You are on page 1of 10

ĐỀ TÀI: Cơ hội và thách thức của công đoàn Việt Nam khi gia nhâ ̣p các hiê ̣p định

thương mại tự do.

DÀN Ý

LỜI MỞ ĐẦU

- Lý do chọn đề tài: Hiện nay Việt Nam đang tham gia ngày càng nhiều các hiệp
định thương mại tự do (FTA), bối cảnh này buộc Việt Nam phải có những bước
thay đổi nhanh chóng, tích cực để hội nhập và đáp ứng yêu cầu mà các FTA này
đặt ra. Trong đó có một hiệp định quan trọng được ký kết vào kỳ họp thứ 6, Quốc
hội khóa XIV – Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP). Với hiệp định này Các nhà kinh tế kỳ vọng rằng CPTPP sẽ mang lại lợi
ích kinh tế mạnh mẽ cho Việt Nam, dưới hình thức cạnh tranh về giá của hàng
xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường nước ngoài lớn và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra hàng triệu việc làm, kể cả trong
vừa và nhỏ doanh nghiệp quy mô. Quan trọng hơn, nó sẽ giúp tạo điều kiện cho
cải cách trong nước trong nhiều lĩnh vực, tạo môi trường cho nền kinh tế cạnh
tranh. Vậy những cơ hội và thách thức đó là gì? Cần có những biện pháp gì để
Công đoàn Việt Nam thay đổi cho phù hợp với những ràng buộc của CPTPP? Bài
viết này xin phép được làm rõ các nội dung trên.

- Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác công đoàn sao cho phù hợp với yêu cầu của CPTPP.

- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:

+ Đối tượng: Hoạt động của tổ chức công đoàn Việt Nam và các nội dung liên
quan đến công đoàn của Hiệp định CPTPP.

+ Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Vì hạn chế về mặt thời gian và nguồn lực, nên
nghiên cứu chỉ tập trung thu thập dữ liệu đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất để xuất khẩu các loại mặt hàng về nông sản thô và lương thực, thực phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm thu thập, phân tích, mô
tả, và giải thích dữ liệu thứ cấp (Denzin and Lincoln, 1994) từ các nguồn đáng tin
cậy như tổng cục thống kê, bộ lao động thương binh và xã hội, ngân hàng thế giới,
và tổ chức lao động quốc tế. Các diễn giải định tính được xây dựng và các kỹ thuật
khác nhau có thể được sử dụng để hiểu dữ liệu, như phân tích nội dung, lý thuyết
có căn cứ (Glaser & Strauss, 1967), phân tích chuyên đề (Braun & Clarke, 2006)
hoặc phân tích diễn ngôn.
Nguồn dữ liệu thứ cấp sẽ tập trung vào những khía cạnh được quy định trong công
ước của tổ chức lao động quốc tế như:
+ Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (ILO điều 29 và
105): thể hiện ở số giờ làm việc, mức độ lương thưởng theo năng suất, hoạt động
tăng ca, chế độ phúc lợi xã hội.
+ Loại bỏ tất cả hình thức phân biệt đối xử tại nơi làm việc (ILO điều 100 và 111):
tỷ lệ cân bằng giới trong doanh nghiệp, tỷ lệ người tàn tật được sử dụng trong
doanh nghiệp, tỷ lệ phát sinh các trường hợp người lao động bị xâm phạm quyền
lợi

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan về CPTPP

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện có nguồn gốc từ Hiệp định đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương - còn được gọi là P4) - một hiệp định thương
mại tự do được ký ngày 03 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 28 tháng 5 năm 2006
giữa 4 quốc gia: Singapore, Chile , New Zealand và Brunei. Năm 2007, các quốc gia
thành viên của P4 đã quyết định mở rộng phạm vi đàm phán Hiệp định này sang các vấn
đề về dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả năng nước này tham gia
vào các cuộc đàm phán kéo dài về P4. Vào tháng 11 cùng năm, Úc, Peru và Việt Nam
cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia vào các cuộc đàm phán TPP, nâng tổng số người
tham gia đến 8 quốc gia.

Tổng kết lại, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một hiệp định thương
mại tự do khu vực (FTA) hiện đang được đàm phán giữa Úc, Brunei, Canada, Chile,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam. Các đối tác đàm
phán đã bày tỏ sự quan tâm trong việc cho phép thỏa thuận sống được đề xuất này, đề
xuất cho các chủ đề thương mại mới và bao gồm các thành viên mới sẵn sàng chấp nhận
các tiêu chuẩn cao được đề xuất. Canada và Mexico là những quốc gia gần đây nhất tham
gia đàm phán và Nhật Bản đã tham gia vào các cuộc tham vấn với các nước đối tác về
khả năng tham gia.

Từ đó mở rộng ra, Hiệp định toàn diện và tiến bộ về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do giữa Canada và 10 quốc gia khác
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Úc, Brunei, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Sau khi được thực hiện đầy đủ, 11
quốc gia sẽ hình thành một khối thương mại đại diện cho 495 triệu người tiêu dùng và
13,5% GDP toàn cầu, cung cấp cho Canada quyền truy cập ưu đãi vào các thị trường
trọng điểm ở châu Á và châu Mỹ Latinh. Vào ngày 30 tháng 12 năm 2018, CPTPP có
hiệu lực trong số sáu quốc gia đầu tiên phê chuẩn thỏa thuận - Canada, Úc, Nhật Bản,
Mexico, New Zealand và Singapore. Vào ngày 14 tháng 1 năm 2019, CPTPP có hiệu lực
đối với Việt Nam.

CPTPP đặt mục tiêu thiết lập một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, và kết hợp
các vấn đề mới và mới nổi bằng cách nắm giữ năm tính năng chính. Thứ nhất, nó nhằm
mục đích tạo ra một tiếp cận thị trường toàn diện, loại bỏ thuế quan và các rào cản khác
đối với thương mại hàng hóa và dịch vụ và đầu tư. Thứ hai, nó nhằm mục đích tạo ra một
thỏa thuận khu vực bằng cách tạo điều kiện phát triển chuỗi sản xuất và cung ứng giữa
các thành viên TPP. Thứ ba, nó sử dụng cách tiếp cận các vấn đề thương mại xuyên suốt
thông qua việc xây dựng công việc đang được thực hiện tại APEC và các diễn đàn khác
bằng cách kết hợp bốn vấn đề xuyên suốt mới: sự gắn kết pháp lý, khả năng cạnh tranh và
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, và phát triển. Thứ tư, nó tập
trung vào các thách thức thương mại mới bằng cách giải quyết các vấn đề thương mại
mới nổi như những vấn đề gây ra bởi công nghệ kỹ thuật số. Thứ năm, đó là một thỏa
thuận sống cho phép cập nhật thỏa thuận nhằm đáp ứng các vấn đề thương mại tiềm năng
trong tương lai cũng như các vấn đề mới xuất phát từ việc mở rộng thỏa thuận bao gồm
các quốc gia mới.

Tuy nhiên, đáng chú ý hơn là những gì không thay đổi giữa TPP và CPTPP. Chương về
các doanh nghiệp nhà nước (SOE) không bị thay đổi; chương đó đề cập đến trợ cấp của
các doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu các quốc gia chia sẻ thông tin về doanh nghiệp
của họ với nhau, một bước tiến lớn trong việc giải quyết vấn đề khó khăn của sự can
thiệp của nhà nước vào thị trường. Các chương về thương mại điện tử và mua sắm chính
phủ không thay đổi so với thỏa thuận TPP ban đầu. Chương thương mại điện tử có các
biện pháp bảo vệ rộng rãi cho dữ liệu được tạo ra thông qua thương mại kỹ thuật số và
bảo vệ luồng thông tin tự do xuyên biên giới, trong khi chương mua sắm chính phủ mở
hợp đồng chính phủ cho các nhà thầu nước ngoài. Các nguyên tắc này là tích cực không
chỉ đối với các bên ký CPTPP, mà còn đối với hệ thống thương mại toàn cầu và phần lớn
phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ.

Với tổng cộng 30 chương, CPTPP bao gồm hầu như tất cả các khía cạnh thương mại giữa
Canada và 10 thành viên CPTPP khác. Hiệp định có các cam kết tiếp cận thị trường đầy
tham vọng trong thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, di chuyển lao động và mua sắm
chính phủ. Hiệp định cũng thiết lập các quy tắc rõ ràng giúp tạo ra một môi trường nhất
quán, minh bạch và công bằng để kinh doanh trên thị trường CPTPP, với các chương
dành riêng cho các vấn đề chính như rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp
vệ sinh và kiểm dịch thực vật, quản lý hải quan, minh bạch và doanh nghiệp nhà nước .
Ngoài ra, CPTPP có các chương về bảo vệ môi trường và quyền lao động, có thể được thi
hành bằng cách giải quyết tranh chấp, để đảm bảo rằng các thành viên CPTPP không làm
mất đi các cam kết của họ trong các lĩnh vực này để tăng cường thương mại hoặc đầu tư

CHƯƠNG 2: VIỆT NAM VÀ VIỆC GIA NHẬP CPTPP


1.2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập Hiệp định CPTPP
Cơ hội:

Nhờ giảm thuế, Việt Nam sẽ có thể hưởng lợi từ việc tăng xuất khẩu sang các thị trường
CPTPP, đặc biệt là những nước mà Việt Nam hiện không có FTA như Canada, Mexico
và Peru, và đặc biệt là hàng hóa mà Việt Nam có lợi thế so sánh như dệt may , giày dép,
điện tử và nông sản. Đặc biệt, Việt Nam được dự đoán là nước hưởng lợi lớn nhất, với
mức tăng trưởng dự kiến trong ngoại thương và đầu tư lần lượt là 30,1% và 14,4% vào
năm 2030. Bằng cách tham gia vào mạng lưới sản xuất giữa các thành viên CPTPP, Việt
Nam có thể tích hợp hơn nữa vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, từ đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo. Đồng thời, xuất khẩu ngày càng tăng sang thị trường
CPTPP có thể tạo ra trung bình khoảng 20.000-26.000 việc làm cho Việt Nam, đặc biệt là
trong lĩnh vực sản xuất như dệt may, từ đó giúp giảm số người sống dưới mức nghèo khổ,
gần một triệu vào năm 2030.

Ngoài ra, các cam kết về dịch vụ và đầu tư trong sắp xếp có thể giúp Việt Nam cải thiện
môi trường đầu tư và thu hút thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước trong và
ngoài CPTPP, từ đó cải thiện khả năng sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, việc
Việt Nam tham gia CPTPP có thể thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nước, đặc biệt là về thể chế kinh tế và cải cách doanh nghiệp nhà nước

Thách thức

Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức đáng chú ý bằng cách đăng nhập vào
CPTPP. Cơ cấu sản xuất công nghiệp của Việt Nam không phù hợp với quy định của
CPTPP, đặc biệt liên quan đến quy tắc xuất xứ. Do quy mô nhỏ của các ngành công
nghiệp trong nước và thiếu các ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam phải nhập khẩu hầu
hết các đầu vào trung gian. Điều này khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc đáp ứng
các yêu cầu về nội dung trong nước theo CPTPP.

Việt Nam cũng phải sửa đổi nhiều quy định hiện hành về thương mại, hải quan, sở hữu trí
tuệ và lao động để đưa chúng phù hợp với CPTPP cũng như thu hẹp bất kỳ khoảng cách
hiện có nào giữa CPTPP và các hiệp định song phương và đa phương khác mà Việt Nam
đang tham gia, như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực. Đồng thời, Việt Nam
cũng sẽ phải đối mặt với thách thức về thu ngân sách nhà nước vì việc giảm và xóa bỏ
thuế nhập khẩu theo các thỏa thuận sẽ dẫn đến giảm thu ngân sách nhà nước.

Những thách thức khác bao gồm đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng của xuất khẩu
và đầu tư từ các thành viên CPTPP khác, thúc đẩy sự tham gia của các khu vực tư nhân
và doanh nghiệp vừa và nhỏ vào các hoạt động kinh tế của đất nước, và tiến hành cải
cách toàn diện các doanh nghiệp nhà nước. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước
thực hiện nhiều vai trò kinh tế và xã hội quan trọng như tạo việc làm và thúc đẩy sự ổn
định xã hội. Tuy nhiên, theo CPTPP, các vai trò này sẽ bị hạn chế đáng kể bởi các quy
định mới sẽ hạn chế các doanh nghiệp nhà nước có được tài chính hoặc chế độ ưu đãi từ
chính phủ Việt Nam. Hơn nữa, tất cả các doanh nghiệp nhà nước ở các quốc gia thành
viên CPTPP phải đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động và cung cấp thông tin.

Về khía cạnh lao động, Những thay đổi công nghệ được biểu tượng hóa bởi Cách mạng
công nghiệp 4.0 sẽ tái cấu trúc sâu sắc bản chất của công việc - cả số lượng và chất lượng
- trong sản xuất và dịch vụ. Nghiên cứu của ILO cho thấy những thay đổi về công nghệ
sẽ ảnh hưởng đến hầu như tất cả các ngành, đặc biệt là các ngành sản xuất. Ví dụ, ILO
ước tính rằng 86 phần trăm của tất cả các công nhân làm công trong ngành dệt, quần áo
và giày dép của Việt Nam có thể đối mặt với rủi ro tự động hóa cao trong tương lai. Cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ phá hủy một số công việc nhưng đồng thời tạo ra các loại
công việc mới. Đây là một thách thức phức tạp mà từng người lao động không sẵn sàng
đối phó. Công nhân cá nhân không thể lường trước những công việc sẽ biến mất và
những kỹ năng mới nào sẽ được yêu cầu trong tương lai. Công nhân cá nhân không nên
bị bỏ lại một mình để tìm việc làm mới, khi họ mất việc do thay đổi cấu trúc và công
nghệ ..

1.3. Cơ hội và thách thức của công đoàn Việt Nam khi gia nhập Hiệp định CPTPP

Cơ hội:
Kết hợp với nhau, Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và CPTPP, sẽ đẩy nhanh những thay
đổi trong nền kinh tế và thị trường lao động. Nhìn chung, chúng ta có thể kỳ vọng Cách
mạng công nghiệp 4.0 và CPTPP, có tiềm năng tích cực trong việc tạo điều kiện chuyển
đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam và cũng nâng cấp năng suất và hồ sơ của các ngành công
nghiệp trên đất nước.

CPTPP sẽ mang lại lợi ích kinh tế mạnh mẽ cho Việt Nam, dưới hình thức cạnh tranh về
giá của hàng xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường nước ngoài lớn và nhiều vốn FDI,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra hàng triệu việc làm, kể cả trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Về khía cạnh quyền lao động, hiệp định này đã có tác động rất lớn, đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức cho tổ chức Công đoàn Việt Nam khi gia nhập, bởi những
điều kiện ràng buộc mới có tính chất khắt khe hơn yêu cầu tất cả các quốc gia tham gia áp
dụng và duy trì các quyền như được nêu trong Tuyên bố ILO năm 1998 trong luật pháp,
thể chế và thông lệ của họ.

Thách thức

Tuy nhiên, một số điểm yếu trong luật lao động và các tổ chức liên quan đến quan hệ
công nghiệp vẫn còn. Đã rất nhiều cuộc đình công kể từ giữa những năm 1990 và tất cả
đều là theo khuynh hướng tự phát, không phải do các công đoàn khởi xướng. Đây là một
dấu hiệu rõ ràng cho thấy người lao động không cảm thấy các quyền và mối quan tâm của
họ được giải quyết và quy trình được thiết lập để giải quyết các vấn đề không hoạt động
đúng. Không có gì lạ khi thấy ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo công đoàn tại nơi làm việc là
những người quản lý cao cấp của các doanh nghiệp, điều này không thể chấp nhận được
ở hầu hết các quốc gia trong thế giới ngày nay. Quyền của công đoàn là quyền của người
lao động, và công đoàn là tổ chức của người lao động, không có sự can thiệp của người
sử dụng lao động.

Tất cả các quốc gia thành viên của ILO, bao gồm cả Việt Nam, buộc phải tôn trọng các
quyền được quy đinh trong công ước 1998. Nó được coi là quyền phổ quát trong xã hội
hiện đại. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn ba công ước cốt lõi (Công ước 87, 98
và 105) liên quan đến tự do lập hội, quyền thương lượng tập thể và xóa bỏ lao động
cưỡng bức. Chương 19 về lao động của CPTTP dựa trên Tuyên bố năm 1998 của ILO.
Nó cũng thiết lập các liên kết giữa việc thực hiện Tuyên bố ILO năm 1998 và các điều
kiện thương mại trong một khung thời gian, bao gồm các biện pháp trừng phạt có thể có.

1.4. Thực trạng những thay đổi của công đoàn Việt Nam khi gia nhập Hiệp định
CPTPP

Việt Nam đã công nhận nghĩa vụ này và thực hiện các bước để đáp ứng nó thông qua quá
trình luật lao động và cải cách thể chế hiện đang được tiến hành. Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc tái khẳng định sự cần thiết của cải cách này vào ngày 17 tháng 1 khi tham dự
hội nghị kế hoạch năm 2018 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Trên thực tế, Việt
Nam đã cải thiện ổn định khung pháp luật lao động trong quá trình tiến tới nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa kể từ thời Đổi mới. Trong những năm gần đây, sự bảo vệ pháp lý
đã dần được mở rộng để hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế phi thị trường.

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC CÔNG ĐOÀN
NHẰM PHÙ HỢP VỚI NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH CPTPP

Trước tiên hết, giải pháp cần phải bắt nguồn từ vị trí lãnh đạo của một quốc gia. Chính
phủ cần nâng cao năng lực thiết kế và thực hiện các chính sách thị trường lao động tích
cực, dự báo sẽ thay đổi thị trường việc làm, phát triển đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu
mới, nâng cấp hệ thống giáo dục và bảo vệ xã hội trong quá trình chuyển đổi từ công việc
này sang công việc khác. Và nó nên được thực hiện trong quan hệ đối tác công tư, với sự
tham gia thực sự của các ngành công nghiệp và doanh nghiệp, những người đòi hỏi người
lao động với bộ kỹ năng và giáo dục mới

Đây đồng thời cũng nên được xem như là một cơ hội cho các công đoàn dưới sự bảo trợ
của VGCL để hiện đại hóa tổ chức và chức năng của mình để thể hiện tốt hơn tiếng nói
của công nhân. Với chính sách Đổi mới và hội nhập toàn cầu sâu rộng hơn, các công
đoàn đã thực hiện một số điều chỉnh cho các chức năng của họ, với sự nhấn mạnh hơn
vào việc đại diện cho công nhân Tiếng nói thông qua thương lượng tập thể. Quyền của
công đoàn là quyền của người lao động, và công đoàn là tổ chức của người lao động,
không có sự can thiệp của người sử dụng lao động.

CPTPP yêu cầu Việt Nam tôn trọng và thúc đẩy Tuyên bố ILO năm 1998, đặc biệt là
Công ước 87 về tự do lập hội và Công ước 98 về quyền thương lượng tập thể. Tóm lại, nó
yêu cầu các công đoàn phải là công đoàn - nói cách khác, nó yêu cầu các công đoàn phải
là tổ chức của người lao động, vì họ ở hầu hết các quốc gia thành viên của ILO.

Hầu hết các quốc gia thành viên ILO, có các quy định pháp lý đảm bảo sự độc lập của
công đoàn đối với người sử dụng lao động, không bị can thiệp hoặc phân biệt đối xử bởi
người sử dụng lao động và quyền tự chủ của công đoàn trong việc quản lý các vấn đề nội
bộ của chính họ, không bị can thiệp hành chính quá mức, theo các quy tắc do luật pháp
quốc gia đặt ra và phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế. Và đó là các quy tắc và
nguyên tắc phổ quát của công đoàn và quan hệ lao động, được thể hiện trong Tuyên bố
ILO năm 1998, được CPTPP yêu cầu.

3.1 Cơ sở đề xuất giải pháp: xem xét thực trạng về động lực làm việc của nhân viên
trường cao đẳng Sài Gòn để đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện động lực, nâng cao
tinh thần làm việc cho nhân viên nhà trường.

3.2. Các giải pháp đề xuất

- ….

- ….

- ….

KẾT LUẬN

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các điều kiện của người lao động, bao gồm tiền
lương, được xác định thông qua đối thoại xã hội và thương lượng tập thể giữa đại diện
của người lao động và người sử dụng lao động, được trao quyền và quy định bởi các luật
và quy định liên quan đến công nghiệp. Đây là một điểm yếu của Bộ luật Lao động hiện
hành, sẽ phải được cải thiện tính nhất quán với Tuyên bố ILO năm 1998. Trong quá trình
sửa đổi, cũng cần xem xét đến việc phê chuẩn các Công ước 98 và 87, vì nó cung cấp một
nguyên tắc phổ quát dựa trên đó quan hệ công nghiệp hiện đại được xây dựng ở hầu hết
các quốc gia thành viên ILO.Tuy nhiên, có nhiều vấn đề quan trọng sẽ ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp, người lao động và toàn xã hội, bao gồm hợp đồng lao động, phân biệt đối
xử, tuổi nghỉ hưu, tiền lương và giờ làm việc.

Chuyển đổi sang quan hệ công nghiệp dựa trên tự do liên kết có thể được quản lý và phối
hợp để tạo ra một hệ thống quan hệ công nghiệp với mức độ ổn định chính trị xã hội cao
hơn. Và kinh nghiệm quốc tế cho thấy các công đoàn hiệu quả góp phần ổn định xã hội
và chính trị bằng cách đưa tiếng nói của người lao động vào việc hoạch định chính sách
ảnh hưởng đến thế giới của công nhân và người lao động, đồng thời góp phần vào sự
thịnh vượng chung bằng cách thương lượng tập thể và đối thoại xã hội. Có rất nhiều
nghiên cứu toàn cầu cho thấy bằng chứng thống kê cho mối liên hệ tích cực giữa các
công đoàn hiệu quả và quan hệ công nghiệp, và sự thịnh vượng chung và sự ổn định xã
hội. theo các yêu cầu của CPTPP, và kế hoạch đệ trình dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi
lên Quốc hội vào tháng 5 năm 2019. Các chương quan hệ công nghiệp là chìa khóa
không chỉ về CPTPP và FTA EU-Việt Nam mà còn vì mục tiêu tổng thể là hiện đại hóa
cách thức làm việc được quy định tại Việt Nam hiện đại.

You might also like