảnh hưởng đến tỷ lệ này, bởi yêu cầu đối với lao động đã qua đào tạo ở các trình độ
càng cao càng khắt khe hơn so với lao động giản đơn và cũng do nhóm lao động đã
qua đào tạo thường có yêu cầu về mức thu nhập cao hơn nhóm lao động giản đơn.
Điều này phần nào phản ánh chất lượng việc làm của thị trường lao động Việt Nam
hiện vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động có trình độ
CMKT cao.

2. So sánh với các quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực

Trước tiên chúng ta sẽ cùng so sánh về tỷ lệ giáo dục đại học của Việt Nam
và một số nước trong khu vực Châu Á.

Theo Báo cáo của Ngân hàng thế giới 2022, đến năm 2019, Việt Nam có
khoảng 1,7% dân số được học đại học (tương đương 1,67 triệu sinh viên). Trong
khi đó Ma-lay-xia có 4% dân số (khoảng 1,3 triệu sinh viên) và Hàn Quốc có 3,8%
dân số (khoảng hai triệu sinh viên) nhập học đại học trong cùng năm đó. Tương tự,
tỷ lệ nhập học ròng (GER) cấp giáo dục sau phổ thông của Việt Nam là 28,6% năm
2019, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (trên 98%), Trung Quốc (trên 53%) và Ma-
lay-xia (43%), đồng thời thấp hơn rõ rệt so với tỷ lệ nhập học (GER) bình quân
55,1% của các quốc gia thu nhập trung bình cao.

8
Hình 2.1. Tỷ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông tại Việt Nam và một số quốc
gia giai đoạn 2000–2019

Mặc dù dân số học đại học của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với Malaysia
và Hàn Quốc, nhưng có một điểm chung giữa ba quốc gia này. Đó là tỷ lệ thất
nghiệp đối với lao động trẻ học đại học và sau đại học đều ở mức cao.

Nguồn: kosis.kr
Từ biểu đồ trên ta thấy được tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp bậc đại học trở lên
chiếm đến 42% tỷ lệ thất nghiệp tại Hàn Quốc. Và cũng trong năm 2020, tỉ lệ thất
9
nghiệp trong thanh niên Malaysia ở mức 11,72%, do số lượng cử nhân quá lớn
(hơn 200.000 người hằng năm) so với số lượng việc làm có sẵn trong nền kinh tế.

Qua việc phân tích bối cảnh thất nghiệp của lao động trẻ tại Việt Nam và so
sánh với một số quốc gia trong khu vực Châu Á, ta phần nào có thể đánh giá được
tính chính xác của nhận định ban đầu.

II. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thất nghiệp đối với lao động trẻ tốt
nghiệp đại học và sau đại học
      Tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng qua từng năm và
ngày càng cao. Thậm chí, có một số trường hợp sinh viên ra trường cả hai, ba năm
vẫn không tìm được việc làm. Vậy nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của
sinh viên hiện nay là do đâu?

1. Nguyên nhân chủ quan:

• Không có định hướng nghề nghiệp trước khi học:

      Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc
phụ huynh. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹ thường
thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ, … và con
cái thì cũng thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu
hướng thị trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy
theo các nghề “hot” để theo kịp bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở
trường.

      Trong môi trường làm việc mà xu thế cạnh tranh đang ngày càng phát triển,
nếu không có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, làm sao SV có thể bảo đảm yếu tố
gắn bó với công việc ở các cơ quan tuyển dụng. Một điều chắc chắn rằng, cơ quan
tuyển dụng sẽ không tuyển nếu không nhìn thấy ở ứng viên niềm say mê và tâm
huyết nghề nghiệp mà họ đã chọn.

          Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng định
hướng nghề hiện nay khi mà các học sinh hầu như không có một định hướng nghề
10
cho bản thân, không biết mình thích gì và có thể làm gì sau này, đâu là điểm mạnh
và điểm yếu của bản thân? Không biết định hướng và lựa chọn cho mình ngành
học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm,
không có sự yêu thích và tâm huyết, … Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp cho
tương lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành
công.

• Sinh viên ra trường thiếu kĩ năng làm việc:

       Trên 80% sinh viên mới ra trường được cho là có kiến thức nhưng lại yếu
kém về các kỹ năng mềm - kỹ năng mà đa số nhà tuyển dụng, đặc biệt là các tập
đoàn, tổ chức nước ngoài đánh giá cao. Chính vì thế, nhiều bạn đã mất điểm trong
lần gặp đầu tiên trong buổi phỏng vấn ở các công ty. Trong quá trình học, đa số
sinh viên đều tự chuẩn bị hành trang cho mình là hai bằng ngoại ngữ và tin học và
đều cho rằng đây là điều kiện đủ để có thể trúng tuyển việc làm sau này. Tuy
nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ đánh giá cao các kỹ năng sống như: kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm... hơn là các
giấy tờ chứng nhận. Đối với các ứng viên được nhận, họ thường có thời gian
khoảng 1 - 2 tháng học việc và thử việc tại công ty nhưng không có nhiều ứng viên
có thể tiếp thu và xử lý công việc. Ngay cả các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thậm
chí loại xuất sắc cũng không thể trụ vững làm nhân viên chính thức sau thời gian
thử việc như thế. Rất rõ ràng đây chính là yếu điểm mà các sinh viên cần khắc
phục để nâng cao cơ hội có việc sau khi tốt nghiệp

        Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có
mối quan hệ rộng rãi hay được cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn
quá thụ động trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự tin vào bản thân, thiếu nghị
lực và dũng cảm để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn chưa rõ
mình thích làm gì, thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong
môi trường công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang bị tốt cho mình các kỹ
năng giao tiếp, đàm phán, thuyết trình, quản lý thời gian, … mới thực sự là yếu tố
quyết định giúp bạn khác biệt và làm việc hiệu quả.
11
       Việc thiếu hụt những kỹ năng cơ bản dẫn đến những khó khăn cho sinh viên
trong việc chiếm được lòng của nhà tuyển dụng và là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường.

Năm 2020, Việt Nam có 225.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường
nhưng chưa tìm được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được
đào tạo, gây ra một sự lãng phí rất lớn. Theo kết quả khảo sát tại 60 doanh nghiệp
trong lĩnh vực dịch vụ công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh về “Đánh giá mức
độ hài lòng của doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên được đào tạo trong năm
đầu tiên sau khi tốt nghiệp” (bộ tiêu chí để đánh giá là kiến thức lý thuyết, kỹ năng
thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và kỹ năng nghề nghiệp), chỉ có
5% tổng số sinh viên tham gia khảo sát được đánh giá ở mức độ tốt, 15% ở mức
khá, 30% ở mức độ trung bình và 40% ở mức độ không đạt.

● Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội:

       Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào các trường
đại học quốc gia nhưng kết quả không có gì khả quan khi số lượng sinh viên ra
trường vẫn thất nghiệp. Bên cạnh đó, với tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép
nhiều trường đại học tư được mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà
nước và trường tư.

       Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở kết quả này, bởi các
đại học tư vì lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Cả hai
cách cải tiến trên đều làm nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ
năng để làm việc trong công nghiệp. Bên cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới
đẩy lên các cấp học trên đã khiến những người làm giáo dục bất chấp hậu quả mà
chính người học và xã hội phải gánh là tạo ra những sản phẩm không đủ chất
lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội ngũ nhân lực nước ta yếu và nền giáo dục
Việt Nam ngày càng tụt hậu.

      Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần
thực hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các
trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
12
      ● Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế:

        Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề
tiếng Anh. Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong
tất cả mọi ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Thực ra, hầu hết sinh viên ở các
trường đại học đều được học tiếng Anh, nhưng chính thái độ học thụ động, không
áp dụng thực tế thì khi ra trường, kỹ năng ngoại ngữ chỉ là con số 0.Các công ty
mong muốn nhân viên phải vận dụng được tiếng Anh, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp
vào công việc nhưng đa số sinh viên không thể đáp ứng được. Chính vì thế, để
vượt qua hạn chế này, các bạn sinh viên nên cố gắng thực hành tiếng Anh càng
nhiều càng tốt hơn là chỉ cố gắng học để lấy được một bằng cấp hữu danh vô thực.
Một khi tiếng Anh vững chắc thì thành công sẽ mở lối cho chúng ta. Chỉ có được
động lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có
thể nâng cao trình độ tiếng Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.

● Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận:

Đây là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản
thân. Luôn đổ lỗi cho không có chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra.
Tốt nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách không có việc làm, đó là
điều càng khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đổ lỗi cho
không có cơ hội việc làm, đổ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…Hơn nữa,
Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp có tâm lý chờ đợi một công việc có thu nhập
khá, phù hợp với ngành đào tạo thay vì chủ động ứng phó với hoàn cảnh, tìm kiếm
cơ hội nghề nghiệp ở một phạm vi rộng hơn. Nếu một kỹ sư tốt nghiệp ngành kỹ
thuật, thay vì chờ đợi cơ hội trong vô vọng, có thể làm thợ sửa chữa, làm công
nhân để tích lũy vốn và kinh nghiệm thì chính những bước đi đầu tiên ấy sẽ cho
các em rất nhiều trải nghiệm, rèn giũa các em trong sự nghiệp lâu dài.

        Phải thừa nhận rằng, có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất
nghiệp ngày càng lớn như hiện nay. Nhưng trước khi mổ xẻ những nguyên nhân
sâu xa, chúng ta cần làm rõ nguyên nhân ngay trước mắt. Đó là sự kém cỏi của

13
sinh viên ngay trên giảng đường. Đừng chỉ tốt nghiệp với tấm bằng trên giấy mà
hãy bước ra khỏi giảng đường với những kiến thức cần thiết cho tương lai.

2. Nguyên nhân khách quan:

● Suy giảm kinh tế toàn cầu

     Nền kinh tế tăng trưởng thiếu chiều sâu, không tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho xã hội. Không thiếu những địa phương ở Việt Nam, cả vùng không tìm ra một
nhà máy, xí nghiệp nào dẫn đến các bạn sinh viên sau khi tốt nghiệp muốn về quê
làm việc lại không thể. Đặc biệt, trong những năm qua trải qua dịch bệnh covid.
Covid- 19 là một dịch bệnh nguy hiểm, lây lan qua đường hô hấp vì thế mà phải
hạn chế tiếp xúc và áp dụng giãn cách xã hội. Điều này dẫn đến hầu hết những
công việc phải dừng lại. Tình hình dịch bệnh kéo dài đã khiến nhiều công ty,
doanh nghiệp phải phá sản vì không thể cầm cự dẫn đến nhiều người lao động mất
việc làm đặc biệt là lao động trẻ. Hơn nữa, nhu cầu mua hàng của nhân dân giảm
sút, sản phẩm làm ra nhưng không tiêu thụ được dẫn đến hiện tượng dư cung ở
những ngành hàng nhất định, các nhà máy không cần nhiều nhân công để tạo ra
sản phẩm.

● Ảnh hưởng của thiên tai

        Thiên tai có thể ảnh hưởng đến một bộ phận lớn trong lực lượng lao động tại
những vùng bị thiệt hại, khiến cho họ bị mất việc trong một khoảng thời gian dài.

Ví dụ như: Lũ lụt khiến cho người dân không thể tiếp tục công việc, thậm chí mất
cả nhà cửa; Hạn hán làm ảnh hưởng đến những công việc thuộc lĩnh vực nông
nghiệp.

● Máy móc, thiết bị hiện đại thay thế con người

        Trong cách mạng 4.0, thời đại của công nghệ lên ngôi thì có không ít người
lao động bị thay thế bởi những máy móc hiện đại. Khi áp dụng và sử dụng máy
móc AI, các doanh nghiệp sẽ không phải quản lý quá chặt chẽ như khi sử dụng
nhân công là con người, không phải thưởng thêm, chi trả bảo hiểm,... Trên hết,
năng suất mà máy móc tạo ra chắc chắn sẽ cao hơn con người. Đó là vấn đề mà đa
14
số doanh nghiệp quan tâm. Vì thế khi có công đoạn nào có thể thay thế bằng máy
móc thì doanh nghiệp sẽ thay và một bộ phận người lao động lại thất nghiệp

III. Đánh giá nhận định

* Số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp bậc đại học tăng nhưng tình trạng
thất nghiệp vẫn cao.

Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam những năm qua đã có bước phát triển dựa trên
cơ sở của việc số sinh viên theo học đại học gia tăng. Số sinh viên theo học đại học
ngày càng tăng: Năm học 2018-2019, số lượng sinh viên 1.526.111 và năm học
2019-2020 là 1.672.881. So với năm trước, số lượng sinh viên năm học 2019-2020
tăng 146.770 người. Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng 1.700.000
người, số lượng tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng 500.000
người/kỳ thi.

Tuy nhiên, cùng với việc tăng nhanh số lượng sinh viên học đại học thì tình hình
thất nghiệp đội ngũ tốt nghiệp đại học và sau đại học là vấn đề nổi cộm và đáng
quan tâm lo ngại. Theo thống kê, hàng năm có hơn 400.000 cử nhân ra trường. Tuy
nhiên, con số thất nghiệp là gần 200.000 lao động. Nhìn vào bối cảnh thất nghiệp
và việc làm trong năm 2021 và quý I năm 2022 cũng đã phản ánh được tình trạng
thất nghiệp đáng báo động của lao động trẻ Việt Nam.

Nguyên nhân chủ yếu khiến cho tình trạng sinh viên đại học tốt nghiệp nhưng lại
không có việc làm là do chất lượng nhân sự chưa cao, đó là: không có định hướng
nghề nghiệp trước khi học; sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc, chất lượng
đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội; trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều
hạn chế; luôn than trách và đổ lỗi cho số phận nên không thể đáp ứng được những
đòi hỏi ngày càng gay gắt của thị trường lao động. Trước những nguyên nhân trên,
càng chứng tỏ nhận định “Để giảm tình trạng thất nghiệp tại Việt Nam trong thời
gian tới, nên tăng số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp bậc đại học hoặc sau
đại học” là sai đồng nghĩa với luồng ý kiến phổ biến nảy sinh: không nên gia tăng

15
số lượng sinh viên đại học và sau đại học nữa, xã hội không có nhu cầu, tăng
số lượng sinh viên chỉ làm tăng thêm tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ Việt
Nam.

*Số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp bậc đại học tăng nhưng chất lượng
lại không tương xứng.

Xem xét kỹ vấn đề, số lượng sinh viên nước ta tăng nhiều nhưng chưa phải cao nếu
so sánh với các nước trên thế giới. Song, số sinh viên tốt nghiệp đại học thất
nghiệp thì vẫn ở mức cao. Thực tế cho thấy ở Việt Nam, năm 2019 số người độ
tuổi học đại học (18-29 tuổi) tham gia đại học thấp, khoảng 28,3%, thuộc hàng
thấp giới. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vào 2019 cả nước có khoảng
200.000 sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng không tìm được việc làm. Còn theo
thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, khoảng 60% sinh viên ra
trường làm trái ngành, không đúng với chuyên môn được đào tạo. Trong khi đó, tỷ
lệ số người độ tuổi (18-29 tuổi) ở Thái Lan và Malaysia lần lượt là 43% và 48%,
đây là các nước có số lượng sinh viên theo học đại học cao. Năm 2021, tỉ lệ thất
nghiệp trong thanh niên Malaysia hiện ở mức 11,72%, do số lượng cử nhân quá
lớn (hơn 200.000 người hằng năm) so với số lượng việc làm có sẵn trong nền kinh
tế.

Do đó, chúng ta thấy được số lượng sinh viên đại học ở nước ta tăng lên cũng
không làm giảm tỷ lệ thất nghiệp sau tốt nghiệp đại học. Chúng ta không cần quan
tâm đến số lượng mà vấn đề quan trọng là phải đảm bảo tăng cường chất lượng đào
tạo đại học và sau đại học. Thực tế cho thấy, ở nước ta, chất lượng sinh viên tốt
nghiệp đại học và sau đại học thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, chưa tạo lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ nhân lực nước ta so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Hiện nay, rất ít sinh viên học đúng sở trường và sở thích
của mình, và trường cũng không chọn được sinh viên mà mình muốn đào tạo. Sinh
viên chỉ học để đối phó, cho qua, trở thành bệnh thành tích, thiếu thực chất...Sinh
viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình ( mặc dù
16
trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa
ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo). Từ đó dẫn
đến thực trạng thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay. Tâm lí quen
đọc - chép mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu
giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thực tế là
kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó
sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn
học đó khi ở nhà. Theo một nghiên cứu mới đây của PGS.TS Nguyễn Công
Khanh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội thì có tới 64% sinh viên chưa tìm được
phương pháp học phù hợp; 55,9% sinh viên thường suy ngẫm để tìm ra phương
pháp học phù hợp và hiệu quả; 68,2% sinh viên thường suy nghĩ về việc học cho
hiệu quả, nhưng chỉ có 36% sinh viên được khảo sát cho rằng mình đã tìm được
phương pháp học phù hợp, còn lại vẫn mơ hồ. Hầu hết sinh viên chưa chủ động
trong việc học: 31,6% sinh viên nghiên cứu biểu lộ phong cách học thụ động: ngại
đưa ra ý kiến khi học và thảo luận hay nói cách khác là thích “ngậm hột thị” trong
giờ thảo luận.Về tinh thần tích cực và năng động của sinh viên, thật đáng tiếc khi
số liệu trong nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Công Khanh có tới 36,1% biểu lộ
phong cách học thụ động: ngại nêu thắc mắc, ngại nói ra ý tưởng riêng của mình
trong các cuộc thảo luận trên lớp. Có 22,9% sinh viên chỉ thích giáo viên giảng cho
mình nghe hơn là chủ động hỏi, nêu thắc mắc (chưa kể 42,7% sinh viên cũng có
quan điểm gần gần như vậy). Bên cạnh đó, bản thân sinh viên còn thiếu nhiều kĩ
năng như kĩ năng tin học văn phòng, kĩ năng ngoại ngữ, kĩ năng giao tiếp, sáng tạo,
giải quyết vấn đề,v.v cũng như trình độ chuyên môn còn thấp.

Trong xã hội hiện đại, những kỹ năng mềm là yếu tố quan trọng giúp con người
đặc biệt là sinh viên thành công trong cuộc sống. Đặc biệt hơn là trong thời đại
công nghệ 4.0 thì những kĩ năng này càng cần thiết hơn.

17
Hình 1: Những kĩ năng thế kỉ 21 được các nước công nhận nhiều nhất: Giao
tiếp, sáng tạo, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề.

(Nguồn: Trung tâm Giáo dục Toàn cầu tại Viện Brookings)

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng kỹ năng mềm quyết định 75% thành công của con
người, trong khi kỹ năng cứng (hay kiến thức, chuyên môn) chỉ chiếm 25%. Kỹ
năng mềm sẽ quyết định bạn là ai, bạn làm việc như thế nào và hiệu quả công việc
mà bạn sẽ mang lại. Chia sẻ tại một buổi tọa đàm với sinh viên, ông Trần Trọng
Thành, Chủ tịch HĐQT Công ty VINAPO cho biết, có đến 90% sinh viên sau khi
ra trường hầu như không có kỹ năng mềm. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân chính khiến mỗi năm có trên 400.000 sinh viên tốt nghiệp rồi thất nghiệp.

* Số lượng sinh viên theo học và tốt nghiệp bậc đại học tăng nhưng chương
trình đào tạo của các trường Đại học chưa phù hợp.

Nền giáo dục đại học phải là môi trường tối ưu nhất để người dạy và người học
cùng trau dồi, rèn luyện không chỉ kiến thức, tri thức, kỹ năng có tính chuyên môn
hóa (trong từng lĩnh vực, ngành nghề…) mà quan trọng còn là thái độ, phẩm chất
của những trí thức với vai trò dẫn dắt xã hội trong tương lai. Nói khác đi, cho dù
giáo dục phổ thông có tốt đến mấy nhưng giáo dục đại học không phải là nơi để thế

18
hệ trẻ tin tưởng và an tâm tiếp tục con đường học vấn, rèn luyện chuyên sâu để thật
sự trưởng thành thì cũng là sự thất bại của nền giáo dục quốc gia.

Thời gian qua, giáo dục đại học ở Việt Nam tuy có nhiều chuyển biến tích cực
trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước nhưng nhìn chung vẫn chưa thật sự
làm chúng ta an tâm. Nguồn nhân lực có bằng cấp đại học (và sau đại học) tuy có
tăng lên rõ rệt về lượng nhưng về chất lại chưa/không tương xứng một phần là do
chất lượng đào tạo của các trường đại học.

Thực tế cho thấy chương trình đào tạo nhà trường chậm thay đổi còn nặng lý
thuyết, còn khá ít thực hành, thực chiến; thời gian thực tập ít, kiến thức thực tế
không nhiều, tính chủ động sáng tạo chưa cao. Phương pháp quản lý chất lượng
của chúng ta còn rất bất cập, lạc hậu. Việt Nam chi thấp hơn các quốc gia khác
trong khu vực cho giáo dục đại học. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi ngân sách
Nhà nước cho giáo dục đại học chỉ đạt từ 4,33% đến 4,74% tổng chi cho lĩnh vực
giáo dục, chiếm 0,25% đến 0,27% GDP. Đây là mức chi rất khiêm tốn so với các
nước trong khu vực và thế giới. Trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ chi cho giáo
dục đại học của Việt Nam chỉ bằng 2% so với Indonesia là 0,57%, Thái Lan là
0,64%, Singapore là 1% GDP.

Từ năm 1975 đến nay, ngoài kĩ năng tin học cơ bản và ngoại ngữ, chúng ta không
yêu cầu các trường ĐH, CĐ phải xây dựng và công bố chuẩn năng lực người tốt
nghiệp - chuẩn đầu ra: sinh viên ra trường phải có tri thức gì, kỹ năng gì, có năng
lực đạo đức và hành vi thế nào, có thể giải quyết được những việc gì và làm việc ở
những vị trí nào, có triển vọng phát triển nghề nghiệp ra sao. Không có cơ chế
giám sát chất lượng đào tạo và không có chế tài đối với các cơ sở đào tạo chất
lượng kém. Do đó số lượng sinh viên tăng nhưng lại không đi đôi với chất lượng
nên chưa thể đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động.

Tính đến ngày 31-12-2020, chỉ có 149 cơ sở giáo dục đại học và 9 trường cao đẳng
sư phạm (trong tổng số 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng) đạt tiêu chuẩn
kiểm định theo bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam (chỉ
19
chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại học trong cả nước). Tỷ lệ các trường đạt
tiêu chuẩn vẫn còn thấp. Đây là những điều đáng lo ngại, phản ánh đúng những
hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam. Các đại học tốt nhất Việt Nam vẫn chưa
thể lọt vào tóp các đại học hàng đầu của khu vực và thế giới. Mà chỉ khi gần đây,
theo Bảng xếp hạng các trường đại học thế giới QS World University Rankings
2022 do Tổ chức xếp hạng QS (Quacquarelli Symonds) mới công bố, Việt Nam có
đại diện lọt Top 1.000 thế giới, nhưng ở vị trí cuối, nằm trong Top 801 - 1.000,
gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP.HCM, Đại học Bách Khoa
Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng và Đại học Duy Tân.

Hình 2: Xếp hạng đại học Việt Nam theo QS


(Nguồn: VNexpress)
Trong khi đó, các nước trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Malaysia, Singapore, Thái Lan đều ở Top 100, thậm chí có trường vào Top 10.

Với tình trạng các trường đạt chuẩn không đồng đều cho thấy có sự chênh lệch
giữa chất lượng đào tạo ở các trường Đại học. Số lượng sinh viên ngày càng tăng,
số lượng trường đại học ngày nhiều, song chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo
còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết dẫn đến hệ lụy sinh
viên ra trường không có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp lao động trẻ gia tăng. Giáo dục
đại học đang đứng trước đòi hỏi cấp bách của cuộc sống, không thể tiếp tục phát
20
triển quy mô đào tạo mà lại buông lỏng quản lý chất lượng như thời gian qua. Tình
hình phát triển ồ ạt các đại học tư trong thời gian qua là hiện tượng gây nhiều suy
ngẫm. Từ năm 2018, nước ta đã xây dựng được mạng lưới các cơ sở giáo dục đại
học gồm 236 trường đại học, học viện (không tính các trường thuộc khối quốc
phòng - an ninh) trong đó bao gồm 171 trường công lập, 60 trường tư thục và dân
lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài). Như vậy, từ năm 2018 đến năm 2020, Việt
Nam không thành lập, nâng cấp trường đại học nào nữa thì vẫn vượt mục tiêu đề
ra. Số lượng các trường tăng nhanh trong thời gian ngắn không hẳn là do nhu cầu
của xã hội và thậm chí của những ai quan tâm đến việc trồng người. Bên cạnh sự
bùng nổ trường tư, Nhà nước lại cho nâng cấp ồ ạt các trường cao đẳng công lên
đại học công. Điều này càng khiến chất lượng dạy và học xuống cấp so với mặt
bằng kiến thức vốn đã thấp. Nhiều trường trước đó chỉ là trường trung cấp, sau vài
năm lên cao đẳng cũng được nâng cấp thành đại học, cơ sở vật chất cũng như đội
ngũ chẳng thay đổi gì. Trong việc nâng cấp một trường cao đẳng lên đại học, quan
trọng nhất là đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất có tương xứng hay không. Nếu
đội ngũ giảng viên không đảm bảo thì nhất định không làm. Đại học phát triển kiểu
ấy thì chỉ là “học đại”. Các trường Đại học mở ra càng nhiều, sinh viên theo học tại
các trường đại học ngày càng cao nhưng điều quan trọng, cốt yếu nhất là chất
lượng lại hoàn toàn không tương xứng.

TS Lê Đông Phương, cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
cũng chỉ ra hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Xét tỷ lệ
nghiên cứu trên một triệu dân giai đoạn 2010-2017, Việt Nam tăng từ 23 lên 63,
thấp hơn với mức 10-71 của Indonesia, 140-212 của Thái Lan và còn kém xa mức
4.092-4.813 của Thuỵ Sĩ - quốc gia đứng đầu danh sách.

Xét số bằng sáng chế trên một triệu dân, Việt Nam đạt 1,24, trong khi Philippines
1,35, Indonesia 1,67, Thái Lan 3,16, Malaysia 30.

21
Vì vậy, để giảm tình trạng thất nghiệp Việt Nam trong thời gian tới cần triển
khai song song: tăng số lượng sinh viên theo học bậc đại học hoặc sau đại học
đồng thời phải nâng cao chất lượng đào tạo đại học hoặc sau đại học.

22
IV. Giải pháp
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp cận và áp dụng các khuyến nghị mới của
Tổ chức Lao động Quốc tế về lao động và việc làm. Tuy nhiên, với những nước
đang phát triển - nền kinh tế vẫn mang đậm dấu ấn nông nghiệp hoặc việc làm phi
chính thức chiếm thị phần đáng kể trong nền kinh tế hay mức sống của người dân
chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận
làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp
bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn
là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn. Vì vậy, để giải quyết rõ rệt tình
trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường hiện nay, cần:

- Về phía sinh viên:

Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình
trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của
ngành học. Học sinh, sinh viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam
mê, yêu thích của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các
giảng viên của nhà trường nên kết hợp cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp
trao đổi và định hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh viên, dựa trên việc
phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá nhân để đưa ra lời
khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt
nhất và phát huy được năng lực cao nhất.

Thứ hai, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng.
Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp
giữa sinh viên và nhà trường. Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể
thực hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn
mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình
đi kiến tập, thực tập. Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì
sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.

Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà
trường. Sự nghiêm khắc trong quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự
23
rèn luyện tính cách, kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ
giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường.

Thứ tư, sinh viên cần trau dồi những kỹ năng cần thiết trước khi bước chân vào thị
trường lao động. Trước sự "không chắc chắn" bao trùm lên mọi lĩnh vực, cấp độ
của nền kinh tế toàn cầu, mỗi cá nhân và cạnh tranh cao, Phó giáo sư Ngô Viết
Liêm, Đại học New South Wales, Sydney, Australia nhấn mạnh nếu không có
chuẩn bị năng lực, kỹ năng, con người sẽ dần bị thay thế bởi máy móc.

Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2020, các kỹ năng và nhóm kỹ
năng hàng đầu mà các nhà tuyển dụng thấy là nổi bật trong nhóm dẫn đầu đến năm
2025 là:

1. Tư duy phân tích và đổi mới

2. Học tập chủ động và chiến lược học tập


24
3. Giải quyết vấn đề phức tạp

4. Tư duy phản biện và phân tích

5. Khả năng phục hồi, khả năng chịu đựng căng thẳng và tính linh hoạt

6. Sáng tạo, độc đáo và chủ động

7. Lãnh đạo và ảnh hưởng xã hội

8. Lập luận, giải quyết vấn đề và hình thành ý tưởng

9. Trí tuệ cảm xúc

10. Thiết kế và lập trình công nghệ

- Về phía nhà trường:

Thứ nhất, phải thay đổi triết lý giáo dục đại học. Thực tiễn cho thấy, muốn “con
tàu” giáo dục tiến lên thì trước hết cần phải có một triết lý giáo dục phù hợp. Đó là
những nguyên lý nền tảng chỉ đạo toàn bộ việc xác lập mục tiêu, nội dung, phương
pháp thực hiện hoạt động giáo dục được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn.
Cần chuyển nền giáo dục lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu sang một nền
giáo dục dạy kỹ năng, dạy cách tự học, cách tư duy làm chủ yếu. Trong quy trình
dạy học đó, sinh viên đóng vai trò chủ động; giảng viên chỉ là người hướng dẫn,
định hướng cho sinh viên cách thu nhận kiến thức và hỗ trợ, giải đáp các thắc mắc
khi cần thiết. Đi theo sự đổi mới này là hàng loạt các thay đổi căn bản, từ chương
trình khung đến giáo trình và phương pháp giảng dạy... Nền giáo dục ngày nay là
nền giáo dục khai phóng nên giảng viên phải chuyển từ dạy tri thức sang dạy cách
học, dạy cách tư duy. Do đó, người thầy không nên “nhồi nhét” kiến thức, mà phải
trang bị cho người học thói quen “hoài nghi khoa học”, năng lực phản biện các tri
thức có sẵn và sáng tạo ra những tri thức mới. Cũng phải thay đổi một cách căn
bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại
học phải cam kết “chuẩn đầu ra” phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của xã hội, chứ
không phải “chuẩn đầu ra” do trường, cụ thể hơn nữa là do giáo viên tự xác định.
Để giáo dục đại học Việt Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì giáo dục đại học phải

25
gắn kết chặt chẽ hơn với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao
động.

Thứ hai, phải xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi, sinh viên giỏi để đào tạo kỹ năng
về tin học, kỹ năng ngoại ngữ, kỹ năng nghề thích ứng với các ngành nghề hiện
đại. Muốn đạt được yêu cầu này, cần cử một đội ngũ thanh niên ra nước ngoài
được đào tạo ở các đại học danh tiếng. Các đại học phải tự tuyển để có học sinh
giỏi vào học, chương trình, sách giáo khoa phải đổi mới tiếp cận với các đại học
hàng đầu quốc tế.

Thứ ba, Không phải tự chủ là “cây đũa thần” và “chìa khóa vạn năng” để phát
triển giáo dục đại học. Nguồn lực cho giáo dục đại học là hết sức quan trọng, theo
phân tích của nghiên cứu do nhóm tác giả Đặng Ứng Vận, Nguyễn Thị Huyền
Trang thực hiện, cho thấy số trường đại học top 500 toàn cầu của một quốc gia phụ
thuộc tuyến tính vào nguồn lực quốc gia thể hiện qua tổng sản phẩm quốc nội. Các
trường thí điểm tự chủ nếu không có những giải pháp huy động nguồn lực hiệu quả
từ các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ và chuyển giao, dịch vụ, các
nguồn lực khác huy động từ xã hội (như là các quỹ hiến tặng) v.v.. mà chỉ trông
chờ vào nguồn thu học phí thì không thể bứt phá về chất lượng được. Vì vậy, cần
có giải pháp đột phá khác nữa để có thể cộng hưởng với hai giải pháp đang triển
khai tạo nên một nhóm giải pháp tăng tốc cho chất lượng giáo dục đại học Việt
Nam.

- Về phía Nhà nước:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo
đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện
đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao
động, pháp lệnh đình công... Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số
lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những
điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.

Thứ hai, là đa dạng hóa các nguồn tài chính để các cơ sở đại học đủ khả năng thu
hút người tài trong và ngoài nước đến giảng dạy, biên soạn chương trình, giáo trình
26
hiện đại. Cần coi trọng công tác quốc tế để tạo thành sức mạnh của đại học.
Khuyến khích các đại học danh tiếng có cơ sở đặt tại Việt Nam để thu hút con em
Việt Nam và nước ngoài đến học.

Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của
tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành
thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung
hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng
các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.

Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác
định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên
cơ sở nhu cầu của thị trường lao động, năng lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt
nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư nâng cao
điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn vị sử dụng lao động để xây
dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn
đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo yêu cầu của
thị trường lao động.

C. KẾT LUẬN

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, và xu thế hội nhập, dưới sự tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đang phát triển mạnh mẽ, thì vấn đề việc làm trong giới trẻ đang trở thành một vấn
đề quan trọng, với nhiều vấn đề đặt ra. Ở Việt Nam, những khó khăn trong tìm
kiếm cơ hội việc làm, đáp ứng nhu cầu nhà tuyển dụng của đối tượng sinh viên
mới ra trường đang là một trở lực, gây lãng phí nguồn nhân lực. Đồng thời, sinh
viên cũng cần cải thiện trình độ chuyên môn, các kĩ năng như kĩ năng giao tiếp, xử
lý tình huống, bởi vì trong xã hội hiện đại ngày nay, các nhà tuyển dụng luôn yêu
cầu khắt khe những kĩ năng mềm. Do đó, việc làm rõ thực trạng và đề xuất một số
giải pháp trong bài viết này về vấn đề việc làm của sinh viên sau khi ra trường là
27
cơ sở nhằm tạo ra động lực, môi trường thuận lợi để sử dụng và phát huy được vai
trò của nguồn nhân lực trẻ sau quá trình đào tạo. Vì vậy, để giảm tình trạng thất
nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới thì việc tăng số lượng sinh viên theo học và
tốt nghiệp bậc đại học và sau đại học là chưa thực sự thiết thực mà thay vào đó cần
phải triển khai những kế hoạch song song bao gồm: tăng số lượng sinh viên theo
học bậc đại học hoặc sau đại học đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] “ Tiêu chí nào nhiều trường đại học Việt Nam chưa đạt được nhất?,” 2018. [Trực
tuyến]. Available: https://vietnamnet.vn/tieu-chi-nao-nhieu-truong-dai-hoc-viet-nam-
chua-dat-duoc-nhat-471801.html.
[2] “90% of Vietnamese students lack soft skills,” 2022. [Trực tuyến]. Available:
https://daihocnguyentrai.edu.vn/90-sinh-vien-viet-nam-thieu-ky-nang-mem/.
[3] “4 KỸ NĂNG CẦN CÓ CỦA SINH VIÊN TRONG THỜI ĐẠI 4.0,” [Trực tuyến].
Available: https://tuyensinhvnuk.edu.vn/4-ky-nang-sinh-vien-thoi-dai-4-0/.
[4] “Về một nguy cơ của giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay,” [Trực tuyến].
Available: https://vanvn.vn/ve-mot-nguy-co-cua-giao-duc-dai-hoc-o-viet-nam-hien-
nay/.
[5] “Đại học Việt Nam đứng ở đâu trên thế giới?,” [Trực tuyến]. Available:
https://vnexpress.net/dai-hoc-viet-nam-dung-o-dau-tren-the-gioi-4498327.html.
[6] “Việt Nam đã vượt số lượng trường đại học theo mục tiêu đề ra,” [Trực tuyến].
Available: https://giaoduc.net.vn/viet-nam-da-vuot-so-luong-truong-dai-hoc-theo-
muc-tieu-de-ra-post193670.gd.
[7] “Cử nhân ở Malaysia đang thất nghiệp vì quá dư thừa?,” [Trực tuyến]. Available:
https://tuoitre.vn/cu-nhan-o-malaysia-dang-that-nghiep-vi-qua-du-thua-
20210517172136709.htm.
[8] “Báo cáo lao động việc làm Việt Nam năm 2020,” Tổng cục thống kê, 2021.
[9] “Báo cáo ngân hàng thế giới 2022,” Ngân hàng thế giới, 2022.

29

You might also like