You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA MÔI TRƯỜNG, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ ĐÔ THỊ

__________

BÀI TẬP LỚN

MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: Trần Bảo Hưng

Mã SV: 11201696

Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh (222)_19

GV hướng dẫn: T.S Nguyễn Hồng Sơn

Hà Nội, tháng 2 năm 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................2
NỘI DUNG..............................................................................3
I, Khái quát chung một số khái niệm trong luận điểm......3
II, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc....................4
1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là
điều kiện tiền đề của hạnh phúc, tự do.............................4
2, Hạnh phúc, tự do là điều kiện bảo vệ giữ vững độc
lập.........................................................................................6
III, Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay.................8
KẾT LUẬN............................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................13

1
LỜI MỞ ĐẦU

Trong trái tim mỗi người dân Việt Nam yêu nước chắc hẳn ai cũng thấy Tổ
quốc Việt Nam thật giản dị, thân thương, là dải đất hình chữ S, là khoảng trời, là
vùng biển đảo, biên giới thiêng liêng thấm đẫm máu của các vị tiền nhân, các
anh hùng dân tộc và các thế hệ cha anh. Chính vì vậy sáu chữ “độc lập, tự do,
hạnh phúc” đó không chỉ dừng lại ở khát vọng lưu truyền từ các thế hệ đi trước
mà còn trở thành động lực, mục đính phấn đấu của Đảng, nhà nước và toàn bộ
nhân dân không chỉ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ mà cho đến tận ngày nay giá trị của sáu chữ “độc lập, tự do, hạnh phúc” ấy
vẫn còn nguyên giá trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một vị lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân
văn hóa thế giới và là một nhà lý luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam.
Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu vận dụng chủ nghĩa Mác-
Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Tư tưởng của Người là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng
Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong toàn bộ di sản về tư
tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể
hiện rõ ràng, xuyên suốt quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng trong nước
và trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
Câu nói của Người thật mang một . nghĩa sâu sắc mà đến tận ngày nay chúng
ta vẫn cần phải hiểu, nghiên cứu và làm rõ để hiểu hơn về Người cũng như nhận
thức được công lao to lớn của Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước trong quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một đất nước hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ gữa độc lập dân tộc gắn với con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm

2
rõ luận điểm trên cũng như liên hệ với sự nghiệp cách mạng của nước ta hiện
nay.

NỘI DUNG

I, Khái quát chung một số khái niệm trong luận điểm

Độc Lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân
tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Độc
lập cũng có thể nói theo nghĩa phủ định: là tình trạng không bị điều khiển, cai trị
bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ
nghĩa đế quốc. Độc lập tập có thể giành được nho việc chống lại thực dân hóa
(phi thực dân hóa) chống lại sự chia cắt.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một
nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở loài
người, nó mang nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc
gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống.
Tự do là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một
cá nhân có thể có khả năng hành động theo đúng với ý chí nguyện vọng của
chính mình.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh độc lập ở đây chính là độc lập dân tộc, là
đưa đất nước thoát khỏi ách áp bức, đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc,
giành lại độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây
dựng nên một nhà nước mới.
Nhưng như thế chưa đủ, theo Người, nếu đất nước được độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, có nghĩa là,
nếu đất nước được độc lập, nhà nước mới được hình thành, nhưng nhà nước đó
không quan tâm đến dân chúng, không tạo ra cho dân chúng một cuộc sống tự
do, no ấm, hạnh phúc thì độc lập đó không có ý nghĩa. Do đó, sau khi giành độc
lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi
người được sung sướng, tự do. Người khẳng định: “ Yêu tổ quốc, yêu nhân dân

3
phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân
dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ Quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.”

II, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là điều kiện tiền đề của
hạnh phúc, tự do

Năm 1911, khi Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp,
nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con đường
cứu nước của các bậc tiền bối, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Suy
nghĩ lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là lật đổ,
xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc.
Trong khoảng 7 năm từ năm 1911 đến trước khi Cách mạng tháng Mười Nga
1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới,
tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân lao
động bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, tuy chưa có
được nhận thức lý tính, nhưng Người thấy rằng chỉ có đi theo con đường cách
mạng tháng 10 Nga thì mới giành độc lập dân tộc. Người nhiệt thành ủng hộ và
tuyên truyền trong cuộc cách mạng tháng Mười Nga.
Được ánh sáng của Quốc tế cộng sản soi rọi, đặc biệt của Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề giải
phóng các dân tộc thuộc địa, giải phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với luận
cương, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước,
giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc theo con đường Cách mạng vô sản.
Trên diễn đàn đại hội đoàn kết lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp (tháng 12
năm 1920), Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để
chinh phục đất nước chúng tôi, từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột
một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một
cách thê thảm. Nhà tù nhiều hơn trường học và lúc nào cũng chật ních người. Bất
kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị

4
giết mà không cần xét xử... Với một nền “công lý” ở Đông Dương như vậy, một
sự phân biệt đối xử không có những bảo đảm về quyền con người như vậy, một
kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có gì hết”. Hơn ai hết, Người ý thức rất rõ
không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu, thì “chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì
vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “
dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành kỳ được độc lập cho dân
tộc”. Độc lập dân tộc không phải điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế
giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì đó
là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Đối
với một người dân mất nước,cái quý nhất là độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân
dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc lập dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và
phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt gần 80 năm
qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn một bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước có độc lập rồi thì dân
phải được hưởng hạnh phúc, tự do vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc
lập dân tộc. Muốn có hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi
người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách
riêng và sở trường riêng của mình, chăm lo cho con người và con người có điều
kiện phát triển toàn diện. Khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập theo con
đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã
hội. Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất của
Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư
tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ
người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có

5
quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm
không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải
được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chủ nghĩa xã hội đem lại.
Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc.

2, Hạnh phúc, tự do là điều kiện bảo vệ giữ vững độc lập.

Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng
chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời
cho mong muốn chủ quan của người theo quan điểm duy tâm, không tưởng, mà
là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm duy vật phê
phán. Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Hồ Chí Minh là một vấn đề hiện
thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc
điểm Việt Nam, một nước cuối là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ
thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy
nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn
nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không
hưởng.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng,
là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội là “độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động”, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, không lao động được thì

6
nghỉ ngơi,…Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc,
ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một
cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được
ấm no và sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”, “Chủ nghĩa xã hội là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây
dựng lấy”. Nói tóm lại “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.
Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng
đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật
chất là trên cơ sở mệt nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tăng trưởng kinh tế, thu
nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể gọi là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
là cùng với việc không ngừng nâng đời sống vật chất, là không ngừng nâng cao
đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời sống tinh thần, văn
hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực
hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh, nhân tố nào biến nước Việt
Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố
gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm
nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy
nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”. Ngay khi còn phải tập
trung vao nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhìn thấu
ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa, của đời sống tinh thần. Người cho rằng, con
người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần vì đó là lẽ sinh tồn và mục đích
cuộc sống chúng ta.
Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột
người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra, nhờ đó xóa bỏ cơ
sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về
tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt
tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi
thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật
chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo
đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương
quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để
đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữ con người với con người, giữa
cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều
kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển
chủ nghĩa xã hội.
7
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự
do. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối
sống. Văn hóa là lối sống, là quyền con người là cái chân, thiện, mỹ giữa người
với người. Thống nhất với cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
rất chú trọng sức phát triển sản xuất, chú trọng chế độ sở hữu coi đó là những
nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều đặc biệt mang sắc
thái Hồ Chí Minh, đó là Người chú trọng tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo phương
diện đạo đức. Con người có hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải là
những con người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại
hạnh phúc cho con người phải là chế độ không có chủ nghĩa cá nhân, và những
gì phản văn hóa và đạo đức. Hồ Chí Minh chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là trái với
đạo đức cách mạng, là trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh
loại bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội, chế độ
xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá trị của
độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và
tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc
lập dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ
nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều
kiện phát triển và hoàn thiện.

III, Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay

Hơn 90 năm sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, 77 năm sau khi ngày Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập, sáng lập ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa và 36 năm kiên trì thực hiện đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Những thành tựu trên các lĩnh vự văn hóa, xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng đã
góp phần tạo dựng một diện mạo mới của Việt Nam, một vị thế mới của Việt
Nam trên trường quốc tế.
“Độc lập, tự do và hạnh phúc” trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử không phải
là sự ngưỡng mộ đơn thuần, mà là một hệ thống giá trị không thể thay thế được
và làm cho con người bất di bất dịch. Chính lý tưởng, lý trí và niềm tin, độc lập,
tự do, hạnh phúc được sống trên đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất đó là động lực để nhân dân ta hết lòng theo Đảng, bảo đảm thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là như vậy. Cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ cứu nước, tiếp bước chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước. Để xây dựng đất nước Việt Nam, trước hết phải “thực hiện
8
chế độ dân chủ Việt Nam Cộng hòa, đem lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Độc
lập-tự do-hạnh phúc là giá trị, mục tiêu và bước phát triển của cách mạng Việt
Nam.
Đó là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và triết lý phát triển của Việt
Nam trong thời kỳ mới. Đây là con đường giải phóng và phát triển đất nước theo
quy luật và hợp lòng dân. Sinh ra và lớn lên trong một vùng quê mất nước, từng
ngày chứng kiến cảnh khốn khó của nhân dân, Hồ Chí Minh đã hình thành ý chí
cứu nước và tinh thần quật cường của nhân dân. Tư tưởng về độc lập, tự do
không phải xuất hiện ngay lập tức mà phải trải qua một quá trình hình thành,
phát triển và hoàn thiện trong mọi giai đoạn hoạt động cách mạng của Người, sự
phát triển của Đảng, của Cách mạng Việt Nam chúng ta. Chúng tôi phấn đấu mỗi
ngày để xây dựng một đất nước giàu mạnh và nâng cao mức sống của nhân dân.
Theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện và nâng cao cả về vật chất và tinh thần, tình hình chính trị - xã hội
ổn định, quốc phòng, an ninh được đảm bảo, quan hệ ngoại giao được mở rộng.
Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được củng cố. Đất nước này
chưa bao giờ có những cơ hội, những khả năng, vị thế quốc tế như ngày nay.
Đây là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân và quân đội ta vì đã vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, kiên quyết thực hiện các bước phát triển nhanh, bền vững
đất nước trước nhiều thách thức của tình hình thế giới, là động lực quan trọng
phức tạp và khó lường.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu tổng quát như sau:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố,
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý
chí và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn dấu
đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong việc bảo vệ “nền độc lập”, ai cũng có giá trị cao cả, ai ai cũng vậy. Càng
nhìn lại những sự kiện, tôi càng trân trọng tình đoàn kết của những người thấm
nhuần lời dạy của Bác. Hiểu rõ tư tưởng của Người, Đảng ta, đất nước và nhân
dân ta đ. nhiều năm theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” một cách toàn diện, đồng thời. Nâng cao toàn diện đời sống
nhân dân nâng cao các mặt. Chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ quan trọng đó là kết hợp quyền, lợi
ích của nhà nước với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của nhân dân, của công dân như
người bác kính yêu mong muốn.

9
Đặc biệt, đứng trước đại dịch Covid-19 đã bùng phát mạnh mẽ tại Việt Nam
trong 3 năm, từ 2020 đến 2022, Đảng và nhà nước cùng nhân dân đã tập trung
kiểm soát tốt đại dịch, tiêm chủng vắc-xin cho cộng đồng và cần phát huy được
tinh thần đoàn kết dân tộc cũng như sự tương thân tương ái giữa Đảng, nhà nước
với nhân dân. Cùng nhân dân chiến đấu, ngăn chặn dịch bệnh để người dân lấy
lại cuộc sống hạnh phúc, bình yên. Thực tế, chiến đấu với dịch bệnh cũng không
khác gì chiến đấu với kẻ thù xâm lược, dịch bệnh đã mang đi sinh mạng của rất
nhiều người do một số bộ phận người dân đã không có ý thức mà vô tình gây
bùng phát dịch bệnh mạnh mẽ. Các y bác sĩ và các chiến sĩ bộ đội là những
người trực tiếp đương đầu với bệnh dịch. Họ phải rời xa gia đình, từ bỏ ước
muốn cá nhân để lên đường thực hiện công cuộc ngăn chặn, chiến đấu với dịch
bệnh không quản ngày đêm để cho người dân có thể được yên tâm sống khỏe
mạnh và hạnh phúc và tự do. Các chỉ thị được đưa ra để cho người dân không
được ra khỏi nhà, khu vực không đồng nghĩa với việc mất tự do cho nhân dân,
mà Đảng, Nhà nước làm như vậy là vì mục tiêu sức khỏe chung của cộng đồng,
dân tộc và vì mục tiêu hết đại dịch chúng ta sẽ được tự do đi lại, tự do với các
mối quan hệ xung quanh. Nhiều quỹ hỗ trợ đã được thành lập để ủng hộ, giúp đỡ
những người gặp khó khăn trong hoàn cảnh đại dịch vì mục tiêu không ai bị bỏ
lại phía sau… Với diễn biến phức tạp của đại dịch, Đảng và Chính Phủ đã luôn
kiên định với mục tiêu “đặt sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết, trước
hết”.
Hệ thống giáo dục của đất nước đang được cải thiện từng ngày, tất cả trẻ em
đều được đến trường và được hưởng một nền giáo dục văn minh hiện đại. Đây
cũng là tâm nguyện lớn nhất trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bảo vệ Tổ quốc được củng cố và ngày càng phát huy bản lĩnh yêu nước, tinh
thần bảo vệ biển, đảo. Trong khi học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, động viên
cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao, công tác xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, thường xuyên
chăm lo bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Coi đây là trách nhiệm
và tình cảm của quân đội. Thành tâm xây dựng đơn vị, kính trọng, thương yêu
cấp dưới, yên tâm giao phó, làm rõ nhiệm vụ của mình, làm cho cấp dưới nể
phục, tin cậy, học hỏi, vâng lời, cống hiến, chú bộ đội cụ Hồ để giữ vững và phát
huy phẩm chất cao đẹp. Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện tốt nhất cho dân,
vì dân, làm theo lý tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu
“ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo, nâng
cao đời sống mọi mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hành trình hơn 70 năm, kể từ khi nước

10
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ( 2-9-1945), Việt Nam đã trải qua hơn 30
năm chiến tảnh bảo vệ Tổ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến
công cuộc đổi mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển
đổi kinh tế-xã hội trong lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một nước đang phát triển,
nhưng trên hành trình tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, vẫn còn một số không nhỏ các thế lực phản động thù địch, còn có
âm mưu xâm hại đời sống trí thức của nhân dân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến độc lập, tự do của Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phải sáng suốt, cảnh giác, lên
tiếng, đấu tranh chống bị kẻ thù lợi dụng, phá hoại, ra sức bảo vệ nền độc lập.
Càng đi sâu trong dòng lịch sử, chúng ta càng thấy rõ những ý nghĩa chiến lược
nhưng hết sức thiết thực của dân tộc, quyền dân sinh, số phận, khát vọng là mục
tiêu của cuộc sống nhân dân. Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng “những lời
bất hủ”. Họ được tạo hóa ban tặng cho một số quyền bất khả xâm phạm, bao
gồm quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nói như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, càng hiểu đời người, càng có thể làm cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân tộc ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta có cơm ăn áo mặc, ai học hành
cũng chỉ là mong muốn, nguyện vọng tột cùng.

11
KẾT LUẬN

Đã 110 năm kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, với khát vọng đấu
tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Khát vọng và tầm
nhìn của Người đến giờ vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương lai, chúng ta đã ngày
càng hiểu rõ hơn về giá trị nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng, quyết
tâm và kiên trì phấn đấu thực hiện tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho
nhân dân Việt Nam mà Người đã chỉ ra để đất nước ta vững bước cùng nhân loại
tiến vào tương lai. Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Người không chỉ là thước đo giá trị
của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân
tộc và tự bảo vệ, là kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay.
Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân tộc
thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa xã hội
chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều kiện
phát triển và hoàn thiện. Hay nói theo cách của Người: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”.
Có thể nói trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử “độc lập, tự do, hạnh phúc” đã
không chỉ là khát vọng mà còn là hệ giá trị vô giá và trở thành lẽ sống, lý tưởng
phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta và nhân dân kiên định
thực hiện. Chính lý tưởng ấy, lẽ sống ấy và niềm tin được sống độc lập, tự do,
hạnh phúc trong một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất đã trở
thành động lực để cho nhân dân ta làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng

12
tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và
tiếp tục trong hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước ngày một vững mạnh hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh ( NXB Chính trị Quốc gia Sự thật )

2, Slide bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh ( TS Nguyễn Hồng Sơn )

3, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011

4, Thêm nhận thức về 6 chữ ‘Độc lập-Tự do-Hạnh phúc’ trong Quốc hiệu Việt
Nam ( https://tuoitre.vn/them-nhan-thuc-ve-6-chu-doc-lap-tu-do-hanh-phuc-
trong-quoc-hieu-viet-nam-20200901155315637.htm )

5, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/
s5L7xhQiJeKe/content/chan-ly-khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-trong-tu-
tuong-ho-chi-minh-gia-tri-ly-luan-va-dinh-huong-thuc-tien-xay-dung-dat-nuoc-
hung-cuong-phon-vinh-ha
6, https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/loi-bac-day-nam-xua/neu-nuoc-doc-lap-
ma-dan-khong-huong-hanh-phuc-tu-do-thi-doc-lap-cung-chang-co-nghia-ly-gi-
552118

13

You might also like