You are on page 1of 28

Họ và tên: Đào Thị Tú

Mã SV: 11421316

Mã lớp: 114212

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...........................................................................................................2


DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................................3
Chương 1 : Hội nhập kinh tế quốc tế.......................................................................................................4
1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế................................................................................................4
1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam..........................................................................4
Chương 2: Thực trạng về hội nhập quốc tế của việt Nam......................................................................5
1.1 Thực trạng quốc tế về thương mại...................................................................................................5
1.1.1 Hội nhập quốc tế sâu rộng.........................................................................................................5
1.1.2 Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại năm 2020...................................................................6
1.2 Thực trạng về đầu tư.......................................................................................................................9
1.2.1 Khái quát về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài............................................................................9
1.2.2 Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020........9
1.3 Thực trạng dịch vụ tài chính.........................................................................................................13
1.3.1 Thực trạng dịch vụ tài chính số ở Việt Nam hiện nay..............................................................13
1.3.2 Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020......16
1.4 Thực trạng lao động Việt Nam.......................................................................................................22
Chương 3 : Giải pháp khuyến nghị........................................................................................................24
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................25
Tài liệu tham khảo....................................................................................................................................26

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa


1 ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á
2 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
3 SEV Hội đồng Tương trợ Kinh tế
4 GATT Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
5 AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
6 VJEPA Hiệp định đối tác Kinh tế giữa Việt Nam-Nhật Bản
7 AEC Cộng đồng Kinh tế ASEAN
8 FTA Hiệp định thương mại tự do
9 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
10 WIPO Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
11 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
12 CPTPP Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
bình Dương
13 EVFTA Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu âu-Việt
Nam
14 IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế
15 WB Nhân hàng Thế Giới
16 TTĐT Thanh toán điện tử
17 TMĐT Thương mại điện tử
18 NHNN Ngân hàng Nhà nước
19 NTD Đài truyền hình Tân Đường Nhân
20 GDPR Quy định bảo vệ dữ liệu chung
21 DVTC Dịch vụ tài chính
22 TTCK Thị trường chứng khoán
23 TTTP Thị trường trái phiếu
24 TCTD Tổ chức tín dụng
25 TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
26 DN Doanh nghiệp
27 DNNN Doanh nghiệp nhà nước

2
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Bảng Nội dung Trang


1 Biểu đồ 1 Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương 8
mại của Việt Nam theo tháng trong năm 2020
2 Hình 1 Dòng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010-2020 10
3 Bảng 1 Số lượng vốn và dự án FDI vào Việt Nam giai đoạn 11
2010-2020
4 Hình 2 Cơ cấu đối tác FDI lớn tại Việt Nam lũy kế đến năm 12
2020
5 Bảng 2 Những hạn chế dịch vụ tài chính truyền thông và lợi 14
ích các dịch vụ tài chính bộ
6 Hình 3 Quy mô thị trường bảo hiểm Việt nam theo tổng tài 17
sản và doanh thu (%)

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập kinh
tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan với hầu hết với tất cả quốc gia
trên thế giới. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế toàn diện đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
cũng như tạo sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao sức cạnh tranh và khẳng định vị
thế ở Việt Nam.

Trong suốt chặng đường 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã chủ động và tích cực
tham gia vào các thiết chế kinh tế đa phương và khu vực như gia nhập Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, là thành viên sáng lập của Diễn đàn
kinh tế Á-Âu (ASEM) năm 1998, trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) năm 2007 đã đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn
cầu.

Đề tài: “Phân tích thực trạng hội nhập quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ
tài chính, lao động của Việt Nam hiện nay, khuyến nghị giải pháp”

3
Chương 1 : Hội nhập kinh tế quốc tế
1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với
nhau theo các nguyên tắc, quy định chung. Sau chiến tranh thế giới thứ hai ddxa
xuất hiện các tổ chức như: Liên Minh Châu Âu, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),
Hiệp định chung về thuế chung thương mại (GATT). Từ những năm 90 trở lại đây,
tiến trình này phát triển mạnh cùng với xu thế toàn cầu hóa đời sống kinh tế, thể
hiện ở sự xuất hiện của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu.

1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Biến động Liên Xô cũ và Đông Âu.

Bối cảnh toàn cầu hóa là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu
hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế.

Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới: Trong lĩnh vực kinh tế, với hàng loạt
chính sách đổi mới thể chế kinh tế như hình thành nền kinh tế nhiều thành phần,
xây dựng nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và hội nhập kinh tế quốc tế 1991, “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại”.

1996, Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại giai đoạn 1996-2000.

2001, “chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bề vững”
theo nguyên tắc “đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường”.

2006, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, ”lấy lợi ích dân tộc làm
mục tiêu cao nhất”, “hội nhập sâu hơn và dầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn
cầu, khu vực và song phương”.

2007 tham gia WTO, Nghị quyết 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách
lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của
WTO
4
Gia nhập ASEAN 1995, Ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt
Nam-Hoa Kỳ 2000, gia nhập WTO 2007 và tham gia 08 Hiệp định thương mại tự
do khu vực và song phương: Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA). Hiệp
định chung về hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc vào năm 2002 và Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN-Trung Quốc vào năm 2004 để thành lập thương mại
tự do ASEAN-Trung quốc. Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Hàn Quốc
vào năm 2006 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc. Hiệp
định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản năm 2008 để thành lập khu vực
thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản. Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự
do ASEAN-Úc-Niu Di-lân vào năm 2009. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN-Ấn Độ năm 2003. Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Ấn Độ
năm 2009 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ. Hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) năm 2008 và Hiệp định FTA song
phương Việt Nam-Chi lê năm 2011.

Chương 2: Thực trạng về hội nhập quốc tế của việt Nam


1.1 Thực trạng quốc tế về thương mại
1.1.1 Hội nhập quốc tế sâu rộng
Gia nhập WTO là bước tiến quan trọng trong chién lược hội nhập kinh tế

Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra cánh cửa để đất nước hội nhập sâu rộng
và tích cực vào sân chơi toàn cầu.

Gần 6 năm tiếp theo, 2002-2007, nước ta bước vào quá trình đàm phán song
phương với các nước có yêu cầu và đa phương với WTO, đồng thời thực hiện sửa
đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để đáp ứng các yêu cầu của WTO. Nếu
như năm 2006, quy mô kinh tế của đất nước còn khá khiêm tốn, nằm trong nhóm
nước thu nhập thấp. Cho đến năm 2016, Việt Nam đã vào nhóm nước thu nhập
trung bình thấp, là một trong 32 nước có kim ngạch xuất khẩu trên 100 tỷ USD khi
tham gia các AEC và FTA mới. Trong đó một số mặt hàng đứng hàng đầu thế giới,
là nước thu hút FDI ổn định nhất trong ASEAN.
Năm 2020, Việt Nam đã xếp hạng 42/131 quốc gia/nền kinh tế, duy trì thứ hạng đã
đạt được năm 2019 và được các chuyên gia WIPO đánh giá là cao hơn so với trình
độ phát triển hiện nay. Trong nhóm 29 quốc gia có thu nhập trung bình thấp năm
2020, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đứng đầu (năm 2019 nhóm có 26 quốc gia và

5
Việt Nam cũng đứng đầu). Trong 10 quốc gia khu vực Đông Nam Á, Việt Nam
duy trì vị trí thứ 3, sau Singapore và Malaysia.
Cùng với sự tham gia WTO từ năm 2007, việc thực thi các FTA đã góp phần
thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%
- đó là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh. Đến nay, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký
kết và đang tham gia đàm phán 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA). Trong đó,
có hai FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu
(EVFTA).
1.1.2 Xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại năm 2020.
Bối cảnh kinh tế thế giới  năm 2020 rất phức tạp, không thuận lợi cho thương
mại quốc tế. Đây là năm  thế giới chứng kiến những biến động nhanh, phức tạp, đa
chiều và khó đoán định từ xung đột thương mại Mỹ-Trung, biến động về quan hệ
kinh tế – chính trị giữa các nền kinh tế lớn và đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của
dịch Covid-19 đến moi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Các nền kinh tế lớn đối mặt với
tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua.

Năm 2020 cũng là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5
năm 2016-2020, nước ta đang nỗ lực để hoàn thành mục tiêu đăt ra trong Kế
hoạch. Sự xuất hiện của dịch Covid-19 đã gây ra nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động kinh tế, trong đó xuất, nhập khẩu hàng hóa bị ảnh hưởng khá nghiêm
trọng. Những biến động, khó khăn đó đã khiến các nước có xu hướng sử dụng sản
phẩm nội địa thay cho sản phẩm nhập khẩu khi thực hiện biện pháp đóng cửa biên
giới để phòng chống dịch bệnh. Do đó nhiều nước đã sử dụng các biện pháp bảo hộ
thương mại, các rào cản kỹ thuật để tăng cường bảo hộ sản phẩm nội địa, đặc biệt
là các mặt hàng nông sản, thủy sản.

Tuy nhiên, với sự điều hành khéo léo, tỉnh táo và rất kiên quyết của Chính phủ
với mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, hoạt
động xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đứng vững trong sự đứt gãy
thương mại quốc tế trên toàn cầu, giữ được đà tăng trưởng và tạo lực kéo quan
trọng cho cả nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều rủi ro, bất ổn,
thương mại toàn cầu giảm sút, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so
với  năm trước, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khả quan
trong năm 2020. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt
543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262,4 tỷ USD, tăng

6
3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD, giá
trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng
6,5% so với năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm
1,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm
phần trăm so với năm trước).

Năm 2020 có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5
tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD. Mặt hàng đóng góp lớn nhất
vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là điện thoại và linh kiện với giá
trị xuất khẩu lớn nhất đạt 50,9 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu,
giảm 1% so với năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 44,7 tỷ USD, tăng
24,4%. Những năm gần đây nổi lên vai trò chi phối của nhóm hàng điện tử, máy
tính, điện thoại và linh kiện. Trị giá xuất khẩu của 2 nhóm hàng này đang tiến dần
tới mốc 100 tỷ USD (năm 2019 đạt 87 tỷ USD, năm 2020 ước tính đạt gần 96 tỷ
USD) với tỷ trọng ngày càng tăng, chiếm tới 33,9% tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2020.

Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6% so với năm
2019. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết cho sản xuất, xuất khẩu,
gồm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Kim
ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2019,
chiếm tỷ trọng 93,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu nhóm
hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới
16,3%. Điều này chứng tỏ nền kinh tế đang có sự phục hồi khá mạnh mẽ về sản
xuất trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, tỷ trọng chỉ chiếm 6,4%,
giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2019.

Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng
dư với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu hàng hóa
của nước ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,5 tỷ
USD; năm 2019 đạt 10,9 tỷ USD và năm 2020 ước tính đạt 19,1 tỷ USD.

Năm 2020 là một năm đầy khó khăn với ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-
19, nhưng thành tích xuất siêu không những được giữ vững mà còn có thể lập nên
kỷ lục mới. Tuy rằng mức xuất siêu kỷ lục năm 2020 có ảnh hưởng khá lớn bởi sự
suy giảm của kim ngạch nhập khẩu, nhưng trong bối cảnh khó khăn do dịch bệnh

7
diễn biến phức tạp, xuất khẩu vẫn là điểm sáng và là tiền đề quan trọng để nền kinh
tế vững bước vào năm 2021.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu
hàng hóa cả nước trong tháng đạt 55,56 tỷ USD, tăng 11,3% so với tháng trước.
Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 27,65 tỷ USD, tăng 9,6% so với tháng trước (tương
ứng tăng 2,42 tỷ USD); nhập khẩu đạt 27,90 tỷ USD, tăng 13% (tương ứng tăng
3,21 tỷ USD).
Trong năm 2020, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 545,36
tỷ USD, tăng 5,4% với năm trước. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 282,65
tỷ USD, tăng 7,0%, tương ứng tăng 18,39 tỷ USD và nhập khẩu đạt 262,70 tỷ
USD, tăng 3,7%, tương ứng tăng 9,31 tỷ USD.
Biểu đồ 1: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt
Nam theo tháng trong năm 2020

Trong tháng, cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 252 triệu USD. Tính cả
năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa của cả nước thặng dư 19,95 tỷ USD.
Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong tháng đạt 38,48 tỷ USD, tăng 9,6% so

8
với tháng trước, đưa trị giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong năm
2020 đạt 371,90 tỷ USD, tăng 11,8%, tương ứng tăng 39,26 tỷ USD so với năm
2019.
Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI trong tháng này đạt
20,44 tỷ USD, tăng 8,2% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu của khối này
trong năm 2020 lên 202,89 tỷ USD, tăng 10,7% so với năm trước.
Ở chiều ngược lại, trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong tháng
12/2020 đạt 18,04 tỷ USD, tăng 11,3% so với tháng trước, đưa trị giá nhập khẩu
của khối này trong năm 2020 đạt 169,01 tỷ USD, tăng 13,1% so với năm 2019.
Tính toán của Tổng cục Hải quan cho thấy cán cân thương mại hàng hóa của
khối doanh nghiệp FDI trong tháng 12/2020 có mức thặng dư trị giá 2,4 tỷ USD,
đưa cán cân thương 1.2mại trong năm 2020 lên mức thặng dư trị giá 33,87 tỷ USD.
1.2 Thực trạng về đầu tư
1.2.1 Khái quát về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động nhận được nhiều sự quan tâm của
các tổ chức và các quốc gia trên thế giới, hiện nay có nhiều khái niệm về hoạt động
này:
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, 1993): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với
một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế
nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh
nghiệp.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): FDI là dòng đầu tư ròng (thuần) vào một quốc
gia để nhà đầu tư có được quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít nhất 10% cổ
phần thường) trong một doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác (đối
với chủ đầu tư).
Theo Luật Đầu tư Việt Nam: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia khác
để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
quốc gia này, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình.
1.2.2 Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn
2010 - 2020
Với lợi thế cạnh tranh về môi trường đầu tư thông thoáng, môi trường chính trị
ổn định, môi trường kinh tế vĩ mô phát triển ổn định, nguồn nhân lực dồi dào với

9
chi phí thấp, Việt Nam là một trong những quốc gia hấp dẫn với nhà đầu tư nước
ngoài. Nhờ các lợi thế đó,  dòng vốn FDI vào Việt Nam những năm gần đây có xu
hướng tăng lên, đặc biệt là sau khi Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương
mại tự do (FTA) song phương và đa phương.
Giai đoạn từ năm 2010 - 2014 vốn FDI đăng ký có sự dao động liên tục và tăng
nhẹ từ 19,89 tỷ USD năm 2010 lên 21,92 tỷ USD vào năm 2014. Từ sau năm 2015
tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ và liên tục, với tổng
vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2015 là 22,7 tỷ USD, thì đến năm 2019 con số này
tăng lên 38,95 tỷ USD.
Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu bị ảnh
hưởng nghiêm trọng nên vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam có sự sụt
giảm, chỉ đạt 28,53 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019 (Hình 1).

Không chỉ gia tăng về số vốn đăng ký, mà vốn FDI thực hiện cũng tăng cao
hơn trong giai đoạn 2015- 2019, từ 14,5 tỷ USD lên 20,38 tỷ USD; số dự án đầu tư
đăng ký mới tăng từ 1.843 dự án năm 2015 lên 3.883 dự án năm 2019.
Đến năm 2020, do chịu ảnh hưởng chung của đại dịch Covid-19, hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nên các dự án FDI vào Việt

10
Nam có sự sụt giảm cả về vốn đăng ký, và các dự án đăng ký mới, nhưng vốn thực
hiện chỉ sụt giảm nhẹ, đạt 98% so với năm 2019 (Bảng 1).

Về lĩnh vực đầu tư:


Trong giai đoạn 2010 - 2020 vừa qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào
19 ngành lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo luôn là lĩnh vực thu hút
được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký
cấp mới và tăng thêm luôn dao động trong khoảng 13 - 24 tỷ USD, chiếm tỷ lệ
phần trăm cao trong tổng số vốn đầu tư đăng ký (40 - 70%). Ngoài ra, các lĩnh vực
như kinh doanh bất động sản, bán buôn, bán lẻ hay sản xuất phân phối điện cũng
khá nổi bật trong các ngành nhận được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tính đến hết năm 2019, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu
hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư, chiếm tỉ trọng cao nhất với tổng
vốn đăng ký là 214,6 tỷ USD, ứng với 59% tổng số vốn đăng ký. Số dự án đầu tư
của lĩnh vực này cao nhất với 14.463 dự án, ứng 46,7% tổng số dự án. Lĩnh vực bất
động sản đứng thứ 2 với tổng số vốn đăng ký là 58,4 tỷ USD (chiếm 16% tổng số
vốn đăng ký). Đáng chú ý, đã có sự gia tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào các hoạt động

11
kinh doanh bất động sản với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng như:
CapitaLand, Sunwal Group, Mapletree, Kusto Home,… Bên cạnh đó, lĩnh vực sản
xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chiếm
6,5% tổng số vốn đăng ký.
Năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều
sự quan tâm nhất của nhà đầu tư nước ngoài với 800 dự án cấp mới, 680 dự án điều
chỉnh vốn đầu tư và 1268 lượt góp vốn, mua cổ phần với tổng số vốn là 13,601 tỷ
USD, chiếm 47,67% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí đốt
và hơi nước đứng thứ 2 đạt 5,1426 tỷ USD chiếm 18,03% tổng vốn đầu tư. Hoạt
động kinh doanh bất động sản đứng thứ 3 với 4,18495 tỷ USD chiếm 14,67% tổng
vốn đầu tư. Nhìn chung, các ngành công nghệ chế biến, kinh doanh bất động sản,
sản xuất và phân phối điện, dịch vụ lưu trú ăn uống,… là những ngành thu hút vốn
đầu tư FDI vào nhiều nhất.
Về đối tác đầu tư:
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê,  tính đến hết năm 2020 Việt Nam đã thu
hút được tổng số vốn đăng ký trên 377 tỷ USD với tổng số 33.148 dự án từ các
quốc gia và vùng lãnh thổ. Có 10 quốc gia cam kết với số vốn trên 10 tỷ USD.
Trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 69,3 tỷ USD và 9.149 dự án
đầu tư (chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư); Nhật Bản đứng thứ hai với 60,1 tỷ USD và
4.674 dự án đầu tư (chiếm gần 15,9% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là
Singapore và Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc chiếm 14,8%, 8,9%, 6,6% và
4,7% (Hình 2).

12
Trong giai đoạn 2016 - 2020, số quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt
Nam ngày càng tăng lên, tính đến cuối năm 2020 thì con số này lên tới 139 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Trong đó thì Hàn Quốc là quốc gia có nhiều vốn đầu tư tại
Việt Nam nhất với tổng vốn đầu tư chiếm từ 17 - 19% tổng số vốn FDI. Đứng thứ
hai là Nhật Bản với vốn đầu tư luôn dao động trong khoảng 14 - 17% tổng vốn FDI
vào Việt Nam. Ngoài 2 nước có số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn kể trên thì
trong giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cũng nhận được rất nhiều các khoản đầu tư
FDI từ các nước và vùng lãnh thổ khác như: Trung Quốc, Malaysia, Singapore,
Đài Loan, Hồng Kông,…

Có thể thấy, giai đoạn 2010 - 2020 Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong việc thu hút vốn FDI vào phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù có được
kết quả đầu tư FDI ấn tượng, nhưng Việt Nam vẫn chưa phải là quốc gia hấp dẫn
nhà đầu tư nước ngoài nhất khu vực ASEAN. Thực tế cho thấy, nhiều tập đoàn đa
quốc gia đã chọn Thái Lan, Malaysia, Indonesia... để đầu tư vì có môi trường đầu
tư cạnh tranh nhất ASEAN và có ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI. Vì vậy, Việt Nam cần thay đổi chiến lược về
chính sách để duy trì khả năng cạnh tranh trong ASEAN, bảo đảm sự bền vững của

13
luồng vốn FDI tiếp nhận được và đẩy mạnh thu hút vốn FDI có giá trị gia tăng cao
hơn. Điều này nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

1.3 Thực trạng dịch vụ tài chính


1.3.1 Thực trạng dịch vụ tài chính số ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, xu hướng thanh toán điện tử (TTĐT) và TMĐT đang diễn ra ngày
càng sôi động. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong năm 2020, TTĐT tăng
trên 70% với tổng giá trị giao dịch tăng hơn 120%. Hiện nay các DFS ở Việt Nam
tập trung vào dịch vụ thanh toán với hơn 33% các doanh nghiệp (DN) DFS cung
ứng dịch vụ TTĐT.
Tính đến hết tháng 4/2021, Việt Nam có 43 công ty không phải là các tổ chức
phi ngân hàng được cấp phép tham gia vào hoạt động thanh toán, cung cấp cho
khách hàng và các nhà bán lẻ các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giải pháp
thanh toán KTS như: MoMo, Grappay by Moca, Airpay, VinID pay, Zalo pay,
VNpay QR... Đây là những công ty có mức tăng trưởng ấn tượng về dịch vụ TTĐT
hiện nay.
Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài
khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile
money) là cơ sở pháp lý quan trọng của hoạt động thanh toán và tiền KTS, tạo tiền
đề của sự gia nhập các công ty lớn về viễn thông trong việc cung ứng dịch vụ này.
Hoạt động cho vay ngang hàng và không gian blockchain là hai phân khúc có
mức tăng trưởng mạnh nhất. Hai dịch vụ này có số lượng công ty tăng từ 5 công ty
vào năm 2017 lên hơn 15 công ty trong năm 2020. Một số công ty cung cấp dịch
vụ cho vay như: Tima, Vay mượn, Interloan, Finrei, Money bank, Cashwagon…
Tuy nhiên, hoạt động cho vay ngang hàng hiện nay chưa có cơ sở pháp lý và kỹ
thuật đầy đủ, dẫn tới nhiều rủi ro có thể xảy ra. Tháng 7/2020, NHNN cảnh báo các
nhà đầu tư thận trọng khi hợp tác với các tổ chức cho vay ngang hàng, do chưa có
đủ cơ sở pháp lý và kỹ thuật nhằm bảo vệ các hoạt động của họ theo các quy định
hiện hành và được bảo hiểm trước rủi ro. Năm 2021, NHNN bắt đầu thực hiện kế
hoạch áp dụng thí điểm một số dịch vụ ngân hàng bằng công nghệ.
Thời gian qua, trên thị trường cũng xuất hiện thêm các DFS mà trước năm
2017 chưa có như bảo hiểm công nghệ, ngân hàng KTS và các DN tài chính vừa và
nhỏ như: Papaya, Inso, Opes, Wicare… Một số công ty hoạt động trong lĩnh vực
gọi vốn (FundStart, Comicola, Betado, Firststep), chuyển tiền (Matchmove,
Cash2vn, Nodestr, Remittance Hub), quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS, quản

14
lý dữ liệu, cho vay và so sánh thông tin (Mobivi, Money Lover, Timo, kiu, Loanvi,
Tima, TrustCircle, Hottab, SoftPay, ibox, BankGo, gobear…).
Bên cạnh những tín hiệu lạc quan trên, cũng không thể bỏ qua các rủi ro và
thách thức đối với việc phát triển các dịch vụ tài chính số.
Quản trị dữ liệu và quyền riêng tư: DFS xoay quanh việc thu thập, lưu trữ, xử
lý và trao đổi dữ liệu người tiêu dùng (NTD) bởi nhiều người chơi trong hệ sinh
thái. Điều này khiến NTD có nguy cơ tiết lộ và sử dụng trái phép dữ liệu cá nhân,
đồng thời kêu gọi các khuôn khổ bảo vệ dữ liệu NTD toàn diện (như Quy định Bảo
vệ dữ liệu chung 2016/679 – GDPR ở châu Âu).

An ninh mạng và rủi ro hoạt động: DFS có thể dựa vào cơ sở hạ tầng dữ liệu
dễ bị tấn công mạng, lỗi hệ thống và phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp
dịch vụ bên thứ ba (ví dụ như lưu trữ và phân tích đám mây, cung cấp dữ liệu).
Điều này có thể ảnh hưởng đến tính liên tục của hoạt động kinh doanh và sự ổn
định tài chính và có liên quan chặt chẽ đến các mối quan tâm về quản trị dữ liệu.
Tính minh bạch của hoạt động tài chính: Một số DFS, chẳng hạn như nền tảng
huy động vốn từ cộng đồng, tiền điện tử, thẻ trả trước và tài sản tiền điện tử cho
phép các giao dịch tài chính từ xa và nhanh chóng, cho phép người dùng phá vỡ
hoặc trốn tránh các kiểm soát hiện tại và có thể được sử dụng cho các hoạt động tài
chính bất hợp pháp. Khoảng cách và sự chậm trễ trong triển khai các biện pháp
nhằm minh bạch tài chính đang là rủi ro.
Thiếu hụt quy định pháp lý: Một số DFS đã được cung cấp bởi các thực thể
không mới mà không xác định rõ điều chỉnh đối tượng đó như thế nào, xem là tổ
chức tài chính hay Fintech. Những hoạt động và rủi ro không phải lúc nào cũng
được xử lý triệt để theo quy định. Điều này có thể dẫn đến việc tích tụ các rủi ro
bên ngoài hệ thống được quản lý liên quan đến tính ổn định, tính toàn vẹn và bảo
15
vệ NTD. Đồng thời, có thể tạo ra một sân chơi không bình đẳng làm suy yếu sự
cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính truyền thống và các công ty công nghệ.
Rủi ro tài chính vĩ mô: Hoạt động cho vay KTS đang phát triển nhanh chóng,
cũng như các DFS khác, có thể gây ra rủi ro cho các tổ chức cá nhân, đặc biệt nếu
các công ty cung cấp các dịch vụ này chưa được kiểm soát bởi pháp lý. Ở cấp độ vĩ
mô, những hoạt động khi có những sự đổ vỡ có khả năng gây tác động lan tỏa đến
nền tài chính vĩ mô. Việc cho vay dựa trên KTS có thể dẫn đến việc lạm dụng tín
dụng tiêu dùng dẫn đến việc chậm trả nợ và vỡ nợ.
Cạnh tranh công bằng: Do lợi thế về quy mô, danh tiếng và vốn, có tiềm năng
cho các nền tảng DFS và nền tảng công nghệ lớn làm giảm cạnh tranh tổng thể và
tăng mức độ tập trung rủi ro trong lĩnh vực tài chính. Ở một số nước, các công
nghệ lớn đã và đang chiếm vị trí thống trị trên một loạt các DVTC như thanh toán,
cho vay, bảo hiểm và quản lý đầu tư.
Tính phổ biến công nghệ trong dân cư: Tiếp cận không bình đẳng với cơ sở hạ
tầng và công nghệ làm tăng khoảng cách về tiếp cận DFS trong dân cư ở diện rộng,
từ nông thôn cho đến thành thị. Điều này đặt ra yêu cầu phải có cơ sở hạ tầng viễn
thông phủ rộng, cũng như các thiết bị di động và gói dữ liệu giá cả phải chăng.
Tính công bằng trong tiếp cận tài chính: Các công cụ ra quyết định được liên
kết với DFS, chẳng hạn như chấm điểm tín dụng có thể không loại bỏ hoàn toàn
các thành kiến có trong dữ liệu cơ bản hoặc trong suy nghĩ của những người thiết
kế các công cụ này, ví dụ như định kiến hoặc phân biệt đối xử đối với người vay
thiểu số. Điều này có thể dẫn đến việc định giá sử dụng DFS không công bằng.
Những người mới sử dụng DVTC ít hiểu biết và không có tương tác trực tiếp với
các nhà cung cấp có thể không nắm rõ các nội dung này, từ đó dẫn đến các vướng
mắc của người dùng, làm giảm lòng tin vào DFS.
1.3.2 Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn
2010 - 2020
Ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, một số hệ thống thị trường DVTC đồng bộ dần được hình thành
nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng đa dạng, cả về số lượng cũng như chủng
loại của người dân và doanh nghiệp bao gồm: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị
trường tài chính, dịch vụ bảo hiểm kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính. Các chủ thể
tham gia thị trường DVTC ngày càng mở rộng, trong đó có các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Giá cả DVTC đang được đổi mới theo
hướng tự do hóa, giảm dần sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. 

16
Theo đó, thị trường DVTC ở Việt Nam trong thời gian qua, đã có bước tăng trưởng
tốt, thể chế được hoàn thiện, khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế cũng như chất
lượng dịch vụ được tăng cường. Cụ thể như:
Khung khổ pháp lý ngày càng được hoàn thiện
Nhìn chung, khung khổ pháp lý về thị trường DVTC ngày càng được hoàn
thiện. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành và sửa đổi, bổ sung theo hướng: Phát triển TTCK trở thành kênh huy
đô ̣ng vốn trung và dài hạn của nền kinh tế, minh bạch bảo vệ quyền và lợi ích của
các chủ thể tham gia thị trường; Phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân, hỗ trợ
phát triển sản xuất kinh doanh; Phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán đáp
ứng yêu cầu thông tin cho quản lý, điều hành và kiểm soát các nguồn lực của nền
kinh tế, thúc đẩy các hoạt đô ̣ng trong lĩnh vực tài chính ngày càng công khai, minh
bạch; Phát triển dịch vụ ngân hàng theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ,
nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

Thị trường chứng khoán ngày càng phát triển

17
Trong giai đoạn 2011 – 2018, thị trường vốn ngày càng phát triển về quy mô,
cải thiê ̣n về chất lượng và hiệu quả hoạt đô ̣ng; đóng góp tích cực vào viê ̣c huy
đô ̣ng các nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế. Tính đến hết năm
2018, thị trường vốn đạt mức tăng trưởng bình quân 25%/năm, trong đó tốc độ
tăng trưởng bình quân của TTCK đạt 27% và thị trường trái phiếu (TTTP) đạt
24%.
Quy mô thị trường vốn đạt 111,2% GDP, trong đó giá trị vốn hóa thị trường cổ
phiếu đạt 71,02% GDP, gấp 5,4 lần so với năm 2011; quy mô dư nợ TTTP đạt
39,12% GDP; thanh khoản TTCK được cải thiện rõ rê ̣t, giá trị giao dịch bình quân
năm 2018 gấp 2,3 lần so với năm 2011. Quy mô TTCK và TTTP đã vượt các mục
tiêu đề ra đến năm 2020 tại Quyết định số 450/QĐ-TTg về Chiến lược tài chính
đến năm 2020. Tính đến hết tháng 6/2019, quy mô thị trường vốn tăng khoảng
6,3% so với thời điểm cuối năm 2018.
TTCK sơ cấp khởi sắc từ năm 2013 cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong
nước. Theo đó, các DN tăng cường huy động vốn trên TTCK, song song với việc
Nhà nước đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và
thoái vốn nhà nước tại các DN. Trong đó, một số DNNN được cổ phần hóa và
thoái vốn có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả cao như: Tổng công ty Hàng
không Việt Nam (Vietnam Airlines), Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), Tổng
công ty Xây dựng công trình Giao thông 1, Tổng công ty Xây dựng Công trình
giao thông 4, Tổng công ty Xây dựng đường thủy, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam,
Công ty cổ phần bia Sài Gòn... đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.
Đối với TTTP, khối lượng huy động vốn qua phát hành TPCP bình quân
khoảng 185.000 tỷ đồng/năm, đáp ứng 50%-60% nhu cầu huy động vốn cho cân
đối ngân sách hàng năm. Thị trường TPCP bảo lãnh đã cơ bản đáp ứng nhu cầu
huy động vốn phục vụ cho vay các chương trình tín dụng đầu tư và an sinh xã hội
với khối lượng vốn huy động bình quân khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.
TTTP chính quyền địa phương trong giai đoạn 2012 - 2017 đã giúp các địa
phương huy động được khoảng 35 nghìn tỷ đồng, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát
triển cho địa phương trong bối cảnh nguồn lực của ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương còn hạn chế. Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN),
khối lượng phát hành bình quân khoảng 80.000 tỷ đồng/năm, kỳ hạn phát hành chủ
yếu từ 3-5 năm phù hợp với chu kỳ đầu tư của DN.
TTCK thứ cấp cũng phục hồi sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phát triển ổn
định hơn so với giai đoạn trước đó mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn,

18
thách thức, quy mô thị trường tiếp tục phát triển trên nhiều phương diện. VN-index
tăng trưởng liên tục từ mức 413 điểm năm 2012 lên 908,56 điểm vào cuối năm
2018 và ở mức 996,56 điểm vào cuối tháng 9/2019. Thanh khoản trên thị trường
liên tục được cải thiện qua các năm, từ mức bình quân 915 tỷ đồng/phiên của năm
2012 lên khoảng 6.500 tỷ đồng/phiên của năm 2018. Bước sang năm 2019, mặc dù
có một số thời điểm thị trường “trầm lắng” nhưng tính chung 9 tháng năm 2019
giao dịch bình quân phiên đạt khoảng 4.500 tỷ đồng/phiên.
Đối với TTTP, giao dịch trên thị trường thứ cấp năm 2018 đạt khoảng 8.700 tỷ
đồng/phiên, gấp 8 - 9 lần so với năm 2012; tương đương 0,93% dư nợ trái phiếu
niêm yết. Giao dịch bình quân trái phiếu trong 9 tháng năm 2019 tương đương với
bình quân năm 2018. Hạ tầng giao dịch trên TTTP cũng được cải thiện, giúp giảm
thời gian thanh toán, niêm yết trái phiếu từ T+6 (năm 2009) xuống T+2 (năm
2015), hệ thống thanh toán giao dịch TPCP qua Ngân hàng Nhà nước đã chính
thức hoạt động từ ngày 1/8/2017, góp phần duy trì thị trường hoạt động ổn định,
hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của TTCK sơ cấp và thứ cấp, các sản phẩm dịch vụ mới
được nghiên cứu, triển khai đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Cụ
thể, TTCK phái sinh vận hành từ tháng 8/2017, mở ra kênh đầu tư mới, hấp dẫn
cho nhà đầu tư. Hiện nay, trên thị trường đã có các sản phẩm phái sinh chỉ số
VN30, sản phẩm hợp đồng tương lai TPCP, sản phẩm chứng quyền có đảm bảo.
Bên cạnh đó, các mục tiêu cơ bản của tái cấu trúc tổ chức kinh doanh chứng khoán
đã đạt được. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán từng bước thu hẹp số lượng và
nâng cao chất lượng, tăng cường năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi
ro. Hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát, cưỡng chế thực thi đối với
thị trường được nâng cao, niềm tin đối với thị trường được duy trì, góp phần để thị
trường tài chính hoạt động lành mạnh, ổn định.
Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định
Những năm qua, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ phát triển ổn định. Trong
giai đoạn 2015 – 2018, thị trường bảo hiểm duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân
25%/năm. Đến cuối năm 2018, doanh thu phí bảo hiểm đạt khoảng 3% GDP đối
với doanh thu bảo hiểm gốc; thực hiện chi trả quyền lợi bảo hiểm đạt khoảng
36.415 tỷ đồng; các DN bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế trên 300 nghìn tỷ
đồng. Đến tháng 6/2019, thị trường bảo hiểm có khoảng 1.300 sản phẩm được phát
triển theo hướng ngày càng đa dạng và linh hoạt đối với tất cả nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe.

19
Sự phát triển thị trường bảo hiểm trong thời gian qua là kết quả việc tăng
cường năng lực tài chính, năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động của các DN bảo
hiểm. Theo đó, một số giải pháp đã được triển khai như đa dạng hóa sở hữu nhằm
hạn chế biểu hiện độc quyền, khép kín trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm; nâng
cao mức độ an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư của các DN bảo hiểm,
đảm bảo vốn chủ sở hữu không thấp hơn vốn điều lệ đã duy trì khả năng thanh
toán ổn định. Bên cạnh đó, các DN bảo hiểm thực hiện đầu tư theo nguyên tắc an
toàn, thận trọng, thanh khoản và kiểm soát hạn mức đầu tư; thúc đẩy hoạt động
khai thác tại các mảng thị trường tiềm năng, cải thiện và nâng cao chất lượng dịch
vụ chăm sóc khách hàng, tăng cường hiệu quả kinh doanh, khuyến khích các DN
phát triển sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm; chuẩn hoá
các khâu trong hoạt động kinh doanh, tăng cường quản trị rủi ro DN bảo hiểm theo
thông lệ quốc tế.
Dịch vụ kế toán, kiểm toán và công tác quản lý được triển khai có hiệu quả
Dịch vụ kế toán, kiểm toán và công tác quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán
được triển khai có hiệu quả, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong
nền kinh tế. Doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán toàn thị trường năm
2018 đạt 7.800 tỷ đồng, tăng 20,09% so với năm 2017. Tổng số vốn điều lệ toàn
thị trường năm 2018 đạt gần 1.400 tỷ đồng, tăng 3,67% so với năm 2017. Bên cạnh
mức tăng trưởng về doanh thu cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, khung khổ
pháp lý và các chuẩn mực kế toán, kiểm toán đang từng bước sửa đổi, bổ sung và
cập nhật theo thông lệ quốc tế.
Trong quá trình hoạt động, về cơ bản các công ty kế toán, kiểm toán tuân thủ
đầy đủ các quy định liên quan đến việc đăng ký và duy trì điều kiện hành nghề, các
quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán độc lập; có kế hoạch đào tạo, cập
nhật kiến thức hàng năm cho đội ngũ nhân viên, chương trình đào tạo được xây
dựng phù hợp cho từng cấp độ nhân viên; thường xuyên rà soát, nâng cấp hệ thống
kiểm soát chất lượng dịch vụ...
Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung ứng cho khách hàng
Dịch vụ ngân hàng phát triển nhanh, có tính cạnh tranh cao với nhiều loại hình
sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Tín dụng được cung cấp dựa trên
hiệu quả hoạt động của DN, phương án sản xuất kinh doanh, chú trọng nhiều hơn
đến nhóm khách hàng là DN nhỏ và vừa. Các sản phẩm tiết kiệm được phát triển
đa dạng để đáp ứng nhu cầu của người dân; dịch vụ thanh toán phát triển mạnh, gia
tăng tiện ích, giảm thiểu chi phí, thời gian giao dịch cho khách hàng, thúc đẩy
thanh toán không dùng tiền mặt.

20
Các tổ chức tín dụng (TCTD) được cơ cấu lại theo hướng minh bạch tài chính,
đa dạng cấu trúc sở hữu, củng cố năng lực hoạt động, nâng cao kỷ cương, nguyên
tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Số liệu thống kê cho thấy, tính đến cuối
năm 2018, tổng tài sản của các TCTD đạt 10,98 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng
200% GDP, gấp 2,36 lần so với quy mô tổng tài sản của các TCTD năm 2011.
Chất lượng cung cấp dịch vụ ngân hàng được nâng cao do các TCTD không
ngừng củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính theo hướng an toàn, hiệu
quả và từng bước đổi mới quản trị ngân hàng ngày càng phù hợp với các thông lệ,
chuẩn mực quốc tế. Sau những tồn tại, yếu kém, tổn thất phát sinh từ nguyên nhân
quản trị, điều hành thời gian trước đây, các TCTD đã ý thức và chú trọng hơn trong
nâng cao năng lực quản trị ngân hàng, phát triển các hệ thống quản trị rủi ro, nâng
cao hiệu quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ; rà soát, hoàn thiện hệ thống các chính
sách, quy trình, thủ tục về các lĩnh vực nghiệp vụ; nâng cao năng lực đánh giá,
thẩm định, quản lý tín dụng...
Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng về tổng thể, thị trường
DVTC ở Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, đối với thị trường chứng khoán
Tuy TTCK Việt Nam đã có bước phát triển nhanh nhưng còn tồn tại yếu tố
chưa thực sự bền vững. Quy mô của thị trường cổ phiếu vẫn ở mức thấp. So với
các thị trường trong khu vực ASEAN, giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu Việt
Nam chỉ tương đương 26,8% của Indonesia; 23,3% của Thái Lan; 29,5% của
Malaysia; 16,8% của Singapore và 50,1% của Philippines. Số lượng các DN niêm
yết và đăng ký giao dịch tuy lớn nhưng quy mô còn nhỏ và không đồng đều (10 cổ
phiếu lớn nhất chiếm 55% tổng vốn hóa thị trường và 30 cổ phiếu lớn nhất chiếm
80% tổng vốn hóa thị trường). 
Các sản phẩm TPDN, các sản phẩm quỹ và phái sinh trên TTCK chưa đa dạng
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư. Các công ty đại chúng chưa
chủ động công khai những thông tin về tình hình hoạt động, tình hình sử dụng vốn,
tình hình quản trị công ty, đặc biệt là việc công bố thông tin bằng tiếng Anh để hỗ
trợ các nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam còn thấp
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới...
Thứ hai, đối với thị trường bảo hiểm

21
Quy mô thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay ở mức thấp so với mức trung
bình của các nước trong khu vực (3 - 5%) và thế giới (6 - 7%), chưa có các cơ chế
quản lý, giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp
trong quản trị, điều hành.
 Các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm cho người có thu nhập
thấp chưa phát triển; phân khúc khai thác bảo hiểm còn chưa đồng đều. Trong khi
đó, các DN bảo hiểm chủ yếu tập trung khai thác tại các thành phố lớn (trên 70%
tổng doanh thu) và các đối tượng có thu nhập cao (với phí bảo hiểm bình quân
hàng năm của 1 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khai thác mới là 12,5 triệu đồng).
Chất lượng và tính chuyên nghiệp của kênh phân phối đại lý bảo hiểm cũng cần
phải tăng cường hơn nữa, như vậy mới có thể đảm bảo tốt vai trò là cầu nối giữa
DN bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán
Sự phát triển của thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán hiện nay phụ thuộc vào
một số công ty kiểm toán nước ngoài; số lượng các kế toán và kiểm toán viên hành
nghề có trình độ nghiệp vụ cao còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp
dịch vụ kế toán, kiểm toán.
Thứ tư, đối với dịch vụ ngân hàng
Hiện nay, Việt Nam vẫn còn thiếu các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và
có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam
có quy mô nhỏ, mức độ lành mạnh, năng lực tài chính còn hạn chế, chất lượng
cung cấp dịch vụ còn thấp, mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa
cao. Trong đó, có một bộ phận các TCTD hoạt động kém hiệu quả, mức độ an toàn
thấp; phương thức cạnh tranh còn nặng về giá/lãi suất, chưa coi trọng đúng mức
chất lượng dịch vụ.
1.4 Thực trạng lao động Việt Nam
Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động
ở Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị
trường lao động Việt Nam đang bộc lộ nhiều điểm yếu lẫn mâu thuẫn, trong đó
nghiêm trọng nhất là mất cân bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp.
Trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực phát triển công
nghiệp, các ngành dịch vụ trung cao cấp lại thiếu hụt lao động trầm trọng.

22
Lao động Việt Nam giàu lực lượng, nghèo kỹ năng, đó là đánh giá của không ít
các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực ở Việt Nam rất dồi dào
nhưng lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Lao động Việt Nam được đánh giá là
khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện
đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường
lao động hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là
mối quan tâm của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản
trị kinh doanh, lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản ly trung gian  hiểu biết về
tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề
cao, ham học hỏi. Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị
trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để
hoàn thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý
nước ngoài đã nhận xét: “Lao động Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải
quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều”.
Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp không thể thành đạt được, cho dù
họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có đẳng cấp cao.
Khi tham gia TPP, Việt Nam có lợi thế là có lực lượng lao động dồi dào và cơ
cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014,
quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong
đó số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%;
khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên;
tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây
(theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua
đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt
Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí
công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia
nước ngoài.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp,
do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt
khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu
phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như
chưa qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những
“điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm
2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số
lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ
trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào
tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề
23
dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động
trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và
có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh
giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc
cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79
điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới
(trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59
điểm... Do vậy, nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á -
Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và
thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia
và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình
5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc
độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt
Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được
nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm
khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn
trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm
2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).

Chương 3: Giải pháp khuyến nghị

Để hội nhập quốc tế toàn diện trong giai đoạn mới có hiệu quả cần triển khai thực
hiện hệ thống các giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về
yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, lĩnh vực để thống nhất
nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc
tế của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của toàn dân, doanh
nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức trong xã hội.

Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về hội nhập quốc tế,
trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện, đồng bộ trên cơ sở phù
hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, đường lối đối ngoại của
Đảng; điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hội nhập quốc tế cho phù hợp
với thực tiễn phát triển của đất nước và các cam kết quốc tế.
Ba là, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia qua việc đẩy mạnh hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo ra
24
môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệp,
người dân tham gia phát triển sản xuất kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; tạo cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho
nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.v.v...
Bốn là, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có
tầm ảnh hưởng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của Việt
Nam, đưa các khuôn khổ quan hệ đã được xác lập đi vào thực chất có chiều sâu,
tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa Việt Nam với các đối tác một cách bình đẳng.
Chủ động trong việc lựa chọn đối tác và xây dựng phương án đàm phán với từng
đối tác trên cơ sở cùng có lợi.
Năm là, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động xây dựng các chương trình, kế
hoạch toàn diện và cụ thể trong việc thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị
về hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới cũng như trong nước đang có nhiều
thay đổi lớn. Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của các
cơ quan quản lý nhà nước và chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Chú
trọng hơn đến công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chủ trương, chính
sách hội nhập.
Sáu là, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký thỏa thuận. Xây
dựng và triển khai chiến lược hội nhập trên mọi lĩnh vực theo kế hoạch tổng thể
với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích quốc gia và khả năng của đất nước. Tích
cực và trách nhiệm hơn trong việc tham gia các thể chế hội nhập toàn cầu. Chủ
động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính
trị, kinh tế thế giới theo hướng công bằng, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.
Bảy là, đẩy mạnh nâng cao năng lực thực thi hội nhập quốc tế qua việc kiện toàn,
củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, hội nhập
quốc tế. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách, nguồn nhân
lực chất lượng cao có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức, kỹ năng hội nhập,
nắm vững nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của công tác hội nhập trong
giai đoạn mới.
KẾT LUẬN

      Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày
càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây
Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.

25
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế
giới, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN,
WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn
định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình
hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết
chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện;
thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta
đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh. 

     Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được
khai thông, tăng cường giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của
Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế”. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động, sử dụng lao động
thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội để
nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà nước ta
chưa có. Điều này cho thấy Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế không những mở
rộng thị trường, thu hút nguồn lực vốn, tăng năng lực cạnh tranh, mà còn tăng khả
năng tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo đều kiện để nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tài liệu tham khảo


1.Nghị quyết số 06-NQ/TW (2016), Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
2.Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong bối cảnh mới, Nxb KHXH, H.2011.
3. Đỗ Văn Sử (2016), Kế hoạch thu hút vốn FDI vào kết cấu hạ tầng kinh tế của
Việt Nam và cơ hội đối với nhà FDI, trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài,
http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/1388/Ke-hoach-thu-hut-von-FDI-vao-ket-cau-ha-tang-
kinh-te-cua-Viet-Nam-va-co-hoi-doi-voi-nha-DTNN.
4. Đào Quang Thu (2013), Kỉ yếu Hội Nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam.

26
http://fia.mpi.gov.vn/_layouts/fiaportal/uploads/old_data/uploads/Doc/Ky%20yeu
%2025%20nam%20DTNN_final.pdf
5. Thư viện học liệu mở Việt Nam (2016), Các nguồn vốn huy động cho đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, https://voer.edu.vn/: https://voer.edu.vn/m/cac-nguon-
von-huy-dong-cho-dau-tu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/64dd5daf
6. Nguyễn Văn Tâm (2018), Công nghệ tài chính tại Việt Nam và những thách
thức đặt ra, Tạp chí tài chính kỳ 2- Tháng 5/2018, trang 21-23
7. World Bank (2020), Digital financial services; truy cập:
https://pubdocs.worldbank.org/en/230281588169110691/Digital-Financial-
Services.pdf

8. Fintech New (2020), Vietnam Fitech Report 2020.

9. Vũ Nhữ Thăng (2021), Định hướng phát triển thị trường tài chính Việt Nam giai
đoạn 2021-2030, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 1/2021.

10. Bộ Luật Lao động. 2019 sửa đổi, được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2019.

11. Trung tâm WTO-VCCI (2018), Bản tin Doanh nghiệp và Chính sách thương
mại quốc tế, Hà Nội.

27
28

You might also like