You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


----------------

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP TPP
NHÓM: 03

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:


1. Đặng Thị Hoài Thương Nguyễn Ngọc Châu
2. Đặng Thị Tâm
3. Nguyễn Thị Quỳnh Nhi
4. Nguyễn Thị Thanh Ngân
5. Đào Thị Thúy
6. Văn Thị Thùy Dung
7. Mai Thị Nga

Huế, tháng 10 năm 2016

Page | 1
MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nguyên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH TPP


1. Khái niệm về TPP
2. Qúa trình hình thành
3. Mục tiêu của TPP
4. Thực trạng Việt Nam khi gia nhập TPP
CHƯƠNG 2:NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI
GIA NHẬP TPP
1. Cơ hội
2. Thách thức
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI
THAM GIA TPP
1. Giải pháp cho các doanh nghiệp
2. Định hướng cải cách thể chế ở Việt Nam

PHẦN III: KẾT LUẬN

Page | 2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới hiện nay, quá trình
hội nhập quốc tế là một trong những yếu tố tất yếu được đặt lên hàng đầu của
mỗi quốc gia. Chính vì thế sự hợp tác thương mại là một trong những yếu tố có
tầm hết sức quan trọng hàng. Đặc biệt hiện nay, để phát triển hơn nữa việc hợp
tác kinh tế quốc tế giữa các nước, ngoài những hiệp định đã có một số nước vẫn
tiếp tục tham gia vào những hiệp định mới với sự mở cửa hợp tác rộng, sâu và
toàn diện hơn. TPP được coi như Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới" đầy
tham vọng và tiêu chuẩn cao; là một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và
toàn diện. Với cam kết mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu của các bên,
loại bỏ hoàn toàn nhiều dòng thuế nhập khẩu, mở cửa dịch vụ và các yêu cầu
cao về môi trường và lao động. Vì thế, TPP được đánh giá là cơ hội không thể
bỏ qua.
Quy mô của TPP được cho là sẽ tạo những lợi ích to lớn cho nền kinh tế
Việt Nam, khi mang đến những cam kết về các lĩnh vực quan trọng như dịch vụ
(ngân hàng, tài chính, pháp lý và môi giới); đầu tư; viễn thông và thương mại
điện tử; quyền sở hữu trí tuệ; hàng rào kỹ thuật trong thương mại... TPP cũng
tạo nhiều cơ hội thuận lợi đối với các ngành xuất khẩu của Việt Nam như giảm,
miễn thuế đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt ở các nước thành viên. Tuy
nhiên, bên cạnh những triển vọng cũng như cơ hội mà TPP có thể mang lại thì
hiệp định cũng gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước đặc biệt
là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Vì đòi hỏi Nhà nước phải có
những bước đi thận trọng và đúng hướng. Do đó, nhóm quyết định chọn đề tài
"Những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP)" nhằm làm rõ
những cơ hội có được ,cũng như các thách thức mà Việt Nam có thể gặp phải
khi tham gia Hiệp định.

Page | 3
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các cam kết về thương mại trong các FTA của
các nước, dự báo kết quả đàm phán của Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương
mại.
Đề tài này nhóm sẽ phân tích cơ hội và thách thức của Việt Nam trong lĩnh
vực thương mại và từ đó đề xuất một số khuyến nghị cho Việt Nam trong quá
trình đàm phán cũng như triển khai hiệu quả Hiệp định sau khi ký kết.
3. Đối tượng nghiên cứu:
 Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập TPP
4. Phương pháp
 Phương pháp luận: phương pháp chuẩn tắc…và một số phương pháp khác
 Phương pháp cụ thể:
- Phương pháp thu thập số liệu- thứ cấp( lấy số liệu từ môt số nguồn)
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: phân tích tài liệu, số liệu
thống kê, nghiên cứu so sánh và quy nạp, kết hợp nghiên cứu với thực tiễn.
- Các nguồn số liệu thu thập được sẽ được thống kê, phân tích, ủng hộ, bác
bỏ, tìm các phương pháp ứng dụng cho lao động và việc làm ở nước ta.

Page | 4
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HIỆP ĐỊNH TPP
1. Khái niệm về TPP
TPP là mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính toàn diện, vừa có mức
độ cam kết sâu và rộng. Việc tận dụng được cơ hội để hạn chế và vượt qua thử
thách sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nhập cuộc một cách mạnh mẽ
hơn, công bằng hơn.
TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp
định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền
kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Hiệp định này đàm phán sâu về mở
cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và các rào cản thương
mại. Điều đó sẽ đưa đến mức độ tự do hóa càng cao, các cam kết sẽ đi sâu hơn,
quyền lợi và nghĩa vụ hay cơ hội và thách thức sẽ lớn hơn. TPP được khởi động
từ tháng 3/2010 và đã trải qua 19 phiên chính thức và thêm nhiều phiên giữa kỳ.
Hiệp định gồm 12 thành viên là Brunay, Chi lê, New Zealand, Singapore, Mỹ,
Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Canada, Mexico và Nhật Bản. TPP - được xem
là mô hình mới kỳ vọng về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối ưu cho đầu
tư, thương mại và cơ sở làm hạt nhân xây dựng một Hiệp định thương mại tự do
chung cho toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Page | 5
2. Qúa trình hình thành

Hình 1: Qúa trình đàm phán Hiệp định TPP

Đàm phán Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn gốc
từ Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương
mại tự do được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước
Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (Về phạm vi cam kết của P4, xem Phụ lục 1).

Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp
định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả
năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu
tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về
vấn đề này.

Page | 6
Tháng 9/2008, USTR thông báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở
rộng và chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính với các nước P4. Tháng 11 cùng năm, các nước Úc, Peru và Việt Nam cũng
bày tỏ sự quan tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên
8 nước (trừ Việt Nam đến 13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách
thành viên đầy đủ, các nước khác quyết định tham gia chính thức ngay từ đầu). Cũng
từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối
tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối 2009 do phải chờ đợi Hoa
Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống Obama
tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009 USTR mới
thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP.
Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi động.

Vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn - Úc vào tháng 3/2010.
Năm 2010 đã chứng kiến 4 vòng đàm phán trong khuôn khổ TPP (Vòng 2, 3 đã tiến
hành tại San Francisco - Hoa Kỳ tháng 6/2010 và tại Brunei tháng 10/2010, Vòng 4
kết thúc trung tuần 12/2010 tại New Zealand).

Trong tháng 10 năm 2010, Malaysia chính thức tham gia vào TPP,

Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách thành viên
liên kết, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán Hiệp định TPP, nâng tổng số
nước tham gia đàm phán lên thành 9 nước.

Tháng 9 năm 2012 Mexico và Canado tham gia đàm phán Hiệp định và trở thành
thành viên chính thức vào tháng 10 năm 2012. Tháng 7/2013 Nhật Bản trở thành
thành viên thứ 12 gia nhập Hiệp định.

Tháng 5/2015 đàm phán thành công thông qua đó chính thức hoàn tất giai đoạn đàm
phán nội dung hiệp định.

Việt Nam sẽ chính thức ký kết TPP vào ngày 04 tháng 02 năm 2016 và TPP sẽ bắt
đầu có hiệu lực 2 năm sau đó.

3. Mục tiêu của TPP

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương lúc đầu được gọi là “đối tác chất lượng
cao của thế kỷ 21", và đó sẽ là mô hình mới cho tất cả các thỏa thuận thương mại ưu
đãi (PTA) được ký kết giữa các quốc gia ở khắp nơi trên thế giới.

Trước hết, theo định nghĩa xuất phát từ ý tưởng ban đầu, TPP là sự hợp tác mở trong
mọi mối quan hệ hợp tác, ngụ ý về sự gia nhập của các quốc gia mới. Vì vậy, trong
năm 2011, các cuộc đàm phán đã được tiến hành giữa 9 nước Australia, Brunei,
Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam. Và tại Hội nghị
thượng đỉnh APEC diễn ra ở Thượng Hải vào năm 2014 ba nước đã được bổ sung
thêm gồm Canada, Nhật Bản và Mexico.
Page | 7
Thứ hai, TPP là một Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết nhằm mục
tiêu thiết lập một mặt bằng tự do chung về thương mại, đầu tư, lao động, môi trường,
ban đầu là dành cho các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cùng với thời gian,
nó sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ đó.

Một nhóm các chuyên gia quốc tế do Patrick Lo đứng đầu cho rằng “TPP là thỏa
thuận thương mại ưu đãi (PTA) của thế kỷ 21, vì nó không chỉ cho phép các quốc gia
thành viên có quyền thâm nhập các thị trường hàng hóa của nhau, mà còn giải quyết
những vấn đề mới của thương mại và sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, dệt may,
quy tắc xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, vệ
sinh dịch tễ và các biện pháp kiểm dịch thực vật, đầu tư, dịch vụ tài chính, viễn
thông, thương mại điện tử, các biện pháp đối kháng, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,
tăng năng lực sản xuất, tiêu chuẩn hiệu suất lao động và các quy định về môi
trường”. Những vấn đề mới cần phải được đưa vào nội dung TPP gồm tinh giản các
tiêu chuẩn quy định về thương mại, với sự nhấn mạnh vào vai trò nổi bật của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chỉ có thể đạt được sự hài hòa của các chuẩn mực điều hành trong lĩnh vực đa dạng
như vậy khi có sự hỗ trợ của các cuộc đàm phán ở cấp chính trị cao nhất. Trong
trường hợp này, chúng ta có thể nói đến cố gắng tạo ra một mô hình cơ bản “của chủ
nghĩa khu vực đa phương”.

Nếu nói tới các hiệp định thương mại ưu đãi (PTA) thế hệ trước, thế hệ “của thế kỷ
20”, thì ý nghĩa cơ bản của chúng là cung cấp quá cảnh hàng hóa thành phẩm qua
biên giới, vượt qua các hàng rào thuế quan cao. Hiện nay chúng ta nói tới hoạt động
của các doanh nghiệp và các công ty trên lãnh thổ nước ngoài, ở nước ngoài. Điều
này phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của các nền kinh tế do sự tăng
cường trao đổi thương mại và đầu tư.

Cắt giảm thuế quan theo lộ trình từ 2006 đến 2015

Các vấn đề thương mại phi thuế quan như xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng
vệ thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương
mại, sỡ hữu trí tuệ, mua sắm công, chính sách cạnh tranh.

Các vấn đề phi thương mại như hợp tác trong lĩnh vực môi trường lao động

Tăng cường dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của nhóm 12 thành viên.

Thắt chặt hơn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia này, thông qua các biện pháp
giảm (thậm chí là loại bỏ hoàn toàn trong một số trường hợp) các hàng rào thuế quan
giữa các nước, giúp tăng cường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Cùng với tăng cường
dòng chảy vốn, TPP cũng được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nhóm 12
thành viên.

Page | 8
Qua đó cho thấy rằng nội dung đàm phán của TPP, so với các hiệp định BTA,
AFTA và WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, TPP còn đề cập đến các vấn đề phi thương
mại như mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với phạm vi đa biên như vậy, các cam kết trong TPP
sâu hơn, toàn diện hơn. Do đó, tác động ảnh hưởng của TPP rất lớn. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa TPP với các hiệp định thương mại khác. Về nguyên tắc, các
cam kết thực hiện TPP phải thực sự bình đẳng, không phân biệt trình độ phát triển
và xuất phát điểm của mỗi nước. Mọi thành viên đều có nghĩa vụ và quyền lợi
ngang nhau. TPP tạo lập môi trường cho các nước có trình độ phát triển khác nhau,
nhưng cố gắng đạt được cùng mẫu số chung để phát triển.

4. Thực trang ở Việt Nam khi gia nhập TPP


Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường phụ thuộc cao vào xuất khẩu thô
và đầu tư trực tiếp nước ngoài . Là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á trong số
11 quốc gia Đông Nam Á; lớn thứ 48 trên thế giới xét theo quy mô tổng sản phẩm
nội địa danh nghĩa năm 2013 và đứng thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh
nghĩa bình quân đầu người. Chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ thống kinh tế
thị trường.
Việt Nam gia nhập TPP trong bối cảnh nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa
hiện đại hóa. Nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực giảm tỷ trọng nông lâm-
ngư nghiệp tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ.
Tham gia vào TPP là một trong những động lực giúp cho Việt Nam phát triển
kinh tế, là cú hích lớn cho nền kinh tế phát triển.
Ngày 05/10, sau khi Hội nghị Bộ trưởng Thương mại các nước tham gia đàm phán
TPP hoàn tất quá trình đàm phán hiệp định tại Atlanta, Bộ trưởng Bộ Công
Thương Vũ Huy Hoàng đã có cuộc trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam
về hiệp định lịch sử này.
Theo Bộ trưởng, Hiệp định TPP sẽ đem lại nhiề u lợi ích cho Việt Nam. Đặc biệt,
về mặt kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế độc lập, TPP sẽ giúp GDP
của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm
2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025. Đáng chú ý là việc
các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada giảm thuế nhập khẩu về 0%
sẽ giúp tạo ra “cú hích” lớn đối với hoạt động xuất khẩu cua nước ta. Các ngành
xuất khẩu quan trọng, như: dệt may, giày dép, thủy sản... nhiều khả năng sẽ có
bước phát triển vượt bậc về kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này.

Page | 9
Ngoài ra, tham gia TPP sẽ giúp ta có được các cơ hội mới từ chuỗi cung ứng mới
hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Các nước TPP chiếm tới 40% GDP và 30%
thương mại toàn cầu, lại bao gồm các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, chắc
chắn sẽ mở ra rất nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Thêm vào đó,
cam kết trong TPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến sẽ có tác dụng tích cực trong việc
cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Theo phân tích của Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu Hằng trên bài viết
đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số 17/2015), theo nghiên cứu dự báo tác
động TPP tới Việt Nam của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Việt
Nam sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất về kinh tế trong số 12 nước tham gia
TPP khi có được sự thay đổi GDP thực tế theo phần trăm cao nhất.
Việt Nam sẽ tiếp cận được với các thị trường kinh tế mới rộng lớn, đồng thời nâng
cao được sức cạnh tranh của hàng hóa và thị trường nội địa để thu hút thêm vốn và
công nghệ của các nhà đầu tư ngoại, tăng khả năng xâm nhập vào các thị trường
khó tính.
Dẫn lời TS. Võ Trí Thành trên Báo Tuổi trẻ, đối với Việt Nam, TPP có ba chất
xúc tác quan trọng, đầy ý nghĩa.
Thứ nhất là liên quan đến xuất khẩu của Việt Nam. TPP chiếm đến 40% GDP và
30% thương mại toàn cầu, các nước thành viên đều là những thị trường tiêu dùng
lớn của thế giới.
Thứ hai là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ khác trước, dòng vốn nước
ngoài vào Việt Nam sẽ tăng nhanh nhằm tận dụng những gì mà hiệp định đem lại.
Thứ ba là xét về dài hạn, vào TPP là bước ngoặt cho Việt Nam thay đổi cách thức
phát triển, cải cách thể chế, t tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, đàng
hoàng, là động lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt
Nam.
Với ba chất xúc tác như vậy, TPP có ý nghĩa rất lớn với Việt Nam, ngay đúng thời
điểm mà Việt Nam đang cần phải thay đổi cách thức để phát triển một cách bền
vững.

CHƯƠNG 2: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM


KHI GIA NHẬP TPP
1. Cơ hội
Thứ nhất, là cơ hội để chúng ta hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, qua
đó bảo đảm việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Thể chế là yếu tố quan trọng
quyết định đến sự phát triển nhanh và bền vững chứ không phải là các lợi thế tự
nhiên( tài nguyên, vị trí địa lí..) thề chế tạo ra lợi thế so sánh động và đây chính là
lợi ích dài hạn khi tham gia TPP.

Page | 10
Đồng thời, hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa và đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ tăng trưởng theo chiều
rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có sang tăng trưởng theo chiều sâu,
dựa vào việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng
và hiệu quả xuất khẩu
Thứ hai, Việt Nam sẽ có cơ hội để gia tăng thu nhập quốc dân thông qua việc
đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu và thay đổi cơ cấu thị trường xuất nhập
khẩu theo hướng cân bằng hơn. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế,
TPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5
tỷ USD vào năm 2025; xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025.
Với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như của Việt Nam, việc tiếp cận
các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Australia… với mức thuế suất bằng hoặc gần
bằng 0% đã tạo ra một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn và một tương lai hứa
hẹn cho nhiều ngành hàng, kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người
lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu.

Hình 2: Vị trí của Việt Nam trong TPP năm 2015; (Nguồn:
http://vnexpress.net/infographics/vi-mo/viet-nam-co-vi-tri-nhu-the-nao-trong-
tpp-3293259.html)
GDP của Việt Nam đứng thứ 11 và giá trị thương mại đứng thứ 8 trong số 12 nước
tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Thứ ba, tham gia TPP góp phần tạo động lực để các doanh nghiệp Việt Nam
nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ và phát
triển khả năng sản xuất của nền kinh tế. TPP sẽ tạo cơ hội tốt cho các DN
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường và bảo vệ người lao động khi Việt Nam
thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường theo các cam kết đã ký trong
Hiệp định.
Rộng cửa xuất khẩu cho Hàng Việt
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP được
hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3-5 năm như

Page | 11
nông sản, thủy sản, một số mặt hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện, điện
tử, cao su
Là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam, Hoa Kỳ cam kết xóa
bỏ gần 100% số dòng thuế, trừ một số sản phẩm đường áp dụng hạn ngạch thuế
quan. Hoa Kỳ cũng sẽ xóa bỏ ngay 55,4% số dòng thuế nông nghiệp (tương
đương 97,7% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam, đạt 0,95 tỷ USD) ngay khi
Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo,
mật ong, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, rau quả đều được xóa bỏ thuế ngay. Vào
năm thứ 10, tổng số dòng thuế nông nghiệp được xóa bỏ là 97,4%.

Một đối tác thương mại lớn của Việt Nam là Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ
ngay thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản(tương đương 10,5 tỷ USD) và vào năm thứ
11 xóa bỏ đối với khoảng 95,6% số dòng thuế. Đối với nông sản từ Việt Nam,
Nhật bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc cắt
giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối
với một số mặt hàng nhạy cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa
mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng.
Đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của Việt Nam được hưởng thuế suất 0%
ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ
sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ...
Một số mặt hàng xuất nhập khẩu chính của nước ta:

(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2014)
Hình 3: Một số mặt hàng xuất nhập khẩu chính của nước ta năm 2014
Hàng xuất khẩu:
I: Điện thoại các loại và linh kiện
II: Hàng dệt may
III: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và các loại linh kiện
IV: Giaỳ dép các loại
V: Hàng thủy sản
VI: Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác
VII: Dầu thô
VIII: Gỗ và sản phẩm gỗ
IX: Phương tiện vận tải và phụ tùng
X: Cà phê
XI: Gạo

Page | 12
Hàng nhập khẩu:
I: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác 2
II: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và các loại linh kiện
III: Các loại vải
IV: Điện thoại các loại và linh kiện
V: Sắt, thép các loại
VI: Xăng dầu các loại
VII: Chất dẻo, nguyên liệu
VIII: Nguyên phụ liệu dệt may, da, giày
IX: Kim loại thường khác
X: Hóa chất
XI: Thức ăn gia súc và nguyên liệu

Thứ tư, Việt Nam tham gia Hiệp định TPP có thể thúc đầy đầu tư của cá
nước TTP vào Việt Nam, thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI ) tạo
thêm việc làm cho người lao đông, thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn lực
Việt Nam. Đặc biệt trong một số lĩnh vực Việt Nam mong muốn như phát
triển ngành công ngệ cao, nâng cao trình độ của các lĩnh lực công nghiệp, dịch
vụ, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, y tế tạo khả năng cho Việt Nam tham gia tốt
hơn vào chuỗi giá trị kinh tế khu vực toàn cầu. Góp phần tăng GDP trong
nước.

Hình 4: Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI từ 1996-2014


(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2014)
Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI liên tục tăng qua các năm.

Page | 13
Bảng 1: Thống kê xuất nhập khẩu hàng hóa theo loại
hình doanh nghiệp năm 2014 so với năm 2013
Tên chỉ tiêu Doanh nghiệp FDI Doanh nghiệp trong
nước
2013 2014 2013 2014
Xuất nhập khẩu
Tổng kim ngạch(tỷ 155.36 178.17 108.71 119.0
USD)
Tốc độ tăng(%) 23.5 14.7 4.2 10.3
Tỷ trọng(%) 58.8 59.8 41.2 40.2
Xuất khẩu
Tổng kim ngạch(tỷ 80.92 93.96 51.11 56.26
USD)
Tốc độ tăng(%) 26.4 16.1 1.2 10.1
Tỷ trọng xuất khẩu 61.3 62.5 38.7 37.5
của cả nước(%)
Nhập khẩu
Tổng kim ngạch(tỷ 74.44 84.21 57.60 63.64
USD)
Tốc độ tăng(%) 24.2 13.1 7.0 10.5
Tỷ trọng nhập khẩu 56.4 57 43.6 43
của cả nước(%)
Số lượng DN tham 6.9 7.6 45.2 48
gia xuất nhập khẩu
Kim ngạch XNK 22.41 23.35 2.40 2.5
bình quân của một
DN
(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm
2014)

Qua bảng số liệu ta thấy tình hình xuất nhập khẩu trong nước có nhiều
biến động. Mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất nhập khẩu
hàng hóa nhưng tốc độ tăng của doang nghiệp FDI năm 2014(14.7%) thấp
hơn năm 2013(23.5). Trong khi doanh nghiệp nhà nước lại đạt mức tăng
trưởng là 10.3% cao hơn nhiều so với mức tăng 4.2% của năm trước đó. Điều
này phần nào phản ánh sự phục hồi khá tốt của khối doanh nghiệp nhà nước
trong năm.

Thứ năm, tham gia TPP góp phần tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Quá trình tự do hóa
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam
đang giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư,

Page | 14
thu hút nhiều dự án đầu tư lớn từ các tập đoàn đa quốc gia như Samsung,
LG, Microsoft, Intel, Mitsubishi Heavy Industries...

(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2014)
Hình 5: Xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong nước từ 1996-2014
Thứ sáu, tham gia TPP tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao thực thi quyền sở
hữu trí tuệ, minh bạch hóa thị trường mua sắm công, đấu thầu chính
phủ.Mặc dù mức độ mở cửa đối với thị trường mua sắm công trong khuôn
khổ TPP chưa được xác định cụ thể nhưng nhiều khả năng các nội dung
trong Hiệp định mua sắm công trong WTO sẽ được áp dụng cho TPP và nếu
điều này trở thành hiện thực thì đây là cơ hội để giải quyết các bất cập trong
các hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu thầu chưa minh bạch ở Việt
Nam hiện nay. Điều này rất có ý nghĩa đối với các DN kinh doanh lành mạnh,
minh bạch hiện nay.

Bên cạnh những cơ hội đó thì khi tham gia TPP còn có những lợi ích sau:

Dễ dàng xin visa nhập cảnh vào các quốc gia thành viên.

Tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân.

Đất nước sạch đẹp, an toàn hơn nhờ các yêu cầu bắt buộc về môi trường.

Xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ sang 12 nước thành viên với mức thuế rất thấp và sẽ
gỡ bỏ trong tương lai. Rất có lợi cho các ngành dệt may, nông sản.

Được các nước phát triển hỗ trợ về kỹ thuật và tay nghề lao động.

Người dân được sử dụng sản phẩm chất lượng cao với giá thành rẻ, bên cạnh đó là
đảm bảo vệ sinh an toàn đối với mặt hàng thực phẩm.

Page | 15
1.1 Thách thức
Thứ nhất, hệ thống các quy định về pháp lý của Việt Nam còn yếu kém hơn so
với các quốc gia khác trong TPP, và việc đưa hệ thống quy định lên một mức
tương xứng với các bên khác trong TPP là khá khó khăn.
Thứ hai, các ngành công nghiệp địa phương của Việt Nam cần tăng sự cạnh tranh
với hàng nhập khẩu khi mức thuế giảm. Khi đầu tư của nước ngoài cũng như hàng
nước ngoài tràng vào Việt Nam sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp
còn non trẻ trong nước. Hàng không thuế hay bị đánh thuế thấp sẽ cạnh tranh khốc
liệt với hàng nội địa nếu không linh hoạt, chủ động thì hàng nội địa sẽ có nguy cơ
thua ngay trên sân nhà.
Thứ ba, đối với nước ta mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP là tăng cường lợi thế
xuất khẩu sang các nước TPP, thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế
cho hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên điều này chỉ đạt được khi hàng hóa của Việt
Nam đáp ứng đầy đủ các yêu cầu rất cao và phức tạp về quy tắc xuất xứ, bắt buộc
phải có nguyên liệu hoặc giá trị chủ yếu từ các nước thành viên. Trong khi đó hàng
hóa Việt Nam nguyên liệu chủ yếu là ngoài các nước thành viên của TPP (như
Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước trong ASEAN,..) nếu chấp nhận quy tắc này
thì cho dù mức thuế suất giảm hay là về 0% thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
vẫn không được hưởng lợi gì. Bên cạnh đó sự thiếu chuyên nghiệp, manh mún
trong sản xuất hàng hoá, báo động đỏ về vệ sinh, an toàn thực phẩm... là những
vấn đề lớn được đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

Thứ tư, Áp lực giảm thu ngân sách sẽ xuất hiện:


Nếu như các quốc gia thành viên TPP cắt giảm mạnh mẽ thuế nhập khẩu và rộng
cửa cho hàng Việt Nam, thì ở chiều hướng ngược lại Việt Nam cũng cam kết xóa
bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP. Trong đó, 65,8% số dòng thuế có
thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0%
vào năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế suất
0% vào năm thứ 11. Các mặt hàng còn lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộ
trình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoặc theo hạn ngạch thuế quan.
Trong đó, với mặt hàng ô tô, sẽ xóa bỏ thuế vào năm thứ 13 đối với các loại ô tô
mới, riêng ô tô con có dung tích xi lanh từ 3000cc trở lên có lộ trình xóa bỏ vào
năm thứ 10. Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với ô tô cũ với lượng hạn ngạch ban
đầu là 66 chiếc, lượng hạn ngạch sẽ tăng dần và đạt 150 chiếc kể từ năm thứ 16.
Page | 16
Về thuế xuất khẩu, Việt Nam, Malaysia và Canada cam kết xoá bỏ thuế xuất khẩu,
ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Riêng Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế
xuất khẩu đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản
theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực.
Tại lĩnh vực hải quan, một vấn đề mà Hiệp định TPP tác động lớn là quy định cơ
chế tự chứng nhận xuất xứ trong thủ tục kiểm tra và xác định xuất xứ cho hàng hóa
xuất nhập khẩu với thời gian chuyển đổi tối đa 10 năm. Cơ chế này cho phép
doanh nghiệp tự khai báo xuất xứ cho hàng hóa của mình thay cho cách thức quản
lý hiện tại là doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan hải quan giấy chứng nhận xuất xứ
do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp. Điều này tạo thuận lợi tối đa
cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu và đơn giản hóa thủ tục hải quan.
Thứ năm, Khi Việt Nam vào TPP, cùng với làn sóng đầu tư từ Nhật Bản và các
đối tác TPP khác, không loại trừ khả năng sẽ có một làn sóng đầu tư mới từ những
nước đứng ngoài TPP như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan vào Việt Nam để xây
dựng các ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm hưởng lợi do TPP mang lại.
TPP một mặt đem vốn FDI vào Việt Nam và giúp công nghiệp phụ trợ phát triển,
nhưng nó cũng trở thành đối thủ lớn nhất khiến các công ty nội địa nếu không có
quy mô lớn và công nghệ hiện đại sẽ khó có thể tồn tại. Điều này có thể thấy rõ
hơn nếu liên hệ với diễn biến gần đây
Quá trình hội nhập sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực của toàn bộ nền
kinh tế. Các ngành bị ảnh hưởng rất lớn khi Việt Nam tham gia vào TPP sẽ là chăn
nuôi, doanh nghiệp phân phối - bán lẻ, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo các
chuyên gia.
Ông Phan Hữu Thắng thì cho rằng cơ hội thu hút FDI từ các nước thành viên TPP và
cả các nước ngoài TPP sẽ rất lớn nhưng cũng đặt ra thách thức là sẽ có nhiều các dự
án có hàm lượng kỹ thuật - công nghệ thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường trong các lĩnh
vực khác nhau như dệt nhuộm, may mặc, da giày,… từ các nước mà Việt Nam đang
nhập siêu, nên cần biết loại bỏ các dự án nêu trên.

Page | 17
Hình 3: Xuất khẩu của doanh nghiệp từ 1996-2014
(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2014)

Hình 6: Nhập khẩu của doanh nghiệp từ 1996-2014


(Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2014)

Biểu đồ cho thấy xuất nhập khẩu của khối FDI, và trong nước có xu hướng ngày
càng tăng. Xuất nhaapj khẩu của doanh nghiệp FDI tăng nhanh trong những năm trở
lại đây.
Bộ Công Thương đưa ra 5 thách thức cơ bản Việt Nam gặp phải khi tham gia vào
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP.
Về thương mại hàng hóa, với một số chủng loại nông sản mà Hoa Kỳ và một số
nước khác trong TPP (Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân, Chi-lê) có thế mạnh, sức ép cạnh
tranh là khá lớn khi thuế được đưa về 0%, trong đó nổi bật là thịt lợn, thịt gà. Đây
là những mặt hàng ta đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Một số nông
sản khác cũng sẽ gặp khó khăn nhưng ở mức độ nhẹ hơn vì những sản phẩm này ta
vẫn phải nhập khẩu với số lượng lớn, trong nước dù sao cũng đã quen với cạnh
tranh, đó là sản phẩm sữa, đậu tương, ngô và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.
Một số sản phẩm công nghiệp mà bạn hàng TPP có thế mạnh cũng có thể gây khó
khăn cho sản xuất của ta, thí dụ như giấy, thép, ô tô. Tuy nhiên, có cơ sở để cho
rằng sức ép cạnh tranh sẽ không lớn vì sản phẩm của ta hướng đến phân khúc thị

Page | 18
trường trung bình trong khi sản phẩm của các nước TPP thường hướng đến phân
khúc thị trường cao cấp.
Một số sản phẩm các nước TPP có sản xuất, thuế nhập khẩu của ta đang được duy
trì ở mức cao, nhưng việc hạ thuế về 0% chủ yếu sẽ gây giảm thu thuế nhập khẩu
là chính, không gây ra sức ép cạnh tranh, bao gồm: bánh kẹo, chất tẩy rửa, đồ
trang sức, sản phẩm kim loại (chủ yếu là đồ bếp), điều hòa không khí, đồ nội thất,
xe mô-tô phân khối lớn, rượu, thuốc lá.
Để vượt qua thách thức này, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp – chăn nuôi, Việt
Nam phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế.

Về thương mại dịch vụ và đầu tư, mở cửa thị trường dịch vụ – đầ1u tư sẽ
không ảnh hưởng tới quyền chủ động của Nhà nước trong quản lý, cụ thể là
không ảnh hưởng tới quyền áp dụng các biện pháp quản lý không mang tính
phân biệt đối xử, theo các tiêu chí minh bạch, áp dụng chung.
Với các lĩnh vực còn lại, kết quả đàm phán dự kiến sẽ không gây xáo trộn lớn vì
đa phần tương đương với độ mở hiện hành.
Về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế, để thực thi cam kết trong TPP,
sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, đầu tư,
đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường …
Thách thức về xã hội, cạnh tranh tăng lên khi tham gia TPP có thể làm cho một
số doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà
nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào
tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao
động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, do phần lớn các nền kinh tế trong TPP không cạnh
tranh trực tiếp với Việt Nam, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự
kiến tác động này là có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính
ngắn hạn.
Đồng thời, với cơ hội mới có được, Việt Nam sẽ có điều kiện để tạo công ăn
việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành thực sự có lợi thế
cạnh tranh.
Thách thức về thu ngân sách, do tỷ trọng thu ngân sách từ thuế nhập khẩu
đang giảm dần qua các năm, việc xóa bỏ thuế nhập khẩu lại được thực hiện theo
lộ trình, nên về cơ bản sẽ không gây tác động lớn và đột ngột. Bên cạnh đó, khi
xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, thu từ thuế nhập khẩu có thể giảm nhưng
bù lại, số thu từ các sắc thuế khác sẽ tăng lên do sản xuất, kinh doanh phát triển,
không những đủ để bù đắp số thu mất đi từ thuế nhập khẩu mà còn bổ sung
thêm cho ngân sách nhà nước. Việc tính toán tác động của Hiệp định TPP lên
nguồn thu từ hàng nhập khẩu, vì vậy, cần được nhìn theo cả 2 hướng.
Thực tiễn cho thấy việc giảm thuế nhập khẩu theo cam kết WTO và theo 8 FTA
đã có hiệu lực không ảnh hưởng tiêu cực tới thu ngân sách. Tổng thu từ hàng
nhập khẩu vẫn tăng đều hàng năm kể từ năm 2006.
Với thuế xuất khẩu, do Việt Nam giữ lại thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng
quan trọng nhất như dầu thô, than đá, một số loại khoáng sản kim loại nên dự
kiến tác động đến thu ngân sách sẽ không đáng kể.
Page | 19
(Nguồn: http://enternews.vn/5-thach-thuc-co-ban-cu%CC%89a-viet-nam-khi-
tham-gia-tpp.html)

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
KHI THAM GIA TPP
3.1 Giải pháp cho các doanh nghiệp
Trước những thực trạng trên, vấn đề đặt ra cần được giải đáp là DN Việt
Nam làm gì để tận dụng cơ hội cũng như vượt qua được thách thức? Để nắm bắt
được các cơ hội, loại bỏ thách thức, cộng đồng DN Việt Nam cần phải nâng cao
năng lực cạnh tranh, tuân thủ các quy định, chủ động trước thời cơ và thách
thức…
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của mỗi DN là yếu tố quyết định trong "sân
chơi TPP". Do đó, để tồn tại được, điều tối quan trọng với các DN là phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của DN mình để có đủ sức cạnh tranh với các DN nước
ngoài trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường của nước đối tác.
Thứ hai, thực tế trên nhiều lĩnh vực hiện nay nhiều DN Việt Nam không
thể cạnh tranh được với DN nước ngoài, do họ có bề dầy kinh nghiệm, tiềm lực
tài chính, thương hiệu, uy tín… Do đó, DN Việt Nam thay vì đối đầu trực tiếp
trên các thị trường lớn thì hãy chọn các thị trường ngách, thị trường nhỏ với
chiến lược "đại dương xanh" - khai phá mảng thị trường có thể nhỏ hẹp nhưng
mới và ít đối thủ cạnh tranh. Ngay trong mảng mua sắm công, thay vì tham gia
đấu thầu trực tiếp những hợp đồng lớn, DN Việt Nam hoàn toàn có thể lựa chọn
trở thành nhà thầu phụ. Điều này phù hợp với tiềm lực và khả năng của DN Việt
Nam hơn.
Thứ ba, những quy định về môi trường, lao động hay bảo hộ sở hữu trí tuệ
là xu hướng phát triển tất yếu của môi trường kinh doanh lành mạnh, văn mình.
Dù muốn hay không thì DN cũng phải chấp nhận xu hướng này. Do đó, thay vì
cố tình trì hoãn, đi theo lối kinh doanh cũ, DN Việt Nam từng bước cải cách
hoạt động của DN mình cho phù hợp với xu thế của thời đại.

Page | 20
Thứ tư, TPP khi được ký kết sẽ gây ra những tác động, trực tiếp đến hoạt
động của DN. Do đó, DN phải lên tiếng, thông qua các hiệp hội hay Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vì quyền lợi của DN mình, kiến nghị với
Chính phủ để đàm phán những điều kiện có lợi cho các DN nội địa.
Có thể thấy, việc xuất hiện TPP là một tất yếu khi có rất nhiều vấn đề mà
các FTA hiện tại chưa giải quyết được. Với riêng DN Việt Nam, cơ hội có nhiều
nhưng thách thức cũng không nhỏ và nếu không nỗ lực hết mình thì rất có thể
DN Việt Nam sẽ thua ngay khi TPP bắt đầu có hiệu lực. Điều này đòi hỏi sự đầu
tư công sức của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và bản thân
mỗi DN để tìm được hướng đi phù hợp nhất cho DN của mình. Hy vọng rằng,
khi TPP được ký kết và có hiệu lực, những lợi ích mà DN Việt Nam thu được sẽ
lớn hơn những trở ngại mà các DN này gặp phải.

3.2 Định hướng cải cách thể chế ở Việt Nam


Để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức phải bắt đầu từ cải cách thể chế, tập
trung cải cách nền quản trị quốc gia (bao gồm các định chế quản lý, hệ thống tổ

Page | 21
chức quản lý và đội ngũ cán bộ) và phải bảo đảm sự tương thích và đồng bộ
trong các yếu tố này.
Về cải cách thể chế: Cần thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa nhà nước với doanh
nghiệp và thị trường. Trong đó, Nhà nước chuyển từ nhà nước làm kinh tế
(thông qua các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu) và nhà nước can thiệp bằng
các biện pháp hành chính sang Nhà nước bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vai
trò kiến tạo phát triển. Nhằm mục tiêu đó, cần thực hiện các yêu cầu sau đây:
- Công khai minh bạch trong mọi cơ chế quản lý và chính sách phát triển, bảo
đảm ổn định trong vận động theo xu hướng tốt hơn và có thể tiên liệu được đi
đôi với phát huy vai trò và trách nhiệm của mọi công dân, các chuyên gia độc
lập, các nhóm thinktank, các tổ chức xã hội có quyền tham gia vào việc hoạch
định chính sách và phản biện, giám sát việc thực thi chính sách.
- Tạo lập môi trường thông thoáng cho đầu tư kinh doanh theo quan điểm lập
pháp mà chúng ta đã khẳng định là: Mọi người dân có quyền làm những gì mà
pháp luật không cấm (tiếp cận “chọn bỏ”). Mọi hạn chế quyền công dân chỉ vì
mục tiêu, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và sức khỏe
cộng đồng như Hiến pháp 2013 đã khẳng định. Cán bộ, công chức chỉ được
làm và phải làm (tôi nhấn mạnh cụm tù mà Thủ tướng nêu trong bài viết đã
dẫn vì lâu nay dường như ta hay bị bỏ quên vế quan trọng này). Đây chính là
bản chất của nhà nước pháp quyền. Một nhà nước pháp quyền là phải thượng
tôn pháp luật và dân chủ phải song hành với pháp trị như một cặp “song sinh” -
điều mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh trong bài viết đầu năm
2014.
• Bảo đảm công bằng, không phân biệt đối xử cho mọi người dân và
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế về cơ hội tiếp cận thị trường (bao
gồm thị trường mua sắm công), các nguồn lực, cả trong các quy định của pháp
luật và trong thực tiễn.
• Tạo lập một thị trường có tính cạnh tranh cao, đi đôi với việc thực
hiện đầy đủ luật cạnh tranh.
• Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo động lực cho sáng tạo.

Page | 22
• Bảo đảm quyền sở hữu tài sản của công dân.
• Bảo hộ nhà đầu tư.
• Xây dựng các chế tài đủ mạnh để thực hiện trong thực tế các yêu cầu
nêu trên.
Về tổ chức bộ máy:
Cải cách thể chế là yếu tố quyết định nhưng không đủ, phải có tổ chức mạnh
và hiệu quả để bảo đảm thực thi thế chế theo nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền. Tổ chức như một cơ thể sống. Thiếu sẽ không bao quát hết các chức
năng nhưng thừa vận động sẽ khó khăn, thậm chí không vận động được.
Ngoại trừ những trường hợp vì người mà “đẻ” ra tổ chức (rất tiếc là trước
đây ở nước ta đã không ít lần xuất hiện tình trạng này), về nguyên lý, tổ chức
sinh ra là từ nhu cầu của quản lý, của xã hội nhưng khi tổ chức đã hình thành nó
lại có xu hướng bảo vệ sự tồn tại của nó dầu cho không cần thiết cho quản lý
nữa. Đây có thể là “bản tính” của tổ chức trong bất cứ một chế độ xã hội nào.
Vì vậy, phải dũng cảm vượt qua sức ỳ, sự bảo thủ của tổ chức để xây dựng
một bộ máy quản lý tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả vận hành thông suốt; tổ chức là
đường dẫn để thể chế vận động. Đường dẫn rắm rối, chồng chéo thì doanh
nghiệp, người dân rất khó tiếp cận được cơ chế, chính sách, làm tăng chi phí. Vì
vậy phải loại bỏ mọi sự chồng chéo trong hệ thống chính trị của chúng ta.
Không thể chịu đựng mãi tình cảnh thu ngân sách không đủ để chi thường
xuyên (chủ yếu là trả lương, các khoản trợ cấp) và trả nợ.
Về đội ngũ cán bộ:
Muốn có tổ chức tốt thì yếu tố cấu thành tổ chức (cán bộ, công chức) phải
tốt. Cán bộ, công chức phải thực sự là công bộc của dân. Logic ở đây thật đơn
giản: Người dân đóng thuế nuôi công chức để công chức phục vụ mình chứ
không ai đóng thuế nuôi một bộ máy “hành” mình. Khi định hướng nhân sự đại
hội Đảng các cấp, chúng ta nói nhiều đến phẩm chất và năng lực. Vậy mối quan
hệ giữa chúng thế nào? Có người nhấn mạnh năng lực. Có người-ngược lại,
nhấn mạnh phẩm chất. Tôi cho rằng: Phẩm chất là điều kiện cần. Bởi vì, nếu có
năng lực mà không có phẩm chất thì năng lực đó cũng phục vụ nhóm lợi ích và

Page | 23
làm méo mó chính sách. Ngược lại nếu có phẩm chất mà năng lực kém thì cũng
không giúp được gì cho xã hội như Bác Hồ nói cũng như Ông Bụt. Vì vậy năng
lực phải là điều kiện đủ.
Về vai trò của thị trường:
Phải coi thị trường là cơ chế chủ yếu để phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn
lực, trên cơ sở quan hệ cung cầu, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Trong khung khổ thể chế và môi trường kinh doanh như vậy, và dưới sức ép
cạnh tranh, mọi doanh nghiệp sẽ có cơ hội như nhau để phát huy mọi khả năng
sáng tạo, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng chiến lược cạnh tranh với
tầm nhìn dài hạn. Đương nhiên, có những doanh nghiệp sẽ thất bại, thậm chí
phá sản, một số người sẽ mất việc làm nhưng nhiều doanh nghiệp sẽ vươn lên,
mở rộng sản xuất, nhiều doanh nghiệp khác ra đời và tạo ra nhiều việc làm mới.
Chính vì vậy, trong cuộc họp báo của Bộ Công Thương để giới thiệu về TPP,
chúng tôi đã phát biểu: Điều đáng lo nhất là “sức ỳ” của bộ máy nhà nước.
TPP và FTA Việt Nam-EU sẽ buộc chúng ta phải “công phá” vào sức ỳ ấy,
nó đặt ra yêu cầu và là động lực để chúng ta cải cách nền quản trị quốc gia.
Thời gian vừa qua, Quốc hội đã ban hành một số luật (Luật Đầu tư, Luật
Đấu thầu...) trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong TPP và trong FTA với
EU, cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Đồng thời
khẩn trương tiến hành đối chiếu so sánh giữa các cam kết trong các hiệp định
với các luật đã được Quốc hội phê chuẩn, làm rõ những khác biệt. Những gì mà
các cam kết vượt quá các quy định của luật cần làm rõ thật chi tiết cụ thể, chuẩn
bị các phương án để trình Quốc hội quyết định (sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
hoặc áp dụng trực tiếp khi Quốc hội phê chuẩn hiệp định). Ngoài ra, cũng rất
cần thiết phải hoàn thiện Luật Cạnh tranh, đăc biệt là về tổ chức cơ quan quản lý
cạnh tranh.
Việc cấp bách phải làm là đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo
yêu cầu loại bỏ độc quyền và những ưu đãi dành riêng cho DNNN, áp đặt kỷ
luật thị trường đối với DNNN. Đổi mới quản trị DNNN, tách bạch chức năng
hoạch định chính sách với chức năng chủ sở hữu DNNN trong các cơ quan quản

Page | 24
lý. Hoàn thiện cơ chế chủ sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại
DNNN; đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN.
Cần nhận thức đầy đủ mối quan hệ giữa cải cách DNNN với tạo lập môi
trường cạnh tranh bình đẳng và tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương
mại. Trong đó, cải cách DNNN tạo điều kiện để xác lập thị trường cạnh tranh và
tái cơ cấu các ngân hàng thương mại, và hiệu quả của cải cách DNNN sẽ củng
cố kết quả của tiến trình tái cơ cấu ngân hàng thương mại.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Rõ ràng hội nhập mang lại nhiều lợi ích cũng như thách thức. Các chuyên gia cho
rằng các địa phương cần tận dụng được cơ hội này để thực hiện “quyền lựa chọn” dự
án nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thu hút dòng vốn này.
Do đó theo giới phân tích để tranh thủ được cơ hội từ TPP, đòi hỏi Việt Nam phải
tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh của môi
trường đầu tư; nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức nhà nước trong thực thi
công vụ liên quan đầu tư và kinh doanh…
Xét về cả nhu cầu cải cách kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt Nam
cần phải nhanh chóng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Vấn đề là Việt
Nam cần làm gì để lộ trình hội nhập sắp tới sẽ thuận lợi hơn. Những cam kết và
thực thi cam kết trong TPP tương thích với yêu cầu cải cách, tái cấu trúc nền
kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Các chuyên gia nhận định rằng, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhất trong
các nước tham gia TPP, nhưng thách thức của việc gia nhập TPP đối với Việt
Nam là không nhỏ. 2TPP chỉ có thể được xem như chất xúc tác để Việt Nam có
thể cải cách và phát triển mạnh mẽ hơn. Tất cả là phụ thuộc vào nội lực của Việt
Nam.

Page | 25

You might also like