Professional Documents
Culture Documents
TCQT - TOÀN CẦU HOÁ TÀI CHÍNH
TCQT - TOÀN CẦU HOÁ TÀI CHÍNH
Thị trường vốn quốc tế mang người vay và người cho vay ở các quốc gia
khác nhau lại với nhau để tài trợ cho mô hình mất cân bằng tài khoản vãng lai
toàn cầu.
“Cán cân vãng lai phản ánh tình hình của khu vực kinh tế đối ngoại và lãi suất
phản ánh thực tế của khu vực tài chính - tiền tệ. Sự liên thông giữa hai khu vực kinh tế
này hình thành mối quan hệ giữa cán cân vãng lai và lãi suất trong nước. Với một
nước có tình trạng cán cân vãng lai thâm hụt lớn và kéo dài, những biến động của khu
vực kinh tế đối ngoại sẽ tạo ra những tác động nhất định đối với khu vực tài chính tiền
tệ nói chung và lãi suất nói riêng.”
Hầu hết các giao dịch diễn ra trên thị trường vốn quốc tế là trao đổi tài sản giữa các cư
dân của các quốc gia khác nhau.
Ví dụ: trao đổi một phần cổ phiếu IBM lấy một số trái phiếu chính phủ Anh.
Lo ngại rủi ro
Khi các cá nhân lựa chọn tài sản, một yếu tố quan trọng trong quyết định của họ
là mức độ rủi ro của mỗi tài sản.
Các nhà đầu tư e ngại rủi ro đối với các tài sản ngoại tệ dựa trên nhu cầu của họ
đối với một tài sản cụ thể dựa trên mức độ rủi ro của nó (được đo bằng phần bù rủi ro)
bên cạnh lợi nhuận kỳ vọng của nó.
Nếu mọi người không thích rủi ro, họ đánh giá một tập hợp (hoặc danh mục đầu
tư) tài sản không chỉ dựa trên lợi nhuận kỳ vọng mà còn trên cơ sở rủi ro của lợi
nhuận đó.
Đa dạng hóa danh mục đầu tư như một động lực cho giao dịch tài sản quốc
tế
Thương mại quốc tế về tài sản có thể làm cho cả hai bên tham gia thương mại có
lợi hơn bằng cách cho phép họ giảm thiểu rủi ro về lợi nhuận trên tài sản của họ.
Thương mại hoàn thành việc giảm thiểu rủi ro này bằng cách cho phép cả hai bên đa
dạng hóa danh mục đầu tư của họ - phân chia tài sản của họ cho nhiều loại tài sản và
do đó giảm số tiền họ có trên mỗi tài sản riêng lẻ.
Ví dụ: đừng bỏ tất cả trứng vào một giỏ.
Các quốc gia dù sao cũng có thể giảm rủi ro tài sản của họ bằng cách đa dạng
hóa danh mục đầu tư tài sản của họ trên phạm vi quốc tế. Một chức năng chính của thị
trường vốn quốc tế là làm cho sự đa dạng hóa này trở nên khả thi.
1. Trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế, hệ thống bảo hiểm tiền gửi không phổ biến
và phổ quát như trong nước. Điều này là do sự khác biệt về quy định và điều
kiện giữa các quốc gia, cùng với khả năng thanh toán và tài chính của các tổ
chức bảo hiểm tiền gửi. Trong một số quốc gia, bảo hiểm tiền gửi có sẵn nhưng
mức độ bảo vệ không đồng nhất và phụ thuộc vào ngân sách của chính phủ. Ở
những nơi khác, không có hệ thống bảo hiểm tiền gửi, hoặc hệ thống này chỉ
được áp dụng cho một số loại tài khoản cụ thể. Điều này có nghĩa là khách
hàng gửi tiền trong các ngân hàng quốc tế có thể không được bảo vệ như khách
hàng trong nước, và các khoản tiền gửi liên ngân hàng và các nguồn tài trợ
khác không được bảo vệ. Trong trường hợp ngân hàng gặp khó khăn tài chính
và không thể hoàn trả tiền gửi cho khách hàng, các khoản tiền gửi này có thể bị
mất hoàn toàn. Do đó, khách hàng cần cân nhắc kỹ trước khi chọn ngân hàng
để gửi tiền, và nên tìm hiểu về hệ thống bảo hiểm tiền gửi và chính sách bảo vệ
tiền gửi của ngân hàng đó. Khách hàng cũng có thể tìm kiếm các sản phẩm và
dịch vụ tài chính khác để đa dạng hóa khoản tiền gửi của mình và giảm thiểu
rủi ro.
2. Việc thiếu các yêu cầu dự trữ ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng có thể gây ra
sự giảm sút ổn định và ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tuy
nhiên, việc áp đặt yêu cầu dự trữ bắt buộc cũng có thể có những hạn chế, đặc
biệt là đối với các quốc gia đang trong quá trình phát triển kinh tế. Trong
trường hợp của châu Âu, các ngân hàng đã được miễn thuế dự trữ bắt buộc
nhưng điều này đã góp phần vào việc tăng lợi nhuận và tăng cường sự cạnh
tranh trong ngành ngân hàng. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây ra những rủi
ro cho hệ thống ngân hàng nếu không có các biện pháp kiểm soát phù hợp. Mặc
dù yêu cầu dự trữ đã được áp dụng rộng rãi trong quá khứ, nhưng trong thế giới
ngân hàng toàn cầu hiện nay, nó không còn được coi là cần thiết trong nhiều
quốc gia. Điều này có thể được giải thích bởi sự phát triển của các công cụ và
cơ chế kiểm soát rủi ro ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, việc quản lý rủi ro trong
ngành ngân hàng vẫn rất quan trọng, và các quốc gia cần có các biện pháp kiểm
soát phù hợp để đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và phát triển thị
trường tiền tệ. Điều này có thể đạt được thông qua việc áp dụng các quy định
và tiêu chuẩn quốc tế, cũng như thông qua sự hợp tác và trao đổi thông tin giữa
các quốc gia và tổ chức quốc tế.
3. Việc giám sát các ngân hàng và công ty con của chúng là một vấn đề quan
trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và ổn định của hệ thống tài chính toàn
cầu. Tuy nhiên, việc này có thể gặp nhiều khó khăn do sự lỏng lẻo của một số
quy định và sự phân tán của các tài sản trên nhiều quốc gia. Để giải quyết vấn
đề này, các cơ quan quản lý ngân hàng cần tăng cường nghiêm ngặt trong việc
giám sát các công ty con của các ngân hàng và tăng cường sự hợp tác và trao
đổi thông tin với các cơ quan quản lý ngân hàng quốc tế. Ngoài ra, các cơ quan
này cần xây dựng các khung pháp lý và quy định nghiêm ngặt để đảm bảo tính
minh bạch và trách nhiệm của các ngân hàng và công ty con của chúng. Việc
xác định nhóm người quản lý lý tưởng để giám sát các tài sản của một ngân
hàng cụ thể cũng là một thách thức. Tuy nhiên, có thể sử dụng các tiêu chuẩn
chung như kinh nghiệm, trình độ và chuyên môn để lựa chọn những người
quản lý phù hợp nhất. Đối với vấn đề tính thanh khoản của ngân hàng, các cơ
quan quản lý cần tăng cường việc đánh giá tính thanh khoản của các ngân hàng
theo tiêu chuẩn quốc tế và tăng cường trao đổi thông tin với các cơ quan quản
lý ngân hàng khác trên toàn cầu. Ngoài ra, các ngân hàng cần thực hiện các
biện pháp để tăng cường tính thanh khoản của mình và tối ưu hóa việc quản lý
tài sản của mình trên toàn cầu.
4. Sự không chắc chắn về ngân hàng trung ương nào có trách nhiệm cung cấp trợ
giúp LLR trong ngân hàng quốc tế và khó khăn trong việc phân bổ trách nhiệm
cho giám sát ngân hàng là một vấn đề lớn đối với hệ thống tài chính toàn cầu.
Điều này có thể gây ra sự bất ổn và ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế toàn
cầu trong nước, do đó, các ngân hàng trung ương thường rất cẩn trọng trong
việc mở rộng phạm vi trách nhiệm LLR của họ. Tuy nhiên, trách nhiệm cung
cấp trợ giúp tỷ lệ dự phòng tổn thất cho vay (LLR) trong ngân hàng quốc tế
không thể được đặt vào một ngân hàng trung ương duy nhất. Thay vào đó, các
cơ quan tài chính và quản lý ngân hàng quốc tế cần tăng cường hợp tác và trao
đổi thông tin để đảm bảo rằng các ngân hàng trung ương có thể phối hợp và hỗ
trợ lẫn nhau trong việc cung cấp trợ giúp LLR. Các cơ quan giám sát ngân hàng
cũng cần tăng cường việc giám sát hành vi của các ngân hàng nước ngoài để
đảm bảo rằng các ngân hàng này không lạm dụng trợ giúp LLR và không gây
ra rủi ro đối với hệ thống tài chính toàn cầu. Điều này có thể được thực hiện
thông qua việc tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác giữa các cơ quan giám
sát ngân hàng quốc tế và đưa ra các quy định nghiêm ngặt để đảm bảo trách
nhiệm và tính minh bạch của các ngân hàng.
5. Khi một ngân hàng có hoạt động trên nhiều quốc gia, việc chia sẻ trách nhiệm
vận hành và tài chính có thể gặp phải nhiều khó khăn và sự không chắc chắn
trong kết quả. Trong trường hợp ngân hàng gặp khó khăn, chính phủ thường
phải đưa ra quyết định về việc cứu trợ hoặc tái cơ cấu ngân hàng đó. Tuy nhiên,
quyết định này không phải lúc nào cũng đơn giản và dễ dàng, vì chính phủ phải
đối mặt với nhiều tác động từ việc đóng cửa ngân hàng và tái cơ cấu nó. Nếu
chính phủ quyết định chỉ cứu trợ ngân hàng mà không tái cơ cấu, điều này có
thể khuyến khích các rủi ro quá mức. Ngân hàng sẽ không phải chịu trách
nhiệm cho những khoản nợ bất hợp pháp và các tài sản bất động sản không sản
xuất ra lợi nhuận. Điều này sẽ làm chậm hoặc ngăn cản hoạt động của ngân
hàng và gây ảnh hưởng đến nền kinh tế. Ngoài ra, các ngân hàng toàn cầu lớn,
phức tạp và kết nối mạnh cũng gặp phải nhiều thách thức trong việc quản lý rủi
ro. Điều này đặc biệt đúng trong những tình huống khẩn cấp, khi các ngân hàng
phải đối mặt với sự suy giảm của các thị trường tài chính và giảm giá của các
tài sản. Việc tạo ra các cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả và phù hợp là cần thiết để
đảm bảo hoạt động ổn định của các ngân hàng toàn cầu lớn và giúp họ tránh
được các khó khăn trong tương lai.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ PHÂN BỔ VỐN VÀ RỦI RO TỐT
NHƯ THẾ NÀO?
Cấu trúc hiện nay của thị trường vốn quốc tế bao gồm cả những rủi ro bất ổn tài chính
mà chỉ có thể giảm bớt thông qua một cách duy nhất là sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ
quan giám sát tài chính và ngân hàng của các quốc gia. Nhưng động cơ lợi nhuận
(profit motive) chung khiến các định chế tài chính đa quốc gia đổi mới các quy định
của họ và giúp cải thiện những lợi ích quan trọng cho người tiêu dùng. Như chúng ta
đã thấy được, thị trường vốn quốc tế cho phép công dân của các quốc gia khác nhau
đa dạng hóa các danh mục đầu tư của họ thông qua kinh doanh các tài sản rủi ro. Hơn
nữa, bằng cách đảm bảo luồng thông tin quốc tế nhanh chóng về các cơ hội đầu tư
xung quanh thế giới, thị trường có thể giúp phân bổ các khoản tiết kiệm của thế giới
cho những mục đích sử dụng hiệu quả nhất của chúng. Vậy thị trường vốn quốc tế
hoạt động tốt ở những khía cạnh này như thế nào?
Mức độ đa dạng hóa danh mục đầu tư quốc tế
Một số nhà kinh tế nhận định rằng: Cần đa dạng hóa đầu tư vào các tài sản nước
ngoài, tránh việc “thiên vị nước nhà” nhằm tối ưu hóa trong đầu tư.
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng lợi ích tiềm năng từ việc đa dạng hóa là rất lớn.
Chẳng hạn, nghiên cứu có ảnh hưởng của nhà kinh tế tài chính người Pháp Bruno
Solnik đã ước tính rằng một nhà đầu tư Hoa Kỳ chỉ nắm giữ cổ phiếu Mỹ có thể giảm
hơn một nửa rủi ro trong danh mục đầu tư của mình bằng cách đa dạng hóa hơn nữa
sang cổ phiếu từ các nước châu Âu.
Bảng 9-1: Tổng tài sản nước ngoài và Nợ phải trả của các quốc gia công nghiệp được
chọn từ 1983–2011 (% GDP)
Lượng tài sản và nợ nước ngoài của các quốc gia công nghiệp có xu hướng tăng lên
trong các năm gần đây, điều này minh chứng cho xu hướng đa dạng hóa các danh mục
đầu tư nước ngoài hơn.
Toàn cầu hóa có thể tạo điều kiện cho Đa dạng hóa toàn cầu → giúp giảm được rủi ro
tập trung đầu tư vào một khu vực. Điều này mang đến lợi ích dài hạn cho các nhà đầu
tư.
Tuy nhiên, trong phạm vi mà những số liệu này đại diện cho sự đa dạng hóa rủi ro
kinh tế lớn hơn, (như trong phân tích của chúng tôi ở đầu chương này), chúng chỉ ra
một nền kinh tế thế giới ổn định hơn. Nhưng hầu hết các tài sản và nợ bên ngoài này
là các công cụ nợ, bao gồm cả các khoản nợ ngân hàng, trong một số trường hợp do
chênh lệch thuế hoặc quy định. Có khả năng chúng bao gồm cả việc vay rủi ro có hệ
thống, như khi một ngân hàng ở Vương quốc Anh vay vốn ngắn hạn để đầu tư vào
chứng khoán kém thanh khoản hơn ở nước ngoài. Vì vậy, mặc dù những dữ liệu này
cho thấy khối lượng giao dịch tài sản quốc tế đã tăng lên rất nhiều trong những thập
kỷ qua, nhưng chúng cũng nhắc nhở chúng ta rằng không có thước đo chắc chắn nào
về mức độ tối ưu về mặt xã hội của đầu tư nước ngoài.
Trong đó:
Rt là lãi suất tiền gửi nội tệ tại ngày t
Rt* là lãi suất tiền gửi ngoại tệ ngày t
Et+1e là tỷ giá hối đoái kỳ vọng của ngoại tệ/nội tệ tại ngày đáo hạn (t+1)
Et tỷ giá hối đoái của ngoại tệ/ nội tệ trên thị trường giao ngay ngày t
Phương trình trên ngụ ý một cách đơn giản để kiểm tra xem thị trường ngoại hối có
đang thực hiện tốt công việc sử dụng thông tin hiện tại để dự báo tỷ giá hối đoái hay
không.
Trong điều kiện ngang giá lãi suất, dấu ‘=’ sẽ xuất hiện
Vì chênh lệch lãi suất, Rt - Rt*, là dự báo của thị trường, nên việc so sánh sự thay đổi tỷ
giá hối đoái được dự đoán này với sự thay đổi tỷ giá hối đoái thực tế xảy ra sau đó cho
thấy kỹ năng dự báo của thị trường.
Tuy nhiên, việc sử dụng lãi suất tiền gửi để dự đoán tỷ giá giữa 2 đồng tiền trong
tương lai không phải là một cách dự đoán quá tốt. Tệ hơn nữa, như chúng ta đã lưu ý
ở đó, thông thường, sự khác biệt về lãi suất đã không thể dự đoán chính xác hướng
mà theo đó tỷ giá hối đoái giao ngay sẽ thay đổi
● Ví dụ: Hãy quay trở lại vào đầu những năm 2000. Với 100 Yên ban đầu, từ
năm 2003-2005, Lợi nhuận tích lũy gần như bằng 0. Còn đối với AU Dollar, lợi
nhuận tích lũy đã tăng hơn 25% trong 3 năm.
Lợi nhuận tích lũy của Trái phiếu đồng YEN so với Trái phiếu AU Dollars (với 100 ¥
đầu tư ban đầu)
Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, việc buôn bán chênh lệch này có thể bị san bằng bởi
sự lên giá của đồng yên => Các nhà đầu tư có xu hướng bán AUD và mua YEN =>
đẩy sự chênh lệch tỷ suất sinh lợi giữa 2 đồng tiền về 0
Tuy nhiên, các nhà đầu tư đã thực hiện giao dịch chênh lệch lãi suất (carry trade) .
Khi đó, nhà đầu tư sẽ vay đồng YEN, đổi sang đồng AUD, đầu tư vào trái phiếu AUD
=> Đẩy tỷ suất sinh lợi của trái phiếu kho bạc AUD lên cao hơn
Khi tòa nhà xây càng cao, hậu quả khi nó sụp đổ cũng càng lớn. Từ 7/2008 đến
12/2008 (giai đoạn khủng hoảng kinh tế), lợi nhuận đầu tư vào trái phiếu AUD đã
giảm từ 104¥ xuống 61¥. Điều này cũng đã gây ra một tác động lớn lên thị trường
chứng khoán, thị trường cho vay liên ngân hàng.
Kiểm định về giả thuyết thị trường sử dụng tất cả các thông tin sẵn có để thiết
lập tỷ giá hối đoái:
Giả sử rằng Et+1 là tỷ giá hối đoái thực tế vào ngày t+1
ut+1 sai số dự báo
=> Nếu thị trường đang sử dụng các thông tin có sẵn, thì tỷ giá hối đoái kỳ vọng vào
ngày t+1 sẽ được hình thành vào ngày t => Trong trường hợp này sẽ không có cách
nào để giảm thiểu sai số ut+1
Trong điều kiện ngang bằng lãi suất, giả thuyết này có thể được kiểm tra bằng cách
viết ut+1 dưới dạng giảm giá tiền tệ thực tế trừ đi chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và
ngoại tệ:
Các phương pháp thống kê có thể được sử dụng để kiểm tra liệu rằng ut+1 có thể dự
đoán được tính trung bình trên cơ sở thông tin trong quá khứ hay không. Một số nhà
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các lỗi dự báo, khi được xác định như trên, có thể dự
đoán được. Các lỗi dự báo thường xảy ra trong quá khứ sẽ có ích trong việc dự đoán ở
tương lai.
Hồ sơ thực nghiệm hỗn hợp cho thấy hai khả năng sau:
❖ Phần bù rủi ro là quan trọng trong việc xác định tỷ giá hối đoái
❖ Thị trường ngoại hối đã bỏ qua cơ hội kiếm lợi từ thông tin dễ dàng có được.
Phương án thứ hai dường như không thể xảy ra do động cơ mạnh mẽ của các nhà giao
dịch ngoại hối để kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, giải pháp thay thế đầu tiên đang chờ xác
nhận thống kê chắc chắn.
Một khả năng khác là giao dịch chênh lệch giá, là một trong những xu hướng tiền tệ
đảo ngược lớn nhưng không thường xuyên được kỳ vọng mà các kỹ thuật thống kê
tiêu chuẩn không được trang bị đầy đủ để phát hiện.
3/Thử nghiệm cho việc biến động quá mức của tỷ giá hối đoái
Một trong những phát hiện đáng lo ngại nhất là thống kê các mô hình dự báo tỷ giá
hối đoái dựa trên các biến số “cơ bản” tiêu chuẩn như : Cung tiền, thâm hụt chính phủ
và sản lượng hoạt động kém trong thực tế (chứ không phải dự đoán) khi dự báo tỷ giá
hối đoái trong tương lai.
Trong một nghiên cứu nổi tiếng, Richard A. Meese và Kenneth Rogoff (Empirical
exchange rate models of the seventies: Do they fit out of sample?) đã chỉ ra rằng một
“bước đi ngẫu nhiên” ngây thơ,mà nó sẽ chỉ đơn giản coi tỷ giá hối đoái của ngày
hôm nay là dự đoán tốt nhất cho ngày mai, sẽ hoạt động tốt hơn.
Một dòng nghiên cứu bổ sung về thị trường ngoại hối xem xét liệu tỷ giá hối đoái có
biến động quá mức hay không, có lẽ do thị trường ngoại hối “phản ứng thái quá” với
các sự kiện. Một phát hiện về sự biến động quá mức sẽ chứng minh rằng thị trường
ngoại hối đang gửi đi những tín hiệu khó hiểu cho các nhà giao dịch và nhà đầu tư,
những người đưa ra quyết định dựa trên tỷ giá hối đoái. Nhưng tỷ giá hối đoái phải
biến động như thế nào trước khi biến động của nó trở nên quá mức?
=>Tỷ giá hối đoái nên biến động, bởi vì để gửi tín hiệu giá chính xác, chúng phải di
chuyển nhanh chóng để phản ứng với các tin tức kinh tế. Tỷ giá hối đoái nói chung ít
biến động hơn so với giá cổ phiếu. Tuy nhiên, vẫn có khả năng tỷ giá hối đoái biến
động mạnh hơn so với các yếu tố cơ bản khiến chúng di chuyển - chẳng hạn như
nguồn cung tiền, sản lượng quốc gia và các biến số tài khóa. Tuy nhiên, những nỗ lực
so sánh sự biến động của tỷ giá hối đoái với những yếu tố quyết định cơ bản của
chúng đã tạo ra những kết quả không thuyết phục.
Một vấn đề cơ bản làm cơ sở cho các bài kiểm tra về sự biến động quá mức là không
thể định lượng chính xác tất cả các biến truyền tải tin tức liên quan về tương lai kinh
tế.
Ví dụ:
Làm cách nào để gắn một con số vào một âm mưu ám sát chính trị ?
Một vụ phá sản ngân hàng lớn ?
Một cuộc tấn công khủng bố?
Kết luận
Bằng chứng mơ hồ về hoạt động của thị trường ngoại hối đảm bảo một quan điểm cởi
mở. Một nhận định rằng thị trường đang hoạt động tốt sẽ hỗ trợ cho thái độ tự do kinh
doanh của các chính phủ và sự tiếp tục của xu hướng hiện tại đối với việc tăng cường
hội nhập tài chính xuyên biên giới trong thế giới công nghiệp.
Mặt khác, phán đoán về sự thất bại của thị trường có thể ngụ ý nhu cầu tăng cường
can thiệp ngoại hối của các ngân hàng trung ương và đảo ngược xu hướng toàn cầu
đối với tự do hóa tài chính bên ngoài. Rủi ro là khá cao, và cần có thêm nghiên cứu và
kinh nghiệm trước khi có thể đưa ra kết luận chắc chắn..
TỔNG KẾT
1. Lợi ích từ thương mại hàng hóa và dịch vụ cho các hàng hóa và dịch vụ khác
được mô tả bằng lý thuyết về lợi thế so sánh.
2. Lợi nhuận từ trao đổi hàng hóa và dịch vụ để lấy tài sản được mô tả bằng lý
thuyết thương mại liên thời gian.
3. Lợi nhuận từ việc trao đổi tài sản lấy tài sản được mô tả bằng lý thuyết đa dạng
hóa danh mục đầu tư.
4. Các nhà hoạch định chính sách chỉ có thể chọn 2 trong số các điều sau: tỷ giá
hối đoái cố định, chính sách tiền tệ vì mục tiêu trong nước, dòng tài sản quốc tế
tự do.
5. Một số loại ngân hàng nước ngoài kinh doanh giao dịch tiền tệ nước ngoài,
phát triển khi thương mại quốc tế phát triển và các ngân hàng cố gắng tránh các
quy định trong nước.
6. Các ngân hàng trong nước được bảo đảm bởi chính phủ từ việc có các biện
pháp như: Bảo hiểm tiền gửi, yêu cầu dự trữ, yêu cầu về vốn, hạn chế về tài sản
và kiểm tra ngân hàng. Ngân hàng trung ương cũng đóng vai trò là người cho
vay cuối cùng.
7. Khi thị trường vốn quốc tế phát triển, sự đa dạng hóa tài sản giữa các quốc gia
đã tăng lên và sự khác biệt giữa lãi suất đối với tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội
tệ trong một quốc gia đã giảm xuống.
8. Nếu tài sản trong nước và nước ngoài là những thay thế hoàn hảo, thì lãi suất
trên thị trường vốn quốc tế không dự đoán tốt những thay đổi của tỷ giá hối
đoái.
9. Sự biến động trong tỷ giá hối đoái sẽ gửi tín hiệu phù hợp để phản ứng lại các
tin tức về tương lai kinh tế.
MINICASE
Đây là kết quả ấn tượng trong bối cảnh nền kinh tế trong nước cũng như thế giới chịu
tác động tiêu cực của dịch Covid-19 và sự đứt gãy thương mại toàn cầu.
2. Thao túng tiền tệ là gì? 3 tiêu chí xác định “ngưỡng cáo buộc” của thao túng
tiền tệ?
a) Thao túng tiền tệ:
Thuật ngữ "thao túng tiền tệ" được Bộ Tài chính Mỹ định nghĩa là hành động của
một quốc gia cố ý điều chỉnh tỷ giá để tác động đến cán cân thanh toán hoặc đạt được
lợi thế cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế.
b) Tiêu chí xác định “ngưỡng cáo buộc” của thao túng tiền tệ:
Tại Đạo luật xúc tiến và tăng cường thương mại 2015 của Hoa Kỳ, một quốc gia được
xem là thao túng tiền tệ khi đáp ứng đủ các tiêu chí sau:
- Thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ ít nhất 20 tỷ đô la mỹ
Giải thích rõ hơn thì điều kiện này được hiểu là nếu nước A bán sang
Mỹ với số lượng hàng hóa có giá trị là 40 tỷ trong khi đó nước Mỹ xuất
khẩu sang nước A với lượng hàng hóa chỉ 20 tỷ khi đó nước A được
xem là thặng dư song phương với Mỹ 20 tỷ đô la
- Thặng dư cán cân vãng lai tương đương ít nhất 2% GDP
Trong cán cân thanh toán quốc tế:
Tài khoản vãng lai = Tổng hoạt động xuất nhập khẩu về hàng hóa
dịch vụ + Thu nhập từ đầu tư nước ngoài
Ví dụ: nước A có tổng GDP là 300 tỷ đô la mỹ nếu thặng dư tài khoản
vãng lai so với Mỹ là 6 tỷ đô la mỹ thì nước A được liệt kê vào trường
hợp kể trên
- Can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ.
Thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng trên giai đoạn
12 tháng với tổng ngoại tệ mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong
giai đoạn 12 tháng, đây là hoạt động của ngân hàng Trung ương nhằm
điều chỉnh tỷ giá đồng tiền trong nước với nước ngoài.
Giả sử trong 12 tháng liền kề trước nước A có GDP là 300 tỷ đô, trong
liên tục 12 tháng đó ngân hàng trung ương nước A thực hiện mua đô la
Mỹ nhiều hơn bán đô la mỹ trong 6 tháng, với số lượng đô la Mỹ mua
vào lớn hơn số lượng bán ra là 6 tỷ đô la mỹ thì nước A được liệt kê vào
trường hợp kể trên
=> Như vậy khi đáp ứng đủ ba điều kiện kể trên thì một quốc gia sẽ bị Mỹ đưa vào
danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ
3. Việt Nam bị Mỹ gắn mác thao túng tiền tệ (2020). Lí do?
Theo Ts. Nguyễn Xuân Hải: khái niệm “quốc gia thao túng tiền tệ” là một sản phẩm
đặc trưng độc đáo của Mỹ, duy nhất được Mỹ thể chế hóa thành một nội dung trong
luật Cạnh tranh và thương mại quốc tế Omnibus năm 1988”.
Kể từ khi Đạo luật được ban hành năm 1988, Mỹ đã chỉ định các quốc gia sau đây là
thao túng tiền tệ như: Hàn Quốc vào năm 1988, Đài Loan vào năm 1988 và một lần
nữa vào năm 1992, và Trung Quốc từ năm 1992 đến năm 1994. Ấn Độ được thêm vào
danh sách năm 2017. Vào tháng 5/2019, Bộ Tài chính Mỹ đã loại Ấn Độ và Thụy Sĩ
khỏi danh sách giám sát tiền tệ của mình nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đức, Ý, Ireland, Singapore, Malaysia và Việt Nam vẫn nằm trong danh sách này. Như
đã trình bày ở trên về bộ ba tiêu chí xác định “quốc gia thao túng tiền tệ” của Mỹ,
chúng ta sẽ phân tích lần lượt các tiêu chí trên tình hình thực tế mối quan hệ thương
mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ.
● Đối với tiêu chí: Thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ ít
nhất 20 tỷ USD.
Dựa vào biểu đồ ở trên (với các số liệu được công bố bởi Tổng cục Thống kê và Tổng
cục Hải quan), trong 5 năm từ 2016 đến 2020, Việt Nam chúng ta liên tục đạt được lợi
thế trong thương mại với giá trị xuất siêu tăng dần qua các năm và đều vượt trên mức
20 tỷ USD của Mỹ đặt ra.
● Đối với tiêu chí: Thặng dư cán cân vãng lai tương đương ít nhất 2% GDP.
Thặng dư hàng hóa và cán cân vãng lai giữa Mỹ và các nước
Nguồn: Bộ Tài chính Hoa Kỳ, 2019, 2020, 2021, 2022a , 2022b
● Đối với tiêu chí: Can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ.
Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19 từ năm 2020, nhưng dự trữ ngoại
hối của Việt Nam vẫn liên tục tăng lên với mức tăng khá lớn. Kết thúc năm 2017, dự
trữ ngoại hối của nước ta mới ở mức 51,5 tỉ USD. Tuy nhiên, đến tháng 1-2020, dự trữ
ngoại hối đạt gần 80 tỉ USD và đến nay ở mức 92 tỉ USD. Như vậy trong vòng chưa
đầy ba năm, Ngân hàng Nhà nước đã mua thêm được 40,5 tỉ USD để tăng dự trữ ngoại
hối. Nếu đạt con số 100 tỉ USD vào cuối năm nay thì dự trữ ngoại hối đã tăng gần gấp
đôi sau 3 năm.
Theo ước tính của Tổng cục Hải quan, cán cân thương mại tháng 8/2020 thặng dư
khoảng 2,5 tỉ USD và lũy kế 8 tháng thặng dư 10,93 tỉ USD. Chính nguồn cung ngoại
tệ dồi dào đã giúp Ngân hàng Nhà nước liên tục mua vào lượng lớn ngoại tệ trong suốt
những tháng đầu năm.
Như vậy, với việc liên tục gia tăng bằng việc mua ròng ngoại tệ trong nhiều tháng và
những lý do được trình bày ở trên, Mỹ đã cáo buộc Việt Nam là quốc gia “thao túng
tiền tệ”.
● Lo ngại về dòng FDI chuyển hướng khỏi Việt Nam. Mỹ sẽ tăng thuế đối với
hàng hóa sản xuất tại Việt Nam. Khi các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị
đánh thuế do các lệnh trừng phạt, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ di dời dây
chuyền sản xuất ra khỏi lãnh thổ VN. Hệ quả là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ
gặp phải những trở ngại khi quyết định đầu tư hay không đầu tư vào Việt Nam.
● Mỹ sẽ thiết lập những tiêu chuẩn gắt gao về vệ sinh, an toàn, môi trường, thậm
chí là tiêu chuẩn lao động của doanh nghiệp xuất khẩu VN
● Khi bị các nước tẩy chay hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, dẫn đến hàng hóa xuất
khẩu dần thấp hơn hàng hóa nhập khẩu, ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch
xuất nhập khẩu của các nước tham gia, giá trị hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu
sẽ giảm sút nghiêm trọng. Khi giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu giảm mạnh,
hàng hóa sản xuất trong nước bị dư thừa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, tình trạng
thất nghiệp của người lao động gia tăng. Đối với hàng nhập khẩu do bị áp thuế
cao dẫn đến giá hàng hóa gia tăng, tình trạng lạm phát gia tăng.
b) Ảnh hưởng của VN trong mối quan hệ với Quốc tế:
● Bị cô lập với phần còn lại của thế giới bởi những lệnh trường phạt kinh tế của
những nước có sức mạnh kinh tế, có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới.
● Những xung đột về lợi ích thương mại sẽ khiến cho các nước tham gia dễ dẫn
đến xung đột về mặt chính trị, tranh giành ảnh hưởng địa chính trị trên thế giới.
Về mặt ngoại giao, do ảnh hưởng chủ nghĩa dân tộc trong kinh tế thương mại
chi phối, niềm tin lẫn nhau bị xói mòn, hoạt động ngoại giao bị lạnh nhạt.
=> Nhìn chung, ảnh hưởng của Việt Nam trong quan hệ quốc tế khi bị cáo buộc
thao túng tiền tệ sẽ phụ thuộc vào cách Việt Nam phản ứng trước các cáo buộc và
cách các quốc gia khác nhìn nhận hành động của mình.
c) Bổ sung:
Mục đích của áp lệnh trừng phạt: Bảo hộ mậu dịch với mục đích bảo vệ các
ngành sản xuất trong nước, giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong
nước… Bảo hộ mậu dịch có hai hình thức: thuế quan và phi thuế quan. Bảo hộ
mậu dịch xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và sẵn sàng can thiệp vào mậu
dịch tự do. Nhiều nước lớn sẵn sàng đi ngược lại với những quy định của WTO
để trả đũa lẫn nhau
5. Vậy Việt Nam có thực sự thao túng tiền tệ không? Tại sao?
Ở vòng kiểm duyệt đầu tiên, Mỹ sẽ xem xét các đối tác thương mại chính có tổng kim
ngạch thương mại hàng hóa song phương trên 40 tỷ USD (thay cho tiêu chí cũ là xem
xét 12 đối tác thương mại lớn nhất).
Ở vòng thứ hai, Mỹ vẫn đưa ra 3 tiêu chí (ngưỡng) đánh giá khả năng một quốc gia
thao túng tiền tệ, cụ thể: Có thặng dư thương mại song phương với Mỹ trên 20 tỷ
USD; thặng dư cán cân tài khoản vãng lai tương đương 2% GDP (trước đây là 3%)
và can thiệp 1 chiều (mua hoặc bán ròng) và kéo dài trên thị trường ngoại tệ trong
liên tục 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng, với tổng lượng mua ròng trên 2% GDP.
Đối với Việt Nam, trong các báo cáo bán niên (từ tháng 5/2019 đến tháng 6/2020),
Việt Nam đã 2 lần bị Bộ Tài chính Mỹ đưa vào danh sách giám sát.
Đến ngày 16/12(tại báo cáo tháng 12/2020 cho đợt rà soát từ tháng 7/2019 đến tháng
6/2020), Bộ Tài chính Mỹ đã xác định Việt Nam là nước thao túng tiền tệ bởi cho rằng
Việt Nam đã đạt và vượt ngưỡng cả 3 tiêu chí nêu trên.
Thứ hai, “thao túng tiền tệ” chỉ có lợi cho xuất khẩu
VND giảm giá không hỗ trợ nhiều cho xuất khẩu do đặc thù cơ cấu nền kinh tế Việt
Nam. Đó là xuất khẩu nhiều thì cũng đồng nghĩa với nhập khẩu nhiều. Điều này là do
hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam do khối doanh nghiệp nước ngoài (FDI) chi
phối. Khối này chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, 59% kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam giai đoạn 2017-2019.
Theo đó, để sản xuất hàng xuất khẩu, do công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu,
nên khối doanh nghiệp FDI vẫn phải nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào cho dù tỷ giá
VND được điều chỉnh tăng hay giảm.
Thứ ba, Việt Nam không can thiệp một chiều vào thị trường ngoại hối.
Cần khẳng định, hoạt động mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thời gian
qua về mặt bản chất là quá trình chuyển đổi ngoại tệ sang tiền VND từ các nhà đầu tư,
xuất khẩu và người nhận kiều hối, để bảo đảm người có ngoại tệ không dùng ngoại tệ
làm phương tiện thanh toán trong nước. Hoạt động này theo đúng quy định của pháp
luật Việt Nam, cũng phù hợp thông lệ như nhiều nước khác.
Đồng thời, việc NHNN mua ngoại tệ còn nhằm bảo đảm hoạt động thông suốt của thị
trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô, đồng thời củng cố dự trữ ngoại hối Nhà nước vốn ở mức thấp (hiện chỉ đáp ứng
khoảng 3,5 tháng nhập khẩu) so với các nước trong khu vực, cũng như thấp so với các
khuyến cáo và thông lệ chung trên thế giới về mức dự trữ ngoại hối so với chi phí cho
số tuần nhập khẩu của Việt Nam, để tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc gia.
Theo IMF, dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối năm 2019 chỉ ở mức tương đương 3,5
tháng nhập khẩu (cao hơn một chút so với mức khuyến nghị tối thiểu 3 tháng nhập
khẩu của IMF), thấp hơn nhiều so với mức 5 tháng nhập khẩu của Singapore, 8 tháng
của Philippines, Hàn Quốc hay 9 tháng của Thái Lan và 14 tháng của Trung Quốc. Từ
góc độ kiểm soát khủng hoảng, việc tăng tích trữ ngoại hối thông qua hoạt động thu
mua USD là một động thái phòng ngừa khủng hoảng điển hình trong điều hành chính
sách tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào.
Việc cho rằng Việt Nam đã mua ngoại hối nhằm định ra giá trị tiền đồng dưới giá trị
thật cũng không có căn cứ thực tế, nhìn từ góc độ mức ngang giá tiền tệ của VND so
với USD. Vì tất cả tiền tệ các nước trên thế giới hiện nay đều là tiền giấy, không còn
bản vị vàng, nên mức ngang giá tiền tệ này phụ thuộc chủ yếu vào mức chênh lệch
lạm phát giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, lạm phát bình quân
của Việt Nam là 4% trong khi lạm phát của Hoa Kỳ chưa đến 2%, việc tiền đồng mất
giá 1 - 1,5% là bình thường. Nói cách khác, việc NHNN mua vào ngoại tệ suy cho
cùng là thực hiện chức năng chuyển hoá các đồng ngoại tệ để giúp người dân tại lãnh
thổ Việt Nam có thể dùng tiền đồng, tức việc mua vào này là bắt buộc. Hơn nữa, Việt
Nam không chỉ mua vào ngoại tệ một chiều như cáo buộc, mà trên thực tế, khi cung
cầu ngoại tệ thuận lợi, NHNN chỉ mua vào nếu thị trường dư ngoại tệ; đồng thời,
NHNN cũng luôn chủ động bán ra để ổn định tỷ giá VND/USD và trạng thái kinh tế vĩ
mô.
Hơn nữa, thặng dư cán cân vãng lai (bao gồm cán cân thương mại và các khoản
chuyển tiền, nhất là kiều hối) ở Việt Nam thường chủ yếu do nhận kiều hối từ nước
ngoài về. Đây là những khoản người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về để trợ cấp cho
người thân trong nước. Kiều hối chảy về là yếu tố khách quan, không phải vì tỷ giá
cao hay thấp. Hơn nữa, Việt Nam đã nhiều năm nay hạ mức gửi tiền USD của cả cá
nhân và tổ chức, doanh nghiệp bằng 0%, nên tỷ giá không phải là yếu tố làm cán cân
vãng lai thặng dư vượt quá tiêu chí của Hoa Kỳ quy định là 2% GDP. Nếu loại trừ
kiều hối chuyển về hàng năm, cán cân vãng lai của Việt Nam còn thâm hụt hoặc thặng
dư không lớn.
Thứ tư, thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng
lai là kết quả của hàng loạt yếu tố liên quan tới các đặc thù của nền kinh tế Việt
Nam.
Xuất siêu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ là do tương quan cơ cấu kinh tế đặc thù giữa
hai nước và Việt Nam đã khai thác thành công khoảng trống trong nhu cầu tiêu dùng
của người dân Hoa Kỳ để đẩy mạnh xuất khẩu, ngày càng gia tăng khả năng đáp ứng
cho thị trường tiêu thụ của Hoa Kỳ mà thôi.
Dữ liệu của Bộ Tài chính Hoa Kỳ cho thấy, thặng dư thương mại của Việt Nam với
Hoa Kỳ đã tăng mạnh trong 4 năm qua: Từ 38,3 tỷ USD năm 2017, tăng lên 39,4 tỷ
USD năm 2018; 55,7 tỷ USD năm 2019
Theo số liệu thống kê trong Cơ sở Thống kê dữ liệu Thương mại của Cơ quan Thống
kê Liên Hợp quốc, tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ trong năm 2017 đạt
1.784 tỷ USD ra thị trường thế giới, trong đó Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa
lớn thứ 31 của Hoa Kỳ, chiếm 0,5% trong tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa
Kỳ. Cũng theo nguồn số liệu này, trong năm 2017, Hoa Kỳ nhập khẩu hàng hóa trị giá
lên đến 2.407 tỷ USD từ tất cả đối tác thương mại, trong đó hàng hóa từ Việt Nam xếp
vị trí thứ 12, chiếm tỉ trọng 2% trong tổng trị giá nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, theo Thương vụ Việt Nam
tại Hoa Kỳ, kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết vào năm
2000, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Nếu trước đây,
Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ các nhóm hàng như: Dệt may, da giày… thì
nay đã có thêm nhóm hàng nông - thủy - hải sản. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn có nhu
cầu nhập khẩu những mặt hàng mà Hoa Kỳ có nguồn cung dồi dào như: Các loại máy
móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị hàng không, viễn thông và nông sản nguyên
liệu… Như vậy, rõ ràng cơ cấu kinh tế của hai nước là bổ sung cho nhau, chứ không
cạnh tranh trực tiếp, nên các dòng hàng xuất - nhập giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mang
tính thị trường cao.
Cơ cấu xuất - nhập khẩu hàng hóa của VN đối với Mỹ năm 2018
Lê Quốc Chí
Huỳnh Khánh My