You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI THUYẾT TRÌNH

Chủ đề: Nghiên cứu về hiệp định TPP và CPTPP

Lớp tín chỉ: TMKQ1123(122)_12-Kinh tế quốc tế


GV hướng dẫn: Ths. Trần Hoàng Hà

Nhóm thực hiện: Nhóm 4


Nguyễn Cao Toàn 11203941
Phan Nguyễn Thảo Anh 11200351
Phan Thu Thảo 11217479
Hoàng Vũ 11208490
Nguyễn Cao Thuý Nga 11202711
Châu Thị Phương Linh 11213066

Hà Nội, 2022
MỤC LỤC

I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ TPP VÀ CPTPP 3


1. Sự hình thành của CPTPP và quá trình gia nhập của Việt Nam 3
1.1. Sự hình thành CPTPP 3
1.2. Sự khác biệt của CPTPP và TPP 4
1.3. Quá trình gia nhập Hiệp định của Việt Nam 5
1.4. Một số nội dung chính của CPTPP 5

II. TÌNH HÌNH THỰC THI CPTPP Ở VIỆT NAM 7


1. Tình hình về triển khai Kế hoạch của Chính phủ 7
2. Tình hình chung về kết quả hoạt động 8
1.1. Kết quả hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước CPTPP 8
1.2. Kết quả thu hút đầu tư nước ngoài từ đối tác CPTPP vào Việt Nam 11
3. Tình hình thực thi CPTPP ở ngành hàng dệt may của Việt Nam 12
2.1. Đánh giá chung 12
2.2. Ảnh hưởng của hiệp định CPTPP đến ngành dệt may 13
4. Đánh giá ảnh hưởng của CPTPP tới Việt Nam trong những năm đầu thực
thi hiệp định 14

III. ĐÁNH GIÁ THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
THI CPTPP Ở VIỆT NAM 14
1. Thành công trong quá trình thực thi CPTPP ở Việt Nam 14
2. Hạn chế trong quá trình thực thi CPTPP ở Việt Nam 16

IV. ĐỊNH HƯỚNG CỦA VN ĐỂ TẬN DỤNG HIỆU QUẢ CPTPP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ 19
1. Đề xuất chính sách chính phủ nên áp dụng để tận dụng hiệu quả CPTPP 19
2. Định hướng 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO 23


I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ TPP VÀ CPTPP
1. Sự hình thành của CPTPP và quá trình gia nhập của Việt Nam

1.1. Sự hình thành CPTPP


Tiền thân của Hiệp định CPTPP là Hiệp định TPP (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement) - một thỏa thuận thương mại tự do (FTA) giữa 4
quốc gia là Brunei, Chile, New Zealand, Singapore được ký kết vào cuối năm 2005,
chính vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4.
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề nghị
không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định
hoàn toàn mới nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là Việt Nam,
Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên thành 12.
Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Bộ trưởng của 12 nước tham gia Hiệp định TPP
đã tham dự Lễ ký để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, New Zealand.
Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 01 năm 2017, Hoa Kỳ đã chính thức tuyên bố rút
khỏi Hiệp định TPP. Trước sự kiện này, các nước TPP còn lại đã tích cực nghiên cứu,
trao đổi nhằm thống nhất được hướng xử lý đối với Hiệp định TPP trong bối cảnh
mới. Tháng 11 năm này, tại Đà Nẵng, Việt Nam, 11 nước còn lại đã thống nhất đổi tên
Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP. Hiệp định này với những nội dung cốt lõi của
một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Thuật ngữ “Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới” được sử dụng để
chỉ các FTA với những cam kết sâu rộng và toàn diện, bao hàm những cam kết về tự
do thương mại hàng hóa và dịch vụ như các “FTA truyền thống”; mức độ cam kết sâu
nhất (cắt giảm thuế gần như về 0%, có thể có lộ trình); có cơ chế thực thi chặt chẽ và
hơn thế, nó bao hàm cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như: Lao động,
môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, cơ chế giải
quyết tranh chấp về đầu tư…
Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định
CPTPP đã chính thức ký kết Hiệp định CPTPP tại thành phố Santiago, Chile và
CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018.
1.2. Sự khác biệt của CPTPP và TPP

Ảnh 1: Điểm khác biệt giữa TPP và CPTPP (Nguồn: infographics.vn)


Thứ nhất, Hiệp định CPTPP mới lần này đã bổ sung 2 từ "Toàn diện"
(Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive) vào tên gọi chính thức. Vấn đề tên gọi đã
được 11 quốc gia bàn luận nhiều lần trong các vòng đàm phán. Sự bổ sung này đã thể
hiện tính đồng thuận cao trong nội bộ các nước tham gia đàm phán, khẳng định tầm
vóc, chất lượng và ý nghĩa của CPTPP – một hiệp định có tính tiêu chuẩn cao, toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực.
"Đây là hiệp định rất toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực không chỉ về thương
mại mà còn đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác. Về bản chất là cao
hơn, tiến bộ hơn so với các hiệp định đã được ký kết trước đây", Bộ trưởng Tái thiết
kinh tế Nhật Bản Toshimitsu Motegi cho biết.

Thứ hai, về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP
(gồm 30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20
nhóm nghĩa vụ, chủ yếu là các cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia
đề xuất trước đây, để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước
thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa vụ tạm
hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên
quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7
Chương là Quản lý hải quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch
vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và
Chống tham nhũng. Tuy nhiên, toàn bộ các cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp
định TPP vẫn được giữ nguyên trong Hiệp định CPTPP.

Thứ ba, sự rời đi của Hoa Kỳ cũng đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới quy mô
của Hiệp định này. Trước đây, Hiệp định TPP chiếm 40% GDP, 30% thương mại toàn
cầu và có 800 triệu dân nhưng hiện nay, Hiệp định CPTPP chỉ chiếm khoảng 15%
GDP, 15% tổng thương mại toàn cầu và 500 triệu dân.

Thứ tư, với tình huống Mỹ, quốc gia chiếm tới 60% GDP toàn khối, rút lui
khỏi TPP, 11 nước còn lại sẽ phải thay đổi điều khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt
đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc gia thành viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có
hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký thay vì yêu cầu ít nhất 6 nước đóng góp ít nhất
85% GDP trong khối phê chuẩn thì mới được tính là có hiệu lực.

1.3. Quá trình gia nhập Hiệp định của Việt Nam
Năm 2009, Việt Nam tham gia TPP với tư cách là quan sát viên đặc biệt. Sau 3
phiên đàm phán, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định này nhân Hội nghị Cấp cao
APEC tổ chức ngày 13-14/11/2010 tại thành phố Yokohama (Nhật Bản).
Sau sự rời đi của Hoa Kỳ và việc đổi từ TPP thành CPTPP vào 30/12/2018 với
6 nước đã đủ điều kiện. Còn với Việt Nam đến ngày 14/1/2019, chúng ta mới chính
thức hoàn tất thủ tục và điều kiện để đưa Hiệp định chính thức có hiệu lực. Tính đến
nay Việt Nam đã khai thác các ưu thế và tuân thủ thực hiện các quy định của CPTPP
được gần 3 năm và vẫn đang không ngừng thay đổi, hoàn thiện mình để thích nghi với
các điều khoản cam kết trong khuôn khổ Hiệp định.
1.4. Một số nội dung chính của CPTPP
a. Cam kết về cắt giảm thuế quan:
Các thành viên CPTPP đều cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần như
toàn bộ biểu thuế quan nhập khẩu của nước mình.
Theo nội dung của Hiệp định, các cam kết về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan
nhập khẩu trong CPTPP được chia làm ba nhóm chính:
+ Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực
+ Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình (các dòng thuế nhập khẩu sẽ được
đưa về 0% sau một khoảng thời gian nhất định, phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên
trong một số trường hợp, lộ trình có thể là trên 10 năm, thậm chí 20 năm)
+ Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan

b. Cam kết về dịch vụ và đầu tư:


Đối với lĩnh vực dịch vụ - đầu tư, các nước CPTPP áp dụng cách tiếp cận chọn
- bỏ và cơ chế “không đi lùi” (Nguyên tắc Ratchet). Nguyên tắc Ratchet được hiểu là
các nước có quyền đơn phương sửa đổi các nội dung đã được bảo lưu trong “Danh
mục các biện pháp bảo lưu không tương thích với nghĩa vụ chính của chương Dịch vụ
và chương Đầu tư” (gọi tắt là Danh mục NCM) theo hướng thuận lợi hơn nhưng khi
đã sửa đổi rồi thì không được quyền rút lại nội dung đã được sửa đổi đó.
Theo đó, các nước được quyền đưa ra các biện pháp bảo lưu trái với 4 nghĩa vụ
chính của chương Dịch vụ (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường,
và Hiện diện tại nước sở tại) và 4 nghĩa vụ chính của Chương Đầu tư (Đối xử quốc
gia, Đối xử tối huệ quốc, Yêu cầu thực hiện, và Quản lý nhân sự cấp cao và ban giám
đốc). Mọi biện pháp quản lý, nếu không có yếu tố phân biệt đối xử, đều được phép
duy trì mà không cần phải bảo lưu trong Hiệp định.

c. Cam kết về mua sắm của Chính phủ:


Các nước thống nhất một bộ quy tắc khá toàn diện về đấu thầu mua sắm của
các cơ quan Chính phủ. Các quy tắc này chủ yếu là:
(i) Về cơ bản, sẽ sử dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi để lựa chọn nhà
thầu từ các nước CPTPP
(ii) Không áp dụng các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên đối với nhà thầu
cũng như hàng hóa và dịch vụ nội địa (Việt Nam bảo lưu lộ trình chuyển đổi 25 năm
đối với quy tắc này);
(iii) Minh bạch thông tin và thủ tục tại tất cả các khâu, đồng thời có quy định
để bảo đảm liêm chính trong quá trình đấu thầu và xây dựng quy trình xem xét khiếu
nại của nhà thầu.
Đồng thời, các nước đều có Biểu cam kết mở cửa thị trường mua sắm Chính
phủ quyết định phạm vi mở cửa của từng nước về diện cơ quan, phạm vi hàng hóa
dịch vụ và ngưỡng giá trị đấu thầu.
d. Cam kết về Lao động:
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ
khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) mà tất cả các nước thành viên CPTPP đều có nghĩa vụ
tôn trọng, thúc đẩy và thực thi với tư cách thành viên ILO.
(1) Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người
sử dụng lao động
(2) Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc
(3) Cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất
(4) Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp
Trong đó, tất cả các nước tham gia Hiệp định CPTPP phải tôn trọng và bảo
đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao
động tại cơ sở doanh nghiệp. Tuy nhiên, Hiệp định CPTPP cũng như quy định của
ILO đều khẳng định tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật của nước sở tại và theo các tiêu chuẩn của ILO.

e. Cam kết về sở hữu trí tuệ:


Hiệp định CPTPP khẳng định lại rõ ràng các nguyên tắc quan trọng của Hiệp
định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ của WTO), như mục tiêu bảo hộ nhằm tạo ra và phổ biến công nghệ, quyền bảo
vệ lợi ích sống còn về sức khỏe và dinh dưỡng của nhân dân, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh Tuyên bố Doha về Hiệp định TRIPS và sức khỏe cộng đồng, cân bằng lợi ích
giữa chủ sở hữu trí tuệ và công chúng, chống lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ, quyền tự
do định đoạt chính sách về nhập khẩu song song.

f. Cam kết về Doanh nghiệp Nhà nước:


Các nghĩa vụ chính theo Hiệp định bao gồm:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường
+ Các doanh nghiệp Nhà nước không được có hành vi phản cạnh tranh khi có
vị trí độc quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư
+ Minh bạch hóa một số thông tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, báo cáo tài
chính đã được kiểm toán và được phép công bố
+ Nhà nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nước
khác.
II. TÌNH HÌNH THỰC THI CPTPP Ở VIỆT NAM
1. Tình hình về triển khai Kế hoạch của Chính phủ

- Tính đến nay, tất cả các Bộ, ngành và địa phương đã ban hành Kế hoạch thực
hiện CPTPP
- Về công tác thông tin, tuyên truyền về Hiệp định CPTPP: Đã có trang web
chính thức về CPTPP của Bộ Công Thương( giúp cung cấp thông tin chính xác,
cần thiết về CPTPP và các câu hỏi thường gặp cho người dân và doanh nghiệp
tham khảo), Chính phủ cũng thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo kết hợp
đào tạo chuyên sâu theo từng nội dung, lĩnh vực cụ thể có trong CPTPP.
- Về công tác sửa đổi pháp luật để phù hợp với CPTPP, Chính phủ và các bộ
ngành đã ban hành nhiều Nghị định về biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
các Thông tư về quy tắc xuất xứ hàng hóa,... liên quan đến các quy định có
trong CPTPP.
- Về công tác hỗ trợ doanh nghiệp thực thi CPTPP, kế hoạch của Bộ Công
Thương: xây dựng các chương trình phát triển thị trường cho các mặt hàng xuất
khẩu có tiềm năng và lợi thế của Việt Nam vào các nước CPTPP. Kế hoạch của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: xây dựng các chương trình nâng cao
năng lực cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu cho hàng
hóa nông, lâm, ngư nghiệp, rà soát và bổ sung cơ chế chính sách hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Kế hoạch của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư: xây dựng các gói hỗ trợ doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ để tận dụng cơ
hội từ CPTPP.
2. Kết quả hoạt động

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được kỳ
vọng không chỉ thúc đẩy thương mại, giúp các nền kinh tế tham gia hội tụ trong một
mô hình kinh tế gắn kết để tạo ra môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, mà còn
xóa bỏ các rào cản phi thuế quan và tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Đối với Việt
Nam, Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 14/01/2019, đến nay, sau 2
năm thực thi đã bước đầu mang lại những hiệu quả tốt, tuy nhiên vẫn chưa được như
kỳ vọng do một số các yếu tố khách quan và chủ quan. Lý do:

● Năm 2019 - năm đầu tiên hiệp định CPTPP được thực thi, hoạt động thương
mại quốc tế bị ảnh hưởng đáng kể bởi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, các
xung đột thương mại ở nhiều khu vực trên thế giới, sự suy giảm tương ứng của
nhiều nền kinh tế… dẫn đến tác động của CPTPP đối với doanh nghiệp và nền
kinh tế không được như kỳ vọng.
● Năm 2020-nay đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng ở quy mô toàn cầu,
hoạt động thương mại bị xáo trộn rất mạnh dẫn đến kết quả thương mại giữa
Việt Nam với đối tác CPTPP bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.1. Kết quả hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước CPTPP

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP đạt 39,5 tỷ USD, tăng
7,2% so với năm 2018. Kim ngạch nhập khẩu sang các nước này đạt 37,9 tỷ USD,
tăng 0,7% so với năm trước. Như vậy, trong năm 2019 Việt Nam đã xuất siêu sang các
nước CPTPP 1,6 tỷ USD, tăng 56% so với mức thặng dư năm 2018
● Về xuất khẩu, nhập khẩu tất cả các thị trường trong CPTPP đều ghi nhận mức
tăng trưởng dương. Trung bình chung xuất khẩu sang các nước CPTPP năm
2019 tăng 7,2% so với 2018. Đây là mức thấp hơn mức tăng trưởng xuất khẩu
trung bình của Việt Nam năm 2019 (8,4%). Trong đó:

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các đối tác CPTPP 2018-2019

Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác CPTPP 2018-2019
○ Ở các thị trường mới của Việt Nam trong CPTPP (Canada, Mexico và Peru),
tỷ lệ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm đầu tiên là rất ấn tượng, trong
khoảng từ 26%-36%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam với các đối
tác mới trong CPTPP trong thời gian sau khi có CPTPP là tương đối ổn. Tuy
nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng này một phần cũng nhờ vào tình hình thị
trường và kinh tế thế giới nói chung chứ không phải hoàn toàn nhờ vào
CPTPP.
○ Ở các thị trường khác, tác động của CPTPP trong năm đầu tiên là tương đối ít
bởi trên thực tế, các thị trường này đều đã có một hoặc nhiều FTA với Việt
Nam, do đó CPTPP chỉ tạo thêm một lựa chọn ưu tiên cho các doanh nghiệp
xuất khẩu khi tiếp cận các thị trường này. Trong khi đó, với một số mặt hàng,
quy tắc xuất xứ của CPTPP chặt chẽ hơn so với các FTA đã có, vì vậy khả
năng đáp ứng điều kiện của CPTPP để hưởng ưu đãi thuế quan CPTPP cũng
hạn chế hơn. Ngoài ra, do mới có hiệu lực, nhiều dòng thuế trong hiệp định
CPTPP chưa đạt được mức độ ưu đãi như trong các FTA vốn đã có hiệu lực từ
lâu trước đó và đã đi gần hết lộ trình thực thi.
=> Như vậy, CPTPP đang cho kết quả ban đầu rất tích cực giúp mở đường cho hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam tiến vào nhiều thị trường hơn với nhiều ưu đãi, đặc biệt là
thị trường châu Mỹ, một khu vực còn mới mẻ và rất nhiều tiềm năng cho Việt Nam.
- Số liệu xuất, nhập khẩu năm 2020-2021
Đến năm 2020, dưới tác động của Covid-19, kim ngạch xuất khẩu giảm nhẹ, đạt 38,75
tỷ USD, nhưng bước sang năm 2021 đã lấy lại đà tăng trưởng, đóng góp đáng kể vào
kết quả xuất khẩu hơn 336,3 tỷ USD của cả nước, cho thấy nỗ lực vượt khó khăn của
doanh nghiệp Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ Công Thương tổng hợp, tổng kim ngạch thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và thị trường CPTPP tính chung 7 tháng đầu năm 2021 đạt 52 tỷ USD,
tăng 23,36% so với cùng kỳ năm 2020 và bằng 13,86% tổng kim ngạch thương mại
hai chiều của cả nước.
● Về xuất khẩu
+ Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trường các nước thành viên CPTPP trong 7 tháng đầu năm 2021 đạt 26,04 tỷ
USD, tăng 22,52% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 13,98% tổng trị giá xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam, bị thu hẹp so với tỷ trọng 14,40% trong 7 tháng
đầu năm 2020.
+ 7 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang 8/10 thị trường
thành viên CPTPP tăng trưởng mạnh, riêng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
tăng chậm và giảm xuất khẩu sang thị trường Brunei.
Từ bảng số liệu trên cho thấy:
+ Trong tháng 7/2021, xuất khẩu một số mặt hàng như máy móc thiết bị phụ
tùng, điện thoại và linh kiện… của Việt Nam sang thị trường CPTPP tăng
trưởng mạnh so với tháng 6/2021 và tháng 7/2020. Tuy nhiên, xuất khẩu một số
mặt hàng như dệt may, máy vi tính và linh kiện, giày dép,… lại giảm.
+ Trong 7 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu hầu hết các mặt hàng của Việt Nam
sang thị trường CPTPP đều tăng trưởng ở mức cao trừ một số mặt hàng tăng
chậm như dệt may hay một số mặt hàng giảm như giảm như dầu thô, túi xách
vali ô dù, gạo, thức ăn gia súc… Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
giảm này đều chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang thị trường CPTPP.
+ Đáng chú ý, xuất khẩu dệt may chỉ tăng 2,6%, do đó tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu dệt may của Việt Nam sang CPTPP đã bị thu hẹp mạnh từ 13,04% của 7
tháng năm 2020 xuống còn 10,92% trong 7 tháng đầu năm 2021.
● Về nhập khẩu
+ Theo số liệu thống kê, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường các
nước thành viên CPTPP trong 7 tháng đầu năm 2021 đạt 25,96 tỷ USD, tăng
24,21% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 13,75% tổng trị giá nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam, bị thu hẹp so với tỷ trọng 15,04% của cùng kỳ năm 2020.
+ Trong 7 tháng đầu năm 2021, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường
CPTPP đều tăng ở hầu hết các mặt hàng trừ những mặt hàng than đá, thủy tinh
và sản phẩm thủy tinh, dược phẩm, sản phẩm từ giấy… Đáng chú ý, trong số
các mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất, nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng của
Việt Nam từ thị trường CPTPP chỉ tăng nhẹ 1,82%. Do đó, tỷ trọng nhập khẩu
mặt hàng này đã biến động khá lớn trong 7 tháng đầu năm 2021 chỉ còn
13,49%, thu hẹp so với tỷ trọng 16,46% trong 7 tháng đầu năm 2020.
● Về tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan, tỷ lệ tận dụng ưu đãi CPTPP nói chung còn
rất thấp (cụ thể sẽ được trình bày ở phần sau), tuy nhiên trong bối cảnh quy tắc
xuất xứ CPTPP đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất
chặt chẽ, và lộ trình cắt giảm thuế quan mới chỉ ở giai đoạn đầu tiên, việc đạt
được tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan tương đối ở các thị trường mới cho thấy
lợi ích từ Hiệp định này đối với thương mại hàng hóa trong CPTPP của Việt
Nam cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng.

Bảng 2 : Tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan theo các FTA của Việt Nam giai đoạn
2010-2019

1.2. Kết quả thu hút đầu tư nước ngoài từ đối tác CPTPP vào Việt Nam
Kết quả năm đầu thực thi CPTPP không mấy khả quan. Năm 2019, Việt Nam thu hút
xấp xỉ 9,5 tỷ USD vốn đầu tư từ các nước CPTPP, giảm gần 36% so với năm 2018.
Trong đó:
- Vốn đăng ký cấp mới khoảng 4,05 tỷ USD, giảm 51,3% so với năm 2018
- Vốn đăng ký tăng thêm là hơn 1,6 tỷ USD, giảm 50,6% so với năm 2018
- Giá trị góp vốn mua cổ phần đạt 4,4 tỷ USD, tăng 36,5% USD so với năm
2018.
Tuy nhiên, dù tổng số vốn đăng ký giảm nhưng số dự án cấp mới lại tăng mạnh hơn
13% so với năm 2018. Lý do của hiện tượng này là do quy mô trung bình các dự án
FDI mới từ các nước CPTPP giảm mạnh trong năm 2019 ( khoảng 56,9%) so với
trước đó. Xét theo từng đối tác, đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào Việt Nam có mức
giảm sâu nhất về giá trị (từ gần 9 tỷ USD năm 2018 giảm xuống còn hơn 4 tỷ USD
vào năm 2019, tương đương 52% )( nguyên nhân là năm 2018, Nhật bản có 1 dự án
FDI lớn vào Việt Nam, còn năm 2019 thì không có dự án nào lớn). Về tốc độ, vốn FDI
giảm mạnh từ các nguồn truyền thống như Australia (giảm gần 63%), Malaysia (giảm
50%).

Có thể thấy, thu hút đầu tư từ các đối tác CPTPP trong năm đầu thực thi tương đối
kém lạc quan hơn. Cụ thể:
- Về số vốn, vốn FDI từ các đối tác CPTPP giảm gần 36% trong khi tổng vốn
FDI thu hút được năm 2019 của Việt Nam vẫn tăng trên 7%, trong đó vốn đăng
ký mới từ CPTPP giảm trên 51% còn tổng vốn đầu tư đăng ký mới từ tất cả các
đối tác mặc dù cũng giảm nhưng chỉ ở mức gần 7%.
- Về quy mô, mặc dù cả các dự án từ các đối tác CPTPP và từ thế giới đều giảm,
nhưng tốc độ giảm ở các đối tác CPTPP cao gấp 2 lần so với trung bình chung
(tương ứng là giảm 56,9% và giảm 26,9%).
- Về chính sách, các cam kết về thể chế cần nhiều thời gian hơn để phát huy tác
dụng, còn cam kết mở cửa thị trường trong CPTPP lại phần lớn có lộ trình dài,
chưa thực hiện ngay trong 02 năm đầu thực thi. Hơn nữa, không giống như
xuất nhập khẩu hàng hóa, các quyết định đầu tư cần một khoảng thời gian nhất
định (có thể đến vài năm) để cân nhắc nhiều yếu tố liên quan tới việc đầu tư. Vì
vậy ngay cả với các cam kết mở cửa cho dịch vụ và đầu tư ngay khi CPTPP có
hiệu lực, vẫn cần một độ lùi thời gian đáng kể để các cam kết này có tác động
thực tế.
Tuy nhiên, bên cạnh sự ảm đạm, tiêu cực thì bức tranh thu hút đầu tư từ các đối tác
CPTPP vẫn có điểm tích cực nhất định, cụ thể:
- Về đối tác, mặc dù vốn đầu tư từ các nguồn truyền thống trong CPTPP (như
Nhật Bản, Australia, Malaysia, Singapore) đều giảm trong năm 2019, nhưng
vốn FDI từ các đối tác mới trong CPTPP vào Việt Nam (Canada, Mexico) hoặc
các đối tác truyền thống nhỏ (Brunei, New Zealand) lại được cải thiện tích cực
trong năm 2019. Điều này cho thấy CPTPP đang tạo ra các tác động tích cực
đối với các đối tác mới.
- Về quy mô các dự án, mặc dù các dự án vốn FDI từ các đối tác CPTPP năm
2019 giảm mạnh về quy mô vốn trung bình so với 2018, tuy nhiên khi so sánh
về mặt giá trị, quy mô các dự án từ các đối tác CPTPP vẫn cao hơn 9,5% so với
quy mô vốn trung bình của các dự án FDI từ tất cả các nguồn.

3. Tình hình thực thi CPTPP ở ngành hàng dệt may của Việt Nam

2.1. Đánh giá chung


- Ngành dệt may là một ngành đặc thù và có tỷ lệ cạnh tranh rất lớn nên thuế
quan nhập khẩu áp dụng đối với hàng dệt may thường cao hơn nhiều so với các
mặt hàng công nghiệp khác. Trước khi tham gia hiệp định CPTPP, Việt Nam
cũng phải chịu gánh nặng về thuế nhập khẩu đối với ngành hàng dệt may là rất
lớn, đặc biệt là các quốc gia mà Việt Nam chưa có FTA.
- Tuy nhiên, sau khi trở thành thành viên của hiệp định đối tác toàn diện xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định CPTPP sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối
với hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các
nước đối tác (ngay hoặc có lộ trình). Từ đó, sẽ tạo động lực mạnh để thúc đẩy
tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may khi đưa ra những ưu đãi thuế quan
hấp dẫn.
2.2. Ảnh hưởng của hiệp định CPTPP đến ngành dệt may
- Vì ngành dệt may có những quy định riêng mang tính đặc thù nên hiệp định
CPTPP có cả một chương riêng về ngành dệt may. Cụ thể,
- Cam kết về thuế quan: Sau khi là thành viên của CPTPP, sản phẩm dệt
may Việt Nam có thể được hưởng mức thuế ưu đãi 0% của CPTPP và
đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ của sản phẩm và nguyên liệu. Các đối
tác CPTPP có cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu ngay lập tức hoặc theo lộ
trình là: Canada, Nhật Bản, Australia, NewZealand, Singapore, Brunei,
Malaysia, Chile và Mexico.
=> Có thể thấy, tất cả các đối tác trong CPTPP đều có cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu
ngành hàng dệt may đối với Việt Nam. Trong đó, Canada và Nhật Bản là hai quốc gia
có cam kết cắt bỏ thuế nhập khẩu về ngành hàng này mạnh nhất trong số các đối tác
CPTPP, với Canada là toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ
được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm, với Nhật Bản là
Nhật Bản sẽ xóa bỏ 98,8% dòng thuế liên quan đến hàng dệt may ngay khi Hiệp định
có hiệu lực. Nhờ đó, nếu tính trung bình dựa trên kim ngạch xuất khẩu thì bắt đầu từ
2019, Việt Nam có thể tiết kiệm được khoảng 700 triệu USD tiền thuế cho mặt hàng
dệt may xuất khẩu sang Canada & Nhật.
- Ngoài ra, còn nhiều cam kết khác về ngành dệt may như quy định về xuất xứ,
lao động cũng rất có lợi cho Việt Nam.
- Ngay trong năm đầu tiên CPTPP có hiệu lực, bên cạnh các thị trường truyền
thống như Nhật Bản vẫn tăng trưởng tốt, thì các thị trường mà Việt Nam chưa
có các FTA song phương cũng đã đạt được mức tăng trưởng cao như: Canada,
Mexico…

=> Sau hơn 2 năm chính thức có hiệu lực (từ ngày 14/1/2019), Hiệp định Đối tác toàn
diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được đánh giá là đã tác động tích
cực tới hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Nhờ các cam kết về thuế
quan, xuất xứ, lao động,... trong hiệp định CPTPP đã giúp mở ra cánh cửa tiếp cận các
thị trường dệt may lớn mà Việt Nam chưa từng có FTA chung như: Canada, Mexico,...
4. Đánh giá ảnh hưởng của CPTPP tới Việt Nam trong những năm đầu thực
thi hiệp định

Tích cực: CPTPP mở ra cơ hội tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước
là thị trường mới của Việt Nam. Với một lộ trình cắt giảm các rào cản thương mại có
lộ trình bền vững, CPTPP hứa hẹn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các bên tham gia, đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tham gia CPTPP giúp Việt Nam đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, từ đó thúc đẩy tăng
trưởng nhiều ngành sản xuất trong nước và làm kinh tế nước nhà phát triển một cách
bền vững
Tiêu cực: Việt Nam vẫn chưa tận dụng được tốt các lợi ích từ CPTPP. Nguyên nhân
một phần do cơ quan quản lý nhà nước chưa có cơ chế cụ thể giúp doanh nghiệp tiếp
cận sâu rộng hơn với hiệp định CPTPP và một số chính sách quản lý của chúng ta còn
chưa phù hợp. Bên cạnh đó, hiệp định CPTPP còn một số cam kết chưa được hoàn
thiện, còn phức tạp hơn các FTA khác, dẫn đến các doanh nghiệp chưa thể tiếp cận
toàn diện được với CPTPP.
III. ĐÁNH GIÁ THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
THI CPTPP Ở VIỆT NAM
1. Thành công trong quá trình thực thi CPTPP ở Việt Nam

Thứ nhất, kinh tế đạt tăng trưởng mạnh, đặc biệt là các ngành trọng yếu. (thể hiện
qua các hoạt động xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài)
- Sau 3 năm thực thi, xuất khẩu Việt Nam sang thị trường CPTPP tăng lên nhanh
chóng. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đạt
45,7 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2020. Trong 8 tháng đầu năm 2022, kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP đạt 41 tỷ USD, tăng 38,7%
so với cùng kỳ năm 2021, xuất siêu 6 tỷ USD. Về các ngành hàng chủ lực
- Đơn cử như dệt may, 9 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu mặt hàng này sang thị
trường Canada đã tăng trưởng tới trên 50% so với cùng kỳ năm 2021. Hay thủy
sản cũng là 1 trong mặt hàng tận dụng cơ hội từ CPTPP để gia tăng thị phần tại
các nước thành viên CPTPP, nhất là tại khu vực châu Mỹ. Theo bà Lê Hằng -
Giám đốc Truyền thông - Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam
(VASEP), trước khi có Hiệp định CPTPP, Canada chiếm 2,7% tổng giá trị xuất
khẩu thủy sản Việt Nam, đến thời điểm này, Canada đã chiếm 3,7%.
- Theo bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da
giày Túi xách Việt Nam – còn cho rằng, CPTPP đã mang lại ba điểm thay đổi
rất lớn đối với ngành da giày. Đó là tăng trưởng xuất khẩu. Trước đây, khối
doanh nghiệp ở các nước trong khối CPTPP chỉ chiếm dưới 10% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành. Đến nay, đã chiếm hơn 14%. Bên cạnh đó,
Hiệp định CPTPP yêu cầu đáp ứng quy tắc xuất xứ, đây là động lực thúc đẩy
phát triển các nguồn nguyên phụ liệu trong nước, chuỗi sản xuất. Ngoài ra, quá
trình đáp ứng các yêu cầu của CPTPP năng lực nội tại của các doanh nghiệp
cũng đã được nâng lên rất nhiều.
Thứ hai, thị trường lao động chuyển biến tích cực, nhiều việc làm mới được tạo ra;
góp phần nâng cao thu nhập quốc dân.
- Tính chung Hiệp định CPTPP có thể mang lại từ 352 ngàn tới 456 ngàn việc
làm. Những ngành bị ảnh hưởng là sản xuất nông nghiệp, chế biến thực phẩm,
và hầu hết nhóm ngành dịch vụ. Những ngành hưởng lợi lớn về việc làm là dệt
may, thương mại, các ngành công nghiệp nhẹ.
- Theo ông Đào Quang Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học lao động xã hội (Bộ
LĐ-TB&XH), với việc tham gia CPTPP, Việt Nam sẽ tạo thêm từ 16.500 –
27.000 việc làm/năm, tính từ năm 2020 trở đi. Ông cũng dự đoán nhu cầu về
lao động trong các ngành gỗ, may mặc và thực phẩm sẽ tăng 0,084%, nếu kim
ngạch xuất khẩu của các ngành này tăng 1% hàng năm nhờ CPTPP.
Thứ ba, tiếp cận và thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ với nhiều thị trường mới hay những
thành viên TPP khác chưa có FTA song phương với nhau.
- Sau 3 năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Việt Nam là nước thành viên tranh thủ được khá tốt các ưu
đãi để gia tăng thị phần ở châu Mỹ một cách trực tiếp (ở các thị trường mà
CPTPP đã có hiệu lực, gồm Canada và Mexico) và cả gián tiếp (thông qua
động lực thúc đẩy thương mại song phương với các thị trường mà CPTPP chưa
có hiệu lực như Peru, Chile).
- Sau 3 năm CPTPP đi vào thực thi thì các thị trường mới của Việt Nam trong
khối này như Canada, Mexico, Peru đã có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vô
cùng ấn tượng. Đơn cử như là với Canada, năm 2021, Việt Nam xuất khẩu sang
Canada khoảng 5,3 tỷ USD, tức là tăng trưởng khoảng 75% so với thời điểm
trước khi hiệp định có hiệu lực. Hay với Mexico, năm 2021, Việt Nam xuất
khẩu sang Mexico khoảng 4,6 tỷ USD và tăng trưởng tới hơn 100% so với thời
điểm trước khi Hiệp định có hiệu lực. Điều này cho thấy Hiệp định đã và
đang góp phần quan trọng để mở rộng đường cho hàng Việt Nam sang thị
trường các nước châu Mỹ vốn còn rất mới mẻ và nhiều tiềm năng.
- Trước khi ký kết CPTPP, Mexico chưa đầu tư FDI vào thị trường Việt Nam.
Năm 2018, Mexico có dự án đầu tiên với giá trị 0,01 triệu USD. Sau khi Việt
Nam chính thức thực thi CPTPP, Mexico có 2 dự án đầu tư với giá trị 0,11 triệu
USD. Năm 2020, Mexico đầu tư dưới hình thức góp vốn mua cổ phần với 2
lượt và giá trị vốn góp mua cổ phần là 0,02 triệu USD. Sang năm 2021, Mexico
đầu tư thêm mới 1 dự án với giá trị 0,022 triệu USD. Mặc dù đây là con số rất
nhỏ so với các nhà đầu tư truyền thống như Nhật Bản, Singapore hay New
Zealand... nhưng đã bước đầu cho thấy việc thực thi CPTPP có tác động đến
thu hút vốn FDI ở các thị trường mới.
Thứ tư, nhận diện thương hiệu quốc gia và vị thế hàng hóa Việt Nam trên trường
quốc tế cũng tăng lên đáng kể nhờ việc tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn
cầu.
2. Hạn chế trong quá trình thực thi CPTPP ở Việt Nam

Một là, tỷ lệ tận dụng ưu đãi CPTPP còn rất thấp


- Về tác động cụ thể của CPTPP, mặc dù đa số doanh nghiệp có đánh giá tích
cực về tác động chung của CPTPP, chỉ có 24,7% doanh nghiệp cho biết đã từng
hưởng các lợi ích cụ thể từ Hiệp định này. Nói cách khác, cứ 4 doanh nghiệp
thì mới có 1 doanh nghiệp đã từng được hưởng “trái ngọt” từ Hiệp định này
Hình 1: Những lý do cản trở doanh nghiệp hưởng lợi từ CPTPP
- Về mức độ tận dụng các ưu đãi thuế quan, trong trường hợp có hoạt động xuất
nhập khẩu với các đối tác trong CPTPP, mặc dù cùng là các thị trường mới
trong CPTPP, Canada là thị trường có tỷ lệ doanh nghiệp từng có lô hàng tận
dụng được ưu đãi thuế quan CPTPP cao nhất (50% doanh nghiệp), trong khi
Mexico cũng là thị trường mới nhưng chỉ hơn 1/4 doanh nghiệp từng làm được
điều này. Các thị trường khác trong CPTPP có tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan
khá thấp. Lý do mà phần lớn các doanh nghiệp không tận dụng được ưu đãi của
CPTPP là đã có ưu đãi trong các FTA khác tốt hơn CPTPP. Tuy nhiên, lý do
đáng lo hơn cả được nhiều doanh nghiệp đưa ra chính là họ không biết về ưu
đãi thuế quan trong CPTPP, không biết Hiệp định CPTPP có lợi ích gì.(Nguyên
nhân một phần do cơ quan quản lý nhà nước chưa phổ biến rộng rãi CPTPP
đến với từng doanh nghiệp). Điều này chủ yếu xảy ra ở nhóm các doanh nghiệp
trong nước, còn nhóm các doanh nghiệp FDI thường không lựa chọn ưu đãi từ
CPTPP mà chủ yếu do đã lựa chọn ưu đãi từ các FTA khác. Ngoài ra, quy tắc
xuất xứ của CPTPP lại mới và phức tạp, ưu đãi thuế quan ít hấp dẫn do CPTPP
mới ở năm đầu tiên của lộ trình nên việc các doanh nghiệp thường ít lựa chọn
CPTPP.
Hình 2: Tình hình tận dụng ưu đãi thuế quan CPTPP của doanh nghiệp
Hai là, mặc dù có kế hoạch sửa đổi luật nhưng chưa đủ chi tiết làm chậm tiến độ và
tính thống nhất trong văn bản luật chưa cao vì:
- Công tác rà soát tính tương thích của pháp luật nội địa và chuẩn bị phương án
điều chỉnh còn hạn chế nhất định, dẫn tới những khác biệt giữa Kế hoạch thực
thi CPTPP ban đầu với thực tiễn thực hiện (về loại văn bản, hình thức văn
bản,…). Ví dụ có trường hợp văn bản được đưa vào Kế hoạch sửa đổi nhưng
khi triển khai lại phát hiện không cần thiết phải sửa đổi mà vẫn bảo đảm tuân
thủ CPTPP (Luật An toàn thực phẩm); có trường hợp văn bản không nhất thiết
là phải sửa đổi ngay để thực thi Hiệp định (sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm);
một số trường hợp văn bản thông thường được ban hành dưới hình thức thông
tư nhưng trong Kế hoạch lại liệt kê ở dạng nghị định….
- Công tác chuẩn bị cho việc soạn thảo các văn bản thực thi Hiệp định, đặc biệt
là các trường hợp văn bản xây dựng mới, dường như chưa được dự trù đầy đủ
về thời gian. Trên thực tế, khoảng thời gian từ khi Quốc hội Việt Nam phê
chuẩn CPTPP cho tới khi Hiệp định này có hiệu lực chỉ xấp xỉ 2 tháng, rất ngắn
cho việc soạn thảo các văn bản pháp luật (đặc biệt là các văn bản đồ sộ như
Biểu thuế, Hướng dẫn đấu thầu…). Mặc dù vậy, trên thực tế, văn kiện đầy đủ
và chính xác của CPTPP đã được công bố từ khá lâu trước đó, ít nhất là từ thời
điểm ký kết CPTPP tháng 03/2018. Đây là khoảng thời gian lẽ ra có thể tranh
thủ được để chuẩn bị cho công việc soạn thảo phức tạp này
→ Các thay đổi về pháp luật theo cam kết CPTPP đã được hoàn tất, đáp ứng cam kết
nhưng phần lớn đều được ban hành chậm hơn so với yêu cầu của Hiệp định.
Ba là, số lượng DN hiểu biết về cam kết CPTPP còn thấp.
- Sau 2 năm thực thi CPTPP, sự quan tâm và tìm hiểu về CPTPP của doanh
nghiệp Việt đã tăng lên tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch lớn ở mức độ quan tâm
về hiệp định của các nhóm doanh nghiệp: dẫn đầu về sự hiểu rõ là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi doanh nghiệp dân doanh có số
lượng công ty không biết về hiệp định lớn nhất. Nói chung, kết quả này cho
thấy các nỗ lực tuyên truyền phổ biến chung về CPTPP các FTA đã có hiệu quả
ban đầu tích cực nhưng mới trên bề mặt là chủ yếu. Với một FTA khó và phức
tạp như CPTPP, cần thiết phải có những biện pháp thông tin chuyên sâu, chi tiết
và hữu ích hơn cho doanh nghiệp trong thời gian tới.
Hình 3: So sánh mức độ tìm hiểu về CPTPP và các FTA khác

Hình 4: Hiểu biết về CPTPP theo nhóm doanh nghiệp


IV. ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆT NAM ĐỂ TẬN DỤNG HIỆU QUẢ CPTPP
Theo nhận định của giới chuyên gia, trong năm 2022, các hiệp định thương
mại tự do (FTA) như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP) sẽ tiếp tục mở ra những ưu đãi về thuế quan, tạo
động lực thu hút đầu tư để tăng năng lực sản xuất và khiến các doanh
nghiệp xuất khẩu trở nên chuyên nghiệp hơn trên trường quốc tế. Nhờ đó,
xuất khẩu tiếp tục được kỳ vọng là điểm sáng của nền kinh tế, đồng thời là
cơ hội giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
1. Đề xuất chính sách để tận dụng hiệu quả CPTPP

Thứ nhất, hoàn thiện và bổ sung chính sách gắn với việc thực hiện các cam kết
hội nhập

- Chính phủ cần thay đổi chính sách thu hút FDI theo hướng chọn lọc các
dự án, đối tác phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; Chú trọng
hướng phát triển bền vững để giảm thiểu tác động tiêu cực; Tăng cường
công tác kiểm soát các doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh nghiệp
thường báo lỗ để tránh các hiện tượng chuyển giá. Bổ sung chính sách
gắn với việc thực hiện các cam kết hội nhập, nhằm nâng cao hiệu quả huy
động, sử dụng vốn đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế theo lộ trình. Trong việc sửa đổi, bổ sung các
chính sách, cần đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi
trường đầu tư, kinh doanh, không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của
các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới. Đồng
thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ quy định không phù hợp với các
cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước
quốc tế song phương, đa phương và khu vực mà Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, đẩy mạnh cải cách hành chính trên tất cả các lĩnh vực

- Chính phủ đã và đang đẩy mạnh, đổi mới chính sách đầu tư, xây dựng,
đất đai, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu phù hợp với các cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế; Giám sát chặt chẽ việc ban hành và áp dụng các giấy
phép, điều kiện kinh doanh; Đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế tài chính,
đảm bảo tính đồng bộ, công khai, minh bạch, ổn định và phù hợp với yêu
cầu thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
và các cam kết quốc tế.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh các ngành công nghiệp thế mạnh

- Xây dựng và quy hoạch, đồng bộ hóa các ngành công nghiệp hỗ trợ xác
định ngành công nghiệp phụ trợ phù hợp với Chiến lược phát triển công
nghiệp Việt Nam, đảm bảo tính hiệu quả trong thực thi chính sách, nâng
cao khả năng cạnh tranh của các ngành hàng Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập.

Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền tới doanh nghiệp và địa phương

- Nhà nước luôn nhấn mạnh việc tuyên truyền, phổ biến các cam kết, hiệp
định mà Việt Nam tham gia đến từng ngành, địa phương, doanh nghiệp
và người dân để các đối tượng có liên quan thực hiện hiệu quả các cam
kết; Hoàn thiện các chính sách thương mại cho phù hợp với điều kiện của
Việt Nam và không xung đột với các cam kết trong các FTA mà Việt
Nam đã và sẽ tham gia.
2. Định hướng phát triển trong thời gian tới

Một là, tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, khai thác tiềm năng của CPTPP
Theo ghi nhận của Bộ Công thương, thời gian qua, doanh nghiệp trong nước đã
tận dụng khá hiệu quả lợi thế của CPTPP để gia tăng xuất khẩu hàng hóa vào thị
trường thành viên trong khối. Phó Cục trưởng Xuất nhập khẩu (Bộ Công
thương) Trần Thanh Hải cho biết, khác với khu vực châu Âu là thị trường xuất
khẩu truyền thống của Việt Nam, khu vực CPTPP gồm các nước châu Mỹ như
Canada, Mexico, Peru là những thị trường tương đối mới. Trước đây, xuất khẩu
của Việt Nam sang các thị trường này còn khá ít ỏi, nhưng đã tăng lên đáng kể
từ khi có CPTPP. Cụ thể, xuất khẩu sang Canada năm 2021 đạt 5,3 tỷ USD, tăng
20,8% so
năm 2020 và tăng 75% so thời điểm trước khi CPTPP có hiệu lực. Xuất khẩu
sang thị trường Mexico trong năm 2021 cũng có bước nhảy vọt, đạt 4,6 tỷ USD,
tăng trưởng hơn 100% so thời điểm trước khi Hiệp định có hiệu lực.
Tuy nhiên, xét về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực châu
Mỹ, nhóm hàng điện thoại, linh kiện, máy vi tính, máy móc phụ tùng chiếm tỷ
trọng lớn nhất khoảng 43%; tiếp đó là dệt may, da giày khoảng 25%, gỗ và sản
phẩm từ gỗ khoảng 8%; nông thủy sản khoảng 4%. “Rõ ràng đóng góp của khu
vực FDI trong giá trị xuất khẩu rất lớn, trong khi đóng góp của công nghiệp nội
địa chưa cao”, Phó Vụ trưởng Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công thương)
Võ Hồng Anh nhận định. Bên cạnh đó, châu Mỹ cũng là thị trường có nhu cầu
với nhiều mặt hàng khác mà Việt Nam chưa khai thác được. Thí dụ, những thị
trường như Chile, Mexico hay Peru đều được đánh giá rất tiềm năng cho
xi-măng của Việt Nam, song thực tế kim ngạch xuất khẩu còn khá thấp. Theo
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Xi-măng Việt Nam Lương Đức Long,
nguyên nhân là do các thị trường trên có vị trí địa lý tương đối xa so với Việt
Nam, trong khi giá cước vận tải biển hai năm vừa qua liên tục tăng cao. Không
những vậy, chi phí đầu vào của xi-măng hiện nay rất lớn khiến giá thành sản
xuất tăng cao, việc bán trong nước và xuất khẩu đều khó khăn. Với thị trường
Mỹ Latin, doanh nghiệp còn gặp trở ngại về ngôn ngữ khi họ chủ yếu sử dụng
tiếng Tây Ban Nha trong giao tiếp. Ngược lại, mức độ nhận biết của các doanh
nghiệp nhập khẩu của khu vực này đối với quy mô, chất lượng sản phẩm và
năng lực sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa tốt.
Hai là, hợp tác, mở rộng sang các thị trường tiềm năng
Bên cạnh khai thác trực tiếp thị trường trong CPTPP, doanh nghiệp cũng nên
nghiên cứu khả năng tận dụng những ưu đãi, mối liên kết kinh tế và cơ sở hạ
tầng sẵn có của các nước thành viên CPTPP để qua đó đưa hàng Việt Nam thâm
nhập và mở rộng sang các thị trường khác thuộc khu vực châu Mỹ. Bốn nước
thành viên CPTPP khu vực châu Mỹ đều có độ mở cao như Canada có 15 FTA,
Mexico có 13 FTA, Chile có 29 FTA, Peru có 22 FTA. Với mạng lưới FTA bao
phủ, rộng khắp như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng những mối liên kết
kinh tế này để đưa hàng hóa tiếp cận thị trường rộng lớn hơn trong khu vực. Tuy
nhiên, câu chuyện sẽ không đơn giản khi chúng ta xuất khẩu sang Mexico hoặc
Canada để hưởng ưu đãi thuế quan trong FTA với nước thứ ba khác, vì mỗi FTA
có một quy tắc xuất xứ riêng biệt và nếu muốn tận dụng ưu đãi thuế quan phải
đáp ứng được các quy tắc đó. Do vậy các doanh nghiệp cần xem xét khả năng
hợp tác sản xuất đối với các nước thành viên CPTPP. Thí dụ, chúng ta xuất khẩu
nguyên vật liệu hoặc sản phẩm chế biến thô sang một thị trường CPTPP, sau đó
hợp tác liên doanh để sản xuất, gia công, chế biến thành sản phẩm hoàn thiện và
tiếp tục xuất khẩu sang thị trường đối tác khác có FTA với quốc gia này, với
điều kiện chúng ta đáp ứng được quy tắc xuất xứ trên cơ sở tận dụng quy tắc
xuất xứ cộng gộp. Như Canada có hệ thống đường sắt nội địa rất phát triển, có
thể giúp hàng hóa Việt Nam vươn tới các thành phố khác của Hoa Kỳ, Mexico
cũng như các nước Nam Mỹ.
Dù CPTPP đang mang lại những lợi thế nhất định, song thực tế nguồn lực của
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế, nhất là vừa phải trải qua
những tác động tiêu cực bởi đại dịch Covid-19. Yêu cầu, đòi hỏi của thị trường
các nước CPTPP về hàng hóa cũng rất khắt khe. Do vậy, theo các chuyên gia,
doanh nghiệp cần tăng tính chủ động trong tìm hiểu, đáp ứng tốt quy định về
quy tắc xuất xứ; đồng thời, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng
hóa. Các cơ quan quản lý nhà nước cần rà soát các văn bản liên quan, tạo môi
trường thuận lợi hơn cho hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường truyền thông,
xúc tiến thương mại, định hướng cho doanh nghiệp trong kế hoạch sản xuất,
kinh doanh, giúp doanh nghiệp từng bước cải thiện, nâng cao năng lực cạnh
tranh, nhờ đó tận dụng tốt hơn các cơ hội từ CPTPP để đẩy mạnh xuất khẩu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trang thông tin Chính phủ - Bộ Công Thương về Hiệp Định CPTPP,
<http://cptpp.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=9040e56c-c3f5-4592-9fe7-b
aa47f75a7c0>, 20/10/2022

2. Tạp chí Tài chính (2018), 4 điểm khác biệt lớn giữa CPTPP và TPP
<https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/4-diem-khac-biet-lon-giua-cptpp-va-tp
p-136426.html>, 20/10/2022

3. Nội dung chính của Hiệp đinh CPTPP


<https://sotp.laichau.gov.vn/Files/sotuphap/Users/135/2019/Thang8/Tai-lieu-Hiep-din
h-CPTPP.docx>, 1/11/2022

4. Tình hình thực thi CPTPP 2019-2020


<https://trungtamwto.vn/file/20684/bao-cao-danh-gia-tinh-hinh-viet-nam-sau-2-nam-t
huc-thi-cptpp-tu-goc-nhin-doanh-nghiep.pdf>

5. Việt Nam sau 2 năm thực thi hiệp định CPTPP


<https://consosukien.vn/vie-t-nam-sau-2-nam-thu-c-thi-hie-p-dinh-cptpp.htm>,
06/08/2021

6. Tổng quan về tình hình thực thi CPTPP ở Việt Nam


<http://cptpp.moit.gov.vn/data/e0593b3b-82bf-4956-9721-88e51bd099e6/userfiles/file
s/Bai%20trinh%20bay%20Tong%20quan%20thuc%20thi%20CPTPP%20-%20Quang
%20Tri.pdf>

7. GS.TS. Đỗ Đức Bình - TS. Nguyễn Thường Lạng (2019), Giáo trình kinh tế quốc
tế, NXB Đại học kinh tế quốc dân.

8. PGS.TS. Ngô Thị Tuyết Mai - PGS.TS. Nguyễn Như Bình (2020), Giáo trình hội
nhập kinh tế quốc tế, NXB Đại học kinh tế quốc dân.

You might also like