You are on page 1of 37

Machine Translated by Google

Bộ quy tắc đạo đức của Canada dành cho

nhà tâm lý học

Ấn bản thứ ba
Machine Translated by Google

Bản quyền © 2000

Hiệp hội tâm lý Canada


Hiệp hội tâm lý Canada

Giấy phép được cấp để sao chép tài liệu này cho mục đích giáo dục.

Hiệp hội Tâm lý Canada Société


canadienne de psychologie 151 Slater
St., Suite 205 Ottawa, Ontario K1P
5H3

Tiêu đề: Bộ quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học. - tái bản lần thứ 3 .

ISBN 1-896538-11-8
Machine Translated by Google
Machine Translated by Google

Bộ quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học
Ấn bản thứ ba

Mục lục

lời mở đầu

Giới thiệu ................................................. ......

Cấu trúc và nguồn gốc của mã .................................... 1 1

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
Khi các nguyên tắc xung đột . .

2
Quy trình ra quyết định có đạo đức ....................................

Công dụng của Mã .............................................................. ..... 3

4
Trách nhiệm của nhà tâm lý học cá nhân ..................................

Mối quan hệ của Quy tắc với Hành vi Cá nhân. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5

Mối quan hệ của Bộ luật với các Cơ quan quản lý cấp tỉnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5

Định nghĩa thuật ngữ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Xem lại Lịch trình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5 . . . 7

Nguyên tắc I: Tôn trọng Phẩm giá của Con người Tuyên bố Giá trị . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . số 8

Chuẩn mực đạo đức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9

Tôn trọng chung ................................................. 9 Tổng quát quyền . . . . 9 Không phân biệt đối

. . . . . . . . . .10
xử ............................................ . Đối
. . xử
. .công
. . bằng/
. . . đúng
. . .thủ
. .tục
. .....................................
. . . . . . . . . . . . . . . . Sự 10

đồng ý có hiểu biết 10 Quyền tự do đồng ý 11 Bảo vệ những người dễ bị tổn thương . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Sự riêng tư . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 12 . 13

Bảo mật ................................................. 13 Trách nhiệm mở rộng . . 14

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Nguyên tắc II: Tuyên bố Giá trị Chăm sóc Có trách

nhiệm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15

Chuẩn mực đạo đức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chăm sóc chung. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16 .

Năng lực và kiến thức bản thân . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16 16

Phân tích rủi ro/lợi ích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Tối đa hóa lợi ích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17 . .

giảm thiểu tác hại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17

Bù đắp/điều chỉnh tác hại Chăm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 18 . . 19

sóc động vật . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20 21

Trách nhiệm mở rộng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


Machine Translated by Google

Nguyên tắc III: Chính trực trong các mối quan hệ Tuyên bố giá

trị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22

Chuẩn mực đạo đức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Độ chính xác/trung thực. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23 .

Khách quan/không thiên vị. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23

24
Tính thẳng thắn/cởi mở ..................................

Tránh tiết lộ không đầy đủ Tránh xung đột lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 25

ích ................................ 26 Tin cậy vào kỷ luật . . . . 27 Trách nhiệm mở rộng . . . . 27

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Nguyên tắc IV: Trách nhiệm đối với Xã hội Tuyên bố Giá

trị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Chuẩn mực đạo đức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 28 . .

Phát triển tri thức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29 . . 29

Hoạt động có ích Tôn trọng xã . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29

hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 30

Sự phát triển của xã hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 31

Trách nhiệm mở rộng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 32


Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

Bộ quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học

Ấn bản thứ ba

lời mở đầu

Giới thiệu

Mọi ngành học có quyền kiểm soát tương đối tự chủ đối với các yêu cầu đầu vào, đào tạo, phát triển kiến thức, tiêu chuẩn,

phương pháp và thực hành chỉ làm như vậy trong bối cảnh hợp đồng với xã hội mà ngành đó hoạt động. Hợp đồng xã hội này

dựa trên thái độ tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, với việc xã hội ủng hộ quyền tự chủ của một bộ môn để đổi lấy cam kết

của bộ môn làm mọi thứ có thể để đảm bảo rằng các thành viên của nó hành động có đạo đức trong việc tiến hành các công

việc của bộ môn. trong xã hội; đặc biệt là cam kết cố gắng đảm bảo rằng mỗi thành viên sẽ đặt phúc lợi của xã hội và các

thành viên cá nhân của xã hội đó lên trên phúc lợi của ngành học và các thành viên của chính nó. Theo hợp đồng xã hội này,

các nhà tâm lý học có nghĩa vụ chăm sóc các thành viên trong xã hội cao hơn nghĩa vụ chăm sóc chung mà tất cả các thành

viên trong xã hội phải có đối với nhau.

Hiệp hội Tâm lý Canada nhận ra trách nhiệm của mình trong việc giúp đảm bảo thái độ và hành vi đạo đức của các nhà tâm lý

học. Những nỗ lực để đảm bảo hành vi và thái độ đạo đức bao gồm trình bày rõ ràng các nguyên tắc, giá trị và tiêu chuẩn

đạo đức; thúc đẩy các nguyên tắc, giá trị và tiêu chuẩn đó thông qua giáo dục, mô hình hóa đồng đẳng và tư vấn; phát triển

và thực hiện các phương pháp giúp các nhà tâm lý học theo dõi đạo đức trong hành vi và thái độ của họ; xét xử các khiếu

nại về hành vi phi đạo đức; và, thực hiện hành động khắc phục khi được bảo đảm.

Quy tắc này nêu rõ các nguyên tắc, giá trị và tiêu chuẩn đạo đức để hướng dẫn tất cả các thành viên của Hiệp hội Tâm lý

Canada, dù là nhà khoa học, người hành nghề hay người hành nghề khoa học, hoặc dù hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu,

dịch vụ trực tiếp, giảng dạy, sinh viên, thực tập sinh, hành chính, quản lý, người sử dụng lao động , nhân viên, giám sát,

tư vấn, đánh giá ngang hàng, biên tập, nhân chứng chuyên môn, chính sách xã hội hoặc bất kỳ vai trò nào khác liên quan

đến lĩnh vực tâm lý học.

Cấu trúc và nguồn gốc của mã

Kết cấu. Bốn nguyên tắc đạo đức, được xem xét và cân bằng trong việc ra quyết định đạo đức, được trình bày. Mỗi nguyên

tắc được theo sau bởi một tuyên bố về những giá trị được đưa vào và đưa ra định nghĩa cho nguyên tắc. Mỗi tuyên bố giá

trị được theo sau bởi một danh sách các tiêu chuẩn đạo đức minh họa việc áp dụng các nguyên tắc và giá trị cụ thể vào hoạt

động của các nhà tâm lý học. Các tiêu chuẩn bao gồm từ những kỳ vọng tối thiểu về hành vi (ví dụ: Tiêu chuẩn I.28, II.28,

III.33, IV.27) đến những kỳ vọng về thái độ và hành vi được lý tưởng hóa hơn nhưng có thể đạt được (ví dụ: Tiêu chuẩn

I.12, II.12, III.10, IV.6). Ở lề, bên trái của các tiêu chuẩn, các từ khóa được đặt để hướng dẫn người đọc thông qua các

tiêu chuẩn và để minh họa mối quan hệ của các tiêu chuẩn cụ thể với tuyên bố giá trị.

Nguồn gốc. Bốn nguyên tắc đại diện cho những nguyên tắc đạo đức được các nhà tâm lý học Canada sử dụng nhất quán nhất để

giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức giả định do Ủy ban Đạo đức CPA gửi cho họ trong quá trình phát triển ban đầu

của Quy tắc . Ngoài các câu trả lời do các nhà tâm lý học Canada cung cấp, các tuyên bố về giá trị và tiêu chuẩn đạo đức

đã được lấy từ các quy tắc đạo đức liên ngành và quốc tế, quy tắc ứng xử cấp tỉnh và chuyên ngành cũng như tài liệu về

đạo đức.

[1]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Khi nguyên tắc xung đột

Tất cả bốn nguyên tắc phải được tính đến và cân bằng trong quá trình ra quyết định có đạo đức. Tuy nhiên, có
những trường hợp trong đó các nguyên tắc đạo đức sẽ xung đột và sẽ không thể coi mỗi nguyên tắc đều có trọng
lượng như nhau. Sự phức tạp của các xung đột đạo đức ngăn cản một trật tự vững chắc của các nguyên tắc.
Tuy nhiên, bốn nguyên tắc đã được sắp xếp theo trọng lượng mà mỗi nguyên tắc nói chung nên được đưa ra khi chúng
mâu thuẫn với nhau, cụ thể là:

Nguyên tắc I: Tôn trọng Phẩm giá Con người. Nguyên tắc này, với sự nhấn mạnh vào các quyền nhân thân,
thường phải được coi trọng nhất, trừ những trường hợp có mối nguy hiểm rõ ràng và sắp xảy ra đối với
sự an toàn về thể chất của bất kỳ người nào.

Nguyên tắc II: Chăm sóc có trách nhiệm. Nguyên tắc này nói chung nên được coi trọng thứ hai. Việc chăm
sóc có trách nhiệm đòi hỏi phải có năng lực và chỉ nên được thực hiện theo những cách tôn trọng phẩm
giá của con người.

Nguyên tắc III: Chính trực trong các mối quan hệ. Nguyên tắc này nói chung nên được coi trọng thứ ba.
Các nhà tâm lý học được kỳ vọng sẽ thể hiện sự chính trực cao nhất trong tất cả các mối quan hệ của
họ. Tuy nhiên, trong một số ít trường hợp, các giá trị như cởi mở và thẳng thắn có thể cần phải được
đặt dưới các giá trị có trong Nguyên tắc Tôn trọng Phẩm giá Con người và Quan tâm có Trách nhiệm.

Nguyên tắc IV: Trách nhiệm với Xã hội. Nguyên tắc này nói chung nên được coi trọng thấp nhất trong bốn
nguyên tắc khi nó xung đột với một hoặc nhiều nguyên tắc trong số đó. Mặc dù việc xem xét trách nhiệm
đối với xã hội trong mọi quyết định đạo đức là cần thiết và quan trọng, nhưng việc tuân thủ nguyên tắc
này phải tuân theo và được hướng dẫn bởi Tôn trọng phẩm giá con người, Quan tâm có trách nhiệm và
Chính trực trong các mối quan hệ. Khi phúc lợi của một người dường như xung đột với lợi ích cho xã
hội, thường có thể tìm ra cách làm việc vì lợi ích của xã hội mà không vi phạm sự tôn trọng và chăm
sóc có trách nhiệm đối với người đó. Tuy nhiên, nếu điều này là không thể, thì không nên hy sinh phẩm
giá và hạnh phúc của một người cho tầm nhìn về lợi ích lớn hơn của xã hội, và phải coi trọng hơn việc
tôn trọng và chăm sóc có trách nhiệm đối với người đó.

Ngay cả khi sắp xếp các nguyên tắc như trên, các nhà tâm lý học sẽ phải đối mặt với những tình huống khó xử về
đạo đức rất khó giải quyết. Trong những trường hợp này, các nhà tâm lý học phải tham gia vào một quy trình ra
quyết định có đạo đức đủ rõ ràng để chịu sự giám sát của công chúng. Trong một số trường hợp, giải pháp có thể
là một vấn đề của lương tâm cá nhân. Tuy nhiên, những quyết định của lương tâm cá nhân cũng được kỳ vọng là kết
quả của quá trình ra quyết định dựa trên một tập hợp các nguyên tắc đạo đức mạch lạc hợp lý và có thể chịu sự
giám sát của công chúng. Nếu nhà tâm lý học có thể chứng minh rằng mọi nỗ lực hợp lý đã được thực hiện để áp
dụng các nguyên tắc đạo đức của Quy tắc này và việc giải quyết xung đột phải phụ thuộc vào lương tâm cá nhân
của nhà tâm lý học, thì nhà tâm lý học đó sẽ được coi là đã tuân theo Quy tắc này.

Quy trình ra quyết định có đạo đức

Quá trình ra quyết định về mặt đạo đức có thể diễn ra rất nhanh chóng, dẫn đến việc giải quyết một vấn đề đạo
đức một cách dễ dàng. Điều này đặc biệt đúng với những vấn đề có các hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn rõ ràng và không
có xung đột giữa các nguyên tắc. Mặt khác, một số vấn đề đạo đức (đặc biệt là những vấn đề xung đột với các
nguyên tắc đạo đức) không dễ giải quyết, có thể gây đau khổ về mặt cảm xúc và có thể cần cân nhắc tốn thời gian.

[2]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

Các bước cơ bản sau đây tiêu biểu cho các phương pháp ra quyết định có đạo đức:

1. Xác định các cá nhân và nhóm có khả năng bị ảnh hưởng bởi quyết định.

2. Xác định các vấn đề và thông lệ liên quan đến đạo đức, bao gồm lợi ích, quyền và bất kỳ

đặc điểm liên quan nào của các cá nhân và nhóm liên quan và của hệ thống hoặc hoàn cảnh

trong đó vấn đề đạo đức phát sinh.

3. Xem xét mức độ thành kiến, căng thẳng hoặc tư lợi cá nhân có thể ảnh hưởng đến sự phát

triển hoặc lựa chọn giữa các hướng hành động.

4. Phát triển các khóa học hành động thay thế.

5. Phân tích các rủi ro và lợi ích có thể xảy ra trong ngắn hạn, liên tục và dài hạn của từng

quá trình hành động đối với (các) cá nhân/(các) nhóm có liên quan hoặc có khả năng bị ảnh

hưởng (ví dụ: khách hàng, gia đình hoặc nhân viên của khách hàng, tổ chức sử dụng lao

động , sinh viên, người tham gia nghiên cứu, đồng nghiệp, ngành học, xã hội, bản thân).

6. Lựa chọn hướng hành động sau khi áp dụng tận tâm các nguyên tắc, giá trị và tiêu chuẩn

hiện có.

7. Hành động, với cam kết chịu trách nhiệm về hậu quả của hành động.

số 8. Đánh giá kết quả của quá trình hành động.

9. Giả định trách nhiệm đối với hậu quả của hành động, bao gồm cả việc khắc phục hậu quả tiêu

cực, nếu có, hoặc tham gia lại vào quá trình ra quyết định nếu vấn đề đạo đức không được

giải quyết.

10. Hành động phù hợp, nếu được đảm bảo và khả thi, để ngăn ngừa tình huống khó xử xảy ra

trong tương lai (ví dụ: giao tiếp và giải quyết vấn đề với đồng nghiệp; thay đổi quy trình

và thông lệ).

Các nhà tâm lý học tham gia vào quá trình thảo luận tốn nhiều thời gian được khuyến khích và mong đợi tham khảo ý kiến

với các bên bị ảnh hưởng bởi vấn đề đạo đức, khi thích hợp, và với đồng nghiệp và/hoặc các cơ quan tư vấn khi những

người đó có thể bổ sung kiến thức hoặc tính khách quan cho quá trình ra quyết định. Mặc dù quyết định hành động vẫn

thuộc về cá nhân nhà tâm lý học, việc tìm kiếm và xem xét sự hỗ trợ như vậy phản ánh cách tiếp cận có đạo đức đối với

việc ra quyết định có đạo đức.

Sử dụng Mã

Quy tắc này nhằm hướng dẫn các nhà tâm lý học trong hành vi, suy nghĩ và lập kế hoạch hàng ngày của họ và trong việc

giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức; nghĩa là, nó ủng hộ việc thực hành cả đạo đức chủ động và phản ứng.

Bộ Quy tắc này cũng nhằm mục đích phục vụ như một tài liệu chung cho việc phát triển các quy tắc ứng xử hoặc các quy

tắc cụ thể khác. Ví dụ, Bộ quy tắc có thể được sử dụng như một khuôn khổ đạo đức để xác định các hành vi được coi là

có thể thực thi được ở một khu vực tài phán, nếu vi phạm sẽ cấu thành hành vi sai trái; hoặc, các khu vực pháp lý có

thể xác định các tiêu chuẩn đó trong Bộ quy tắc sẽ được coi là có tính chất nghiêm trọng hơn và do đó, có thể báo cáo

và có thể

[3]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

kỷ luật. Ngoài ra, các nguyên tắc và giá trị có thể được sử dụng để giúp các lĩnh vực chuyên môn phát triển các tiêu

chuẩn dành riêng cho các lĩnh vực đó. Một số công việc theo hướng này đã xảy ra trong CPA (ví dụ: Hướng dẫn sử dụng

động vật trong nghiên cứu và hướng dẫn về tâm lý học, Hướng dẫn thực hành không phân biệt đối xử, Hướng dẫn dành cho

các nhà tâm lý học trong việc giải quyết các ký ức được phục hồi). Các nguyên tắc và giá trị được kết hợp trong Quy

tắc này, trong chừng mực chúng được phản ánh trong các tài liệu khác hướng dẫn hành vi của các nhà tâm lý học, sẽ làm

giảm sự mâu thuẫn và xung đột giữa các tài liệu.

Mục đích thứ ba của Bộ Quy tắc là hỗ trợ việc phân xử các khiếu nại chống lại các nhà tâm lý học. Cần có một cơ quan

chịu trách nhiệm này để điều tra các cáo buộc, đánh giá xem liệu hành vi không thể chấp nhận được có xảy ra hay không

và xác định hành động khắc phục nào cần được thực hiện. Khi đánh giá liệu hành vi không thể chấp nhận được đã xảy ra

hay chưa, nhiều khu vực pháp lý đề cập đến một bộ quy tắc ứng xử. Tuy nhiên, một số khiếu nại về hành vi không được

giải quyết trực tiếp trong quy tắc ứng xử. Quy tắc cung cấp một khuôn khổ đạo đức để xác định liệu khiếu nại có đủ

đáng lo ngại hay không, ở cấp độ cá nhân nhà tâm lý học hoặc ở cấp độ toàn bộ nghề nghiệp, để đảm bảo hành động khắc

phục (ví dụ: kỷ luật cá nhân nhà tâm lý học, giáo dục chung hoạt động cho hội viên, hoặc đưa vào bộ quy tắc ứng xử).

Khi xác định hành động khắc phục đối với một nhà tâm lý học cá nhân, một trong những đánh giá mà cơ quan xét xử cần

đưa ra là liệu một cá nhân có tham gia một cách tận tâm vào quá trình ra quyết định có đạo đức và hành động một cách

thiện chí hay không, hoặc liệu có sự bất cẩn hoặc cố ý coi thường các nguyên tắc đạo đức hay không. . Trình bày rõ

ràng về quy trình ra quyết định có đạo đức trong Quy tắc này cung cấp hướng dẫn để đưa ra các phán quyết đó.

Trách nhiệm của nhà tâm lý học cá nhân

Hợp đồng của kỷ luật với xã hội cam kết kỷ luật và các thành viên của nó hành động như một cộng đồng đạo đức nhằm phát

triển nhận thức và sự nhạy cảm về đạo đức của nó, giáo dục các thành viên mới về đạo đức của kỷ luật, quản lý công

việc của nó và các thành viên của nó một cách có đạo đức, là tự sửa chữa càng tốt, và chịu trách nhiệm cả bên trong và

bên ngoài.

Tuy nhiên, trách nhiệm đối với hành động đạo đức trước hết phụ thuộc vào tính chính trực của mỗi cá nhân nhà tâm lý

học; nghĩa là, về cam kết của mỗi nhà tâm lý học để cư xử có đạo đức nhất có thể trong mọi tình huống. Chấp nhận làm

thành viên của Hiệp hội Tâm lý Canada, một hiệp hội khoa học và chuyên nghiệp của các nhà tâm lý học, các thành viên

cam kết:

1. Tuân thủ Quy tắc của Hiệp hội trong tất cả các hoạt động hiện tại với tư cách là một nhà tâm lý học.

2. Áp dụng tận tâm các nguyên tắc và giá trị đạo đức của Bộ quy tắc vào các lĩnh vực hoạt động mới và

đang phát triển.

3. Để đánh giá và thảo luận các vấn đề đạo đức và thực hành với các đồng nghiệp một cách thường xuyên.

4. Thu hút sự chú ý của Hiệp hội về các vấn đề đạo đức cần làm rõ hoặc phát triển các hướng dẫn hoặc

tiêu chuẩn mới.

5. Đưa ra những lo ngại về các hành động phi đạo đức có thể xảy ra của nhà tâm lý học trực tiếp với

nhà tâm lý học khi hành động đó chủ yếu thể hiện sự thiếu nhạy cảm, kiến thức hoặc kinh nghiệm và

cố gắng đạt được thỏa thuận về vấn đề này và, nếu cần, về hành động thích hợp để được lấy.

6. Đưa ra những lo ngại về các hành động phi đạo đức có thể có tính chất nghiêm trọng hơn (ví dụ: các
hành động đã gây ra hoặc có thể gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc các hành động được coi là

[4]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

hành vi sai trái trong khu vực tài phán) cho (những) người hoặc (những) cơ quan phù hợp nhất
để điều tra tình huống và ngăn chặn hoặc bù đắp thiệt hại.

7. Xem xét nghiêm túc mối quan tâm của người khác về hành động có thể là phi đạo đức của chính
mình và cố gắng đạt được thỏa thuận về vấn đề này và, nếu cần, có hành động thích hợp.

số 8.
Khi đưa ra hoặc phản hồi những lo ngại về các hành động phi đạo đức có thể xảy ra, không gây
phiền toái hoặc ác ý.

9. Hợp tác với các ủy ban được thành lập hợp pháp của Hiệp hội có liên quan đến đạo đức và hành
vi đạo đức.

Mối quan hệ của Quy tắc với Hành vi Cá nhân

Quy tắc này chỉ nhằm hướng dẫn và điều chỉnh những hoạt động mà một nhà tâm lý học tham gia với tư cách là một
nhà tâm lý học. Không có ý định hướng dẫn hoặc điều chỉnh các hoạt động của nhà tâm lý học bên ngoài bối cảnh
này. Hành vi cá nhân trở thành mối quan tâm của chuyên ngành chỉ khi nó có bản chất làm suy yếu niềm tin của
công chúng vào toàn bộ chuyên ngành hoặc nếu nó đặt ra câu hỏi về khả năng của nhà tâm lý học trong việc thực
hiện đúng trách nhiệm của mình với tư cách là nhà tâm lý học.

Mối quan hệ của Bộ luật với các cơ quan quản lý cấp tỉnh

Khi thực hiện trách nhiệm của mình trong việc nêu rõ các nguyên tắc, giá trị và tiêu chuẩn đạo đức cho những
người muốn trở thành và duy trì thành viên có vị thế tốt, Hiệp hội Tâm lý Canada công nhận nhiều tư cách thành
viên mà một số nhà tâm lý học có (cả quy định và tự nguyện). Quy tắc đã cố gắng bao gồm và kết hợp các nguyên
tắc đạo đức phổ biến nhất trong toàn bộ ngành, do đó giảm thiểu khả năng khác biệt với các quy định và hướng
dẫn của tỉnh/lãnh thổ. Các nhà tâm lý học phải tôn trọng các yêu cầu của cơ quan quản lý cấp tỉnh/lãnh thổ của
họ. Những yêu cầu như vậy có thể xác định các hành vi cụ thể cấu thành hành vi sai trái, phải báo cáo với cơ
quan quản lý và/hoặc phải chịu kỷ luật.

Định nghĩa thuật ngữ

Vì các mục đích của Quy tắc này:

Một) “Nhà tâm lý học” có nghĩa là bất kỳ người nào là Thành viên, Thành viên, Chi nhánh
Sinh viên hoặc Chi nhánh Nước ngoài của Hiệp hội Tâm lý Canada, hoặc thành viên của
bất kỳ hiệp hội tâm lý tự nguyện hoặc cơ quan quản lý nào thông qua Quy tắc này .
(Xin lưu ý độc giả rằng các khu vực tài phán cấp tỉnh/lãnh thổ có thể hạn chế việc
sử dụng hợp pháp thuật ngữ nhà tâm lý học trong khu vực tài phán của họ và những hạn
chế đó phải được tôn trọng.)

b) “Khách hàng” có nghĩa là một cá nhân, gia đình hoặc nhóm (bao gồm cả tổ chức hoặc
cộng đồng) nhận dịch vụ từ nhà tâm lý học.

c) Khách hàng, người tham gia nghiên cứu, sinh viên và bất kỳ người nào khác mà nhà tâm
lý học tiếp xúc trong quá trình làm việc của họ, đều “độc lập” nếu họ có thể ký hợp
đồng hoặc đưa ra sự đồng ý một cách độc lập. Những người như vậy “phụ thuộc một
phần” nếu quyết định ký hợp đồng hoặc đưa ra sự đồng ý sau khi hiểu rõ được chia sẻ
giữa hai hoặc nhiều bên (ví dụ: phụ huynh và hội đồng nhà trường, công nhân và Hội
đồng bồi thường cho người lao động, thành viên trưởng thành trong gia đình). Như là

[5]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

những người được coi là "hoàn toàn phụ thuộc" nếu họ có ít hoặc không có lựa chọn nào
về việc có nhận dịch vụ hoặc tham gia vào một hoạt động hay không (ví dụ: bệnh nhân đã
vô tình đưa vào cơ sở tâm thần hoặc trẻ nhỏ tham gia vào nghiên cứu dự án).

d) “Những người khác” có nghĩa là bất kỳ người nào mà các nhà tâm lý học tiếp xúc trong quá trình

làm việc của họ. Điều này có thể bao gồm, nhưng không giới hạn ở: khách hàng đang tìm kiếm sự

trợ giúp về các vấn đề cá nhân, gia đình, tổ chức, công nghiệp hoặc cộng đồng; người tham gia

nghiên cứu; người lao động; sinh viên; thực tập sinh; người được giám sát; đồng nghiệp; người

sử dụng lao động; người trả tiền bên thứ ba; và, các thành viên của công chúng nói chung.

e) “Quyền hợp pháp hoặc dân sự” có nghĩa là những quyền được bảo vệ theo luật và quy chế
được tỉnh hoặc lãnh thổ nơi nhà tâm lý học làm việc công nhận.

f) “Quyền đạo đức” có nghĩa là các quyền cơ bản và không thể chuyển nhượng của con người
có thể hoặc có thể không được bảo vệ đầy đủ bởi các luật và đạo luật hiện hành. Ví dụ,
có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà tâm lý học là các quyền đối với: phân phối công
bằng; công bằng và đúng thủ tục; và, quyền riêng tư phù hợp với sự phát triển, quyền
tự quyết và quyền tự do cá nhân. Việc bảo vệ một số khía cạnh của các quyền này có thể
liên quan đến các hoạt động không được quy định hoặc kiểm soát trong các luật và đạo
luật hiện hành. Quyền nhân thân không giới hạn ở những quyền được đề cập trong định nghĩa này.

g) “Phân biệt đối xử bất công” hoặc “phân biệt đối xử bất công” có nghĩa là các hoạt
động gây phương hại hoặc thúc đẩy thành kiến đối với con người vì văn hóa, quốc tịch,
sắc tộc, màu da, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính, tình trạng hôn nhân, khuynh
hướng tình dục, khả năng thể chất hoặc tinh thần, tuổi tác , tình trạng kinh tế xã hội,
hoặc bất kỳ sở thích hoặc đặc điểm cá nhân, điều kiện hoặc địa vị nào khác.

h) “Quấy rối tình dục” bao gồm một trong hai hoặc cả hai điều sau: (i) Việc sử dụng quyền
lực hoặc thẩm quyền nhằm ép buộc người khác tham gia hoặc chịu đựng hoạt động tình dục.
Việc sử dụng như vậy bao gồm các mối đe dọa trả thù rõ ràng hoặc ngầm định đối với việc
không tuân thủ hoặc hứa hẹn phần thưởng cho việc tuân thủ. (ii) Tham gia vào các bình
luận, giai thoại, cử chỉ hoặc động chạm có khuynh hướng tình dục có chủ ý và/hoặc lặp
đi lặp lại nếu các hành vi đó: gây khó chịu và không được hoan nghênh; tạo ra một môi
trường làm việc, học tập hoặc dịch vụ gây khó chịu, thù địch hoặc đe dọa; hoặc, có thể
gây hại cho người nhận.1

Tôi) “ Kỷ luật tâm lý học” đề cập đến các phương pháp và kiến thức khoa học và ứng dụng về
tâm lý học, cũng như các cấu trúc và thủ tục được các thành viên của nó sử dụng để
tiến hành công việc của họ trong mối quan hệ với xã hội, với các thành viên của công
chúng, với sinh viên hoặc học viên, và để nhau.

lịch đánh giá

Để duy trì tính phù hợp và đáp ứng của Quy tắc này, nó sẽ được Ban Giám đốc CPA xem xét thường xuyên và sửa đổi khi
cần thiết. Bạn được mời chuyển tiếp các nhận xét và đề xuất, bất cứ lúc nào, tới văn phòng CPA. Ngoài các nhà tâm
lý học, lời mời này được mở rộng cho tất cả các độc giả, bao gồm cả các thành viên của cộng đồng và các ngành khác.

1
Chuyển thể từ: Hiệp hội Tâm lý Canada. (1985). Hướng dẫn loại bỏ
quây rôi tinh du c. Ottawa, Tác giả.

[6]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

[7]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Nguyên tắc I: Tôn trọng Phẩm giá Con người

Tuyên bố giá trị

Trong quá trình làm việc với tư cách là nhà khoa học, nhà thực hành hoặc nhà khoa học kiêm nhà thực hành, các nhà tâm lý

học tiếp xúc với nhiều cá nhân và nhóm khác nhau, bao gồm: những người tham gia nghiên cứu; khách hàng đang tìm kiếm sự

giúp đỡ về các vấn đề cá nhân, gia đình, tổ chức, công nghiệp hoặc cộng đồng; sinh viên; thực tập sinh; người được giám

sát; người lao động; đối tác kinh doanh; đối thủ kinh doanh; đồng nghiệp; người sử dụng lao động; người trả tiền bên thứ

ba; và, công chúng nói chung.

Trong những liên hệ này, các nhà tâm lý học chấp nhận nguyên tắc cơ bản là tôn trọng phẩm giá của con người; nghĩa là, niềm

tin rằng mỗi người nên được đối xử chủ yếu như một con người hoặc mục đích của chính họ, chứ không phải như một đối tượng

hoặc phương tiện để đạt được mục đích. Khi làm như vậy, các nhà tâm lý học thừa nhận rằng tất cả mọi người đều có quyền có

giá trị bẩm sinh của họ khi con người được đánh giá cao và giá trị này không phụ thuộc vào văn hóa, quốc tịch, sắc tộc, màu

da, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính, tình trạng hôn nhân, xu hướng tình dục của họ. định hướng, khả năng thể chất

hoặc tinh thần, tuổi tác, tình trạng kinh tế xã hội hoặc bất kỳ sở thích hoặc đặc điểm cá nhân, điều kiện hoặc địa vị nào

khác.

Mặc dù các nhà tâm lý học có trách nhiệm tôn trọng phẩm giá của tất cả những người mà họ tiếp xúc với vai trò là nhà tâm

lý học, nhưng bản chất của hợp đồng của họ với xã hội đòi hỏi trách nhiệm lớn nhất của họ là đối với những người ở vị trí

dễ bị tổn thương nhất. Thông thường, những người trực tiếp tiếp nhận hoặc tham gia vào các hoạt động của nhà tâm lý đều ở

vị trí như vậy (ví dụ: người tham gia nghiên cứu, khách hàng, sinh viên). Trách nhiệm này hầu như luôn lớn hơn trách nhiệm

của họ đối với những người có liên quan gián tiếp (ví dụ: người sử dụng lao động, người trả tiền bên thứ ba, công chúng nói

chung).

Tuân thủ khái niệm về quyền nhân thân là một thành phần thiết yếu của sự tôn trọng phẩm giá của con người.

Quyền riêng tư, quyền tự quyết, tự do cá nhân và công bằng tự nhiên có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà tâm lý học

và họ có trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy các quyền này trong tất cả các hoạt động của mình. Do đó, các nhà tâm lý học có

trách nhiệm phát triển và tuân theo các thủ tục về sự đồng ý, bảo mật, đối xử công bằng và đúng thủ tục phù hợp với các

quyền đó.

Vì các quyền cá nhân tồn tại trong bối cảnh quyền của người khác và của sự quan tâm có trách nhiệm (xem Nguyên tắc II), có

thể có những trường hợp trong đó khả năng xảy ra hậu quả bất lợi nghiêm trọng cho bản thân họ hoặc người khác, khả năng tự

chủ bị suy giảm hoặc lệnh của tòa án , sẽ không cho phép một số khía cạnh của quyền riêng tư, quyền tự quyết và quyền tự

do cá nhân. Thật vậy, những trường hợp như vậy có thể đủ nghiêm trọng để tạo ra nghĩa vụ cảnh báo hoặc bảo vệ người khác

(xem Tiêu chuẩn I.45 và II.39).

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học vẫn có trách nhiệm tôn trọng quyền của (những) người liên quan ở mức độ cao nhất có thể trong

các trường hợp, và làm những gì cần thiết và hợp lý để giảm nhu cầu không được phép trong tương lai.

Các nhà tâm lý học nhận ra rằng, mặc dù tất cả mọi người đều có các quyền nhân thân, nhưng cách thức mà các quyền đó được

thúc đẩy, bảo vệ và thực hiện khác nhau giữa các cộng đồng và nền văn hóa. Ví dụ, các định nghĩa về những gì được coi là

riêng tư khác nhau, cũng như vai trò của gia đình và các thành viên khác trong cộng đồng trong việc ra quyết định cá nhân.

Trong công việc của mình, các nhà tâm lý học thừa nhận và tôn trọng những khác biệt đó, đồng thời đề phòng những vi phạm rõ

ràng về quyền nhân thân.

Ngoài ra, các nhà tâm lý học nhận ra rằng khi tình trạng dễ bị tổn thương của cá nhân, gia đình, nhóm hoặc cộng đồng tăng

lên hoặc khi khả năng kiểm soát môi trường hoặc cuộc sống của con người giảm đi, thì các nhà tâm lý học càng có trách nhiệm

tìm kiếm lời khuyên về đạo đức và thiết lập các biện pháp bảo vệ để bảo vệ các quyền của những người liên quan. Vì lý do

này, các nhà tâm lý học coi trách nhiệm của họ là tăng cường các biện pháp bảo vệ để bảo vệ và thúc đẩy quyền của những

người tham gia vào các hoạt động của họ tương ứng với

[số 8]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

mức độ phụ thuộc và thiếu sự bắt đầu tự nguyện. Ví dụ, điều này có nghĩa là sẽ có nhiều biện pháp bảo vệ hơn để bảo vệ và

thúc đẩy quyền của những người phụ thuộc hoàn toàn so với những người phụ thuộc một phần và nhiều biện pháp bảo vệ hơn cho

những người phụ thuộc một phần so với những người độc lập.

Tôn trọng phẩm giá của con người cũng bao gồm khái niệm về công bằng phân phối. Đối với các nhà tâm lý học, khái niệm này

ngụ ý rằng tất cả mọi người đều có quyền được hưởng lợi như nhau từ những đóng góp của tâm lý học và chất lượng như nhau

trong các quy trình, thủ tục và dịch vụ do các nhà tâm lý học tiến hành, bất kể đặc điểm, tình trạng hoặc địa vị của người

đó. Mặc dù các nhà tâm lý học cá nhân có thể chuyên môn hóa và hướng các hoạt động của họ đến các nhóm dân số cụ thể, hoặc

có thể từ chối tham gia vào các hoạt động dựa trên giới hạn năng lực của họ hoặc thừa nhận các vấn đề trong một số mối

quan hệ, các nhà tâm lý học không được loại trừ những người trên cơ sở phân biệt đối xử thất thường hoặc bất công.

Theo hợp đồng xã hội mà ngành học có với xã hội, các nhà tâm lý học có nghĩa vụ chăm sóc các thành viên trong xã hội cao

hơn nghĩa vụ chăm sóc chung mà tất cả các thành viên trong xã hội phải có đối với nhau.

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học có quyền tự bảo vệ mình khỏi những vi phạm nghiêm trọng quyền nhân thân của họ (ví dụ: quyền

riêng tư, quyền tự do cá nhân) khi thực hiện công việc của họ với tư cách là nhà tâm lý học.

Chuẩn mực đạo đức

Tuân thủ Nguyên tắc Tôn trọng Nhân phẩm, các nhà tâm lý học sẽ:

tôn trọng chung I.1 Thể hiện sự tôn trọng phù hợp đối với kiến thức, hiểu biết sâu sắc, kinh nghiệm

và lĩnh vực chuyên môn của người khác.

I.2 Không tham gia công khai (ví dụ: trong các tuyên bố công khai, thuyết trình,

báo cáo nghiên cứu hoặc với khách hàng) trong các nhận xét hạ nhục về người

khác, bao gồm cả những trò đùa hạ nhục dựa trên các đặc điểm như văn hóa, quốc

tịch, dân tộc, màu da, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính hoặc khuynh
hướng tình dục.

I.3 Cố gắng sử dụng ngôn ngữ thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm càng nhiều càng tốt

trong tất cả các giao tiếp bằng văn bản hoặc bằng lời nói.

I.4 Tránh mọi hình thức quấy rối, kể cả quấy rối tình dục.

Quyền chung I.5 Tránh hoặc từ chối tham gia vào các hoạt động thiếu tôn trọng các quyền hợp

pháp, dân sự hoặc đạo đức của người khác.

I.6 Từ chối tư vấn, đào tạo hoặc cung cấp thông tin cho bất kỳ ai mà theo đánh giá

của nhà tâm lý học là sẽ sử dụng kiến thức hoặc kỹ năng để vi phạm nhân quyền.

I.7 Thực hiện mọi nỗ lực hợp lý để đảm bảo rằng kiến thức tâm lý không bị lạm dụng, dù cố

ý hay vô ý, để vi phạm nhân quyền.

I.8 Tôn trọng quyền của những người tham gia nghiên cứu, khách hàng, nhân viên, người

được giám sát, sinh viên, thực tập sinh và những người khác để bảo vệ phẩm giá

của chính họ.

[9]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

không phân biệt đối xử I.9 Không thực hành, dung túng, tạo điều kiện hoặc cộng tác với bất kỳ hình thức phân

biệt đối xử bất công nào.

I.10 Hành động để khắc phục các hành vi phân biệt đối xử bất công.

I.11 Tìm cách thiết kế các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, thực hành và kinh doanh

theo cách mà chúng đóng góp vào việc phân phối lợi ích công bằng cho các cá nhân

và nhóm, đồng thời không loại trừ một cách bất công những người dễ bị tổn thương

hoặc có thể bị thiệt thòi.

đối xử công bằng/do I.12 Làm việc và hành động trên tinh thần đối xử công bằng với người khác.

quá trình

I.13 Giúp thiết lập và tuân thủ quy trình tố tụng hoặc các thủ tục tư pháp tự nhiên khác đối

với các hoạt động tuyển dụng, đánh giá, xét xử, biên tập và đánh giá ngang hàng.

I.14 Đền bù công bằng cho người khác vì họ đã sử dụng thời gian, năng lượng và kiến thức,

trừ khi khoản đền bù đó bị từ chối trước.

I.15 Thiết lập các khoản phí công bằng dựa trên thời gian, năng lượng và kiến thức của

nhà tâm lý học và bất kỳ cộng sự hoặc nhân viên nào cũng như dựa trên giá trị thị

trường của sản phẩm hoặc dịch vụ. (Xem thêm Tiêu chuẩn IV.12.)

Sự đồng ý I.16 Tìm kiếm sự tham gia đầy đủ và tích cực nhất có thể từ những người khác vào các quyết

định ảnh hưởng đến họ, tôn trọng và tích hợp càng nhiều ý kiến và mong muốn của

họ càng tốt.

I.17 Công nhận rằng sự đồng ý có hiểu biết là kết quả của một quá trình đạt được thỏa thuận

để cộng tác làm việc, chứ không chỉ đơn giản là có một mẫu đồng ý được ký kết.

I.18 Tôn trọng mong muốn bày tỏ của mọi người về việc lôi kéo những người khác (ví dụ: thành

viên gia đình, thành viên cộng đồng) tham gia vào quá trình ra quyết định của họ

liên quan đến sự đồng ý có hiểu biết. Điều này sẽ bao gồm sự tôn trọng đối với các

chỉ thị trước bất thành văn được viết và thể hiện rõ ràng.

I.19 Có được sự đồng ý từ tất cả những người độc lập và phụ thuộc một phần đối với bất kỳ

dịch vụ tâm lý nào được cung cấp cho họ ngoại trừ các trường hợp cần thiết khẩn

cấp (ví dụ: thảm họa hoặc khủng hoảng khác). Trong những trường hợp khẩn cấp, các

nhà tâm lý học sẽ tiến hành với sự đồng ý của những người đó, nhưng sẽ phải có

được sự đồng ý đầy đủ càng sớm càng tốt. (Cũng xem Tiêu chuẩn I.29.)

I.20 Có được sự đồng ý có hiểu biết đối với tất cả các hoạt động nghiên cứu liên quan đến

các biện pháp gây khó chịu, xâm phạm quyền riêng tư, nguy cơ gây hại cao hơn mức

tối thiểu hoặc bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi hành vi của những người tham gia

nghiên cứu.

I.21 Thiết lập và sử dụng các biểu mẫu đồng ý có chữ ký xác định các khía cạnh của sự

đồng ý có hiểu biết hoặc thừa nhận rằng các khía cạnh đó

[10]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

đã được giải thích và được hiểu, nếu các hình thức đó được pháp luật yêu cầu

hoặc nếu các hình thức đó được mong muốn bởi nhà tâm lý học, (những) người

đưa ra sự đồng ý, hoặc tổ chức mà nhà tâm lý học làm việc cho.

I.22 Chấp nhận và ghi lại sự đồng ý bằng miệng, trong các tình huống mà các biểu mẫu

đồng ý có chữ ký không được chấp nhận về mặt văn hóa hoặc khi có những lý

do chính đáng khác để không sử dụng chúng.

I.23 Cung cấp, để có được sự đồng ý có hiểu biết, càng nhiều thông tin mà những

người hợp lý hoặc thận trọng muốn biết trước khi đưa ra quyết định hoặc đồng

ý với hoạt động. Nhà tâm lý học sẽ chuyển tiếp thông tin này bằng ngôn ngữ

mà mọi người hiểu (bao gồm cả việc cung cấp bản dịch sang ngôn ngữ khác, nếu

cần) và sẽ thực hiện bất kỳ bước hợp lý nào cần thiết để đảm bảo rằng thông

tin đã được hiểu trên thực tế.

I.24 Đảm bảo, trong quá trình đạt được sự đồng ý có hiểu biết, rằng ít nhất những

điểm sau đây được hiểu rõ: mục đích và bản chất của hoạt động; trách nhiệm

lẫn nhau; bảo vệ bí mật và hạn chế; lợi ích và rủi ro có thể xảy ra; lựa

chọn thay thế; hậu quả có thể xảy ra của việc không hành động; tùy chọn từ

chối hoặc rút tiền bất cứ lúc nào, không ảnh hưởng; trong khoảng thời gian

áp dụng sự đồng ý; và, làm thế nào để hủy bỏ sự đồng ý nếu muốn. (Cũng xem

Tiêu chuẩn III.23-30.)

I.25 Cung cấp thông tin mới một cách kịp thời, bất cứ khi nào thông tin đó có sẵn và

đủ quan trọng để có thể coi thông tin đó là có liên quan đến sự đồng ý ban

đầu hoặc đang diễn ra.

I.26 Làm rõ bản chất của nhiều mối quan hệ với tất cả các bên liên quan trước

khi có được sự đồng ý, nếu cung cấp dịch vụ hoặc tiến hành nghiên cứu theo

yêu cầu hoặc cho việc sử dụng của bên thứ ba. Điều này sẽ bao gồm, nhưng

không giới hạn ở: mục đích của dịch vụ hoặc nghiên cứu; việc sử dụng dự kiến

hợp lý sẽ được thực hiện từ thông tin được thu thập; và, các giới hạn về bảo

mật. Các bên thứ ba có thể bao gồm trường học, tòa án, cơ quan chính phủ,

công ty bảo hiểm, cảnh sát và các cơ quan tài trợ đặc biệt.

Tự do đồng ý I.27 Thực hiện tất cả các bước hợp lý để đảm bảo rằng sự đồng ý không được đưa ra

dưới các điều kiện ép buộc, áp lực quá mức hoặc phần thưởng quá mức. (Cũng

xem Tiêu chuẩn III.32.)

I.28 Không tiến hành bất kỳ hoạt động nghiên cứu nào, nếu sự đồng ý được đưa ra dưới

bất kỳ điều kiện ép buộc, áp lực quá mức hoặc phần thưởng quá mức nào. (Cũng

xem Tiêu chuẩn III.32.)

I.29 Thực hiện tất cả các bước hợp lý để xác nhận hoặc thiết lập lại quyền tự do đồng

ý, nếu việc đồng ý cung cấp dịch vụ được đưa ra trong điều kiện bắt buộc
hoặc điều kiện cực kỳ cần thiết.

[11]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

I.30 Tôn trọng quyền của mọi người trong việc ngừng tham gia hoặc dịch vụ bất cứ
lúc nào và phản hồi lại những dấu hiệu không lời về mong muốn ngừng nếu
một người gặp khó khăn trong việc truyền đạt mong muốn đó bằng lời nói (ví
dụ: trẻ nhỏ, người khuyết tật về ngôn ngữ ) hoặc, do văn hóa, không có khả
năng truyền đạt mong muốn đó bằng lời nói.

Bảo vệ cho những I.31 Tìm kiếm một đánh giá đạo đức độc lập và đầy đủ về các vấn đề nhân quyền
người dễ bị tổn thương và các biện pháp bảo vệ đối với bất kỳ nghiên cứu nào liên quan đến các
thành viên của các nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm cả những người bị suy
giảm khả năng đưa ra sự đồng ý, trước khi đưa ra quyết định tiến hành.

I.32 Không sử dụng những người bị suy giảm năng lực để đưa ra sự đồng ý trong các
nghiên cứu nghiên cứu, nếu nghiên cứu liên quan có thể được thực hiện tốt
như nhau với những người có đầy đủ năng lực hơn để đưa ra sự đồng ý.

I.33 Tìm cách sử dụng các phương pháp tối đa hóa sự hiểu biết và khả năng đồng
ý của những người bị suy giảm năng lực để đưa ra sự đồng ý có hiểu biết và
điều đó làm giảm nhu cầu về người ra quyết định thay thế.

I.34 Thực hiện các quy trình đồng ý có hiểu biết với những người chịu trách nhiệm
pháp lý hoặc được chỉ định để đưa ra sự đồng ý có hiểu biết thay mặt cho
những người không có thẩm quyền đồng ý thay mặt cho chính họ, nhằm đảm bảo
sự tôn trọng đối với bất kỳ sở thích nào đã được bày tỏ trước đó của những
người không có đủ năng lực đồng ý.

I.35 Tìm kiếm sự tham gia sẵn sàng và được cung cấp thông tin đầy đủ từ bất kỳ người
nào bị suy giảm năng lực để đưa ra sự đồng ý và chỉ tiến hành mà không có
sự đồng ý này nếu dịch vụ hoặc hoạt động nghiên cứu được coi là mang lại
lợi ích trực tiếp cho người đó.

I.36 Đặc biệt thận trọng trong việc thiết lập quyền tự do đồng ý của bất kỳ người
nào có mối quan hệ phụ thuộc với nhà tâm lý học (ví dụ: sinh viên, nhân
viên). Điều này có thể bao gồm, nhưng không giới hạn, cung cấp cho người
đó một hoạt động thay thế để hoàn thành các mục tiêu giáo dục hoặc việc
làm của họ, hoặc cung cấp một loạt các nghiên cứu hoặc cơ hội trải nghiệm
mà người đó có thể lựa chọn, không có điều nào trong số đó quá khó để trở
thành cưỡng chế.

Sự riêng tư I.37 Chỉ tìm kiếm và thu thập thông tin phù hợp với (các) mục đích đã nhận được sự
đồng ý.

I.38 Chú ý không xâm phạm, trong các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy hoặc dịch vụ,
đối với không gian riêng tư được xác định về mặt cá nhân, sự phát triển
hoặc văn hóa của các cá nhân hoặc nhóm, trừ khi được cho phép rõ ràng để
làm như vậy.

[12]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

I.39 Chỉ ghi lại thông tin cá nhân cần thiết để cung cấp dịch vụ liên tục, phối hợp
hoặc cho các mục tiêu của nghiên cứu cụ thể đang được tiến hành, hoặc được
yêu cầu hoặc chứng minh theo luật. (Xem thêm Tiêu chuẩn IV.17 và IV.18.)

I.40 Tôn trọng quyền của những người tham gia nghiên cứu, nhân viên, người được giám sát,

sinh viên và thực tập sinh để đảm bảo quyền riêng tư cá nhân hợp lý.

I.41 Thu thập, lưu trữ, xử lý và chuyển giao tất cả thông tin cá nhân, dù ở dạng
viết hay không viết (ví dụ: liên lạc trong quá trình cung cấp dịch vụ, hồ
sơ bằng văn bản, liên lạc qua e-mail hoặc fax, tệp máy tính, băng video),
theo cách phù hợp với nhu cầu cho sự riêng tư và bảo mật. Điều này sẽ bao
gồm việc có các kế hoạch đầy đủ cho các hồ sơ trong trường hợp bản thân bị
ốm nặng, bị chấm dứt việc làm hoặc qua đời.

I.42 Thực hiện tất cả các bước hợp lý để đảm bảo rằng các hồ sơ mà họ có quyền kiểm
soát chỉ có thể nhận dạng cá nhân miễn là cần thiết vì lợi ích của những
người mà họ giới thiệu và/hoặc cho dự án nghiên cứu mà chúng được thu thập,
hoặc theo yêu cầu hoặc được pháp luật chứng minh (ví dụ: nhu cầu có thể tự
bảo vệ mình trước các cáo buộc trong tương lai) và ẩn danh hoặc hủy bất kỳ
hồ sơ nào dưới sự kiểm soát của họ mà không còn cần phải nhận dạng cá nhân.

(Xem thêm Tiêu chuẩn IV.17 và IV.18.)

Bảo mật I.43 Cẩn thận không chuyển tiếp thông tin về đồng nghiệp, khách hàng của đồng
nghiệp, người tham gia nghiên cứu, nhân viên, người được giám sát, sinh
viên, thực tập sinh và thành viên của tổ chức, thu được trong quá trình họ
hoạt động với tư cách là nhà tâm lý học, mà nhà tâm lý học có lý do để tin
là được coi là bí mật bởi những người đó, trừ khi được yêu cầu hoặc chứng
minh bởi pháp luật. (Xem thêm Tiêu chuẩn IV.17 và IV.18.)

I.44 Làm rõ những biện pháp nào sẽ được thực hiện để bảo vệ tính bảo mật và
trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, nhóm và cộng đồng đối với
việc bảo vệ tính bảo mật của nhau khi tham gia vào các dịch vụ hoặc nghiên
cứu với các cá nhân, gia đình, nhóm hoặc cộng đồng.

I.45 Chỉ chia sẻ thông tin bí mật với những người khác khi có sự đồng ý của
những người liên quan, hoặc theo cách mà những người liên quan không thể
được xác định danh tính, trừ khi được pháp luật yêu cầu hoặc chứng minh,
hoặc trong các trường hợp gây tổn hại hoặc tử vong nghiêm trọng hoặc có thể xảy ra.
(Cũng xem Tiêu chuẩn II.39, IV.17 và IV.18.)

trách nhiệm mở rộng I.46 Khuyến khích những người khác, theo cách phù hợp với Bộ luật này, tôn trọng
phẩm giá của con người và mong đợi sự tôn trọng đối với phẩm giá của chính họ.

I.47 Chịu trách nhiệm chung về các hoạt động khoa học và chuyên môn của các trợ lý,
nhân viên, sinh viên, người được giám sát và thực tập sinh của họ liên quan
đến Tôn trọng phẩm giá của con người, tuy nhiên, tất cả những người này đều
có nghĩa vụ tương tự.

[13]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

[14]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

Nguyên tắc II: Chăm sóc có trách nhiệm

Tuyên bố giá trị

Một kỳ vọng đạo đức cơ bản của bất kỳ ngành học nào là các hoạt động của nó sẽ mang lại lợi ích cho các thành viên trong

xã hội hoặc ít nhất là không gây hại. Do đó, các nhà tâm lý học thể hiện mối quan tâm tích cực đối với phúc lợi của bất

kỳ cá nhân, gia đình, nhóm hoặc cộng đồng nào mà họ liên quan trong vai trò là nhà tâm lý học. Mối quan tâm này bao gồm

cả những người trực tiếp tham gia và những người gián tiếp tham gia vào các hoạt động của họ. Tuy nhiên, cũng như Nguyên

tắc I, trách nhiệm lớn nhất của các nhà tâm lý học là bảo vệ phúc lợi của những người ở vị trí dễ bị tổn thương nhất.

Thông thường, những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động của họ (ví dụ: người tham gia nghiên cứu, khách hàng, sinh

viên) ở vị trí như vậy. Trách nhiệm của nhà tâm lý đối với những người gián tiếp liên quan (ví dụ: người sử dụng lao động,

bên thứ ba trả tiền, công chúng) thường chỉ là thứ yếu.

Vì mọi người thường xem xét phúc lợi của bản thân khi ra quyết định cá nhân, nên việc có được sự đồng ý sau khi hiểu rõ

(xem Nguyên tắc I) là một trong những phương pháp tốt nhất để đảm bảo rằng phúc lợi của họ sẽ được bảo vệ.

Tuy nhiên, chỉ khi sự đồng ý đó được kết hợp với sự chăm sóc có trách nhiệm của nhà tâm lý học thì mới có sự bảo vệ đạo

đức đáng kể đối với phúc lợi của (những) người liên quan.

Chăm sóc có trách nhiệm khiến các nhà tâm lý học quan tâm đến việc phân biệt tác hại tiềm ẩn và lợi ích liên quan, dự đoán

khả năng xảy ra của chúng, chỉ tiến hành nếu lợi ích tiềm ẩn lớn hơn tác hại tiềm tàng, phát triển và sử dụng các phương

pháp giảm thiểu tác hại và tối đa hóa lợi ích, và chịu trách nhiệm khắc phục những tác hại rõ ràng đã xảy ra do kết quả

trực tiếp của hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, thực hành hoặc kinh doanh của mình.

Để thực hiện các bước này, các nhà tâm lý học nhận ra nhu cầu về năng lực và sự hiểu biết về bản thân.

Họ coi hành động thiếu năng lực là phi đạo đức, vì nó không có lợi và có khả năng gây hại. Họ chỉ tham gia vào những hoạt

động mà họ có năng lực hoặc được giám sát, và họ thực hiện các hoạt động của mình một cách thành thạo nhất có thể. Họ thu

thập, đóng góp và sử dụng kiến thức hiện có phù hợp nhất với lợi ích tốt nhất của những người có liên quan.

Họ cũng tham gia vào việc tự phản ánh về các giá trị, thái độ, kinh nghiệm và bối cảnh xã hội của chính họ (ví dụ: văn

hóa, dân tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, giới tính, khuynh hướng tình dục, khả năng thể chất và tinh thần, tuổi tác và

tình trạng kinh tế xã hội). ) ảnh hưởng đến hành động, diễn giải, lựa chọn và đề xuất của họ. Điều này được thực hiện với

mục đích tăng khả năng các hoạt động của họ sẽ mang lại lợi ích và không gây hại cho các cá nhân, gia đình, nhóm và cộng

đồng mà họ có liên quan trong vai trò là nhà tâm lý học. Các nhà tâm lý học định nghĩa tác hại và lợi ích cả về khía cạnh

thể chất và tâm lý. Họ quan tâm đến các yếu tố như: mối quan hệ xã hội, gia đình, cộng đồng; bản sắc cá nhân và văn hóa;

cảm giác về giá trị bản thân, sợ hãi, sỉ nhục, tin tưởng giữa các cá nhân và hoài nghi; kiến thức bản thân và kiến thức

chung; và, các yếu tố như an toàn thể chất, thoải mái, đau đớn và chấn thương.

Họ quan tâm đến những tác động trước mắt, ngắn hạn và dài hạn.

Chăm sóc có trách nhiệm công nhận và tôn trọng (ví dụ: thông qua việc có được sự đồng ý có hiểu biết) khả năng của các cá

nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng trong việc đưa ra quyết định cho chính họ và chăm sóc cho chính họ và cho nhau. Nó không

thay thế hoặc làm suy yếu khả năng đó, cũng như không thay thế ý kiến của một người về lợi ích tốt nhất của người khác

đối với việc ra quyết định có thẩm quyền của người đó. Tuy nhiên, các nhà tâm lý học nhận ra rằng, khi tình trạng dễ bị

tổn thương gia tăng hoặc khi khả năng kiểm soát cuộc sống của chính mình giảm đi, thì các nhà tâm lý học ngày càng có

trách nhiệm bảo vệ hạnh phúc của cá nhân, gia đình, nhóm hoặc cộng đồng có liên quan. Vì lý do này, như trong Nguyên tắc

I, các nhà tâm lý học coi trách nhiệm của họ là tăng cường các biện pháp bảo vệ tương xứng với mức độ phụ thuộc và sự

thiếu tự nguyện khởi xướng của những người liên quan. Tuy nhiên, đối với Nguyên tắc II, các biện pháp bảo vệ là vì phúc

lợi của con người hơn là vì quyền của con người.

[15]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Việc điều trị và sử dụng động vật của các nhà tâm lý học trong các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy của họ cũng là một phần

của việc chăm sóc có trách nhiệm. Mặc dù động vật không có các quyền đạo đức giống như con người (ví dụ: quyền riêng tư), nhưng

chúng có quyền được đối xử nhân đạo và không phải chịu sự khó chịu, đau đớn hoặc gián đoạn không cần thiết.

Theo hợp đồng xã hội mà ngành học có với xã hội, các nhà tâm lý học có nghĩa vụ chăm sóc các thành viên trong xã hội cao hơn

nghĩa vụ chăm sóc chung mà tất cả các thành viên trong xã hội phải có đối với nhau.

Tuy nhiên, các nhà tâm lý học có quyền bảo vệ sức khỏe cơ bản của chính họ (ví dụ: sự an toàn về thể chất, các mối quan hệ gia

đình) trong công việc của họ với tư cách là nhà tâm lý học.

Chuẩn mực đạo đức

Để tuân thủ Nguyên tắc Chăm sóc có Trách nhiệm, các nhà tâm lý học sẽ:

chăm sóc chung II.1 Bảo vệ và thúc đẩy phúc lợi của khách hàng, người tham gia nghiên cứu, nhân viên,

người được giám sát, sinh viên, thực tập sinh, đồng nghiệp và những người khác.

II.2 Tránh làm hại khách hàng, người tham gia nghiên cứu, nhân viên, người được giám sát,

sinh viên, thực tập sinh, đồng nghiệp và những người khác.

II.3 Chấp nhận trách nhiệm về hậu quả của hành động của họ.

II.4 Từ chối tư vấn, đào tạo hoặc cung cấp thông tin cho bất kỳ ai mà theo đánh giá của

nhà tâm lý học là sẽ sử dụng kiến thức hoặc kỹ năng để làm hại người khác.

II.5 Thực hiện mọi nỗ lực hợp lý để đảm bảo rằng kiến thức tâm lý không bị lạm dụng, dù cố ý

hay vô ý, để gây hại cho người khác.

Năng lực và kiến thức bản II.6 Chỉ cung cấp hoặc thực hiện (không có sự giám sát) những hoạt động mà họ đã thiết

thân lập năng lực của mình để thực hiện chúng vì lợi ích của người khác.

II.7 Không ủy thác công việc cho người không có thẩm quyền thực hiện
vì lợi ích của người khác.

II.8 Thực hiện các bước ngay lập tức để nhận tư vấn hoặc giới thiệu khách hàng đến đồng nghiệp

hoặc chuyên gia thích hợp khác, tùy theo cách nào có nhiều khả năng dẫn đến việc

cung cấp cho khách hàng dịch vụ có thẩm quyền, nếu rõ ràng là các vấn đề của khách

hàng vượt quá khả năng của họ.

II.9 Luôn cập nhật kiến thức, phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu có liên quan, cũng như tác

động của chúng đối với con người và xã hội, thông qua việc đọc các tài liệu liên

quan, tham vấn đồng đẳng và các hoạt động giáo dục thường xuyên, để phục vụ họ hoặc

các hoạt động nghiên cứu và kết luận sẽ mang lại lợi ích và không gây hại cho người
khác.

[16]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

II.10 Đánh giá kinh nghiệm, thái độ, văn hóa, niềm tin, giá trị, bối cảnh xã hội, sự

khác biệt cá nhân, đào tạo cụ thể và căng thẳng của chính họ ảnh hưởng như

thế nào đến sự tương tác của họ với người khác và tích hợp nhận thức này
vào mọi nỗ lực để mang lại lợi ích và không gây hại cho người khác.

II.11 Tìm kiếm sự trợ giúp thích hợp và/hoặc ngừng hoạt động khoa học hoặc chuyên môn

trong một khoảng thời gian thích hợp, nếu tình trạng thể chất hoặc tâm lý

làm giảm khả năng mang lại lợi ích và không gây hại cho người khác của họ.

II.12 Tham gia vào các hoạt động tự chăm sóc giúp tránh các tình trạng (ví dụ: kiệt

sức, nghiện ngập) có thể dẫn đến suy giảm khả năng phán đoán và cản trở khả

năng mang lại lợi ích và không gây hại cho người khác của họ.

Phân tích rủi ro/lợi ích II.13 Đánh giá đầy đủ các cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng tham gia vào các hoạt

động của họ để đảm bảo rằng họ có thể nhận ra điều gì sẽ có lợi và không gây

hại cho những người liên quan.

II.14 Đủ nhạy cảm và hiểu biết về cá nhân, nhóm, cộng đồng và sự khác biệt về văn hóa

cũng như tính dễ bị tổn thương để nhận ra điều gì sẽ có lợi và không gây

hại cho những người tham gia vào các hoạt động của họ.

II.15 Thực hiện các nghiên cứu thử nghiệm để xác định tác động của tất cả các quy

trình và kỹ thuật mới có thể mang lại nhiều rủi ro hơn mức tối thiểu, trước

khi xem xét việc sử dụng chúng trên quy mô rộng hơn.

II.16 Tìm kiếm một đánh giá đạo đức độc lập và đầy đủ về sự cân bằng rủi ro và lợi

ích tiềm năng của tất cả các nghiên cứu và biện pháp can thiệp mới liên quan

đến các thủ thuật chưa biết hậu quả hoặc khi có thể gây đau, khó chịu hoặc

tổn hại trước khi đưa ra quyết định tiến hành.

II.17 Không thực hiện bất kỳ hoạt động khoa học hoặc nghề nghiệp nào trừ khi lợi ích

có thể đạt được lớn hơn tương ứng với rủi ro liên quan.

Tối đa hóa lợi ích II.18 Cung cấp các dịch vụ được phối hợp theo thời gian và với các nhà cung cấp dịch

vụ khác, để tránh trùng lặp hoặc hoạt động vì mục đích chéo.

II.19 Lập và duy trì các hồ sơ liên quan đến các hoạt động của họ đủ để hỗ trợ tính

liên tục và sự phối hợp phù hợp giữa các hoạt động của họ với các hoạt động
của người khác.

II.20 Tự nhận thức về kiến thức và kỹ năng của các ngành khác (ví dụ: luật, y học,

quản trị kinh doanh) và tư vấn cho việc sử dụng kiến thức và kỹ năng đó,

nếu có liên quan đến lợi ích của người khác.

II.21 Cố gắng cung cấp và/hoặc có được dịch vụ tốt nhất có thể cho những người cần

và tìm kiếm dịch vụ tâm lý. Điều này có thể bao gồm, nhưng

[17]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

không giới hạn ở: lựa chọn các biện pháp can thiệp phù hợp với nhu cầu và
đặc điểm của khách hàng và có hiệu quả hợp lý về mặt lý thuyết hoặc dựa

trên thực nghiệm dựa trên các nhu cầu và đặc điểm đó; tư vấn với, hoặc bao
gồm trong việc cung cấp dịch vụ, những người có liên quan đến hệ thống văn
hóa hoặc tín ngưỡng của những người được phục vụ; đại diện cho khách hàng;
và, giới thiệu các chuyên gia không phải là nhà tâm lý học khi thích hợp.

II.22 Theo dõi và đánh giá tác động của các hoạt động của họ, ghi lại những phát

hiện của họ và truyền đạt kiến thức mới cho những người khác có liên quan.

II.23 Phỏng vấn những người tham gia nghiên cứu theo cách mà kiến thức của những
người tham gia được nâng cao và những người tham gia có ý thức đóng góp
kiến thức. (Xem thêm Tiêu chuẩn III.26 và III.27.)

II.24 Thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng, sao cho
việc giảng dạy của họ mang tính thời sự và học thuật.

II.25 Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chuyên môn và khoa học của nhân
viên, người được giám sát, sinh viên và thực tập sinh của họ bằng cách đảm
bảo rằng những người này hiểu các giá trị và quy định đạo đức của ngành
học, đồng thời bằng cách cung cấp hoặc sắp xếp các điều kiện làm việc phù
hợp, đánh giá kịp thời và tư vấn mang tính xây dựng và cơ hội trải nghiệm.

II.26 Khuyến khích và hỗ trợ học sinh xuất bản học sinh xứng đáng
giấy tờ.

giảm thiểu tác hại II.27 Nhận thức sâu sắc về mối quan hệ quyền lực trong trị liệu và do đó, không
khuyến khích hoặc tham gia vào quan hệ tình dục thân mật với khách hàng
trị liệu, không phải trong quá trình trị liệu, cũng như trong khoảng thời
gian sau trị liệu mà mối quan hệ quyền lực có thể sẽ ảnh hưởng một cách
hợp lý. quyết định cá nhân của khách hàng. (Cũng xem Tiêu chuẩn III.31.)

II.28 Không khuyến khích hoặc tham gia vào quan hệ tình dục thân mật với sinh viên
hoặc học viên mà nhà tâm lý học có mối quan hệ đánh giá hoặc mối quan hệ
trực tiếp khác. (Cũng xem Tiêu chuẩn III.31.)

II.29 Cẩn thận không tham gia vào các hoạt động theo cách có thể khiến những người
tình cờ tham gia gặp rủi ro.

II.30 Nhận thức sâu sắc về nhu cầu thận trọng trong việc ghi lại và truyền đạt thông
tin, để thông tin không bị hiểu sai hoặc sử dụng sai gây bất lợi cho người

khác. Điều này bao gồm, nhưng không giới hạn ở: không ghi lại thông tin có
thể dẫn đến hiểu sai và sử dụng sai; tránh phỏng đoán; ghi rõ quan điểm;
và, truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ mà người nhận thông tin có thể hiểu
rõ ràng.

[18]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

II.31 Hỗ trợ hợp lý để đảm bảo các dịch vụ hoặc hoạt động tâm lý cần thiết, nếu bản thân không

thể đáp ứng các yêu cầu về các dịch vụ hoặc hoạt động tâm lý cần thiết.

II.32 Cung cấp cho khách hàng, nếu phù hợp và nếu khách hàng mong muốn, sự hỗ trợ hợp lý để tìm

cách nhận các dịch vụ cần thiết trong trường hợp các khoản thanh toán của bên thứ ba

đã cạn kiệt và khách hàng không thể trả các khoản phí liên quan.

II.33 Duy trì liên lạc, hỗ trợ và trách nhiệm chăm sóc phù hợp cho đến khi đồng nghiệp hoặc

chuyên gia khác bắt đầu phục vụ, nếu giới thiệu khách hàng cho đồng nghiệp hoặc

chuyên gia khác.

II.34 Đưa ra thông báo hợp lý và được đảm bảo một cách hợp lý rằng việc ngừng cung cấp dịch vụ

sẽ không gây hại cho khách hàng trước khi ngừng cung cấp dịch vụ.

II.35 Sàng lọc những người tham gia nghiên cứu thích hợp và chọn những người ít có khả năng bị

tổn hại nhất, nếu có thể có nhiều hơn mức tối thiểu nguy cơ gây tổn hại cho một số

người tham gia nghiên cứu.

II.36 Hành động để giảm thiểu tác động của các hoạt động nghiên cứu đối với nhân cách của những

người tham gia nghiên cứu, hoặc đối với sự toàn vẹn về thể chất hoặc tinh thần của họ.

Bù đắp / sửa chữa thiệt hại II.37 Chấm dứt một hoạt động khi rõ ràng rằng hoạt động đó mang nhiều nguy cơ gây hại hơn mức
tối thiểu và được phát hiện là có hại nhiều hơn là có lợi hoặc khi hoạt động đó không

còn cần thiết nữa.

II.38 Từ chối giúp đỡ các cá nhân, gia đình, nhóm hoặc cộng đồng thực hiện hoặc phục tùng các

hoạt động mà theo hiểu biết hiện tại, hoặc hướng dẫn pháp lý hoặc chuyên môn, sẽ gây

tổn hại nghiêm trọng về thể chất hoặc tâm lý cho chính họ hoặc người khác.

II.39 Làm mọi thứ hợp lý có thể để ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả do hành động của người khác

khi những hành động này có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng về thể chất hoặc tử

vong. Điều này có thể bao gồm việc báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền thích hợp

(ví dụ: cảnh sát), nạn nhân dự định hoặc thành viên gia đình hoặc người hỗ trợ khác

có thể can thiệp và sẽ được thực hiện ngay cả khi có liên quan đến mối quan hệ bí mật.

(Cũng xem Tiêu chuẩn I.45.)

II.40 Hành động để ngăn chặn hoặc bù đắp hậu quả của các hoạt động có hại nghiêm trọng do một

nhà tâm lý học khác hoặc thành viên của một chuyên ngành khác thực hiện, khi có thông

tin khách quan về các hoạt động và tác hại, và khi những hoạt động này đã thu hút sự

chú ý của họ bên ngoài mối quan hệ khách hàng bí mật giữa họ và nhà tâm lý học hoặc

thành viên của một chuyên ngành khác.

Điều này có thể bao gồm báo cáo với cơ quan quản lý, cơ quan có thẩm quyền hoặc ủy

ban thích hợp để hành động, tùy thuộc vào đánh giá của nhà tâm lý học về (những)

người hoặc (những) cơ quan phù hợp nhất để ngăn chặn hoặc

[19]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

bù đắp thiệt hại, và tùy thuộc vào các yêu cầu quy định và định nghĩa về hành vi
sai trái.

II.41 Cũng hành động để ngăn chặn hoặc bù đắp hậu quả của các hoạt động có hại do một nhà

tâm lý học khác hoặc thành viên của một ngành khác thực hiện, khi tác hại không

nghiêm trọng hoặc các hoạt động có vẻ chủ yếu là thiếu nhạy cảm, kiến thức hoặc

kinh nghiệm, và khi các hoạt động đã thu hút sự chú ý của họ bên ngoài mối quan hệ
khách hàng bí mật giữa họ và nhà tâm lý học hoặc thành viên của một chuyên ngành

khác. Điều này có thể bao gồm nói chuyện thân mật với nhà tâm lý học hoặc thành

viên của chuyên ngành khác, thu thập thông tin khách quan và, nếu có thể và phù

hợp, đảm bảo rằng tác hại sẽ chấm dứt và được khắc phục. Nếu ở vị trí dễ bị tổn

thương (ví dụ: nhân viên, học viên) đối với nhà tâm lý học khác hoặc thành viên của

chuyên ngành khác, điều đó có thể bao gồm việc yêu cầu những người ở vị trí ít bị

tổn thương hơn tham gia (các) cuộc họp.

II.42 Hãy cởi mở với mối quan tâm của người khác về nhận thức về tác hại mà họ với tư cách là

nhà tâm lý học có thể gây ra, chấm dứt các hoạt động gây hại và không trừng phạt

hoặc tìm cách trừng phạt những người nêu lên mối lo ngại đó một cách thiện chí.

II.43 Không đặt một cá nhân, nhóm, gia đình hoặc cộng đồng cần dịch vụ vào thế bất lợi nghiêm

trọng bằng cách không cung cấp dịch vụ cho họ để đáp ứng các điều kiện của thiết

kế nghiên cứu, khi có dịch vụ tiêu chuẩn.

II.44 Phỏng vấn những người tham gia nghiên cứu theo cách mà bất kỳ tác hại nào gây ra đều có

thể được phân biệt rõ ràng và hành động để khắc phục mọi tác hại có thể xảy ra.

(Xem thêm Tiêu chuẩn III.26 và III.27.)

Chăm sóc động vật II.45 Không sử dụng động vật trong nghiên cứu của họ trừ khi có kỳ vọng hợp lý rằng nghiên

cứu sẽ nâng cao hiểu biết về cấu trúc và quá trình hành vi cơ bản hoặc nâng cao

hiểu biết về loài động vật cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu hoặc cuối cùng mang

lại lợi ích cho sức khỏe và phúc lợi của con người hoặc các động vật khác.

II.46 Chỉ sử dụng quy trình khiến động vật phải chịu đau đớn, căng thẳng hoặc thiếu thốn nếu

không có quy trình thay thế và mục tiêu được chứng minh bằng giá trị khoa học, giáo

dục hoặc ứng dụng trong tương lai của nó.

II.47 Cố gắng hết sức để giảm thiểu sự khó chịu, bệnh tật và đau đớn của động vật. Điều này

sẽ bao gồm việc chỉ thực hiện các quy trình phẫu thuật khi được gây mê thích hợp,

sử dụng các kỹ thuật để tránh nhiễm trùng và giảm thiểu đau đớn trong và sau khi

phẫu thuật, đồng thời, nếu việc xử lý động vật thí nghiệm được thực hiện khi kết

thúc nghiên cứu, hãy làm như vậy một cách nhân đạo.

[20]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

II.48 Chỉ sử dụng động vật trong các buổi trình diễn trong lớp học nếu không thể
đạt được các mục tiêu giảng dạy thông qua việc sử dụng băng video, phim
hoặc các phương pháp khác và nếu hình thức trình diễn được đảm bảo bởi
lợi ích giảng dạy dự kiến.

trách nhiệm mở rộng II.49 Khuyến khích những người khác, theo cách phù hợp với Quy tắc này, quan tâm
có trách nhiệm.

II.50 Chịu trách nhiệm chung đối với các hoạt động khoa học và chuyên môn của các
trợ lý, nhân viên, người được giám sát, sinh viên và thực tập sinh của
họ liên quan đến Nguyên tắc Chăm sóc có trách nhiệm, tuy nhiên, tất cả
đều phải chịu các nghĩa vụ tương tự.

[21]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Nguyên tắc III: Chính trực trong các mối quan hệ

Tuyên bố giá trị

Các mối quan hệ được hình thành bởi các nhà tâm lý học trong quá trình làm việc của họ thể hiện những kỳ vọng lẫn nhau rõ

ràng và tiềm ẩn về tính chính trực, điều này rất quan trọng đối với sự tiến bộ của kiến thức khoa học và duy trì niềm tin

của công chúng vào lĩnh vực tâm lý học. Những kỳ vọng này bao gồm: tính chính xác và trung thực; sự thẳng thắn và cởi mở;

tối đa hóa tính khách quan và giảm thiểu sai lệch; và, tránh xung đột lợi ích. Các nhà tâm lý học có trách nhiệm đáp ứng

những kỳ vọng này và khuyến khích sự có đi có lại.

Ngoài tính chính xác, trung thực và nghiêm cấm gian lận hoặc xuyên tạc rõ ràng, việc đáp ứng các kỳ vọng về tính chính

trực còn được nâng cao nhờ hiểu biết về bản thân và sử dụng phân tích phê bình. Mặc dù có thể lập luận rằng khoa học không

có giá trị và vô tư, nhưng các nhà khoa học thì không. Các giá trị cá nhân và lợi ích cá nhân có thể ảnh hưởng đến các câu

hỏi mà các nhà tâm lý học đặt ra, cách họ đặt những câu hỏi đó, những giả định mà họ đưa ra, lựa chọn phương pháp của họ,

những gì họ quan sát được và những gì họ không quan sát được, và cách họ diễn giải dữ liệu của mình.

Các nhà tâm lý học không được kỳ vọng là không có giá trị hoặc hoàn toàn không có tư lợi khi tiến hành các hoạt động của

họ. Tuy nhiên, họ phải hiểu nền tảng, nhu cầu cá nhân và giá trị của họ tương tác như thế nào với các hoạt động của họ,

cởi mở và trung thực về ảnh hưởng của các yếu tố đó, đồng thời khách quan và không thiên vị nhất có thể trong các tình

huống.

Các giá trị của sự cởi mở và thẳng thắn tồn tại trong bối cảnh Tôn trọng phẩm giá của con người (Nguyên tắc I) và Quan tâm

có trách nhiệm (Nguyên tắc II). Như vậy, sẽ có những trường hợp cần tiết chế sự cởi mở và thẳng thắn. Việc tiết lộ hoàn

toàn cởi mở và thẳng thắn có thể không cần thiết hoặc không được mong muốn bởi những người khác và trong một số trường

hợp, có thể gây rủi ro cho phẩm giá hoặc hạnh phúc của họ, hoặc bị coi là không phù hợp về mặt văn hóa. Tuy nhiên, trong

những trường hợp như vậy, các nhà tâm lý học có trách nhiệm đảm bảo rằng quyết định không hoàn toàn cởi mở hoặc thẳng thắn

của họ được chứng minh bằng các giá trị bậc cao hơn và không làm mất hiệu lực của bất kỳ thủ tục chấp thuận có hiểu biết

nào.

Mối quan tâm đặc biệt đối với các nhà tâm lý học là việc cung cấp tiết lộ không đầy đủ khi nhận được sự đồng ý tham gia

nghiên cứu hoặc tạm thời khiến những người tham gia nghiên cứu tin rằng một dự án nghiên cứu có mục đích khác với mục đích

thực tế của nó. Những hành động này đôi khi xảy ra trong nghiên cứu khi việc tiết lộ đầy đủ có thể ảnh hưởng đến phản hồi

của những người tham gia nghiên cứu và do đó làm mất hiệu lực kết quả. Mặc dù nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật như vậy có

thể dẫn đến kiến thức có ích, nhưng những lợi ích đó phải được cân nhắc với quyền tự quyết của người tham gia nghiên cứu

và tầm quan trọng của niềm tin của công chúng và cá nhân đối với tâm lý học. Các nhà tâm lý học có nghĩa vụ nghiêm túc là

tránh càng nhiều càng tốt việc sử dụng các quy trình nghiên cứu như vậy. Họ cũng có nghĩa vụ nghiêm túc xem xét nhu cầu,

hậu quả có thể xảy ra và trách nhiệm của họ trong việc khắc phục mọi sự ngờ vực hoặc các tác động có hại khác do việc sử

dụng chúng.

Vì sự tin tưởng của công chúng vào lĩnh vực tâm lý học bao gồm việc tin tưởng rằng các nhà tâm lý học sẽ hành động vì lợi

ích tốt nhất của các thành viên trong cộng đồng, nên các tình huống có xung đột lợi ích thực sự hoặc tiềm ẩn là mối quan

tâm của các nhà tâm lý học. Các tình huống xung đột lợi ích là những tình huống có thể dẫn đến phán đoán sai lệch và có

thể thúc đẩy các nhà tâm lý học hành động theo cách đáp ứng lợi ích cá nhân, chính trị, tài chính hoặc kinh doanh của họ

với chi phí lợi ích tốt nhất của các thành viên của công chúng. Mặc dù không thể tránh được tất cả các xung đột lợi ích và

khả năng lợi dụng người khác, nhưng một số có rủi ro cao đối với việc bảo vệ lợi ích của các thành viên trong cộng đồng và

duy trì lòng tin của công chúng, đến mức chúng được coi là không bao giờ được chấp nhận (xem Tiêu chuẩn III.31). Mức độ

rủi ro của các xung đột lợi ích khác (ví dụ: mối quan hệ kép hoặc nhiều mối quan hệ) có thể phụ thuộc một phần vào các yếu

tố văn hóa và loại hình cụ thể của

[22]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

mối quan hệ nghề nghiệp (ví dụ: trị liệu tâm lý dài hạn so với các hoạt động phát triển cộng đồng). Các nhà tâm
lý học có trách nhiệm tránh các mối quan hệ kép hoặc nhiều mối quan hệ và các xung đột lợi ích khác khi thích hợp
và có thể. Khi không thể tránh khỏi những tình huống như vậy hoặc không thể tránh khỏi, các nhà tâm lý học có
trách nhiệm tuyên bố rằng họ có xung đột lợi ích, tìm kiếm lời khuyên và thiết lập các biện pháp bảo vệ để đảm
bảo rằng lợi ích tốt nhất của các thành viên trong cộng đồng được bảo vệ.

Tính chính trực trong các mối quan hệ ngụ ý rằng các nhà tâm lý học, như một vấn đề trung thực, có trách nhiệm
duy trì năng lực trong bất kỳ lĩnh vực chuyên môn nào mà họ tuyên bố là có năng lực, cho dù họ có đang hành nghề
trong lĩnh vực đó hay không. Nó cũng yêu cầu các nhà tâm lý học, trong chừng mực họ thể hiện mình là thành viên
và đại diện của một ngành cụ thể, có trách nhiệm chủ động dựa vào và được hướng dẫn bởi ngành đó cũng như các
hướng dẫn và yêu cầu của ngành đó.

Chuẩn mực đạo đức

Để tuân thủ Nguyên tắc Liêm chính trong các Mối quan hệ, các nhà tâm lý học sẽ:

Độ chính xác/trung thực III.1 Không cố ý tham gia, dung túng hoặc có liên quan đến hành vi không trung
thực, gian lận hoặc xuyên tạc.

III.2 Thể hiện chính xác thông tin xác thực, trình độ, học vấn, kinh nghiệm, năng
lực và mối quan hệ của họ và đồng nghiệp, trong tất cả các giao tiếp nói,
viết hoặc in, cẩn thận không sử dụng các mô tả hoặc thông tin có thể bị
hiểu sai (ví dụ: trích dẫn tư cách thành viên trong một hiệp hội tự
nguyện của các nhà tâm lý học như một bằng chứng về năng lực).

III.3 Cẩn thận bảo vệ thông tin đăng nhập của chính họ và đồng nghiệp của họ khỏi
bị người khác xuyên tạc và hành động nhanh chóng để sửa bất kỳ thông tin
xuyên tạc nào như vậy.

III.4 Duy trì năng lực trong (các) lĩnh vực năng lực tâm lý đã tuyên bố của họ,
cũng như trong (các) lĩnh vực hoạt động hiện tại của họ. (Xem thêm Tiêu
chuẩn II.9.)

III.5 Trình bày chính xác các hoạt động, chức năng, đóng góp và kết quả thực tế
hoặc có thể xảy ra của các hoạt động của họ và của đồng nghiệp (bao gồm
cả kết quả nghiên cứu) trong tất cả các giao tiếp nói, viết hoặc in. Điều
này bao gồm, nhưng không giới hạn ở: quảng cáo dịch vụ hoặc sản phẩm; mô
tả khóa học và hội thảo; yêu cầu xếp loại học tập; và, báo cáo nghiên cứu.

III.6 Đảm bảo rằng các hoạt động, chức năng, đóng góp và kết quả có thể hoặc thực
tế của các hoạt động của họ và của đồng nghiệp (bao gồm cả kết quả nghiên
cứu) không bị người khác xuyên tạc và hành động nhanh chóng để sửa chữa
bất kỳ sự xuyên tạc nào như vậy.

III.7 Chỉ công nhận công việc và ý tưởng mà họ đã thực sự thực hiện hoặc tạo ra,
và công nhận công việc đã thực hiện hoặc ý tưởng do những người khác (bao
gồm cả sinh viên) đóng góp, tương ứng với đóng góp của họ.

[23]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

III.8 Thừa nhận những hạn chế về kiến thức, phương pháp, phát hiện, can thiệp
và quan điểm của bản thân và đồng nghiệp.

III 9. Không che giấu bằng chứng không xác nhận về những phát hiện và quan điểm
của chính họ và đồng nghiệp của họ, thừa nhận các giả thuyết và giải
thích thay thế.

Khách quan/không thiên vị III.10 Đánh giá trải nghiệm cá nhân, thái độ, giá trị, bối cảnh xã hội, sự khác
biệt cá nhân, căng thẳng và quá trình đào tạo cụ thể ảnh hưởng đến hoạt
động và suy nghĩ của họ như thế nào, tích hợp nhận thức này vào mọi nỗ
lực để trở nên khách quan và không thiên vị trong nghiên cứu, dịch vụ
và các hoạt động khác của họ .

III.11 Hãy cẩn thận để truyền đạt đầy đủ và khách quan nhất có thể, đồng thời
phân biệt rõ ràng các sự kiện, ý kiến, lý thuyết, giả thuyết và ý tưởng
khi truyền đạt kiến thức, phát hiện và quan điểm.

III.12 Trình bày thông tin hướng dẫn một cách chính xác, tránh thiên vị trong
việc lựa chọn và trình bày thông tin, đồng thời thừa nhận công khai
mọi giá trị cá nhân hoặc sự thiên vị ảnh hưởng đến việc lựa chọn và
trình bày thông tin.

III.13 Hành động nhanh chóng để làm rõ bất kỳ sự xuyên tạc nào của nhà tài trợ, khách hàng, cơ

quan (ví dụ: phương tiện truyền thông đại chúng), hoặc những người khác, về kết quả
nghiên cứu của họ.

Sự thẳng thắn/cởi mở III.14 Rõ ràng và thẳng thắn về tất cả thông tin cần thiết để thiết lập sự đồng
ý có hiểu biết hoặc bất kỳ thỏa thuận bằng văn bản hoặc bất thành văn
hợp lệ nào khác (ví dụ: phí, bao gồm bất kỳ giới hạn nào do người trả
tiền bên thứ ba áp đặt; chính sách và thông lệ kinh doanh có liên quan;
mối quan tâm chung; trách nhiệm chung ; trách nhiệm đạo đức của nhà tâm
lý học; mục đích và bản chất của mối quan hệ, bao gồm cả việc tham gia
nghiên cứu; lựa chọn thay thế; trải nghiệm có thể xảy ra; xung đột có
thể xảy ra; kết quả có thể xảy ra; và, kỳ vọng đối với việc xử lý, sử
dụng và chia sẻ bất kỳ thông tin nào được tạo ra).

III.15 Cung cấp thông tin phù hợp về kết quả thẩm định, đánh giá hoặc kết quả
nghiên cứu cho những người liên quan, nếu phù hợp và nếu được yêu cầu.
Thông tin này sẽ được truyền đạt bằng ngôn ngữ dễ hiểu.

III.16 Giải thích đầy đủ lý do hành động của họ cho những người đã
bị ảnh hưởng bởi hành động của họ, nếu thích hợp và nếu được yêu cầu.

III.17 Tôn trọng mọi lời hứa và cam kết có trong bất kỳ thỏa thuận bằng văn bản
hoặc bằng lời nói nào, trừ khi có những tình huống nghiêm trọng và bất
ngờ (ví dụ: bệnh tật) can thiệp. Nếu những trường hợp như vậy xảy ra,
thì nhà tâm lý học sẽ giải thích đầy đủ và trung thực cho các bên liên
quan.

[24]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

III.18 Làm rõ liệu họ có đang hành động với tư cách công dân tư nhân, với tư cách là

thành viên của các tổ chức hoặc nhóm cụ thể, hoặc với tư cách là đại diện của

ngành tâm lý học, khi đưa ra tuyên bố hoặc khi tham gia vào các hoạt động công

cộng.

III.19 Thực hiện, trình bày và thảo luận về nghiên cứu theo cách nhất quán với cam kết

tìm hiểu trung thực, cởi mở và truyền đạt rõ ràng về bất kỳ mục tiêu nghiên

cứu, tài trợ, bối cảnh xã hội, giá trị cá nhân hoặc lợi ích tài chính nào có

thể ảnh hưởng đến hoặc dường như ảnh hưởng đến nghiên cứu.

III.20 Gửi nghiên cứu của họ, dưới một hình thức chính xác nào đó và trong giới hạn bảo

mật, cho những người có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu, để họ nhận xét

và đánh giá, trước khi xuất bản hoặc chuẩn bị bất kỳ báo cáo cuối cùng nào.

III.21 Khuyến khích và không can thiệp vào việc trao đổi kiến thức và lý thuyết tâm lý

một cách tự do và cởi mở giữa họ, sinh viên, đồng nghiệp và công chúng.

III.22 Không cố gắng che giấu tình trạng của một học viên và, nếu một học viên đang

cung cấp dịch vụ khách hàng trực tiếp, hãy đảm bảo rằng khách hàng được thông
báo về sự thật đó.

Tránh tiết lộ III.23 Không tham gia vào việc tiết lộ không đầy đủ hoặc tạm thời khiến những người

không đầy đủ tham gia nghiên cứu tin rằng một dự án nghiên cứu hoặc một số khía cạnh của

nó có một mục đích khác, nếu có sẵn các quy trình thay thế hoặc nếu các tác

động tiêu cực không thể dự đoán hoặc bù đắp được.

III.24 Không tham gia vào việc tiết lộ không đầy đủ hoặc tạm thời khiến những người

tham gia nghiên cứu tin rằng một dự án nghiên cứu hoặc một số khía cạnh của

nó có mục đích khác, nếu điều đó sẽ cản trở sự hiểu biết của người đó về các

sự kiện rõ ràng có thể ảnh hưởng đến quyết định cung cấp đầy đủ sự đồng ý có

hiểu biết (ví dụ: giữ lại thông tin về mức độ rủi ro, khó chịu hoặc bất tiện).

III.25 Sử dụng mức độ tiết lộ không đầy đủ tối thiểu cần thiết hoặc khiến những người

tham gia nghiên cứu tạm thời tin rằng một dự án nghiên cứu hoặc một số khía

cạnh của nó có một mục đích khác, khi các thủ tục nghiên cứu đó được sử dụng.

III.26 Phỏng vấn những người tham gia nghiên cứu càng sớm càng tốt sau khi họ tham gia,

nếu có sự tiết lộ không đầy đủ hoặc tạm thời khiến những người tham gia nghiên

cứu tin rằng một dự án nghiên cứu hoặc một số khía cạnh của nó có một mục đích

khác.

III.27 Cung cấp cho những người tham gia nghiên cứu, trong quá trình phỏng vấn như vậy,

làm rõ bản chất của nghiên cứu, tìm cách loại bỏ mọi quan niệm sai lầm có thể

đã nảy sinh và tìm cách thiết lập lại mọi niềm tin có thể đã bị mất, đảm bảo

với những người tham gia rằng

[25]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

quy trình nghiên cứu không tùy tiện hay thất thường, nhưng cần thiết cho

những phát hiện có giá trị khoa học. (Cũng xem Tiêu chuẩn II.23 và II.44.)

III.28 Hành động để thiết lập lại với những người tham gia nghiên cứu bất kỳ niềm tin

nào có thể đã bị mất do sử dụng công bố thông tin không đầy đủ hoặc tạm thời

khiến những người tham gia nghiên cứu tin rằng dự án nghiên cứu hoặc một số

khía cạnh của nó có mục đích khác.

III.29 Cho người tham gia nghiên cứu tùy chọn xóa dữ liệu của họ, nếu người tham gia

nghiên cứu bày tỏ lo ngại trong quá trình phỏng vấn về việc tiết lộ không

đầy đủ hoặc việc người tham gia nghiên cứu tạm thời tin rằng dự án nghiên

cứu hoặc một số khía cạnh của nó có mục đích khác nhau và nếu việc xóa dữ

liệu sẽ không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của thiết kế nghiên cứu và do đó làm

giảm giá trị đạo đức của sự tham gia của những người tham gia nghiên cứu

khác.

III.30 Tìm kiếm một đánh giá đạo đức độc lập và đầy đủ về các rủi ro đối với niềm tin

của công chúng hoặc cá nhân và các biện pháp bảo vệ để bảo vệ niềm tin đó

đối với bất kỳ nghiên cứu nào có kế hoạch cung cấp thông tin không đầy đủ

hoặc tạm thời khiến những người tham gia nghiên cứu tin rằng dự án nghiên

cứu hoặc một số khía cạnh của nó có mục đích khác, trước khi đưa ra quyết

định tiến hành.

Tránh xung đột lợi ích III.31 Không lợi dụng bất kỳ mối quan hệ nào được thiết lập với tư cách là nhà tâm lý

học để phục vụ lợi ích cá nhân, chính trị hoặc kinh doanh gây thiệt hại cho

lợi ích tốt nhất của khách hàng, người tham gia nghiên cứu, sinh viên, người

sử dụng lao động hoặc những người khác. Điều này bao gồm, nhưng không giới

hạn ở: thu hút khách hàng của cơ quan tuyển dụng của một người để hành nghề

tư nhân; lợi dụng lòng tin hoặc sự phụ thuộc để khuyến khích hoặc tham gia

vào các hoạt động thân mật tình dục (ví dụ: với khách hàng không thuộc Tiêu

chuẩn II.27, với bạn đời hoặc người thân của khách hàng, với sinh viên hoặc

thực tập sinh không thuộc Tiêu chuẩn II.28 hoặc với những người tham gia

nghiên cứu) ; lợi dụng lòng tin hoặc sự phụ thuộc để khiến khách hàng sợ hãi

khi nhận dịch vụ; chiếm đoạt ý tưởng, nghiên cứu hoặc công việc của sinh

viên; sử dụng các nguồn lực của tổ chức sử dụng lao động của một người cho

các mục đích không được đồng ý; đưa hoặc nhận lại quả hoặc tiền thưởng cho

người giới thiệu; tìm kiếm hoặc chấp nhận các khoản vay hoặc đầu tư từ khách

hàng; và, định kiến người khác với đồng nghiệp vì lợi ích cá nhân.

III.32 Không đưa ra phần thưởng đủ để thúc đẩy một cá nhân hoặc một nhóm tham gia vào

một hoạt động có thể hoặc đã biết trước những rủi ro cho chính họ hoặc những

người khác. (Xem thêm Tiêu chuẩn I.27, I.28, II.2 và II.49.)

III.33 Tránh các mối quan hệ kép hoặc nhiều mối quan hệ (ví dụ: với khách hàng, người

tham gia nghiên cứu, nhân viên, người được giám sát, sinh viên hoặc thực tập

sinh) và các tình huống khác có thể gây ra xung đột lợi ích hoặc có thể làm

giảm khả năng khách quan và không thiên vị trong các quyết định của họ về

những gì có thể là vì lợi ích tốt nhất của người khác.

[26]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

III.34 Quản lý các mối quan hệ kép hoặc nhiều mối quan hệ không thể tránh khỏi do
các chuẩn mực văn hóa hoặc các hoàn cảnh khác theo cách giảm thiểu sự

thiên vị, thiếu khách quan và rủi ro bị lợi dụng. Điều này có thể bao
gồm việc có được sự giám sát hoặc tư vấn liên tục trong suốt thời gian
của mối quan hệ kép hoặc nhiều mối quan hệ, hoặc liên quan đến bên thứ
ba để có được sự đồng ý (ví dụ: tiếp cận khách hàng hoặc nhân viên về
việc trở thành người tham gia nghiên cứu).

III.35 Thông báo cho tất cả các bên, nếu phát sinh xung đột lợi ích thực sự hoặc
tiềm ẩn, về nhu cầu giải quyết tình huống theo cách phù hợp với Tôn trọng

phẩm giá con người (Nguyên tắc I) và Quan tâm có trách nhiệm (Nguyên tắc
II), và thực hiện tất cả các bước hợp lý để giải quyết vấn đề theo cách
như vậy.

Phụ thuộc vào kỷ III.36 Tự làm quen với các quy tắc và quy định về kỷ luật của họ và tuân thủ
luật chúng, trừ khi việc tuân theo chúng sẽ gây phương hại nghiêm trọng đến
quyền hoặc phúc lợi của người khác như được thể hiện trong Nguyên tắc
Tôn trọng Nhân phẩm hoặc Sự quan tâm có trách nhiệm. (Xem Tiêu chuẩn
IV.17 và IV.18 để biết các hướng dẫn liên quan đến việc giải quyết các
xung đột đó.)

III.37 Làm quen với và thể hiện cam kết với

duy trì các tiêu chuẩn kỷ luật của họ.

III.38 Tìm kiếm sự tham vấn từ các đồng nghiệp và/hoặc các nhóm và ủy ban thích
hợp, đồng thời quan tâm đúng mức đến lời khuyên của họ để đưa ra quyết
định có trách nhiệm, nếu gặp phải các tình huống khó khăn.

trách nhiệm mở rộng III.39 Khuyến khích những người khác, theo cách phù hợp với Quy tắc này, quan hệ một
cách chính trực.

III.40 Chịu trách nhiệm chung về các hoạt động khoa học và chuyên môn của các trợ
lý, nhân viên, người được giám sát, sinh viên và thực tập sinh của họ
liên quan đến Nguyên tắc Chính trực trong các Mối quan hệ, tuy nhiên,
tất cả những người này đều phải chịu các nghĩa vụ tương tự.

[27]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Nguyên tắc IV: Trách nhiệm với xã hội

Tuyên bố giá trị

Tâm lý học hoạt động như một bộ môn trong bối cảnh xã hội loài người.1 Các nhà tâm lý học, cả trong công việc của họ và

với tư cách là những công dân tư nhân, có trách nhiệm đối với xã hội nơi họ sống và làm việc, chẳng hạn như khu phố hoặc

thành phố, và đối với phúc lợi của toàn thể nhân loại. chúng sinh trong các xã hội đó.

Hai trong số những kỳ vọng chính đáng của tâm lý học với tư cách là một khoa học và một nghề là nó sẽ nâng cao kiến thức

và nó sẽ tiến hành các công việc của mình theo những cách thúc đẩy phúc lợi của tất cả con người.

Tự do tìm hiểu và tranh luận (bao gồm tự do khoa học và học thuật) là nền tảng của giáo dục tâm lý, khoa học và thực hành.

Trong bối cảnh xã hội, những kỳ vọng trên ngụ ý rằng các nhà tâm lý học sẽ thực hiện quyền tự do này thông qua việc sử

dụng các hoạt động và phương pháp phù hợp với yêu cầu đạo đức.

Những kỳ vọng trên cũng ngụ ý rằng các nhà tâm lý học sẽ làm bất cứ điều gì có thể để đảm bảo rằng kiến thức tâm lý, khi

được sử dụng trong việc phát triển các cấu trúc và chính sách xã hội, sẽ được sử dụng cho các mục đích có lợi, và các cấu

trúc và chính sách của chính ngành sẽ hỗ trợ các mục đích có lợi đó. Trong khuôn khổ của tài liệu này, các cấu trúc và

chính sách xã hội có mục đích có lợi được định nghĩa là những cấu trúc và chính sách sẵn sàng hỗ trợ hơn và phản ánh sự

tôn trọng phẩm giá con người, sự quan tâm có trách nhiệm, sự chính trực trong các mối quan hệ và trách nhiệm đối với xã

hội. Nếu kiến thức hoặc cấu trúc tâm lý được sử dụng trái với những mục đích này, nhà tâm lý học có trách nhiệm đạo đức là

cố gắng thu hút sự chú ý và sửa chữa việc sử dụng sai. Mặc dù đây là trách nhiệm tập thể, những nhà tâm lý học có liên

quan trực tiếp đến cấu trúc của ngành học, vào sự phát triển xã hội hoặc trong cơ sở dữ liệu lý thuyết hoặc nghiên cứu

đang được sử dụng (ví dụ: thông qua nghiên cứu, lời khai của chuyên gia hoặc tư vấn chính sách) có quyền trách nhiệm lớn

nhất để hành động. Các nhà tâm lý học khác phải tự quyết định cách sử dụng thời gian và tài năng của họ một cách thích hợp

và có lợi nhất để giúp đáp ứng trách nhiệm tập thể này.

Khi thực hiện công việc của mình, các nhà tâm lý học thừa nhận rằng nhiều cấu trúc xã hội đã phát triển chậm theo thời

gian để đáp ứng nhu cầu của con người và được các xã hội đã phát triển chúng đánh giá cao. Trong những trường hợp như vậy,

các nhà tâm lý học truyền đạt sự tôn trọng đối với các cấu trúc xã hội như vậy và tránh sự gián đoạn không chính đáng hoặc

không cần thiết. Các đề xuất và hành động đối với những thay đổi hoặc nâng cao các cấu trúc đó được thực hiện thông qua

các quy trình nhằm đạt được sự đồng thuận trong các xã hội đó và/hoặc thông qua các biện pháp dân chủ.

Mặt khác, nếu các cấu trúc hoặc chính sách phớt lờ hoặc phản đối nghiêm trọng các nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người,

chăm sóc có trách nhiệm, liêm chính trong các mối quan hệ hoặc trách nhiệm với xã hội, các nhà tâm lý học liên quan có

trách nhiệm lên tiếng theo cách phù hợp với các nguyên tắc đó. của Bộ quy tắc này và vận động để thay đổi phù hợp xảy ra

càng nhanh càng tốt.

Để có trách nhiệm và giải trình với xã hội, và đóng góp một cách xây dựng cho sự phát triển không ngừng của xã hội, các

nhà tâm lý học cần sẵn sàng hợp tác với những người khác, tự phản ánh và cởi mở với những gợi ý và phê bình bên ngoài về

vị trí của ngành học của tâm lý trong xã hội.

Họ cần tham gia vào việc quan sát và giải thích một cách bình tĩnh về tác động của các cấu trúc và chính sách xã hội cũng

như quá trình thay đổi của chúng, phát triển khả năng của các nhà tâm lý học để tăng

1
Xã hội ở đây được sử dụng theo nghĩa rộng của một nhóm người sống với tư cách là thành viên của một hoặc

nhiều cộng đồng loài người, chứ không phải theo nghĩa giới hạn của nhà nước hoặc chính phủ.

[28]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

sử dụng hữu ích các kiến thức và cấu trúc tâm lý, và tránh lạm dụng chúng. Kỷ luật cần sẵn sàng đặt ra các
tiêu chuẩn cao cho các thành viên của mình, làm những gì có thể để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn đó được đáp
ứng và hỗ trợ các thành viên trong nỗ lực duy trì các tiêu chuẩn đó. Một lần nữa, các nhà tâm lý học cá nhân
phải tự quyết định cách sử dụng thời gian và tài năng của họ một cách thích hợp và có lợi nhất để giúp đáp
ứng các trách nhiệm tập thể này.

Chuẩn mực đạo đức

Để tuân thủ Nguyên tắc Trách nhiệm với Xã hội, các nhà tâm lý học sẽ:

Phát triển tri IV.1 Đóng góp vào ngành tâm lý học và hiểu biết của xã hội về chính nó và con
thức người nói chung, thông qua tự do tìm hiểu và tiếp thu, truyền đạt và
thể hiện kiến thức cũng như ý tưởng, trừ khi những hoạt động đó mâu
thuẫn với các yêu cầu đạo đức cơ bản khác.

IV.2 Không can thiệp hoặc bỏ qua việc can thiệp vào việc tự do tìm hiểu và thu
nhận, truyền tải và thể hiện kiến thức cũng như ý tưởng không mâu
thuẫn với các yêu cầu đạo đức cơ bản khác.

IV.3 Cập nhật thông tin về sự tiến bộ trong (các) lĩnh vực hoạt động tâm lý của
họ, tính đến sự tiến bộ này trong công việc của họ và cố gắng đóng góp
cho sự tiến bộ này.

hoạt động có ích IV.4 Tham gia và đóng góp vào việc đào tạo thường xuyên, nâng cao trình độ
chuyên môn, khoa học của bản thân và đồng nghiệp.

IV.5 Hỗ trợ sự phát triển của những người theo ngành tâm lý học bằng cách giúp
họ hiểu đầy đủ về trách nhiệm đạo đức của họ và các năng lực cần thiết
trong (các) lĩnh vực họ đã chọn, bao gồm hiểu biết về phân tích phê
bình và các biến thể , sử dụng và lạm dụng có thể có của mô hình khoa
học.

IV.6 Tham gia vào quá trình tự đánh giá quan trọng về vị trí của ngành học trong
xã hội, và trong việc phát triển và thực hiện các cấu trúc và thủ tục
giúp ngành học đóng góp vào sự vận hành và thay đổi có lợi cho xã hội.

IV.7 Cung cấp và/hoặc đóng góp vào một môi trường làm việc hỗ trợ sự thể hiện
tôn trọng mối quan tâm hoặc bất đồng quan điểm về mặt đạo đức và giải
pháp mang tính xây dựng cho mối quan tâm hoặc bất đồng đó.

IV.8 Tham gia vào việc giám sát, đánh giá và báo cáo thường xuyên (ví dụ: thông
qua đánh giá đồng cấp và đánh giá chương trình, đánh giá quản lý trường
hợp và báo cáo nghiên cứu của chính mình) về các biện pháp bảo vệ và
thực hành đạo đức của họ.

IV.9 Giúp phát triển, thúc đẩy và tham gia vào các quy trình và thủ tục chịu
trách nhiệm liên quan đến công việc của họ.

[29]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

IV.10 Đề cao trách nhiệm của ngành học đối với xã hội bằng cách thúc đẩy và
duy trì các tiêu chuẩn cao nhất của kỷ luật.

IV.11 Bảo vệ các kỹ năng, kiến thức và diễn giải tâm lý học khỏi bị người
khác lạm dụng, sử dụng không đúng cách hoặc trở nên vô dụng (ví dụ:
mất tính bảo mật của các kỹ thuật đánh giá).

IV.12 Đóng góp vào phúc lợi chung của xã hội (ví dụ: cải thiện khả năng tiếp
cận các dịch vụ, bất kể khả năng chi trả) và/hoặc phúc lợi chung của
ngành học của họ, bằng cách cống hiến một phần thời gian của họ cho
công việc mà họ nhận được rất ít hoặc không có lợi nhuận tài chính.

IV.13 Đề cao trách nhiệm của kỷ luật đối với xã hội bằng cách đưa hành vi
thiếu năng lực hoặc phi đạo đức, bao gồm cả việc lạm dụng kiến thức
và kỹ thuật tâm lý, đến các cơ quan có thẩm quyền, ủy ban hoặc cơ
quan quản lý thích hợp, theo cách phù hợp với các nguyên tắc đạo đức
của Quy tắc này , nếu giải pháp không chính thức hoặc sửa chữa tình
hình là không phù hợp hoặc không thể.

IV.14 Chỉ tham gia vào các thỏa thuận hoặc hợp đồng cho phép họ hành động
phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức của Quy tắc này.

tôn trọng xã hội IV.15 Có được kiến thức đầy đủ về văn hóa, cấu trúc xã hội và phong tục của
một cộng đồng trước khi bắt đầu bất kỳ công việc quan trọng nào ở đó.

IV.16 Thể hiện sự tôn trọng và tuân thủ các tập tục cộng đồng phổ biến, phong
tục xã hội và kỳ vọng văn hóa trong các hoạt động khoa học và nghề
nghiệp của họ, với điều kiện là điều này không trái với bất kỳ nguyên
tắc đạo đức nào của Quy tắc này .

IV.17 Làm quen với luật pháp và quy định của xã hội nơi họ làm việc, đặc biệt
là những quy định liên quan đến hoạt động của họ với tư cách là nhà
tâm lý học và tuân thủ chúng. Nếu những luật hoặc quy định đó xung
đột nghiêm trọng với các nguyên tắc đạo đức trong tài liệu này, các
nhà tâm lý học sẽ làm bất cứ điều gì có thể để duy trì các nguyên
tắc đạo đức. Nếu việc duy trì các nguyên tắc đạo đức có thể dẫn đến
hậu quả cá nhân nghiêm trọng (ví dụ: ngồi tù hoặc tổn hại về thể
chất), thì quyết định cho hành động cuối cùng sẽ được coi là vấn đề
của lương tâm cá nhân.

IV.18 Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, nếu gặp mâu thuẫn rõ ràng giữa việc
tuân thủ luật pháp hoặc quy định và tuân theo nguyên tắc đạo đức,
trừ trường hợp khẩn cấp, và tìm kiếm sự đồng thuận về cách hành động
có đạo đức nhất và có trách nhiệm nhất, hiểu biết nhất, hiệu quả
nhất và cách tôn trọng để thực hiện nó.

Sự phát triển của IV.19 Hành động để thay đổi những khía cạnh của ngành tâm lý học làm giảm đi
xã hội những thay đổi có lợi cho xã hội, khi thích hợp và có thể.

[30]
Machine Translated by Google

[Quy tắc đạo đức của Canada dành cho các nhà tâm lý học]

IV.20 Nhạy cảm với các nhu cầu, các vấn đề hiện tại và các vấn đề của xã hội, khi xác định

các câu hỏi nghiên cứu cần đặt ra, các dịch vụ cần phát triển, nội dung cần

giảng dạy, thông tin cần thu thập hoặc cách diễn giải thích hợp các kết quả hoặc

phát hiện.

IV.21 Hãy đặc biệt cẩn thận để cập nhật đầy đủ thông tin về các vấn đề xã hội thông qua

việc đọc có liên quan, tham khảo ý kiến đồng nghiệp và giáo dục thường xuyên,
nếu công việc của họ liên quan đến các vấn đề xã hội.

IV.22 Hãy lên tiếng, theo cách phù hợp với bốn nguyên tắc của Quy tắc này, nếu họ có kiến

thức chuyên môn liên quan đến các vấn đề xã hội quan trọng đang được nghiên cứu

hoặc thảo luận.

IV.23 Cung cấp thảo luận kỹ lưỡng về các giới hạn dữ liệu của họ đối với chính sách xã

hội, nếu công việc của họ liên quan đến chính sách và cấu trúc xã hội.

IV.24 Tham khảo ý kiến, nếu khả thi và phù hợp, với các nhóm, tổ chức hoặc cộng đồng đang

được nghiên cứu, để tăng độ chính xác của việc diễn giải kết quả và giảm thiểu

rủi ro diễn giải sai hoặc sử dụng sai.

IV.25 Tự nhận thức về môi trường chính trị và xã hội hiện tại cũng như những lạm dụng xã

hội trước đây và có thể xảy ra trong tương lai đối với kiến thức tâm lý, đồng

thời thực hiện sự thận trọng trong việc truyền đạt thông tin tâm lý (ví dụ: kết

quả nghiên cứu, kiến thức lý thuyết), để ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng tiếp

theo .

IV.26 Đặc biệt thận trọng khi báo cáo kết quả của bất kỳ công việc nào liên quan đến các

nhóm dễ bị tổn thương, đảm bảo rằng các kết quả đó không có khả năng bị hiểu sai

hoặc sử dụng sai trong quá trình xây dựng chính sách xã hội, thái độ và thực

hành (ví dụ: khuyến khích thao túng những người dễ bị tổn thương hoặc tăng cường

phân biệt đối xử chống lại bất kỳ dân số cụ thể nào).

IV.27 Không đóng góp hay tham gia vào nghiên cứu hay bất kỳ hoạt động nào khác trái với

luật nhân đạo quốc tế, chẳng hạn như phát triển các phương pháp nhằm mục đích

tra tấn con người, phát triển vũ khí bị cấm hoặc hủy hoại môi trường.

IV.28 Cung cấp cho công chúng bất kỳ kiến thức tâm lý nào liên quan đến sự tham gia có

hiểu biết của công chúng vào việc hình thành các chính sách và cấu trúc xã hội,

nếu họ có kiến thức chuyên môn liên quan đến các chính sách và cấu trúc xã hội.

IV.29 Lên tiếng và/hoặc hành động, theo cách phù hợp với bốn nguyên tắc của Bộ quy tắc này,

nếu các chính sách, thông lệ, luật pháp hoặc quy định của cấu trúc xã hội nơi họ

làm việc phớt lờ hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng với bất kỳ nguyên tắc nào của bộ

quy tắc này Mã số.

[31]
Machine Translated by Google

[Ấn bản thứ ba]

Trách nhiệm mở rộng IV.30 Khuyến khích những người khác, theo cách phù hợp với Quy tắc này ,
thực hiện trách nhiệm với xã hội.

IV.31 Chịu trách nhiệm chung về các hoạt động khoa học và chuyên môn của
các trợ lý, nhân viên, người được giám sát, sinh viên và thực tập
sinh của họ liên quan đến Nguyên tắc Trách nhiệm đối với Xã hội,
tuy nhiên, tất cả đều phải chịu các nghĩa vụ tương tự.

[32]

You might also like