You are on page 1of 18

I.

Tổng quan về hiệp định RCEP

1. Giới thiệu chung về Hiệp định RCEP

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực ( Regional Comprehensive Economic Partnership, viết tắt
RCEP) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia mà
ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand)
được ký kết tại Hà Nội vào ngày 15 tháng 11 năm 2020, hướng tới mục tiêu hình thành Hiệp định
thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu cho Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA).

Ngày 15/11/2020, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực đã chính thức được ký kết tại cuộc họp
trực tuyến nhân dịp Hội nghị cấp cao RCEP giữa 15 quốc gia, bao gồm 10 nước ASEAN và 05 nước đối tác
là Nhật Bản, New Zealand, Australia, Trung Quốc và Hàn Quốc.

Mặc dù Ấn Độ đã thông báo rút khỏi Hiệp định RCEP vào tháng 11/2019, 15 nước thành viên vẫn thừa
nhận vai trò thương mại chiến lược của Ấn Độ và vẫn để mở cho sự tham gia lại của Ấn Độ kể từ ngày
Hiệp định này có hiệu lực.

Hiệp định RCEP sẽ chính thức có hiệu lực trong vòng 60 ngày kể từ ngày được thông qua bởi ít nhất 06
nước thành viên ASEAN và 03 nước thành viên không thuộc ASEAN. Khi đó, Hiệp định này sẽ tạo ra thị
trường trên quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng (30% dân số thế giới), tương đương 26.2 nghìn tỷ USD (30%
GDP toàn cầu), trở thành một trong những thỏa thuận tự do thương mại có quy mô lớn nhất trên thế
giới.

RCEP là hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, bổ sung phạm vi áp dụng của các Hiệp định
thương mại tự do ASEAN Cộng hiện hành. Hiệp định bao gồm 20 chương, ngoài các điều khoản cam kết
về cắt giảm thuế quan, thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại, Hiệp định còn bao gồm các cam
kết “phi truyền thống” (so với các FTA đã ký kết giữa ASEAN và 05 quốc gia đối tác), như sở hữu trí tuệ,
chính sách cạnh tranh, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, v.v.

2.Bối cảnh kí kết Hiệp định RCEP

Tại thời điểm này hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên
nhiều phương diện với sự xuất hiện của nhiều khối kinh tế, mậu dịch trên thế giới. Đối với một nước
kinh tế còn đang trên đà phát triển như Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để rút ngắn
khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát huy những lợi thế và tìm cách khắc
phục hạn chế thông qua việc học hỏi kinh nghiệm của các nước. Bên cạnh đó, Việt Nam đang đẩy mạnh
việc ký kết các hiệp định thương mại, gia tăng xuất nhập khẩu thì việc ký RCEP là một điều tất yếu.

Trên cơ sở các hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia,
New Zealand và Ấn Độ, năm 2011, các nước ASEAN đề xuất xây dựng một khu vực thương mại tự do có
quy mô lớn hơn để khắc phục những hạn chế từ các hiệp định thương mại tự do song phương. Vì thế,
tháng 11/2012, tại Hội nghị cấp cao Đông Á, 10 nước ASEAN và 06 quốc gia đối tác cùng đưa ra tuyên bố
chung để khởi động đàm phán về RCEP, nhằm duy trì vị thế trung tâm của ASEAN trong mạng lưới
thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương trước sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trong đó,
nổi lên việc Mỹ thúc đẩy đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) để giành quyền
thiết lập quy tắc thương mại trong khu vực và bất đồng giữa Trung Quốc với Nhật Bản trong đàm phán
về hiệp định thương mại tự do.

Tại thời điểm khởi động đàm phán, RCEP nằm trong nhóm 3 hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn
nhất thế giới, bên cạnh TPP và Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP, giữa
Mỹ và EU). Trong đó, thị trường TPP chiếm tới 11% dân số thế giới, hơn 38% GDP toàn cầu và hơn 25%
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; thị trường TTIP chiếm tới 11% dân số thế giới, 33% GDP toàn cầu và hơn
30% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; và thị trường RCEP (ngay cả khi không còn Ấn Độ) chiếm tới 30%
dân số thế giới, gần 30% GDP toàn cầu và hơn 27% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.

Hiệp định RCEP được kí kết trong bối cảnh Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát trên thế giới
và Việt Nam. Đại dịch làm cho chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực chưa được nối lại, thậm chí có thêm
sự đứt gãy khi dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư tại Việt Nam và tập trung tại các khu công nghiệp (Bắc
Giang, Bắc Ninh - nơi có các nhà máy sản xuất lớn của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc như Sam Sung,
Hosiden…). Cùng với đó, xu hướng bảo hộ mậu dịch đang gia tăng, xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu
tư ra khỏi các nước mới nổi và đang phát triển cũng ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam trên các
khía cạnh như thương mại, đầu tư, quy tắc xuất xứ…

3. Mục đích ký kết hiệp định RCEP

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định nhằm mở rộng và làm sâu sắc
hơn sự gắn kết giữa ASEAN và Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Mục tiêu của
Hiệp định RCEP là sẽ tạo ra khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới. Hiệp định RCEP nhằm thiết lập
một nền tảng quan hệ đối tác kinh tế hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở rộng thương mại và đầu tư trong khu vực, đồng thời đóng góp vào sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế toàn cầu. Theo đó, Hiệp định sẽ mang lại cơ hội thị trường và việc làm cho doanh
nghiệp và người dân trong khu vực. Hiệp định RCEP sẽ song hành và hỗ trợ một hệ thống thương mại đa
phương cởi mở, bao hàm và dựa trên các quy tắc.

4. Quá trình đàm phán Hiệp định RCEP

Hiệp định RCEP được khởi động vào tháng 11-2012 tại Phnom Penh (Campuchia) theo sáng kiến
của ASEAN nhằm khuyến khích thương mại giữa các nước thành viên và các đối tác Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Australia. Đây đều là những quốc gia đã có Hiệp định thương mại tự
do (FTA) độc lập với ASEAN.

Tiếp đó nhằm tăng cường, mở rộng hội nhập kinh tế trên cơ sở quan hệ hợp tác tích cực hiện có
giữa ASEAN và 6 nước đối tác bắt đầu từ năm 2013 các bên liên quan đã tiến hành các cuộc đàm phán
về một thỏa thuận có tên Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP).

Trong đó có các mốc gắn với các sự kiện tiêu biểu:

+ Ngày 1/5/2014 tại New Delhi, ́n Độ diễn ra cuộc đàm phán thứ sáu bằng một sự kiện tiếp cận với cộng
đồng doanh nghiệp để phổ biến mục tiêu của RCEP. Phái đoàn Nhật được mời tổ chức một workshop về
thương mại điện tử.

+ Từ 9/2/2015 - 13/2/2015 diễn ra cuộc đàm phán thứ bảy tại Băng Cốc, Thái Lan. Một nhóm các chuyên
gia về thương mại điện tử gặp mặt nhau. Trung tâm Thương mại Châu Á (đặt tại Singapore) gửi một kiến
nghị về chương thương mại điện tử và thuyết trình về kiến nghị này.

+ Ngày 12/10-16/10/2015 diễn ra vòng đàm phán thứ mười tại Busan, Hàn Quốc. Cuộc họp diễn ra tại
BEXCO (Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Busan). Vòng này bao gồm cuộc họp đầu tiên với cổ đông trên
toàn vùng.

Đặc biệt năm 2019 xảy ra nhiều dấu mốc quan trọng

+ Ngày 2/3/2019, hội nghị các bộ trưởng kinh tế RCEP được tổ chức tại Campuchia. Các bộ trưởng nhất
trí đẩy nhanh quá trình đàm phán đến hết năm (bao gồm tổ chức nhiều cuộc họp hơn).

+ Ngày 24/5/2019 các quan chức cấp cao tổ chức những cuộc họp liên ngành tại Băng Cốc, Thái Lan để
giải quyết những vấn đề trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ. Ngày 2–3 tháng 8, một cuộc họp cấp bộ
trưởng của các bộ trưởng kinh tế RCEP diễn ra tại Bắc Kinh, Trung Quốc.

+ Vòng đàm phán RCEP thứ 28 diễn ra ngày 19/9/2019-27/9/2019 tại Đà Nẵng, Việt Nam.
+ Ngày 31/10 – 3/11/2019, Hội nghị thượng đỉnh RCEP thứ 3 diễn ra tại Thái Lan, cùng ngày với hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 35.

+ Ngày 4/11/2019 Ấn Độ rút khỏi RCEP tại hội nghị ASEAN+3, với lý do tác động tiêu cực mà nước này
cho là thỏa thuận sẽ gây ra cho công dân nước này. Nhật Bản và Trung Quốc kêu gọi Ấn Độ tái gia nhập
hiệp định. Ấn Độ lo ngại thâm hụt thương mại gia tăng do các quy định hạ thấp hàng rào thuế quan của
hiệp định sẽ khiến cho hàng hóa của nước này khó cạnh tranh với nguồn hàng giá rẻ, bao bì bắt mắt từ
Trung Quốc, trong khi hàng hóa Ấn Độ lại không được bảo đảm lợi thế tương tự tại thị trường Trung
Quốc. Quan ngại về thâm hụt thương mại với Trung Quốc cũng được xem là một trong những thách
thức lớn với các nước tham gia RCEP.

+ Ngày 30/4/ 2020, Tuyên bố chung của Hội nghị Ủy ban Thương mại RCEP thứ 29 được đưa ra.

+ Ngày 23/6/2020, Hội nghị Bộ trưởng Liên ngành RCEP thứ 10 diễn ra theo hình thức trực tuyến. Các
quan chức thể hiện quyết tâm ký kết RCEP tại Hội nghị Thượng đỉnh RCEP lần thứ tư vào tháng 11.

+ Ngày 27/8/2020, Hội nghị Bộ trưởng RCEP lần thứ 8 diễn ra theo hình thức trực tuyến, do tác động của
đại dịch COVID-19. Các bộ trưởng đưa ra một tuyên bố chung về tiến độ trong việc hoàn thành Hiệp
định và khẳng định RCEP luôn mở cửa cho Ấn Độ tham gia trở lại.

+ Đặc biệt, ngày 15/11/2020 sau 8 năm đàm phán, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc và lãnh đạo các nước thành viên, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đã chính thức
được ký kết trực tuyến. Đây là thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới, thể hiện một bước tiến
quan trọng hướng tới một khuôn khổ luật lệ lý tưởng cho thương mại và đầu tư toàn cầu.

Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo 10 nước ASEAN và các nước Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, New Zealand, Tổng Thư ký ASEAN tại các điểm cầu.

+ Ngày 02 tháng 11 năm 2021, đã có 06 nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, và 04 nước đối tác là Trung
Quốc, Nhật Bản, Ốt-xtrây-li-a và Niu-Di-lân nộp lưu chiểu văn kiện phê duyệt/phê chuẩn Hiệp định RCEP
của mình cho Tổng Thư ký ASEAN.

+ Từ ngày 01/01/2022, Hiệp định thương mại tự do (FTA) có quy mô lớn nhất thế giới – Hiệp định Đối
tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) giữa 10 nước ASEAN với 05 đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia và New Zealand –chính thức có hiệu lực.

II. Nội dung của Hiệp định và những tác động chung của Hiệp định
Nội dung của Hiệp định RCEP

Hiệp định RCEP bao gồm 20 chương và phụ lục đính kèm theo các chương. Nội dung các chương gồm:

Chương 1: Điều khoản ban đầu và định nghĩa chung

Chương 2: Thương mại hàng hóa

Chương 3: Quy tắc xuất xứ

Chương 4: Thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại

Chương 5: Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật

Chương 6: Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp

Chương 7: Phòng vệ thương mại

Chương 8: Thương mại dịch vụ

Chương 9: Di chuyển tạm thời về thể nhân

Chương 10: Đầu tư

Chương 11: Sở hữu trí tuệ

Chương 12: Thương mại điện tử

Chương 13: Cạnh tranh

Chương 14: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Chương 15: Hợp tác kinh tế kỹ thuật

Chương 16: Mua sắm công

Chương 17: Điều khoản chung và các ngoại lệ

Chương 18: Điều khoản về thể chế

Chương 19: Giải quyết tranh chấp

Chương 20: Điều khoản cuối cùng

Dưới đây là sơ lược về những lĩnh vực tiêu biểu được đề cập đến trong Hiệp định RCEP
1.1. Thương mại hàng hóa

Các điều khoản bao gồm việc cấp phép đối xử quốc gia đối với hàng hóa của các Bên khác; giảm
hoặc xóa bỏ thuế hải quan; miễn thuế nhập hàng tạm thời; tái khẳng định các cam kết trong Quyết định
của Hội nghị Bộ trưởng WTO về cạnh tranh xuất khẩu, bao gồm cả việc loại bỏ các quyền trợ cấp xuất
khẩu theo lịch trình đối với hàng hóa nông nghiệp.

Chương này gồm các quy định và cam kết cụ thể về tự do hóa thương mại hàng hóa. Ngoài các
nghĩa vụ đối xử quốc gia, phí và phụ phí, loại bỏ các hạn chế định lượng đối với xuất nhập khẩu, hàng
hóa quá cảnh, v.v. được thực hiện theo quy định của Hiệp định chung về Thuế và Thương mại của WTO
(GATT).

Việt Nam chào cho các nước ASEAN và các nước đối tác tỷ lệ tự do hóa thuế quan không cao hơn
mức cam kết trong các Hiệp định FTA ASEAN Cộng hiện hành, cụ thể chào cho ASEAN là 90,3%, cho
Australia và New Zealand là 89,6%, cho Nhật Bản và Hàn Quốc là 86,7%. Với Trung Quốc, ta chào tỷ lệ tự
do hóa thuế quan 85,6% (phù hợp với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định FTA ASEAN-Trung Quốc và
chính sách thuế hiện hành của ta, nhằm giảm tối đa khả năng tăng nhập siêu từ thị trường này khi thực
thi Hiệp định RCEP). Trong khi đó, các nước đối tác chào cho ta tỷ lệ tự do hóa thuế quan cao hơn ta
chào cho các nước đối tác tương ứng, cụ thể Australia xóa bỏ 92%, New Zealand xóa bỏ 91,4%, Nhật Bản
xóa bỏ 90,4%, Hàn Quốc xóa bỏ 90,7% và Trung Quốc xóa bỏ 90,7%.

1.2. Thương mại dịch vụ

Phần này được xây dựng đồng thời theo hai phương thức tiếp cận chọn – cho và chọn – bỏ, tùy
các nước lựa chọn cách đưa ra biểu cam kết, với các nghĩa vụ hiện diện địa phương, hội đồng quản trị,
yêu cầu về hoạt động (chỉ áp dụng đối với các nước theo phương thức chọn – bỏ), đồng thời vẫn có các
nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.

Các nước lựa chọn phương thức chọn – cho phải lựa chọn một số phân ngành áp dụng nguyên tắc
MFN tự động và nguyên tắc đơn phương tự do hóa chỉ tiến không lùi (ratchet), đồng thời sẽ phải chuyển
đổi sang phương thức tiếp cận chọn – bỏ sau 6 năm kể từ thời điểm Hiệp định có hiệu lực, với mức độ
mở cửa thị trường không thấp hơn mức độ cam kết trong biểu cam kết chọn – cho.

Việt Nam lựa chọn phương thức tiếp cận chọn – cho, với mức độ mở cửa thị trường về cơ bản
tương đương với mức cam kết trong khuôn khổ ASEAN và không cao hơn pháp luật hiện hành. Ta lựa
chọn 6 phân ngành đã tự do hóa hoàn toàn để áp dụng nguyên tắc MFN tự động và nguyên tắc đơn
phương tự do hóa. Hiệp định có quy định quá trình chuyển đổi từ biểu cam kết chọn-cho sang chọn-bỏ
không yêu cầu cải thiện mức cam kết (bao gồm cả số lượng phân ngành áp dụng nguyên tắc MFN tự
động), nhằm đảm bảo các dịch vụ nhạy cảm như tài chính, viễn thông tránh được khả năng phải áp dụng
nghĩa vụ MFN tự động. Ngoài ra còn cần chú ý tới 3 Phụ lục riêng về Dịch vụ Tài chính, Dịch vụ Viễn
thông và Dịch vụ Chuyên môn, trong đó:

* Phụ lục Dịch vụ Tài chính đưa ra các cam kết liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ tài chính, đồng
thời tạo một khoảng không chính sách đảm bảo cho các cơ quan quản lý tài chính duy trì khả năng thực
hiện các biện pháp hỗ trợ tính toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính. So với WTO và các Hiệp định
ASEAN+ khác, Hiệp định RCEP có một số quy định mới trong lĩnh vực dịch vụ tài chính như nghĩa vụ về
minh bạch hóa các quy định tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính mới (các nghĩa vụ này phù hợp
với một số FTA thế hệ mới khác mà ta đã ký kết).

* Phụ lục Dịch vụ viễn thông có phạm vi điều chỉnh chỉ giới hạn trong thương mại dịch vụ viễn thông
công cộng, không bao gồm các chương trình phát thanh và truyền hình. Nhìn chung, mức độ cam kết về
dịch vụ viễn thông cơ bản cao hơn so với cam kết của Việt Nam trong WTO nhưng thấp hơn so với cam
kết trong các Hiệp định CPTPP, EVFTA, và phù hợp với khung pháp lý về viễn thông hiện hành của Việt
Nam.

* Phụ lục Dịch vụ Chuyên môn chỉ mang tính khuyến khích cho việc công nhận lẫn nhau các trình độ,
bằng cấp chuyên môn giữa các nước có nhu cầu, cũng như thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn và tiêu chí
chung đối với một số Dịch vụ Chuyên môn như giáo dục, bảo vệ người tiêu dùng…

1.3. Đầu tư

Chương Đầu tư của Hiệp định RCEP bao gồm đầy đủ 4 yếu tố của một hiệp định đầu tư, gồm tự do
hóa, xúc tiến, tạo thuận lợi cho đầu tư và bảo hộ đầu tư. Chương Đầu tư bao gồm các cam kết về đối xử
đầu tư, đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc (MFN), yêu cầu thực hiện (PPR), quản lý cấp cao và hội đồng
quản trị (SMBD), chuyển tiền, tước quyền sở hữu...

Hiệp định RCEP có một số cam kết cao hơn so với các hiệp định FTA mà ASEAN+ đã ký kết, như bổ
sung nghĩa vụ ngoài các nghĩa vụ quy định tại Hiệp định về các biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương
mại (TRIMs) của WTO; cam kết về MFN tự động; cam kết nghĩa vụ đơn phương tự do hóa chỉ tiến không
lùi (Ratchet) đối với danh mục A tại danh mục bảo lưu và các biện pháp không tương thích của các nước.
Tuy nhiên, nghĩa vụ Ratchet chỉ áp dụng đối với các nước sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Bên
cạnh đó, Chương Đầu tư của Hiệp định RCEP đã bổ sung cơ chế xem xét, hỗ trợ giải quyết các vướng
mắc của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư tại một nước RCEP phù hợp với pháp luật của nước
đó.

Đối với các nghĩa vụ như đối xử quốc gia, hội đồng quản trị, yêu cầu hoạt động, các cam kết của
Việt Nam trong Hiệp định RCEP không vượt quá mức cam kết của ta trong các hiệp định FTA đã ký như
Hiệp định CPTPP, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu u (EVFTA).

1.4. Sở hữu trí tuệ

Phần này bao gồm các cam kết về hài hòa hóa về mức độ bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí
tuệ, xây dựng trên cơ sở quy định Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS) của WTO. Bên cạnh đó, Hiệp định này có những cam kết không được đề cập trong
Hiệp định TRIPS hoặc cao hơn chuẩn mực của Hiệp định TRIPS liên quan đến thủ tục xác lập quyền sở
hữu công nghiệp như thủ tục đăng ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,..

Nhìn chung, cam kết về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định RCEP tương đối toàn diện và cao so với
cam kết trong các Hiệp định khác của ASEAN. Cam kết theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các chủ sở hữu
trí tuệ nhằm thu hút đầu tư ổn định, lâu dài từ bên ngoài, trong đó có các nước đối tác vào thị trường
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.

1.5. Thương mại điện tử

Cấu trúc các trong Chương Thương mại điện tử trong Hiệp định RCEP cũng tương tự trong Hiệp
định CPTPP nhưng có nội dung cam kết ở mức thấp hơn. Đặc biệt, đối với việc quản lý thông tin nhằm
mục đích thương mại qua biên giới, hay việc đặt trang thiết bị máy tính (máy chủ) như là điều kiện để
kinh doanh trên lãnh thổ quốc gia của một nước, Hiệp định RCEP vẫn cho phép các bên được ban hành
hay duy trì bất cứ biện pháp nào nếu thấy cần thiết để bảo vệ an toàn, an ninh môi trường mạng thiết
yếu của mình, phù hợp với yêu cầu của Luật An ninh mạng của ta.

1.6. Mua sắm Chính phủ

Chương Mua sắm của Chính phủ có mức độ cam kết thấp hơn nhiều so với Hiệp định CPTPP và
EVFTA, chỉ gồm các nghĩa vụ tăng cường tính minh bạch, hợp tác và trao đổi thông tin giữa các bên về
chính sách mua sắm công và không bao gồm cam kết mở cửa thị trường. Đồng thời, cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Hiệp định RCEP không áp dụng đối với Chương Mua sắm của Chính phủ.

1.7. Điều khoản chung và các ngoại lệ


Hiệp định RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ an
ninh quốc gia, an toàn lãnh thổ, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sức khỏe của con người, động vật, môi
trường, đạo đức xã hội, bảo đảm cán cân thanh toán, v.v..., tương tự như quy định của WTO.

Đối với các biện pháp về thuế, Hiệp định RCEP không điều chỉnh các cam kết về thuế nội địa trừ
trường hợp thực hiện theo quy định của WTO.

 Cơ hội mà Hiệp định mang lại cho Việt Nam 

1. Cơ hội đối với nền kinh tế Việt Nam

1.1. Cơ hội mở rộng thị trường xuất nhập khẩu

Đối với các cam kết thuế quan, Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số
dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Đến cuối lộ trình sau 15 - 20 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế
quan với khoảng 85,6% - 89,6% số dòng thuế với các nước đối tác, trong khi các nước đối tác xóa bỏ
thuế quan cho DN Việt Nam trong khoảng 90,7% - 92% số dòng thuế. Các nước ASEAN sẽ xóa bỏ thuế
quan cho Việt Nam trong khoảng 85,9% - 100% số dòng thuế. Do đó, RCEP tạo nên một “miếng bánh” thị
trường lý tưởng.

Thứ nhất, RCEP là cơ hội lớn cho Việt Nam khi quy mô thị trường của các quốc gia tham gia hiệp định là
rất lớn. Đây cũng là thị trường không quá khó tính (ngoại trừ Australia, Nhật, New Zealand), có nhu cầu
là sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như nông sản vùng nhiệt đới và thực phẩm chế biến. Đặc điểm của
chuỗi sản xuất RCEP là bao trùm cả chuỗi sản xuất gần như hoàn chỉnh của nhiều loại hàng hóa như điện
thoại, sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến… Do đó, hiệp định RCEP mở ra thêm cơ
hội cho doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu và mở rộng thị trường đặc biệt là các loại mặt
hàng mà Việt Nam có lợi thế như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, v.v. 

Thứ hai, Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu của ASEAN ổn định lâu dài. Trước tình
hình thế giới trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới
theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần
thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta. 
Thứ ba, Không chỉ là chuyện xuất khẩu hàng hóa, gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, cải cách hải quan, mà
RCEP sẽ là hiệp định mang tính toàn diện, mở rộng cho tự do đầu tư trực tiếp, thương mại dịch vụ, kể cả
dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ logistics, bán hàng điện tử với các nước thành viên, trong
đó có Trung Quốc. Nếu như EVFTA và CPTPP mang lại cho Việt Nam một thị trường xuất khẩu rộng lớn,
hướng đến thị trường khó tính, đưa ra các điều kiện cao giúp doanh nghiệp nội địa biết tự nâng mình
lên, nâng chất lượng hàng hóa lên; thì RCEP là một thị trường mênh mông hơn, nhưng tiêu chuẩn thấp
hơn.

Thứ tư, RCEP cũng mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với các thị trường xuất khẩu hàng
hóa đa dạng cả về loại hình và giá cả của các nước đối tác. Các quy định về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan
sẽ giúp Việt Nam có cơ hội nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc từ các nước có trình độ khoa học kỹ
thuật cao, với mức giá thấp hơn. Nhờ vậy có thể tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm
chi phí sản xuất, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị trường
quốc tế

Thứ năm, Việc thực hiện Hiệp định RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về
chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp... góp phần tạo
nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo một số nghiên cứu độc lập, thí dụ như
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, thì việc chúng ta chủ động cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành
chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao
hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước.

Kết thúc quý I, cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng 2 con số. Do đó, với tốc
độ tăng trưởng như hiện nay, nhiều chuyên gia dự báo kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước trong
năm 2022 có thể lập mốc kỷ lục mới và sẽ cán đích 700 tỷ USD.

Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), quý I/2022,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ghi nhận đạt 176 tỷ USD, tăng trưởng 14,4% so với cùng kỳ năm
2021. Đây là mức tăng trưởng rất cao, riêng xuất khẩu đạt tăng trưởng 12,9%.
Đặc biệt, các nhóm hàng nông sản ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu khá cao, khoảng 18 -
19%, trong đó có những mặt hàng đặc biệt như càphê, gạo, thủy sản tăng trưởng từ 38% đến
gần 50%. Đây là những dấu hiệu chung rất tích cực cho hoạt động xuất, nhập khẩu.

Nhận định xung quanh việc tăng trưởng xuất khẩu trong thời gian tới, ông Trần Thanh Hải cho
rằng cơ hội lớn nhất là từ các hiệp định thương mại tự do (FTA).

1.2. Cơ hội thu hút FDI

Bên cạnh những lợi ích trên, RCEP còn được kỳ vọng góp phần gia tăng nguồn vốn FDI vào Việt Nam, từ
đó có những tác động tích cực tới nền kinh tế.  Nhiều chuyên gia chia sẻ nhận định rằng hiệp định RCEP
sẽ đem lại nhiều cơ hội, trong đó bao gồm tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Cụ thể, RCEP sẽ giảm các
rào cản thương mại và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ, thu hút các
công ty nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam hội nhập hơn. Các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là từ
các nước phát triển, sẽ đem lại các tác động lan tỏa tích cực, bao gồm chuyển giao công nghệ, bí quyết
kinh doanh, kỹ năng quản lý và cơ hội tiếp cận thị trường, vốn là những yếu tố Việt Nam còn yếu.

Theo thống kê, trong số 14 nước thành viên RCEP còn lại, hầu hết là các đối tác đầu tư lớn của Việt Nam.
Cụ thể, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính luỹ kế đến ngày 20/10/2020, cả nước có 32.777 dự
án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 380 tỷ USD. Trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh
thổ có đầu tư lớn tại Việt Nam thì có tới 6 đối tác đến từ RCEP. Đối tác đầu tư lớn nhất là Hàn Quốc
(70,4 tỷ USD, chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư cả nước), tiếp đó là Nhật Bản (59,9 tỷ USD, chiếm 15,8%)
Singapore (55,7 tỷ USD, chiếm 14,7%), Trung Quốc (18 tỷ USD, chiếm 4,7%) . Trong 11 tháng năm 2020 ,
tổng vốn đăng ký cấp mới , điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài dạt 26,43 tỷ
USD , trong đó các thành viên trong khối RCEP vẫn là những đối tác dẫn dầu . Cụ thể , Singapore đứng
thứ nhất với tổng vốn đầu tư gần 8,1 tỷ USD , chiếm 30,6 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam ; đứng thứ
hai là Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư 3,7 tỷ USD , chiếm 14 % ; Trung Quốc đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn
đầu tư đăng ký 24 tỷ USD , chiếm 9,1 % . Tiếp theo là Nhật Bản , Đài Loan , Thái Lan , ... 

Trước khi RCEP được ký kết Việt Nam đã và đang được đánh giá là một điểm đến an toàn và hấp dẫn của
giới đầu tư quốc tế minh chứng bởi dòng vốn đầu tư dạng dịch chuyển do sự bùng nổ của dịch bệnh
Covid 19 và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn ra , đồng thời Chính phủ Việt Nam xây dựng nhiều
cơ chế chính sách ưu đãi để đón đầu dòng vốn đầu tư. Với các khung khổ hợp tác mới được đưa ra
trong hiệp định RCEP và các FTA trước đây, Việt Nam chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội lớn trong việc thu hút
FDI từ các nước RCEP cũng như trên thế giới.

1.3. Cơ hội cho người tiêu dùng, văn hóa trong nước

1.3.1. Cơ hội cho người tiêu dùng trong nước. 

Trong bối cảnh tự do hóa thương mại, xuất khẩu sẽ có xu hướng gia tăng, từ đó, nhu cầu nhập khẩu
nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất cũng sẽ tăng. Các nước trong nhóm RCEP chiếm hơn 69%
giá trị nhập khẩu nguyên liệu của Việt Nam, do đó, nếu thuế nhập khẩu được giảm dần về 0% sẽ tiết
giảm đáng kể chi phí nguyên liệu đầu vào. Trong bối cảnh thu nhập và chất lượng sống của người dân
Việt Nam ngày càng được cải thiện, yêu cầu về chất lượng hàng hóa của người tiêu dùng ngày tăng cao.
Trong khi đó, do nhiều yếu tố như dây chuyền và công nghệ sản xuất của Việt Nam còn lạc hậu, các sản
phẩm nội địa không thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu khi tham
gia RCEP sẽ giúp người tiêu dùng Việt Nam được tiếp cận với nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm chất
lượng cao hơn với mức giá rẻ hơn, đặc biệt là các sản phẩm mà Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh.

1.3.2. Cơ hội văn hóa, xã hội

Với sự ký kết Hiệp định RCEP, mở cửa thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thoa các nền
văn hóa từ những quốc gia khác nhau. Các hoạt động giao lưu văn hóa ngày càng trở thành một kênh
chuyên nghiệp, hiệu quả góp phần nâng tầm vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường
quốc tế. Giao lưu văn hóa không chỉ đẩy mạnh quan hệ với cộng đồng nước ngoài, mà còn truyền bá văn
hóa nước nhà đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, gắn kết kiều bào với quê hương, đất nước,
thẩm thấu văn hóa Việt Nam tới cộng đồng nước sở tại.

1.4. Nâng cao năng lực thể chế 

Quan sát cho thấy song song với quá trình đàm phán và và tham gia RCEP, Việt Nam đã có những nỗ lực
hoàn thiện thể chế kinh tế ở Việt Nam, cụ thể: (i) tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý; (ii) củng
cố năng lực của bộ máy tổ chức; và (iii) tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hỗ
trợ theo hướng đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và Chính phủ chỉ can thiệp khi cần khắc phục những thất
bại của thị trường. Do vậy, RCEP chính là một trong số động lực để chính phủ cải cách thể chế.

 RCEP đã đạt được những bước tiến quan trọng trong hài hòa hóa các tiêu chuẩn về thể chế, hoàn thiện
thể chế đến quá trình hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Các quy tắc bảo hộ đầu tư, mua sắm
công, sở hữu trí tuệ, tài chính, thương mại điện tử, cạnh tranh,... theo hướng minh bạch. Góp phần tạo
nên sự thống nhất tương đối trong khu vực, phù hợp với trình độ phát triển khác nhau của từng thành
viên

1.5. Cơ hội lao động việc làm 

Việc Việt Nam tham gia RCEP sẽ góp phần mở cửa thị trường hàng hóa, việc mở rộng một số mặt hàng,
các doanh nghiệp mới hoặc phát triển mở rộng sản xuất cũng từ đó kéo theo nhu cầu lao động tăng cao,
do đó tạo thêm nhiều cơ hội việc làm. Bên cạnh đó lao động trong nước có thể dễ dàng đi sang các quốc
gia thành viên trong Hiệp định tìm cơ hội việc làm và định cư, tăng tỷ lệ lao động được đào tạo theo các
chương trình xuất khẩu lao động.

Ngoài ra, khi các dòng vốn FDI từ các nước trong hiệp định được đẩy mạnh vào Việt Nam, lao động Việt
Nam cũng sẽ được tiếp thu, học hỏi nhiều kỹ năng mới, từ đó góp phần vào tăng chất lượng nguồn nhân
lực ở Việt Nam. 

2. Cơ hội đối với doanh nghiệp Việt Nam

2.1. Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong các thị trường khu vực RCEP

Hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối: Với 2 điểm cộng trong quy tắc xuất xứ của RCEP:

(1) Hiệp định RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ
trong toàn khối.

Nguyên tắc cộng gộp

a. Hàng hóa được coi là có xuất xứ trong trường hợp hàng hóa được sản xuất tại lãnh thổ của một hay
nhiều Nước thành viên bởi một hay nhiều nhà sản xuất, với điều kiện hàng hóa đáp ứng các quy định.

b. Hàng hóa hoặc nguyên liệu có xuất xứ tại một hay nhiều Nước thành viên được sử dụng trong quá
trình sản xuất hàng hóa khác tại lãnh thổ của một Nước thành viên khác được coi là có xuất xứ tại lãnh
thổ của Nước thành viên đó.

c. Quá trình sản xuất nguyên liệu không có xuất xứ tại lãnh thổ của một hay nhiều Nước thành viên bởi
một hay nhiều nhà sản xuất được tính vào thành phần có xuất xứ của hàng hóa khi xác định xuất xứ
hàng hóa, không tính đến quá trình sản xuất đủ để nguyên liệu trở thành có xuất xứ

(2) Chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định RCEP sẽ đa dạng hơn so với các FTA
ASEAN+1 ((Hiệp định thương mại tự do song phương của ASEAN với đối tác bên ngoài) (RCEP là FTA
ASEAN+5): Theo đó, doanh nghiệp có thể áp dụng 3 hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá
như sau:

Một là Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) được cấp bởi các tổ chức cấp;

Hai là doanh nghiệp đủ điều kiện được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá;

Ba là bất kỳ doanh nghiệp có thể được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá.

=> Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ

=> Điều này giúp loại bỏ nhu cầu tham chiếu nhiều FTA và điều chỉnh các thủ tục khác nhau cho các quốc
gia khác nhau trong RCEP đối với cùng một loại hàng hóa.

=> Giảm chi phí, thời gian xuất khẩu (không cần đáp ứng yêu cầu riêng từng quốc gia)

=> Do đó tăng tỷ suất lợi nhuận và làm cho hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn trên các thị trường RCEP.

2.2. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh một số mặt hàng (lĩnh vực) chủ yếu có lợi từ RCEP:

Các ngành như dệt may, nông thủy sản,... với hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc,... sẽ chủ
yếu hưởng lợi từ quy tắc xuất xứ nới lỏng

a. Đối với ngành dệt may:

- Trước đây, Việt Nam xuất khẩu dệt may sang Nhật Bản: Thông qua các FTA mà Việt Nam - Nhật Bản
đều là thành viên: AJCEP, VJEPA, CPTPP (không gồm Trung Quốc, Hàn Quốc)

=> Sản phẩm dệt may với nguyên liệu xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn Quốc không được ưu đãi thuế khi
xuất khẩu sang Nhật

- Giờ đây, với thành viên của RCEP Trung Quốc và Hàn Quốc là nguồn cung nguyên liệu chủ yếu, Việt
Nam tận dụng ưu đãi thuế quan hàng hóa dệt may khi xuất khẩu sang các thị trường trong hiệp định (có
Nhật Bản)

b. Đối với ngành nông - lâm - thủy sản:

Tham gia hiệp định hợp tác quốc tế nói chung sẽ luôn mang lại lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam do nhiều
mặt hàng Việt Nam nắm ưu thế thị trường như gạo, cà phê, tiêu, hạt điều,... Vì vậy mà nông lâm thủy
sản, trong đó nông sản - thủy sản vẫn đóng vai trò quan trọng đối với xuất khẩu quốc gia

* Trước hết, đối với ngành nông sản:


- Năm 2020:

+ Tình hình dịch bệnh, biến đổi khí hậu toàn cầu gây thiệt hại cho ngành nông nghiệp thế giới dẫn đến
thị trường nhiều mặt hàng nông sản suy giảm

+ Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung gây ảnh hưởng mậu dịch toàn cầu

=> Khó xuất khẩu do tăng biện pháp bảo hộ, hàng rào kỹ thuật

- Năm 2020: năm Việt Nam ký kết những hiệp định quan trọng, trong đó có RCEP giúp giảm rào cản
thương mại, hài hòa quy tắc xuất xứ

=> Lợi cho ngành nông nghiệp:

- Giảm thuế, tăng ưu đãi

- Chi phí logistic thấp hơn, vận chuyển dễ dàng hơn vào các thị trường RCEP do khoảng cách địa lý nội
khối không quá xa

- Đàm phán mở cửa thêm nhiều mặt hàng nông sản

- Hầu hết các quốc gia thành viên cần nhập khẩu mặt hàng thế mạnh của Việt Nam: nông thủy sản, rau
củ quả,...

* Đối với ngành thủy sản:

- Trước đây, Việt Nam muốn xuất khẩu hàng hóa thủy sản sẽ phải chịu yêu cầu xuất xứ thuần túy tại Việt
Nam

- Bây giờ, việc tham gia vào hiệp định RCEP cho phép nhập khẩu con giống từ các quốc gia thành viên,
sau đó nuôi trồng ở Việt Nam rồi xuất khẩu vẫn được nhận ưu đãi thuế

c. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác như:

* Ngành công nghiệp - xây dựng:

- Dễ dàng thâm nhập vào thị trường xuất khẩu ASEAN và các quốc gia thành viên khác nhờ vào sự đa
dạng hóa nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ.

- Nhập khẩu hàng hóa đầu vào với giá thành rẻ hơn:

+ Sắt thép từ Trung Quốc


+ Sản phẩm nhựa từ Hàn Quốc, Nhật Bản

+ Máy móc - thiết bị công nghệ hiện đại

+...

- Tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và mạng lưới sản xuất; Gia tăng hợp tác về mặt kỹ thuật và vị thế
trong thỏa thuận đàm phán.

- Giảm chi phí giao dịch gây ra bởi hiệu ứng “bát mỳ” (sự chồng chéo các bộ quy tắc xuất xứ của các FTA)

* Ngành dịch vụ:

- Hiện nay ở Việt Nam có 4 ngành xuất khẩu dịch vụ chính:

+ Thương mại dịch vụ giữa các quốc gia: xuất khẩu dịch vụ từ Việt Nam sang quốc gia khác

+ Sử dụng dịch vụ ở nước ngoài: người nước ngoài sang Việt Nam, sử dụng dịch vụ du lịch của Việt Nam
(du lịch chính là dịch vụ xuất khẩu)

+ Hiện diện thương mại: Công ty Việt Nam thành lập chi nhánh ở nước ngoài phục vụ người dân nước đó

+ Hiện diện thể nhân: cá nhân Việt Nam di chuyển sang nước ngoài phục vụ dịch vụ cho nước đó (ví dụ:
công tác, tình nguyện,...)

Thứ nhất, RCEP mở ra cơ hội cho ngành dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là dịch vụ xuất khẩu
nhà hàng - khách sạn cho các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,...

- Năm 2019, thị trường đưa khách đến Việt Nam nhiều nhất là: Trung Quốc đạt 5.806.400 lượt người,
Hàn Quốc đạt 4.290.800 lượt người, Nhật Bản đạt 951.960 lượt người, Malaysia đạt 606.200 lượt người,
Thái Lan đạt 509.800 lượt người, Australia đạt 383510 lượt người.

- Năm 2020, do tình hình dịch bệnh COVID-19 lượng khách du lịch từ Trung Quốc giảm 83,5%; Hàn Quốc
- 80,4%; Nhật Bản - 78,4%; Malaysia - 80,7%...

- Năm 2021 (tám tháng đầu năm - do ảnh hưởng của dịch COVID-19), khách đến từ tất cả các thị trường
đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 42,7 nghìn lượt người, giảm 95,4% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc
21 nghìn lượt người, giảm 97,5%; Nhật Bản 5,6 nghìn lượt người, giảm 97,2%;...

=> Việt Nam chủ yếu đón tiếp khách từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,... (Chủ yếu thành viên trong
hiệp định RCEP)
- Trong điều kiện bình thường, không có COVID-19, trong 9 tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu
dịch vụ du lịch đạt 8,4 tỷ USD (chiếm 70,2% tổng kim ngạch), tăng 11%. Do bối cảnh dịch bệnh, con số
này đã giảm rất mạnh. Trong 9 tháng đầu năm 2020 kim ngạch xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 2,5 tỷ USD
(chiếm 45,1% tổng kim ngạch), giảm 70,9%. Con số minh chứng là trong 9 tháng đầu năm 2021, xuất
khẩu dịch vụ du lịch chỉ đạt 107 triệu USD (chiếm 4% tổng kim ngạch)

Bảng: Kim ngạch XK dịch vụ du lịch của Việt Nam 2019 - 2021

2019 2020 2021

Kim ngạch XK du lịch 8,4 tỷ 2,5 107 triệu


(USD) tỷ

Tỷ trọng tổng KN (%) 70,2 45,1 4

(số liệu 9 tháng đầu năm)

=> Có thể thấy xuất khẩu dịch vụ có thể đem lại tiềm lực kinh tế lớn cho nước ta khi tham gia RCEP nếu
Nhà nước có chính sách phòng chống dịch phù hợp, triệt để.

Thứ hai, Việt Nam có cơ hội lớn đối với xuất khẩu dịch vụ viễn thông ra các quốc gia RCEP, trong đó chú
trọng Trung Quốc, Myanmar, Lào, Cam-pu-chia.

Ví dụ: Ngày 9/5/2019, Mytel - thương hiệu của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) tại
Myanmar đã vượt mốc 5,5 triệu khách hàng, vươn lên chiếm hơn 14% thị phần viễn thông di động và
đứng thứ 3 trên thị trường.

-> RCEP giúp giảm “rủi ro lạc nhịp” của Việt Nam trong quá trình phục hồi kinh tế so với đà phục hồi của
khu vực. Khi tham gia sân chơi chung trong RCEP, các quy định về quy tắc xuất xứ, quy chuẩn, tiêu chuẩn
về hàng hóa, tiêu chuẩn của doanh nghiệp cũng cần phải hài hòa, giúp doanh nghiệp có cơ hội tốt hơn
khi tham gia chuỗi giá trị một cách sâu rộng hơn.

Khẳng định về lâu dài, RCEP sẽ tạo ra chuỗi cung ứng mới trong khu vực và Việt Nam trở thành một “mắt
xích” của chuỗi cung ứng đó là cơ hội lớn cho xuất khẩu, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm
WTO và Hội nhập (Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam) cho hay, khi xuất khẩu theo chuỗi
cung ứng gia tăng, Việt Nam sẽ giảm được nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

Một trong những điểm đáng chú ý nhất của Hiệp định RCEP là được thiết kế nhằm cắt giảm chi phí và
thời gian cho các thương nhân, khi cho phép xuất khẩu hàng hóa sang bất kỳ quốc gia ký kết thỏa thuận
nào mà không cần đáp ứng các yêu cầu riêng biệt của từng quốc gia.

Nếu như ở CPTPP, Việt Nam khó tận dụng ưu đãi thuế quan đối với sản phẩm dệt may bởi quy tắc xuất
xứ nội khối vì phần lớn nguồn cung nguyên liệu của Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc thì khi tham gia
RCEP, gánh nặng chi phí nhập khẩu nguyên liệu đầu và sẽ được giảm bớt nhờ những ưu đãi thuế quan.

You might also like