Professional Documents
Culture Documents
Đạo Hồi Bối cảnh ra đời: Xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII
Đạo Hồi Bối cảnh ra đời: Xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII
Bối cảnh ra đời: Xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII
Hồi giáo (tôn giáo của tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo Islam
(theo tiếng Ảrập nghĩa là phục tùng theo ý chân chủ)
Ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự chuyển biến từ
chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng Trung cận
Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong
kiến thần quyền do đó cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn giáo đa thần tồn
tại ở đó từ trước.
Học thuyết tư tưởng: Chủ nghĩa nhất thần
Tín đồ Hồi giáo tin rằng chỉ có Allah mà họ tín ngưỡng mới là Thiên Chúa duy nhất, là
thần sáng tạo vũ trụ, là đấng chủ trì lẽ phải. Allah là đấng toàn tri, toàn năng, cũng là
bậc đại nhân, đại từ. Ngoài Allah, không có thiện thần nào khác.
Vì thế, Hồi giáo có cái nhìn thù địch một cách cực đoan đối với đa thần giáo,
xem Phật giáo vô thần cũng là đa thần giáo. Còn Chúa của Do Thái giáo và Cơ
Đốc giáo cùng một nguồn gốc với Chúa của Hồi giáo nên họ không phản đối, có
điều họ không thừa nhận tín ngưỡng ba ngôi một thể của Cơ Đốc giáo. Tín đồ Hồi
giáo không thể nào chấp nhận thuyết Jesus là hóa thân của Chúa, họ chỉ xem Jesus
là một nhà tiên tri người Israel. Ngài chọn Mohammed làm sứ giả, truyền lời cảnh
cáo hoặc thông báo tin lành cho toàn thể nhân loại.
Hồi giáo chỉ tín ngưỡng Thiên Chúa Allah của Mohammed và chỉ chấp
nhận Thánh kinh Mohammed truyền dạy.
Kinh Coran, tiếng Ả Rập viết là “Qur’an” nghĩa là “bài học” , “bài giảng” , trong
đó ghi lại những lời nói của Mohamet mà theo tín đồ Hồi giáo, đó là những lời phán
bảo của chúa Ala
Kinh Coran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do đó, đối với người Ả
Rập, kinh Coran còn là một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp
luật và đạo đức.
Pháp luật lúc đầu chưa được đặt ra, về sau tuy đã đặt ra nhưng vẫn lấy giáo lý
Coran làm nguyên tắc.
Tư tưởng về tương lai: Đối với Hồi giáo, tiêu chuẩn thiện và ác chỉ căn cứ ở có tin
vào kinh Koran hay không.
Nếu không thể tiếp nhận, hoặc chỉ tiếp nhận một phần trong số đó, còn đâu tiếp
nhận một hoặc nhiều điều luật đạo đức khác, thì Hồi giáo cũng sẽ xem bạn là ác
nhân.
Thiên đường của Hồi giáo
Thiên đường của Hồi giáo thực ra chính là sự lý tưởng hóa xã hội của loài
người và mức độ lý tưởng hóa cũng không được cao. Vì người Arab thời đó lấy việc
hưởng thụ rượu ngon và gái đẹp làm lý tưởng nên trong thiên đường của Hồi giáo,
rượu ngon và gái đẹp là hai thứ thể hiện nét đặc sắc riêng.
Cho nên về quan hệ gia đình, Đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê nhưng nhiều nhất là 4
vợ, không được cưới người Đa thần giáo và cấm lấy nàng hầu.
Một tôn giáo cổ vũ chiến đấu
Hồi giáo là tôn giáo truyền đạo bằng lưỡi gươm, từ sau khi xây dựng được cơ sở ở
Medina, Mohammed đã chủ trương dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề.
Hồi giáo ngăn chặn được một loạt các tệ nạn phổ thông lúc bấy giờ ở các nước Ả
Rập, như giết trẻ gái sơ sinh, nạn uống rượu và cờ bạc, việc đối xử tàn nhẫn đối
với nô lệ, cải tiến quy chế đối với chuẩn phụ nữ, hạn chế ly dị, cấm ngặt nạn mãi
dâm. Ngay ở các nước Ả Rập Hồi giáo hiện nay, không có quán rượu, ổ mãi dâm,
nhà chứa bạc. Tất nhiên, tệ nạn giấu lén thì ở đâu cũng có, nhưng chắc là có ít hơn
ở các nước Hồi giáo.
Có ba yếu tố giải thích những bước tiến ngoạn mục của đạo Hồi.
Một là một tôn giáo, giản dị trong lý thuyết và cả trong thực hành.
Hai là có một giáo chủ rất thông minh và tài ba, mặc dù mù chữ, không biết đọc và
viết.
Ba là một khoảng trống quyền lực, do ba đế quốc suy yếu đương thời tạo ra (đế quốc
La Mã phương Tây, đế quốc La Mã phương Đông và đế quốc Ba Tư).
1. Niềm tin vào một Allah: Người Hồi giáo tin rằng Allah là một, vĩnh cửu, người
sáng tạo và có chủ quyền.
2. Niềm tin vào các thiên sứ.
3. Niềm tin vào các tiên tri: Các tiên tri bao gồm các tiên tri trong Kinh Thánh nhưng
kết thúc với Muhammad là tiên tri cuối cùng của Allah.
4. Niềm tin vào những tiết lộ của Allah: Người Hồi giáo chấp nhận một số phần nhất
định của Kinh Thánh, như Ngũ Kinh và các sách Phúc Âm. Họ tin rằng Kinh Cô-
ran là lời hoàn hảo, tồn tại từ trước của Allah.
5. Niềm tin vào ngày phán xét cuối cùng và kiếp sau: Mọi người sẽ được hồi sinh để
phán xét vào thiên đàng hay địa ngục.
6. Niềm tin vào tiền định: Người Hồi giáo tin rằng Allah đã ra lệnh mọi thứ sẽ xảy
ra. Người Hồi giáo làm chứng cho chủ quyền của Allah, với cụm từ thường xuyên
của họ, inshallah, nghĩa là, "nếu Chúa muốn".
Năm trụ cột của Hồi giáo
Năm giáo lý này tạo nên khuôn khổ cho sự vâng lời của người Hồi giáo:
1. Lời chứng từ đức tin (shahada): "la ilaha illa allah. Muhammad rasul Allah". Điều
này có nghĩa là, "Không có vị thần nào ngoài Allah. Muhammad là sứ giả của Allah.
Một người có thể cải đạo sang Hồi giáo bằng cách tuyên thề điều này. Shahada cho
thấy một người Hồi giáo tin vào một mình Allah là thần và tin rằng Muhammad tiết lộ
Allah.
2. Cầu nguyện (salat): Năm nghi thức cầu nguyện phải được thực hiện mỗi ngày.
3. Bố thí (zakat): Sự bố thí này là một phần cố định được đưa ra mỗi năm một lần.
4. Kiêng ăn (sawm): Người Hồi giáo kiêng ăn trong suốt tháng Ramadan vào tháng
thứ chín theo lịch Hồi giáo. Họ không được ăn hoặc uống từ bình minh cho đến khi
mặt trời lặn.
5. Hành hương (hajj): Nếu có thể về thể chất và tài chính, một người Hồi giáo phải
thực hiện cuộc hành hương đến Mecca ở Ả Rập Xê-út ít nhất một lần. Các hajj được
thực hiện trong tháng thứ mười hai của lịch Hồi giáo.
- 1300 – 600 TCN: giai đoạn hình thành và hoàn thiện các giáo lí cơ bản cùng hệ
thống thờ tự của do thái giáo ( thời kì này còn được gọi là thời kì đền thờ 1)
+ Giai đoạn thứ nhất (thời kì Đền thờ thứ 2) bắt đầu từ khi Đền thờ thứ nhất bị
người Babylon phá hủy đến khi Đền thờ thứ 2 được xây dựng lại (515 TCN) và lại bị
người La Mã phá hủy vào năm 70: giai đoạn người Do Thái nỗ lực khôi phục vương
triều Do Thái, gắn liền hoạt động hoàn thiện giáo lý, giải thích các sách của Moses cho
phù hợp với thực tiễn khi ấy của các nhà tiên tri Do Thái. Đồng thời ở thời kì lại đánh
dấu sự hoàn thiện sách Nevi’im và Ketuvim - hai phần sau của Tanakh
4 trong số 12 nhà tiên tri tiêu biểu sau Moses có đóng góp quan trọng cho sự phát triển
của Do Thái giáo: Amos, Hosea, Isaiah, Micah. Họ đc nhắc đến ko chỉ vì những điều họ
tiên tri mà còn vì thái độ can đảm lên án những bất công trong xã hội Do Thái đương
thời. Họ đã rao giảng rất nhiều vấn đề song tập trung 3 chủ đề lớn: độc thần, công bằng,
nền đạo đức Do Thái
+ Giai đoạn thứ 2 hay thời kì lưu đày (từ năm 70 đến khi Nhà nước Do Thái tái xác
lập năm 1948): bắt đầu ngay sau khi đền thờ thứ 2 bị phá hủy, người Do Thái bị lưu đày
đến các nước thuộc đế chế La Mã. Đây là thời kì khủng hoảng tinh thần và nhận thức
sâu sắc nhất trong lịch sử Do Thái giáo, cũng là thời kì định hướng lại Do Thái giáo.
Đồng thời ở thời kì này tạo ra một định chế mới đó là việc đọc và học kinh thánh
trong các hội đường, tạo nên bước ngoặt căn bản trong việc thực hành phụng vụ và duy
trì tôn giáo.
Giai đoạn này Do Thái giáo bổ sung thêm nhiều nét mới đó là sự tiếp thu một số tín
ngưỡng của người Babylonian, sự cải cách tôn giáo Do Thái và hình thành định chế tôn
giáo
- Là tôn giáo giúp người do thái vượt qua những nỗi đau thương, mất mát của các
cuộc tàn sát, cung cấp hành trang để thích ứng và vươn lên trong nghịch cảnh
- Là sợi dây xuyên suốt giúp người Do Thái gìn giữ truyền thống văn hóa và tư tưởng
về một “ dân tộc đc chọn” trong hoàn cảnh bị lưu đày khỏi quê hương
- Là viên đá nền tảng cho thời kì chuẩn bị tái xác lập nhà nước của họ trong lịch sử
- Ảnh hưởng đến đường lối chính trị của nhà nước Israel đương đại