You are on page 1of 4

VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

GIÁ TRỊ CỦA CÁC BẢN HƯƠNG ƯỚC Ở CÁC LÀNG, XÃ THÁI BÌNH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC, HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Trịnh Thị Hường, Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Ngày nhận bài: 20/08/2018; ngày sửa chữa: 25/08/2018; ngày duyệt đăng: 28/08/2018.
Abstrast: The village convention is a social normative document with general codes of conduct
agreed by the people which adjust the self-governing social relationships to preserving and
promoting the good traditions and customs of the community (village). Hence, the village
conventions are valuable documents to educate moral sense and good traditions for the people in
general and high school students in particular. This article discusses the values of the village
conventions in Thai Binh in awaness education and personality form for high school students in
the current context.
Keywords: convention value, personality education, student, Thai Binh Province.

1. Mở đầu Vào những năm cuối của thế kỉ XX, đặc biệt trong
“Hương ước” - hay còn gọi là “tục lệ”, “lệ làng” là gần hai thập niên đầu thế kỉ XXI, quá trình phát triển KT-
một bản quy ước thành văn có giá trị về mặt văn hóa, XH Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, diện mạo
truyền thống, gắn liền với lịch sử, trải qua bao biến cố, của đất nước nói chung, các vùng nông thôn, miền núi
thăng trầm cùng thời gian, hương ước đến nay vẫn còn nói riêng có nhiều khởi sắc, đời sống kinh tế vật chất
được lưu giữ và đóng vai trò rất quan trọng trong việc cũng như nhu cầu văn hóa của người dân không ngừng
bảo tồn, giữ gìn nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt được nâng lên. Trong quá trình phát triển với xu thế “đô
Nam. Các bản hương ước của cộng đồng làng xã ở Việt thị hóa” diễn ra hết sức nhanh chóng, sự dịch chuyển lao
Nam chứa đựng những phong tục, tập quán, quy tắc ứng động từ nông thôn ra thành phố ngày càng nhiều đã dẫn
xử trong việc thờ cúng Thành Hoàng làng, người có công đến một thực trạng ở nông thôn chủ yếu là người già và
lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất trẻ nhỏ, nên phạm vi tác động của hương ước mới đến
nước, cũng như việc thờ cúng tổ tiên, quan hệ gia đình, cộng đồng bị thu hẹp lại, mặt khác, nhiều phong tục, tập
quan hệ làng xóm, ma chay, cưới hỏi, quan hệ lao động, quán bị thay đổi, mai một, hoặc thất truyền.
phân xử tranh chấp trong làng, xã... và một phần quan Trước tình hình đó, yêu cầu thực tế đặt ra là cần tăng
trọng liên quan đến phân chia, quản lí đất đai, đặc biệt là cường hơn nữa việc xây dựng và thực hiện hương ước,
đất đai hương hỏa. Những nội dung quy định trong quy ước, cũng như điều chỉnh, bổ sung một số nội dung
hương ước được xây dựng vào đầu thế kỉ XX nhằm điều trong các bản hương ước, quy ước trong cộng đồng.
chỉnh các quan hệ xã hội căn bản phát sinh trong đời sống Ngày 19/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số
nông thôn Việt Nam truyền thống. Do vậy, các bản 24/1998/CT-TTg về việc xây dựng và thực hiện hương
hương ước trong cộng đồng làng, xã Việt Nam nói ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, trong
chung, ở tỉnh Thái Bình nói riêng được coi như “thước đó chỉ thị nhấn mạnh: “Trong những năm gần đây, cùng
đo chuẩn mực” giúp mỗi cá nhân tự “soi” lại những hành với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống
vi ứng xử, việc làm của mình với người thân, với cộng pháp luật phục vụ cho yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí
đồng làng xã, với toàn xã hội. Hương ước có tác dụng to xã hội bằng pháp luật, các hương ước, quy ước của làng,
lớn trong việc giáo dục tư cách đạo đức cho mỗi cá nhân, bản, thôn, ấp, cụm dân cư đã góp phần hỗ trợ không nhỏ
giáo dục cộng đồng, sống và làm việc theo hiến pháp, trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, điều chỉnh
pháp luật, giáo dục lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng
hương đất nước. Dưới thời kì thống trị của thực dân pháp, dân cư ở cơ sở. Hiện nay, thực hiện chủ trương mở rộng
các bản Hương ước là một trong những nhân tố “đề dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
kháng” của làng, xã chống lại chính sách đồng hóa của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, nhiều địa phương trong cả
chủ nghĩa thực dân, mặc dù đất nước bị xâm lược, nước nước đã và đang xây dựng và hoàn thiện hương ước, quy
mất nhưng làng xã không mất, những phong tục, tập ước làng văn hóa trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực
quán, những giá trị văn hóa truyền thống vẫn được gìn của hương ước cũ, phù hợp với quy định của pháp luật
giữ và bảo tồn. hiện hành. Tại nhiều địa phương, hương ước, quy ước

58 Email: tranthihuongbg78@gmail.com
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

mới không những góp phần phát huy thuần phong mĩ tục, khuyến khích con em nhân dân tích cực học tập để mở
đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống của mang văn minh cho làng xã; quy định về trách nhiệm của
dân tộc mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc người dân trong việc bảo vệ tài sản công, nhất là những
vận động duy trì an ninh trật tự, vệ sinh, môi trường, di sản văn hóa truyền thống như: đình, chùa, đền, miếu,
phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, những danh lam thắng cảnh, việc bảo vệ môi trường; quy
khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi định việc thực hiện thuần phong mĩ tục, phong tục, tập
phạm nhỏ trong nhân dân, xóa đói, giảm nghèo...”. quán như: các nghi thức hiếu, hỉ, tổ chức hội hè, tế lễ, thờ
Do đó, việc tìm hiểu, tuyên truyền, phổ biến nội dung cúng, thực hiện các mối quan hệ với người thân trong gia
các bản hương ước, góp phần giáo dục những nét đẹp văn đình, với cộng đồng làng xóm…
hóa truyền thống, hình thành nhân cách Việt Nam cho Như vậy về cơ bản, các bản hương ước ở Thái Bình
cộng đồng dân cư nói chung, cho các thế hệ HS nói riêng thời kì này vẫn bảo tồn được những mặt tích cực phù hợp
là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Tuy nhiên, do hạn với nét đặc trưng của văn hóa truyền thống, đó là: gìn giữ
chế về thời lượng, bài viết chỉ tập trung đề cập giá trị phát huy những thuần phong mĩ tục, đề cao các chuẩn mực
trong một số lĩnh vực của các bản hương ước ở Thái Bình đạo lí và đạo đức truyền thống của dân tộc, bảo vệ các di
vào đầu thế kỉ XX trong việc giáo dục ý thức, hình thành tích lịch sử, di sản văn hóa, duy trì an ninh, trật tự, vệ sinh,
nhân cách, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước cho môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
HS trên địa bàn Thái Bình trong bối cảnh hiện nay. khuyến khích học hành, giải quyết mâu thuẫn nhỏ trong
2. Nội dung cộng đồng làng xóm… Đây chính là những giá trị rất cơ
2.1. Sơ lược về hương ước ở Thái bình đầu thế kỉ XX bản của hương ước cần được tuyên truyền và phổ biến
rộng rãi đến mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt là các thế hệ HS
Theo sách “Hương ước Thái Bình” của tác giả Nguyễn
góp phần vào việc giáo dục ý thức tự tôn dân tộc, hình
Thanh biên soạn do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành
thành nhân cách Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
vào năm 2000 (tái bản năm 2016), cho biết năm 1992, Sở
Văn hóa Thông tin - Thể thao Thái Bình đã tiến hành sưu 2.2. Giá trị của các bản hương ước ở Thái Bình trong
tầm, sao chụp lại những bản hương ước cải lương (hương việc giáo dục ý thức, hình thành nhân cách cho học
ước có điều chỉnh, bổ sung với các bản hương ước cũ) của sinh trong bối cảnh hiện nay
các làng xã ở Thái Bình đã soạn thảo từ năm 1922 đến 2.2.1. Giáo dục học sinh ý thức sống, làm việc theo hiến
1944 hiện còn lưu trữ bản gốc tại kho hương ước của Viện pháp, pháp luật
Thông tin Khoa học xã hội (KHXH) thuộc Trung tâm Hương ước, quy ước là một loại văn bản quy phạm,
KHXH và Nhân văn quốc gia (nay là Viện Hàn lâm chứa đựng những nguyên tắc bắt buộc hoặc cho phép cá
KHXH Việt Nam) cho thấy: trước Cách mạng tháng Tám nhân, tổ chức được làm hoặc không được làm một việc gì
1945, Thái Bình có 810 làng (con số này có lúc dãn ra là đó trong cuộc sống hằng ngày tại địa phương, đó là các
820 làng, có lúc co lại là 802 làng) với số làng xã có hương quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư thỏa thuận đặt ra và
ước là 451 làng, xã. Trong đó: hương ước của xã là 218 cùng nhau thực hiện. Do đó, cùng với hệ thống pháp luật
bản; hương ước của làng là 187 bản; hương ước của thôn hiện hành của nhà nước, các bản hương ước (trong đó có
là 45 bản; hương ước của phố huyện là 01 bản. Trong các hương ước xưa và hương ước mới hiện nay được tái lập)
bản hương ước này, chỉ có duy nhất bản hương ước của xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục ý thức
Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền Hải (nay là xã Tây người dân nói chung, các thế hệ HS nói riêng sống, làm
Ninh, huyện Tiền Hải) được in typo vào năm 1924, các việc theo hiến pháp, pháp luật. Trên thực tế, hương ước,
bản còn lại đều viết tay và có đầy đủ chữ kí của các kì hào, quy ước được xây dựng chủ yếu để điều chỉnh các quan
lí dịch, hội đồng tộc biểu và chữ kí, con dấu của lí trưởng, hệ tự quản tại cộng đồng dân cư, những quan hệ trong lĩnh
tổng, huyện, phủ, tỉnh, có bản ghi bằng chữ Quốc ngữ, có vực xã hội - dân sự mà pháp luật không điều chỉnh hoặc
bản ghi bằng chữ Hán. chỉ điều chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung
Mỗi làng, xã lại có những điều kiện, đặc điểm khác như: việc tổ chức ma chay, cưới xin, bảo vệ trật tự trị an,
nhau, do đó, các bản hương ước cũng có sự khác nhau, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ gìn và phát
“mỗi làng mỗi vẻ” cả về nội dung, bố cục, hình thức trình huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các
bày. Song nội dung cơ bản mà các bản hương ước đều đề tranh chấp hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân.
cập đó là những quy định về trách nhiệm của người dân Như vậy, hương ước là một công cụ quan trọng góp
đối với nhà nước bảo hộ, với làng xã (nghĩa vụ nộp thuế); phần quản lí xã hội trong phạm vi làng, xã Việt Nam từ
quy định việc sử dụng đất đai, khuyến nông, phát triển nhiều thế kỉ qua, trong chế độ phong kiến, hương ước tồn
sản xuất, đặc biệt là phát triển sản xuất nông nghiệp; quy tại song song với pháp luật của Nhà nước phong kiến
định về việc giữ gìn trật tự an ninh xóm làng; động viên, Việt Nam, góp phần giữ gìn bản sắc và phong tục tập

59
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

quán của dân tộc. Khi nói đến hương ước, quy ước là đề tháng từ một đến ba quan làm phí giấy bút cho người đi
cập đến một thành tố quan trọng trong thể chế quản lí học ở xã. Những làng có truyền thống khoa bảng thường
nông thôn, đề cao tính tự quản, tự trị của làng, xã, là một hay tổ chức khảo hạch sĩ tử trước kì thi hương… qua đó,
nét văn hóa quản lí truyền thống có tính phổ biến. họ được ôn luyện thử sức trước mùa thi.
Trong lời nói đầu của Hương ước làng Hiệp Trung - Hương ước làng Đại Hữu (nay thuộc xã Tây Ninh
tổng Cát Đàm - phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy huyện Tiền Hải) có ghi: “nghĩa vụ của cha mẹ phải cho
- Thái Bình) được soạn thảo vào năm 1937 ghi: “có nước con cái đi học, ai có con từ 8 tuổi trở lên phải cho con đi
phải có làng, làng nhiều mới thành nước, nước có luật lệ, học… người nào nghèo túng quá mà hiếu học làng sẽ cấp
thời chính trị mới hay, làng có khoán ước thì phong tục giấy bút cho. Ai có con đến tuổi ấy không cho con đi học
mới tốt, đất lề, quê thói lệnh vua phép làng nhẽ thường phải phạt một đồng trừ ra… trong làng ai chuyên cần việc
bao giờ cũng vậy… Nay thừa thượng lệnh sức làm hương học tập thì được miễn tạp dịch. Ai xuất dương du học
ước là mong dân ta đổi tục lệ xưa, theo thời thế mới giữ được miễn trừ tạp dịch và xuất sưu người ấy làng sẽ trích
vững được con đường phong hóa, gieo ra hạt giống văn công quỹ nộp cho, còn gia quyến người ấy ở nhà có sự
minh… chọn những điều hay, trừ những thói dở, châm gì làng phải hết lòng bênh vực” [2; tr 70].
chước cho hợp thời làm thành hương ước…” [2; tr 57]. Hương ước làng Tô Xuyên, huyện Phụ Dực (nay là
Trong các hương ước cũng quy định rõ ràng hình thức huyện Quỳnh Phụ) quy định: “trong thôn hương lí cần
xử phạt đối với những người mắc lỗi, điều 41 của hương phải khuyên bảo cho dân làng nhà ai có con phải cho đi
ước xã Duyên Mĩ, tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà học, vì trong làng có nhiều người học thì mới có văn
(nay là Hưng Hà - Thái bình) có ghi: “đàn bà, trẻ con minh tiến hóa được… nhà ai có con từ 8 tuổi phải cho
phạm lỗi gì xét ra người phạm lỗi ấy còn ở với cha thì con ra trường công học tập… cấm không được cho trẻ
cha phải chịu, mà còn ở với chồng thì chồng phải chịu, em lêu lổng” [2; tr 87]. Hương ước làng Long Mĩ, tổng
nếu không có cha, chồng thì chú bác phải chịu” [2; tr 61]. Thượng Tầm, phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy)
Như vậy, quy phạm trong hương ước là quy phạm xã nhấn mạnh: “việc học là việc rất cần thiết cho con người
hội do nhân dân xây dựng nên và nhân dân tự nguyện ta, vì có học thì trí khôn mới mở mang, kiến thức mới
thực hiện dựa trên những phong tục, tập quán của địa rộng rãi và mới biết được luân thường đạo lí đối đãi với
phương và hệ thống pháp luật của nhà nước. Do đó, xã hội và gia đình. Nước mà văn minh, thịnh vượng cũng
những nội dung trong các bản hương ước được tuyên do ở nền giáo dục phổ thông” [2; tr 87].
truyền sâu rộng tới mọi tầng lớp dân cư, các thế hệ HS là Do đó, quan niệm “nửa bụng chữ bằng một hũ vàng”
nhân tố rất thuận lợi để đưa pháp luật vào cuộc sống được thể hiện rõ nét trong các bản hương ước nếu được
người dân ở cơ sở. tuyên truyền, phổ biến rộng rãi sẽ có tác dụng rất thiết
2.2.2. Giáo dục tinh thần hiếu học, ý thức vượt khó để thực trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở các làng quê Thái
vươn lên trong học tập Bình nói riêng, các làng quê Việt Nam nói chung trong
Đây là nét đẹp truyền thống ở các làng xã cổ truyền việc nỗ lực vượt khó để vươn lên trong học tập.
Thái Bình nói riêng và Bắc Kỳ nói chung và luôn giữ một 2.2.3. Giáo dục ý thức bảo vệ các di sản văn hóa, giữ gìn
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc rèn luyện nhân và phát huy thuần phong, mĩ tục, thực hiện nếp sống văn
cách, duy trì bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Điều này được minh trong cộng đồng
thể hiện khá đậm nét trong quy ước của các bản hương Hương ước, quy ước được coi như một công cụ hỗ
ước làng, xã ở Thái Bình, hình thức khuyến học phổ biến trợ cho pháp luật để duy trì, phát triển thuần phong mĩ
ở các làng, xã là dành ruộng học điền để chăm lo sự học tục, đề cao các chuẩn mực đạo lí và đạo đức truyền thống
hành cho con em nhân dân. Nhiều làng, xã còn có hình trong sinh hoạt cộng đồng làng, xã, như: cách ứng xử,
thức trợ cấp giấy bút cho con em nhà nghèo theo học, xếp giao tiếp, ăn, ở, đi lại, phát triển các hoạt động văn hóa
ngôi thứ cho những người đỗ đạt, khen thưởng đối với lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng, nghĩa xóm,
những người có công nuôi dưỡng…, hương ước cũng đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau
quy định việc xây dựng trường học, mời thầy về dạy, bố trong cộng đồng dân cư, bảo vệ môi trường sống, sông,
mẹ là những người có trách nhiệm phải khuyên bảo cho hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, đình, miếu, các
con em đi học, đến trường. Ở một số làng còn đặt ra lệ nguồn nước, đê điều, phát triển đường làng, ngõ xóm,
khuyến học là hoãn việc đi lính cho những ai đang bận trồng cây xanh… cũng như các biện pháp bài trừ các hủ
việc học tập, những làng, xã đặt ruộng “học điền” dành tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi,
ra từ bốn, năm sào đến một mẫu lấy hoa lợi mời thầy giáo việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương; khuyến khích
dạy chữ hoặc tặng mỗi người đi học một sào ruộng để lấy những nghi lễ lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống lãng
hoa lợi ăn học, một số ít làng xã còn cấp tiền ăn học mỗi phí, tốn kém; phòng chống các tệ nạn xã hội như cờ bạc,

60
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 58-61

rượu, chè, trộm cắp, các hành vi vi phạm pháp luật khác thống trước đây bị mai một có điều kiện để khôi phục và
nhằm xây dựng địa bàn trong sạch. phát triển, các hoạt động lễ hội, tu sửa đình, chùa, đền,
Đề cập việc bảo vệ đường làng, ngõ xóm, Hương ước miếu, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, chăm sóc
làng Nội Trang, tổng Hà Lý, huyện Duyên Hà (nay là nghĩa trang liệt sĩ, giúp đỡ người già không nơi nương
huyện Hưng Hà) quy định: “đường công cấm ai được buộc tựa, gia đình nghèo neo đơn, trẻ em vùng sâu vùng xa, đã
trâu, bò và trồng cây trong vườn để thò lò cành lá ra ngoài trở thành một nét đẹp của văn hóa truyền thống, được
đường, cấm dịch dậu lấn đường, ruộng ở chân đường đông đảo mọi tầng lớp dân cư, nhất là thế hệ trẻ học sinh,
không được vạc xuống làm hỏng đường”. Để bảo vệ lợi sinh viên tham gia tích cực.
ích của cộng đồng dân cư, tăng cường tình đoàn kết tình Để làm tốt những việc làm có ý nghĩa nêu trên, việc
làng nghĩa xóm và giảm gánh nặng cho dân nghèo, Điều tăng cường tìm hiểu, tuyên truyền, phổ biến nội dung các
36, Chương 2, hương ước làng Hiệp Trung, tổng Cát Đàm, bản hương ước giúp thế hệ trẻ có thêm những hiểu biết về
phủ Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy) ghi rõ: “ngày hội dòng tộc, về cội nguồn, bồi dưỡng cho các em lòng tự hào
bổ sưu thuế, cấm không được bày ra ăn uống gì, tính bổ về truyền thống quê hương đất nước, qua đó hình thành
cho dân làng phải chịu nặng thêm”; hay quy định về việc nhân cách Việt Nam cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện nay
tang lễ, Điều 133 ghi: “Việc tang hiếu là cốt ở sự buồn rầu, là một việc làm cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực
thương xót, nếu chỉ chăm ở sự sửa soạn chè chén khoản hiện, các nhà trường, các thầy cô giáo (đặc biệt là giáo viên
đãi tân khách để trả nợ miệng lẫn nhau thì thật là trái lễ. bộ môn Lịch sử), các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội địa
Nay định những nhà có việc tang hiếu không được giết phương cần nghiên cứu kĩ nội dung, đối tượng, để có các
trâu bò lợn bày ra ăn uống trước, nếu có người thân tình ở giải pháp phổ biến, tuyên truyền giá trị của các bản hương
xa đến phúng chỉ được dùng cơm thường khoản đãi” [2; tr ước đến mọi tầng lớp dân cư, nhất là với thế hệ trẻ một
60]. Mặc dù được soạn thảo trong những năm đầu thế kỉ cách phù hợp để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất.
XX khi nước ta còn đang trong chế độ cai trị của thực dân
Pháp, nhưng nhìn chung nội dung các bản hương ước vẫn Tài liệu tham khảo
đảm bảo được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
[1] Thủ tướng Chính phủ (1998). Chỉ thị số
tộc “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá
24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 về việc xây dựng
rách” thể hiện tinh thần đoàn kết, đùm bọc chia sẻ cùng
và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản,
nhau trong cộng đồng làng xã.
thôn, ấp, cụm dân cư.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách [2] Nguyễn Thanh (2000). Hương ước Thái Bình. NXB
mạnh mẽ và quyết liệt, với quá trình hội nhập quốc tế Văn hóa dân tộc.
ngày càng sâu rộng, sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa [3] Thủ tướng Chính phủ (2018). Quyết định số
giữa các quốc gia, dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ 22/2018/QĐ-TTg ngày 8/5/2018 về việc xây dựng,
với sự đan xen của nhiều luồng văn hóa khác nhau, việc thực hiện hương ước, quy ước.
giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống càng [4] Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa Thông tin - Ban thường
được đặt ra một cách cấp bách. Do đó, mỗi quốc gia, dân trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tộc cần phải có những giải pháp hữu hiệu để vừa tiếp thu (2000). Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-
những giá trị văn minh của nhân loại, đồng thời vừa bảo BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000.
vệ những đặc trưng văn hóa truyền thống. Trong bối cảnh [5] Vũ Duy Mền (2010). Hương ước cổ làng xã Đồng
đó, hương ước làng xã là một công cụ quan trọng để lưu bằng Bắc Bộ. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đa dạng [6] Đinh Khắc Thuân (chủ biên, 2006). Tục lệ cổ truyền
tại các vùng miền, nó như một “tấm lá chắn” thanh lọc làng xã Việt Nam. NXB Khoa học xã hội.
những yếu tố ngoại lai không phù hợp. [7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007). Đại Nam thực
3. Kết luận lục (tập 8), bản dịch. NXB Giáo dục.
Những năm gần đây, trong quá trình đổi mới, cơ cấu [8] Hương ước xã Hưng Quan, tổng Cát Đàm, phủ Thái
KT-XH cũng như cảnh quan ở khu vực nông thôn đã có Ninh, tỉnh Thái Bình. Thư viện Viện Thông tin Khoa
nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất của người học xã hội, Kí hiệu HU 3091.
dân không ngừng được nâng lên, hình thức sinh hoạt văn [9] Hương ước thôn Đàm, xã Tô Xuyên, tổng Tô
hóa cũng có những thay đổi để phù hợp với cuộc sống, Xuyên, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Thư viện
cơ chế xã hội mới. Đặc biệt, khi Đảng và nhà nước ta có Viện Thông tin Khoa học xã hội, Kí hiệu HU 3054.
chủ trương đẩy mạnh công cuộc chấn hưng nền văn hóa [10] Hương ước xã Đại Hữu, tổng Tân Định, huyện Tiền
dân tộc, mỗi làng xã, mỗi dòng tộc càng ý thức rõ hơn Hải, tỉnh Thái Bình. Kí hiệu: HU 3204, Thư viện
tâm lí “tìm về cội nguồn”, các giá trị văn hóa truyền Viện Thông tin Khoa học xã hội.

61

You might also like