You are on page 1of 28

MỤC LỤC

1. Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội - Nội dung đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc – Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc...............1
2. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng..............5
3. Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới. Nội dung đường lối đổi mới được Đại hội VI
thông qua....................................................................................................................................................8
4. Chứng minh Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước? Đưa phong trào yêu nước vào có làm ảnh hưởng đến bản chất giai
cấp công nhân không, vì sao?.................................................................................................................10
5. Đường lối kháng chiến chống Pháp? Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Pháp?........................14
6. Cách mạng tháng 8 là kết quả của quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng? Phê phán quan điểm
cho rằng CMT8 là một sự ăn may?........................................................................................................17
7. Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.............................................25
8. Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung đường lối chung
cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua.....................................................................................26
9. ĐCS VN ra đời là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng VN................................................27

1. Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội - Nội dung
đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc – Thành tựu xây dựng chủ nghĩa
xã hội miền Bắc.

1.1. Đặc điểm:

Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có những đặc điểm riêng nên không thể rập
khuôn một cách máy móc những nhiệm vụ được quy định ở những nước đã qua chủ
nghĩa tư bản. Nếu như nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ ở các nước XHCN đã qua chủ
nghĩa tư bản phát triển là cải biến những cơ sở của chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã
hội, thì ở nước ta đồng thời với việc cải biến những cơ sở hiện có thành những cơ sở của
CNXH, lại phải chuẩn bị tiền đề vật chất cần thiết cho sự phát triển của CNXH. Như
Lênin đã nói: " Một nước càng lạc hậu mà lại phải- do những bước ngoắt ngoéo của lịch
sử - bắt đầu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước đó càng gặp khó khăn"
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến
nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo
và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong
điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh
lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng
toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại
các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩaHồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính
chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó
khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là:

Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các
tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.

Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.

1.2. Nội dung:

a) 1954-1964

Đường lối CMXHCN ở miền Bắc được Đại hội III của Đảng đề ra với nội dung:
“Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao
động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước XHCN anh em
do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH,
xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường
phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở ĐNA và thế giới”.

Để thực hiện được mục tiêu trên, Đại hội đã nêu lên những biện pháp cơ bản: “Sử
dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để
thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh
cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước XHCN
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”. Công nghiệp hóa
XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với nhiệm vụ: “lấy
xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN,
xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, đồng thời hoàn thành cải tạo
XHCN, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế XHCN”.

b) 1965 - 1975

Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1973) đã thông
qua kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế hai năm (1973-1974). Nhiệm vụ của hai năm
đó là:

1- Đưa mức sản xuất của từng ngành kinh tế, từng đơn vị kinh tế lên bằng hoặc
cao hơn mức sản xuất đạt được năm 1965 và năm 1971. Phấn đấu để tăng nhanh tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đủ cho quỹ tiêu dùng xã hội.

2- Củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả hai
khu vực quốc doanh và tập thể, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh
tế và xã hội;

3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý từ Trung ương đến cơ
sở, giải quyết tốt các vấn đề trước mắt, đồng thời chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài phát triển
kinh tế và văn hoá;

4- Bảo đảm đầy đủ các yêu cầu tăng viện cho cách mạng miền Nam.

1.3. Thành tựu:

Đã xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Đến
năm 1975, trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố định đã thuộc về kinh tế xã
hội chủ nghĩa, tăng 5,1 lần so với năm 1955. Trong công nghiệp, đã có những cơ sở đầu
tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như: điện, than, cơ khí, hoá chất, luyện
kim… Một số ngành công nghiệp nhẹ đã được xây dựng.

Trong nông nghiệp, nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu
cho hàng chục vạn héc-ta đất canh tác. Quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được trang
bị máy móc nhỏ. Đã có những cố gắng bước đầu trong việc áp dụng một số thành tựu
mới về khoa học – kỹ thuật. Những cố gắng nói trên đã tạo ra cho nông nghiệp những
chuyển biến lớn: tăng năng suất và tăng vụ, đảm bảo lương thực, thực phẩm trong chiến
tranh.

Cơ cấu xã hội – giai cấp đã có sự thay đổi lớn. Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ.
Giai cấp công nhân đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp nông dân đã
trở thành giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tập thể tư liệu sản xuất chủ yếu – ruộng đất.

Khối liên minh công nông được củng cố trên cơ sở mới. Tầng lớp trí thức xã hội
chủ nghĩa được tăng cường. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao
động bình đẳng. Các thành phần dân tộc chung sống trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân
tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong xã hội ngày càng được củng cố.

Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh Tính đến đầu năm 1975, cứ 3
người, có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình
độ trên đại học, đại học và trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với
năm 1960. Mạng lưới y tế được mở rộng. Số bác sĩ, y sĩ tăng 13,4 lần so với năm 1960.
Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung phong phú,
góp phần xây dựng cuộc sống mới và con người mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, có mặt tiếp tục phát
triển. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch
bệnh không xảy ra, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Tuy mức sống còn
thấp và có nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều vững lòng tin tưởng và tham gia tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Và còn thực hiện xuất sắc vai trò
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đóng góp sức người sức của cùng nhân dân miền
Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế đối
với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã đánh giá: “Miền Bắc đã dốc vào
chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và
đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là
pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội”.

Những tiến bộ về mặt kinh tế đã tạo điều kiện cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y
tế phát triển, So với năm 1957, năm 1960, số học sinh tăng 80%, số sinh viên tăng gấp
đôi. Các cơ sở y tế năm 1960 tăng 11 lần so với năm 1955. Đời sống văn hóa, trình độ
hiểu biết của các tầng lớp nhân dân được nâng lên.

=> Tuy nhiên, trong cải tạo, chúng ta đã mắc một số sai lầm. Đó là đồng nhất cải
tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần kinh tế cá thể. Nguyên nhân gây ra tình trạng
này là do không nắm vững các quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ, thể hiện tư tưởng chủ
quan, nóng vội. Đồng thời, thực hiên sai các nguyên tắc xây dựng hợp tác xã tự nguyện,
công bằng, dân chủ, cùng có lợi, do đó chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của xã viên trong sản xuất. Những hạn chế và sai lầm này đã được Đảng và Chính
phủ khắc phục.

2. Chứng minh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng.

- Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:

Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động.
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói
nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững
chắc cho độc lập dân tộc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Tính tất yếu của thời đại mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn
đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.

Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa đã thức tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình, đẩy
lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi
cho người lao động; tạo khả năng hiện thực cho các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội.

Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa đã đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần
của nhân dân. Từ một nước Nga nghèo nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở
thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa học,
chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng mạnh… tạo điều kiện cho
phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc lập dân tộc
góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.
Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và phong trào
cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những thất bại hoặc
thoái trào. Nhưng quan trọng hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm ra những
nguyên nhân, rút kinh nghiệm để đưa phong trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái
độ nghiêm túc, đúng mực.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên
nhân mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về
đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ
chốt; chủ nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa
bình" ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự đổ vỡ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của học
thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế
giới, bởi vì hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng vững và phát
triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế
giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội vì đó là qui luật tiến hóa của lịch sử”.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu,
chúng ta cũng còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm.

Đảng ta đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm
trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với
Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội,
với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi
mới ở nước ta trong hơn 17 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan
trọng, khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và
thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng
tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến
tới chủ nghĩa xã hội"(2).
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc
tế, muốn thay đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm thuê trở thành
người làm chủ, không có con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mọi con đường khác đều không được nhân dân ta chấp nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết,
chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn
là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

3. Làm rõ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới. Nội dung đường lối đổi mới
được Đại hội VI thông qua.

3.1. Yêu cầu:

Trước hết, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến
lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực hiện
mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là nền
tảng cho các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước
đây, thực hiện cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì sẽ dẫn đến mất phương
hướng và hỗn loạn.

Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,
vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình thực
hiện cải tổ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6, Hiến pháp
Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó không chỉ là sự tước
quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,
tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền, mà còn là sự từ bỏ
mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng,
bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở để
xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu xã
hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goóc-ba-chốp đã thực
hiện trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.

Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội
nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và công an). Đảng phải lãnh đạo
toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang. Bởi vì, nếu lực lượng vũ trang bị
trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, không
phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực
lượng vũ trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.

Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc
gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30 năm qua
đã chứng minh đó là quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều nước trên thế
giới và thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với nhân dân các nước,
lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta được các nước trân trọng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực tiễn cũng cho thấy, việc thực
hiện công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi phối và sao chép tư tưởng chính trị
từ bên ngoài, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi
mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính
trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến các lĩnh
vực khác. Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy, gần 30 năm qua
đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển. Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực
hiện một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến
100 ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản vào xã hội Xô-viết, ... Kết
cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, sự đúng đắn của quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới nước ta gần 30
năm qua.

3.2. Nội dung đổi mới:

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội
đề ra đường lối đổi mới.

- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết
cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).

- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.

- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế.

Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên
tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất
phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ
cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

4. Chứng minh Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước? Đưa phong trào yêu nước vào có làm
ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công nhân không, vì sao?

4.1. Chứng minh:


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ
thể:

- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách thức
hết sức nặng nề khi rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Dưới ách độ hộ của thực dân
Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta đã liên tiếp diễn ra theo khuynh hướng tư
tưởng phong kiến và dân chủ tư sản nhưng đều lần lượt bị thất bại. Nguyên nhân chính
của sự thất bại đó là do thiếu đường lối và một tổ chức lãnh đạo đúng đắn. Trong khi đó,
giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX do chưa được trang bị lý
luận tiên phong là chủ nghĩa Mác - Lênin nên các cuộc đấu tranh vẫn còn tự phát, chưa
trở thành phong trào độc lập. Vì vậy, đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị lâm vào cuộc khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đúng đắn. Trước tình hình đó, ngày 5 tháng 6 năm
1911, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua quá trình bôn ba đến
hàng loạt các nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng,
nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng ở trên thế giới và khi bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đó là con đường
cách mạng vô sản, từ đó Người đi đến khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ
nghĩa Lênin”. Chính vì vậy, sau khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn và trở thành người cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
vừa tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao, hoàn thiện tư tưởng cách
mạng của mình, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị những điều kiện
cho việc thành lập Đảng cộng sản ở nước ta.

Trên cơ sở nắm rõ nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân cư và trong những năm đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn lẻ tẻ, rời rạc, đang hòa chung vào trong
phong trào yêu nước của các giai cấp tầng lớp khác chứ chưa trở thành một phong trào
độc lập. Trong khi đó, chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, có vai trò cực kỳ to lớn và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống
ngoại xâm của dân tộc ta. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị nước ta thì các
phong trào yêu nước của nhân dân đã diễn ra liên tiếp và sôi nổi. Phong trào yêu nước là
yếu tố có trước phong trào công nhân và cả sự ra đời của giai cấp công nhân. Cho nên,
trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá
trước hết đến những người yêu nước, vào phong trào yêu nước và qua phong trào yêu
nước tiếp tục truyền bá vào giai cấp công nhân để giác ngộ giai cấp công nhân.

Bằng những hoạt động tích cực của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, trang bị cho
những người yêu nước, những người công nhân Việt Nam một cách nhìn mới về cái đích
cần đi tới và về vai trò, trách nhiệm của họ trước vận mệnh của đất nước và dân tộc.
Đồng thời, trên cơ sở thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể ở Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từng bước vạch ra những quan điểm
chính trị về đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc và truyền bá vào trong nước, khai
thông sự bế tắc về đường lối chính trị trong phong trào yêu nước ở nước ta đầu thế kỷ
XX. Chính vì vậy, vào những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư
tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến được với những người yêu nước
Việt Nam, thâm nhập vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân, thúc đẩy phong
trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, cụ
thể: trong phong trào yêu nước, những người yêu nước và các tổ chức yêu nước dần ngả
hẳn theo khuynh hướng tư tưởng vô sản; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thì
phát triển từ tự phát lên tự giác.

Điều đó cho thấy, lúc này, hệ tư tưởng vô sản đã hoàn toàn chiếm ưu thế trong
phong trào cách mạng Việt Nam, điều kiện để thành lập một chính đảng của giai cấp
công nhân đã hoàn toàn chín muồi và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nước ta vào
cuối năm 1929 đầu năm 1930 chính là sự phản ánh nhu cầu phát triển tất yếu của phong
trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên, một nước không thể cùng một lúc tồn
tại nhiều tổ chức cộng sản mà mục tiêu đấu tranh cơ bản là thống nhất. Vì vậy, từ ngày 6-
1 đến 7-2-1930, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, từ hiện thực lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những
năm 20 cho thấy, quá trình vận động của phong trào cách mạng Việt Nam để đi đến thành
lập Đảng cộng sản ở Việt Nam đã hòa quyện các yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là ngay từ khi thành lập với quy luật tạo dựng Đảng đã làm cho Đảng Cộng sản
Việt Nam thật sự là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của giai cấp và cả dân tộc.

4.2. Đưa phong trào yêu nước vào có làm ảnh hưởng đến bản chất giai cấp công
nhân không, vì sao?

Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình
hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người cũng đánh giá rất cao vai trò
của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố phong trào yêu nước, coi
nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là vì:

Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.

Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai
phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn
toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có trước
phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu
nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong trào công
nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chính vì vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Nó nhân lên sức mạnh của
Đảng, tạo chỗ dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân VN chứ không hề làm
biến chất giai cấp công nhân.

5. Đường lối kháng chiến chống Pháp? Ý nghĩa thắng lợi kháng chiến chống Pháp?

5.1. Đường lối:

- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng
chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi"
của đồng chí Trường Chinh (9/1947).

- Nội dung đường lối:

+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực
dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho Tổ quốc.

+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến
tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.

+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân
Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt
chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:

1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho
dân tộc.

2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân
chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng
cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.

3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.

- Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.

- Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân
làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ
người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi
người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.

- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại
giao. Trong đó:

- Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng
tự do, hoà bình.

- Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên
vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực
lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán
bộ".
- Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây
dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất
nước”.

- Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá
dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.

- Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập.

- Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có
thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ
ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

- Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ
động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ
quốc tế.

- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn
và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến
tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy
giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng
chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

5.2. Ý nghĩa:

- Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được
đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn
cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho
nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

- Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới;
cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ
trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa
trên thế giới".

6. Cách mạng tháng 8 là kết quả của quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng? Phê phán
quan điểm cho rằng CMT8 là một sự ăn may?

6.1. Sự lãnh đạo tài tình của Đảng:

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi, ngoài nguyên nhân chủ
quan thì còn có nguyên nhân khách quan. Nếu nguyên nhân khách quan (điều kiện quốc
thế thuận lợi - Phát xít Nhật đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện) đóng vai
trò quan trọng thì nguyên nhân chủ quan đóng vai quyết định đó là sự lãnh đạo của Đảng;
Đảng đã dự đoán thời cơ chính xác, chớp thời cơ kịp thời để phát động tổng khởi nghĩa
thành công. Nếu điều kiện chín muồi đã đến mà không nắm lấy thời cơ, chần chừ thì thời
cơ “ngàn năm có một” sẽ qua đi, Cách mạng Tháng Tám sẽ không thể xảy ra.

Sau khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ 01/9/1939, tại các Hội nghị Trung ương
6,7 nhất là Hội nghị Trung ương 8, Đảng Cộng sản Đông Dương đã dự đoán ngày càng
cụ thể triển vọng thắng lợi của cách mạng. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên
toàn Đông Dương. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù cụ thể trước mắt-duy nhất của nhân dân
Đông Dương. Đảng nhận định thời cơ chín mùi khi: Nhật đầu hàng Đồng minh - Đảng ta
dự tính quân Nhật sẽ thua vào mùa Thu năm 1945.

Đúng như dự đoán của Đảng, ngày 12/8/1945 Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng lực
lượng Đồng minh không điều kiện. Lúc này thời cơ cách mạng chín muồi và đây là cơ
hội “ngàn năm có một”. Bởi vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì thời cơ trong
cách mạng hay tình thế cách mạng có ba nhân tố chủ yếu.

Phân tích kỹ Cách mạng Việt Nam năm 1945, chúng ta thấy:

- Khi Nhật tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện thì thờ cơ
cách mạng mới chín mùi bởi vì lúc này đã xuất hiện đầy đủ cả ba nhân tố: (1) phát xít
Nhật, kẻ thù cụ thể, duy nhất của nhân dân Đông Dương đã đầu hàng Đồng minh không
điều kiện; (2) phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, các lực lượng trung gian ngã
về phía cách mạng, đặc biệt là sau khi Đảng chủ trương phát động phong trào “phá kho
thóc”; (3) Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

- Khi Nhật đầu hàng lực lượng Đồng Minh thì thời cơ cách mạng xuất hiện, nhưng
thời cơ này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn đó là: Khi Nhật đầu hàng lực
lượng Đồng minh (12/8), nhưng trước khi lực lượng Đồng Minh kéo vào nước ta. Dù
mang danh nghĩa là quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp vũ khí quân đội Nhật
nhưng thực chất dù chúng khác màu da, khác tiếng nói đều chung một mục đích là "Diệt
Cộng cầm Hồ" tức là "Diệt Cộng sản, bắt Hồ Chí Minh". Vì vậy, chúng ta phải giành
được chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta.

Vì vậy, khi thời cơ “ngàn năm có một” xuất hiện, ngày 13/8/1945 Trung ương
Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào lúc 23 giờ cùng
ngày, Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 14 đến ngày
15/8/1945) đã nhất trí với quyết định Tổng khởi nghĩa của Thường vụ Trung ương. Tiếp
đó Đại hội Quốc dân diễn ra tại Tân Trào, Tuyên Quang) (ngày 16/8/1945). tán thành chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh,
thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Trong thời điểm lịch sử nóng bỏng đó, mặc dù đang ốm nặng, song Hồ Chí Minh
vẫn luôn theo dõi sát tình hình và khẳng định: “đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ
qua thì không bao giờ có nữa”, và ra lời hiệu triệu: “Dù có phải thiêu cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Người viết: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc
lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lến! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào
hãy dũng cảm tiến lên!”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 đã diễn ra và giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày (từ
ngày 14 đến ngày 28/8/1945). Trong đó, thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa
quyết định.

Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay
mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố Tuyên ngôn độc lập,
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả của 15 năm chuẩn bị của
Đảng ta qua các phong trào, cao trào cách mạng: 1930-1931; 1936-1939, 1939-1945. Đặc
biệt, trong cao trào cách mạng 1939-1945, Đảng ta đã có sự chuẩn bị chu đáo về đường
lối chính trị, lực lượng cách mạng, căn cứ địa cách mạng. Đảng ta đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu từ Hội nghị ban Chấp hành Trung ương lần thứ VI (11/1939)
được bổ sung phát triển tại Hội nghị lần thứ VII (11/1940) và hoàn chỉnh tại Hội nghị lần
thứ VIII (5/1941). Đảng ta khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”. Từ tháng 5-1941 đến 8-1945, Đảng ta đã bổ sung,
phát triển đường lối kháng Nhật, cứu nước (3-1945) hay Hội nghị toàn quốc của Đảng
(13/8 đến 15/8/1945), … Thực tế cho thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945
theo đúng dự báo và sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng ta. Nếu Tổng khởi nghĩa
diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh,
chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và
khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày
2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã vào nước ta giải giáp,
tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.

- Về lực lượng cách mạng: Đảng ta chú trọng xây dựng lực lượng mạnh cả về
chính trị và lực lượng vũ trang. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta đã xây dựng
được lực lượng bán vũ trang của quần chúng và lực lượng vũ trang tập trung với 3 trung
đội cứu quốc quân. Trên cơ sở đó thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
vào ngày 22/12/1944, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đảng
ta nhấn mạnh: “Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ
hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc
tổng khởi nghĩa to lớn”.

- Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: Đảng ta đã chọn Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, … làm nơi đặt cơ quan đầu não chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo
cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

=> Như vậy CMT8 là nhờ Đảng lãnh đạo tài tình và đúng đắn.

6.2. Phê phán:

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Sự thành công đó hoàn toàn không phải là một sự ăn may như một số nhận
định sai lệch từng được đưa ra. Qua phân tích các nguyên nhân cấu thành nên sự thành
công của cách mạng Tháng Tám, có thể nhận thấy rõ sự thảnh công đó là kết quả tất yếu
xứng đáng với Đảng Cộng Sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, và thực tế lịch sử cho
thấy không có cuộc ăn may nào cả.

a) Nguyên nhân khách quan

- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù trực tiếp của
nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ thế giới đánh bại.
Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai tan Đảng ta đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân
nổi dậy tổng khởi nghĩa giành tháng lợi nhanh chóng.

- Đức đầu hàng quân đồng minh ở chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ phát xít gần như
tan rã tạo một tiền đề không nhỏ cho nhân dân ta lúc bấy giờ.

b) Nguyên nhân chủ quan

Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của
toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để
đi đến thành công của Cách mạng Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách
mạng khó khăn, gian khổ. Đó là: Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là
Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào cách
mạng (1932 - 1935); Cuộc vận động những năm 1936 - 1939, với cao trào Mặt trận Dân
chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi
tiếp chặng đường mới; Cuộc vận động những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát
triển cả lực lượng chính trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ
động nắm bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba cuộc vận
động đó, Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược. Điều đó biểu
hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:

- Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến chỗ xác định rõ
nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc.
Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không đơn
giản, Phong trào đấu tranh của quần chúng năm 1930 - 1931 nổi lên với khẩu hiệu "Đả
thực, bài phong", không chỉ chống đế quốc xâm lược mà còn đả đảo cả "Trí, phú, địa,
hào". Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-xít, Đảng thành
lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh dân tộc với đấu tranh dân chủ
để chống phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân.Đến giữa năm
1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ
giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong

Ở Việt Nam, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận cứu quốc, gọi tắt
là Việt Minh) ra đời. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba kỳ. Ngoài Công
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, còn có Quân nhân (hay binh sỹ, du kích) cứu quốc,
Thương gia cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi
đồng cứu vong... Như vậy, chiến lược cách mạng ngày càng được hoàn thiện và luôn đi
đôi với những sách lược cách mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả cai ký,
đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp - Nhật vào Mặt trận cứu quốc). Chiến lược, sách
lược đó phù hợp với yêu cầu cách mạng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được
cụ thể hoá trong Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường bí
mật và bán công khai, Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền khởi
nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành công.

- Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương.

Quyền dân tộc tự quyết là vấn đề quan trọng trong chiến lược cách mạng và trong
quan hệ quốc tế. Từ lâu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ vấn đề quyền dân tộc
tự quyết. Bởi vậy, trong Chương trình tóm tắt của Đảng năm 1930, Người đã nhân danh
Đảng Cộng sản Việt Nam công bố vấn đề này. Nhưng quyết định đó không sớm được
chấp nhận. Từ Luận cương chính trị, tháng 10-1930 cho đến Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7, tháng 11-1940, Đảng vẫn khẳng định chỉ có một Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao. Đến Hội nghị Trung
ương 8, tháng 5-1941, do Người chỉ đạo, Đảng mới quyết định thành lập ba đảng với ba
mặt trận của ba nước như trên đã nói. Với tinh thần dân tộc tự quyết, sự phát triển song
song của cách mạng ba nước Đông Dương từ đó trở đi ngày càng thu được những thành
tựu to lớn. Điều đó chứng tỏ, quyết sách chiến lược nói trên là đúng đắn và sáng suốt.

- Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với yêu cầu khách
quan của lịch sử

Khi tình thế cách mạng có sự chuyển biến mau lẹ, đối tượng cách mạng luôn thay
đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách xuất sắc
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận thức xã hội Việt Nam để đề ra các quyết
sách chiến lược đúng đắn. Từ năm 1943, bên cạnh Mặt trận Việt Minh là lực lượng nòng
cốt, Đảng còn thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát-xít và tuyên bố gia nhập Đồng
Minh quốc tế chống phát-xít. Với sách lược này, ở trong nước có thể thu hút được các lực
lượng dân chủ chống phát-xít, kể cả ấn kiều, Pháp kiều, Hoa kiều; ở ngoài nước có thể
coi Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc đều là bạn đồng minh.

- Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa.

Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng Việt Nam vừa phát
huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của ông cha, vừa vận dụng hình thức đấu
tranh chính trị của quần chúng.Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp tăng cường vơ vét lương
thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người Việt Nam chết đói, Đảng đã phát
động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị với vũ trang: mít tinh, biểu tình đòi quyền
sống, đi đôi với vũ trang phá kho thóc cứu đói, lập các căn cứ địa và các chiến khu cách
mạng, tiến hành khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng địa phương, tiến
tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.

- Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ
máu.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay, nhiều người
mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: năm 1945, cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam sẽ thành công. Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào
việc giành được chính quyền ít phải đổ máu. Đây là cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của
cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc, phát-xít. Nếu cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, sẽ bị
bọn phát-xít Nhật dập tắt; nếu nổ ra muộn hơn - khi quân Đồng Minh, trong đó có Anh,
Pháp và Tàu (Tưởng) vào, thì cũng gặp khó khăn. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời
Việt Nam nhân danh là người đứng về phía Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền
độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ,
nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền.

Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có
đường lối cách mạng đúng đắn, dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết thống nhất, nắm
đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ
thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sư lãnh đạo của
Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.

=> Tóm lại Cách mạng Tháng Tám không phải là một sự ăn may. Do chưa nhận
thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc của Cách
mạng Tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã không thấy hết vai trò lãnh đạo cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng, cuộc cách mạng này nổ ra là do có "sự
ăn may", do lúc đó ở Đông Dương có "khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng,
quân Đồng Minh chưa tới) nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi. Nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến Cách mạng Tháng Tám thành công là do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, phát huy
cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc và dũng khí đấu tranh anh
hùng, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Nói cách khác, là do Đảng ta đã biết kết hợp hài
hòa và nhuần nhuyễn tính giai cấp với tính dân tộc của cuộc cách mạng.Và những người
nói Cách mạng tháng 8 là ăn may là họ đang phủ nhận công sức, quá trính gian khổ của
Đảng, của toàn dân ta, họ chưa hiểu hết dân tộc ta phải trải qua những gian khổ gì, sự
chỉnh chủ mỉ của kế hoạch phải đánh đổi bằng máu của dân tộc mới đem lại chiến thẳng
vẻ vang như thế.Và nếu có may mắn ở đây thì đất nước ta đã may mắn sản sinh ra người
không ngại gian khó, hết lòng vì nước và dân tộc là Bác Hồ kính yêu, và may mắn có
thêm Đảng Cộng Sản luôn soi sáng, sáng suốt để dẫn lối nhân dân, và may mắn hơn là
ban cho dân tộc Việt Nam một đức tính đoàn kết bất khuất, kiên cường chống giặc để. Đó
là những may mắn giúp Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi vẻ vang.

7. Ý nghĩa thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Miền Nam.

- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc
thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954), 30 năm
chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc (tính từ năm 1858),
quét sạch quân xâm lược, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

- Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước,
mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng
chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Đã tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt
Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.

- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ
nước lâu dài về sau.

Về mặt quốc tế:

- Đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội, mở rộng địa
bàn cho chủ nghĩa xã hội.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế
quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu
dài.

- Làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ
phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.

8. Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung
đường lối chung cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua.

 Đặc điểm cả nước khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH:
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân
tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như
vậy, theo quan niệm Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có
hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến
bộ và thực trạng kinh tế - xã hội thấp kém của nước ta.
 Nội dung đường lối chung cách mạng cả nước được Đại hội IV thông qua:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ
thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa;
xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
9. ĐCS VN ra đời là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng VN.
ĐCS VN ra đời vào ngày 3/2/1930 chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và
giai cấp ở nước ta trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong những năm 20 của thế kỷ
XX. Đây là cột mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự ra
đời của Đảng đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo
kéo dài mấy thập kỷ ở nước ta.
Xét trên cơ sở lý luận, Ph.Ăngghen cho rằng, Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên
quyết để bảo đảm cho cách mạng XHCN giành thắng lợi. Giải đáp vấn đề “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “Trước hết phải có đảng cách mệnh,...”
Trên cơ sở thực tiễn, vai trò lãnh đạo của ĐCS VN đã được khẳng định trong thực tế tiến
hành cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Thực tiễn Việt Nam đã từng có thời kỳ đa
đảng. Nhưng sau hết, ĐCS VN là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và
dân tộc Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của ĐCS VN đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là
vào những bước ngoặt của lịch sử. ĐCS VN đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu
tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được
những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách
thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm
lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế,
đưa cả nước đi lên CNXH. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã
thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền
kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt;
đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. 
Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững
vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước
những khó khăn chồng chất,... một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

You might also like