You are on page 1of 5

Khôi phục kinh tế và bước đầu củng cố miền Bắc (1954-1960)

Miền Bắc bắt tay vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn:
+ Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nghiêm trọng. Ruộng đất bỏ
hoang nhiều, phần lớn chỉ là cày cấy một vụ.
+ Thiên tai liên tiếp xảy ra. Hàng trăm ngàn người vô gia cư, thất nghiệp, đói kém thiếu thốn.
+ Các bệnh tật, tệ nạn xã hội hoành hành.
+ Phần lớn xí nghiệp ngưng hoạt động, hàng hóa khan hiếm.
+ Đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật chỉ có 30 người sau chiến tranh.
+ Thực dân Pháp khi rút quân khỏi miền Bắc theo điều khoản của Hiệp định Geneva đã có nhiều
hành động vi phạm một cách trắng trợn: Phá hủy, vơ vét, tháo dỡ máy móc, vật tư, thiết bị hòng
làm cho sản xuất miền Bắc đình trệ, gây khó khăn cho ta trong việc trao trả tù binh và tù chính trị,
tìm cách bắt lính, dụ dỗ và cưỡng bức đồng bào ta di cư vào Nam...
Trong bối cảnh như thế, nhiệm vụ cấp bách trước mắt của miền Bắc là tiếp quản những vùng mới
giải phóng theo quy định của Hiệp định Geneva. Việc tiếp quản đã diễn ra bước đầu thuận lợi do
được nhân dân đồng tình ủng hộ và có sự chuẩn bị chu đáo nên giữ được trật tự xã hội và sinh
hoạt hằng ngày.
Sau kháng chiến chống Pháp, phong trào cải cách ruộng đất tiếp tục được thực hiện trên phạm vi
toàn miền Bắc. Nhờ thực hiện việc này một cách ráo riết và mạnh mẽ, chế độ chiếm hữu ruộng
đất phong kiến ở miền Bắc nước ta đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. 9 triệu người trong hơn 2 triệu
hộ nông dân lao động đã được chia hơn 810000 ha ruộng đất. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện cải cách ruộng đất, ta đã phạm phải những sai lầm nghiệm trọng, phổ biến và kéo dài. Tháng
4/1956, Đảng đã phát hiện sai lầm của phong trào này và có chỉ thị sửa chữa những sai lầm đó.
Tháng 8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nông thôn và cán bộ khẳng định
cải cách ruộng đất thắng lợi to lớn những đã mắc phải những khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng.
Người kêu gọi nhân dân và cán bộ phát huy những thắng lợi và khắc phục, sửa chữa những sai
lầm.
Hội nghị lần thứ 10 (tháng 10/1956) và sau này là Hội nghị lần thứ 14 (tháng 11/1958) của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích và chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Cải cách
ruộng đất ở miền Bắc:
a. Vi phạm đường lối giai cấp ở nông thôn: xâm phạm lợi ích trung nông, không liên hiệp phú
nông, không phân biệt đối đãi các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến.
b. Cường điệu việc trấn áp phản cách mạng.
c. Không dựa vào tổ chức cũ, không giao cho tổ chức Đảng địa phương lãnh đạo cải cách
ruộng đất, mắc chủ nghĩa thành phần và khuynh hướng trừng phạt.
d. Lạm dụng các biện pháp phát động quần chúng, nặng đấu tố nhẹ giáo dục, không kết hợp
biện pháp hành chính với phát động quần chúng. Sai lầm nghiêm trọng nhất là trong việc chỉnh
đốn tổ chức.
Nguồn gốc của những sai lầm là do không nắm vững những biến đổi ở nông thôn miền Bắc sau
Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, rập khuôn một cách máy móc kinh
nghiệm của nước ngoài. Sau này, khi tổng kết một số vấn đề lịch sử của Đảng thời kỳ 1954-1975,
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII cho rằng “Căn cứ tình hình thực tế nông
thôn miền Bắc nước ta sau năm 1954… thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là không
cần thiết”.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng ta một mặt
sửa chữa những sai lầm, mặt khác có những biện pháp củng cố và phát huy thắng lợi, đẩy mạnh
cuộc vận động tổ đổi công, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, đưa nông thôn miền Bắc
tiến lên. Công tác sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất có những kết quả tốt. Nhiệm vụ khôi
phục kinh tế cơ bản hoàn thành. Năm 1957 miền Bắc được mùa lớn, nạn đói bị đẩy lùi, lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Chính phủ được khôi phục. Khối liên minh công nông được củng
cố. Nông thôn ổn định. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 12/1957) khẳng định sự
thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn
mới.
* Nghị quyết 16 và phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa
Tháng 11/1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp bàn chủ
trương phát triển kinh tế-văn hóa trong kế hoạch 3 năm 1958-1960 và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh.
Trong xu thế tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tháng 4/1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa II đã họp bàn, thảo luận và thông qua hai nghị quyết quan trọng:
Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh.
+ Về nông nghiệp, nông thôn: trên đà chuyển biến mới của tình hình, chuẩn bị về mọi mặt
đường lối, chính sách, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kế hoạch để phát triển tổ đổi công và hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp một cách tích cực và vững chắc, chuẩn bị tiến tới cao trào cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nông thôn. Ba nguyên tắc trong xây dựng hợp tác xã: tự nguyện, cùng có lợi và
quản lý dân chủ.
+ Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh: Hội nghị 16 nhận
định: miền Bắc tiền hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trong lúc đã có Nhà nước
dân chủ nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên nền tảng liên minh công công vững
chắc, có lực lượng kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh. Giai cấp tư sản ở miền Bắc vốn vừa
và nhỏ, là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong cách mạng có khả năng tiếp thu chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, Đảng chủ trương cải tạo hòa bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.
-> Chủ trương đưa xí nghiệp tư bản tư doanh từ hình thức thấp lên hình thức cao của chủ nghĩa tư
bản nhà nước, chủ yếu là hình thức công tư hợp doanh, chuyển chế độ chiếm hữu tư bản chủ
nghĩa thành chế độ sở hữu của toàn dân. Điểm mấu chốt trong chính sách này là chuộc lại tư liệu
sản xuất, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao
động.
Ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Hiến pháp mới nêu rõ: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải
tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện phong trào hợp tác hóa nông nghiệp 1959 – 1960 đã mắc các khuyết
điểm nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi, không nắm vững phương châm tốt,
vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý hợp tác xã thích hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
- Tháng 9/1960, 100% số doanh nghiệp tư bản tư nhân thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành
xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác hoặc hợp tác xã thủ công nghiệp.
- Tháng 10/1960, gần 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã thủ
công nghiệp bậc vừa và thấp.
- Cuối năm 1960, đã có 60% tổng số người buôn bán nhỏ tham gia hợp tác xã hoặc tổ mua bán.
-> Thắng lợi của kế hoạch 3 năm 1958-1960 về cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển
biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, trở
thành hậu phương ổn định, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng miền Nam.
* Đại hội lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960)
- Từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô
Hà Nội. Có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên
trong cả nước về dự.
- Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh đã đọc lời khai mạc, nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
- Đồng chí Lê Duẩn đã trình bày Báo cáo chính trị tại Đại hội, trong đó có các nội dung chủ yếu
sau:
+ Khẳng định nhiệm vụ cách mạng của cả nước là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và của từng miền là giải phóng miền Nam, đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Đối với cách mạng miền Nam, đó là một quá trình lâu dài, gian khổ, không phải giản đơn mà
rất phức tạp kết hợp nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt từ thấp đến cao, hợp pháp và không hợp
pháp và lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng làm cơ sở.
+ Đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội xác định đường lối chung của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước
nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng
cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở
miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á
và trên thế giới.
-> Phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để
thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về
tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
-> Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
+ Đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1951-1965), ra sức phấn
đấu thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc.
+ Về đối ngoại, ra sức góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong phong trào cộng sản
quốc tế, duy trì và củng cố hòa bình ở Đông Nam Á, góp phần tăng cường phong trào độc lập dân
tộc và củng cố hệ thống xã hội chủ nghĩa.
+ Về sự lãnh đạo của Đảng, có 8 bài học được đúc rút trong 30 năm kể từ Đảng thành lập: xây
dựng Đảng Marx-Lenin, có đường lối đúng, liên minh công nông, mặt trận thống nhất, kết hợp
các hình thức đấu tranh, tăng cường Nhà nước của dân, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù,
đoàn kết quốc tế.
-> Đoàn kết, nhất trí trong Đảng là điều kiện cơ bản đoàn kết toàn dân.
- Báo cáo về xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng nêu rõ nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà: nâng cao trình độ lý
luận và tư tưởng trong Đảng; mở rộng dân chủ và tăng cường tập trung trong sinh hoạt Đảng;
thấu suốt đường lối quần chúng của Đảng; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở
phê bình và tự phê bình; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, đồng thời cử ra Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên
chính thức. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.
* Đẩy mạnh xây dựng miền Bắc 1960-1965:
- Trung ương Đảng đã tiến hành họp một số cuộc hội nghị bàn giải pháp xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật và củng cố xây dựng miền Bắc về mọi mặt.
- Tháng 01/1961, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III thông qua những
nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1961, tập trung vào việc củng cố và phát triển hợp
tác xã nông nghiệp. Tháng 07/1961, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ năm chủ trương đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết vấn đề lương thực là chính, đẩy mạnh chăn
nuôi, thả cá, nghề phụ.
- Tháng 02/1961, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc chính huấn mùa Xuân năm 1961. Nhiều
trường hợp điển hình tiên tiến, là lá cờ đầu trong thi đua sản xuất, học tập như nhà máy cơ khí
Duyên Hải (Hải Phòng), hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), phong trào thi đua Ba nhất trong
quân đội, phong trào Hai tốt trong ngành giáo dục đi đầu là Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà
Nam).
- Tháng 11/1961, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến
kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc. Đến năm 1965, 88,8% số
hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng
suất thấp, tự cấp tự túc, nông nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, giải quyết một
phần nhu cầu lương thực thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp… Tuy nhiên, việc xây dựng
quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất nông nghiệp còn có nhiều yếu kém, trình độ quản lý của cán
bộ còn non kém…
- Từ năm 1961 đến 1965, miền Bắc đã thực hiện được một bước đáng kể kế hoạch xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật
liệu xây dựng… hình thành và phát triển nhanh.
- Tháng 12/1964, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 10 bàn về
thương nghiệp và giá cả. Hội nghị đã bổ sung hai điểm quan trọng vào đường lối cách mạng
XHCN:
a) Trong điều kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, lực lượng sản xuất chưa phát triển,
sản phẩm xã hội chưa dồi dào, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa ở miền Bắc nước ta là
một tất yếu khách quan;
b) Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, lấy cách mạng kỹ thuật làm then chốt.
- Kế hoạch 5 năm xây dựng miền Bắc cũng thu được nhiều thành tựu trên tất cả các mặt văn hóa
– xã hội, quốc phòng – an ninh, hoạt động đối ngoại. Nhiệm vụ xây dựng CNXH trên miền Bắc,
đấu tranh giải phóng miền Nam và đoàn kết quốc tế đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng Đảng,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.  Đến cuối năm 1964, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã giành
được những thắng lợi quan trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của cả nước.

You might also like