You are on page 1of 39

RỐI LOẠN ĂN UỐNG

I. Những thông tin cơ bản về chứng rối loạn ăn uống


1. Lịch sử của rối loạn ăn uống
Thuật ngữ rối loạn ăn uống (EDs) là tên gọi chung dành cho 2 nhóm rối loạn
khác nhau:
Biếng ăn còn gọi là anorexia nervosa (AN). Thuật ngữ AN có gốc từ Hy Lạp cổ
gồm: anorexia gồm tiền tố an- biểu thị sự “phủ định” và hậu tố orexis thể hiện sự
“ngon miệng” hay “thèm ăn”; nervosa giải thích các vấn đề thuộc thần kinh. Vì vậy, từ
gốc từ cổ, thuật ngữ này đã có nghĩa là “sự mất cảm giác ngon miệng do vấn đề thần
kinh” hay hiểu đơn giản là biếng ăn (Barlow and Durand, 2015). Thuật ngữ AN xuất
hiện từ những năm đầu thế kỉ XIII-XIV từ các nhà thờ Công giáo (Catholic), dùng
nghi lễ mà các nữ tu dùng để thanh tẩy cơ thể và tinh thần, đó chính là nhịn ăn.
Tuy nhiên, người chính thức đặt nền móng và xuất bản các bài viết nghiên cứu
y khoa trong đó đề cập thuật ngữ anorexia nervosa với đầy đủ các dấu hiệu của chứng
biến ăn là Sir. William Gull (Pamela, 2006). Ông làm việc tại Đại học Oxford, Hội Y
học Anh quốc và là Bác sĩ riêng của Nữ hoàng Victoria. Năm 1873, ông xuất bản ấn
phẩm y học có tên “Anorexia Nervosa (Apepsia Hysterica, Anorexia Hysterica).Trong
đó, ông mô tả nữ bệnh nhân A cao khoảng 1,6m, nặng chỉ 42kg trông vẻ ngoài khỏe
bình thường, nhịp tim, hơi thở, màu sắc nước tiểu không có gì khác thường, ngoại trừ
việc bệnh nhân này từ chối thức ăn từ động vật, và về sau là từ chối không ăn bất kì
thứ gì. Ông cố gắng thực hiện nhiều thủ thuật để điều trị cho nữ bệnh nhân này nhưng
đều không thành công (Pamela, 2006). Tuy nhiên điều lạ lùng là bệnh nhân này trông
thư thái, hoạt bát và sinh hoạt hoàn toàn bình thường, không thấy dấu hiệu gì của mệt
mỏi, bệnh tật. Ông viết 1 đoạn ghi chú trong đó có đề cập: “Có lẽ đây là một trạng thái
tinh thần khác lạ, vì cơ thể dường như vẫn có thể thậm chí là tập thể dục bình
thường”. Kết luận cho các trường hợp rối loạn ăn uống mà ông đã điều trị, Gull cho
rằng các dấu hiệu bệnh lý nhìn thấy ở cả nam và nữ này thuộc về các vấn đề thần kinh
trung ương, đó là các rối loạn tâm thần. Việc xác định nguyên nhân bệnh chứng này sẽ
hạn chế chọn sai hướng tiếp cận điều trị. Cũng trong năm 1873, bác sĩ Lasègue công
bố các nghiên cứu của mình về hội chứng AN. Ông quan tâm đến các biểu hiện bệnh
lý về mặt thực thể, xem xét quan hệ của di truyền với rối loạn ăn uống. Tuy các công
bố của ông có phần trái ngược quan điểm của William Gull, nhưng nhìn chung đó là
sự bổ sung thú vị cho các dữ liệu quan sát được hoàn chỉnh hơn về AN (Barlow and
Durand, 2015). Mặc dù y văn đã ghi nhận khá nhiều thông tin về chứng biếng ăn từ
cuối thế kỉ XVIII, nhưng mãi đến cả trăm năm sau, công chúng mới bắt đầu quan tâm
đến hội chứng này. Khái niệm về vẻ đẹp hình thể với sự ám ảnh về một cơ thể gầy gò
bắt đầu được nhắc đến trong giai đoạn 1960-1980. Cái chết của nghệ sĩ nổi tiếng
Karen Carpenter vào ngày 3 tháng 2 năm 1983, mà nguyên nhân được xác định là suy
tim do liên quan đến chứng biếng ăn (AN), khiến công chúng bắt đầu chú ý đến chứng
AN (Pamela, 2006). Liên tục sau đó là các nhân vật nổi tiếng như Jane Fonda và Lynn
Redgrave, họ thú nhận bị mắc chứng biếng ăn và thực hiện các chia sẻ về tình trạng
của bản thân với công chúng (Barlow and Durand, 2015).
Đến giữa những năm 80, Hội Thần kinh học Hoa Kỳ chính thức công bố các
mô tả về chứng biếng ăn trong Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm
thần (APA, 2013). Đây được xem là sự khẳng định về gốc bệnh của chứng biếng ăn là
do các rối loạn về tâm lí hơn là nguyên nhân sinh học. Ngược lại với biếng ăn, chứng
cuồng ăn với hai thể khác nhau gọi là binge nervosa (BiN) và bulimia nervosa (BuN).
Vào năm 1979, nhà thần kinh học người Anh, Gerald Russell xuất bản công
trình nghiên cứu của ông với tựa đề “Cuồng ăn: một biến thể đáng ngại của chứng rối
loạn ăn uống” (Bulimia nervosa: an ominous variant of anorexia nervosa) trên tập san
Y học Thần kinh. Trong đó, ông có miêu tả tình trạng của một bệnh nhân với nỗi ám
ảnh sẽ trở nên tròn trịa về ngoại hình. Rồi cũng chính bệnh nhân này bằng mọi cách cố
gắng thanh lọc cơ thể để rồi sau đó ăn uống một cách cuồng loạn. Gerald đánh giá tình
trạng của bệnh nhân khá gần với chứng trầm cảm, có nguy cơ tự tử cao, đây là dạng
bệnh lí nghiêm trọng (Barlow and Durand, 2015). Chỉ sau đó một năm, tức năm 1980,
chứng cuồng ăn (bulimia nervosa) được cập nhật trong Hướng dẫn chẩn đoán và
thống kê các rối loạn tâm thần - tái bản lần 3.Có thể nói, dù là chứng biếng ăn hay
chứng cuồng ăn thì các ghi chép trong y văn từ cổ đến hiện nay đều nhận định rằng
chúng là các rối loạn về tâm lý hoặc thần kinh ở một mức độ nào đó. Biểu hiện tinh
thần của những người mắc chứng rối loạn ăn uống thường là dạng ám ảnh về tiêu
chuẩn ngoại hình hoặc một đức tin tôn giáo; từ đó, họ hình thành các hành vi tiêu cực
đối với việc ăn uống như bỏ ăn hay cuồng ăn.
2. Định nghĩa:
Thuật ngữ chỉ chứng rối loạn ăn uống hiện nay được dùng rộng rãi là EDs
(Eating Disorders) hoặc có thể dùng từ cổ hơn là AN (Anorexia Nervosa).
Thử điểm qua một số định nghĩa về chứng rối loạn ăn uống như sau:
Theo Viện Sức khỏe tâm thần Hoa Kỳ: “Có một quan điểm phổ biến cho rằng
rối loạn ăn uống là một sự lựa chọn lối sống. Rối loạn ăn uống là một căn bệnh
nghiêm trọng và có thể gây tử vong mà nguyên nhân là từ những rối loạn nghiêm
trọng về hành vi ăn uống của người bệnh. Sự ám ảnh với thức ăn, trọng lượng và hình
dáng cơ thể, có thể báo hiệu triệu chứng của rối loạn ăn uống. Rối loạn ăn uống
thường gặp bao gồm chứng biếng ăn, cuồng ăn, và cuồng ăn cưỡng bức.” (The
National Institute of Mental Health, 2013).
Theo Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (tái bản lần thứ 5
của Hội Thần kinh học Hoa Kỳ) thì rối loạn ăn uống được xếp vào nhóm các rối loạn
cho ăn và ăn, được định nghĩa khái quát: “Rối loạn ăn uống đặc trưng bởi thay đổi
cách ăn hoặc hành vi ăn qua cách điều chỉnh lượng thức ăn dung nạp vào cơ thể gây ra
những ảnh hưởng rõ rệt tới sức khoẻ và tinh thần của người bệnh” (APA, 2013).
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra góc nhìn thiên về sức khỏe thể chất hơn
và phân định riêng hai khái niệm đối nghịch về rối loạn ăn uống: chứng biếng ăn và
chứng cuồng ăn. Trong Hướng dẫn phân loại và thống kê quốc tế về các rối loạn sức
khỏe và bệnh tật (tái bản lần thứ 10), mục Các rối loạn hành vi và tâm thần, WHO
định nghĩa như sau: “Biếng ăn tinh thần là dạng rối loạn đặc trưng bởi hành vi giảm
cân cố ý, do chính người bệnh tạo ra và duy trì nó”; “Chứng cuồng ăn là một hội
chứng đặc trưng bởi những cơn lặp đi lặp lại của việc ăn quá nhiều và một mối bận
tâm quá mức với sự kiểm soát trọng lượng cơ thể, khiến bệnh nhân có các biện pháp
cực đoan để giảm thiểu những tác động “vỗ béo” các thực phẩm ăn vào” (WHO,
2010).
Tuy hai định nghĩa khá khác nhau, nhưng WHO nhận định rằng hai thể rối loạn
này đều có nhiều điểm chung về các đặc điểm bệnh lý học về tâm lý. Các định nghĩa
này tuy không đồng nhất nhưng đều cố gắng khái quát một cách chi tiết và thận trọng
các dạng và dấu hiệu có thể nhận thấy sơ khởi ở người bệnh. Điểm chung nhất là sự
đề cập hành vi, trong đó thể hiện thái độ rất tiêu cực của người bệnh với thức ăn, thức
uống. Bên cạnh đó, là sự ám ảnh tiêu cực về tinh thần, hình dáng cơ thể xuất hiện
chung ở người mắc chứng rối loạn ăn uống. Từ đó dẫn đến tình trạng biếng hoặc
cuồng ăn một cách quá mức. Đây đều là nguồn gốc từ các vấn đề tâm lý hoặc thần
kinh. Các nghiên cứu cho thấy nhóm đối tượng dễ mắc chứng rối loạn ăn uống là phụ
nữ và trẻ em.
Thực trạng nghiên cứu về hội chứng rối loạn ăn uống tại Việt Nam là rất yếu và
thiếu. Tại Việt Nam, vấn đề nghiên cứu bài bản về một trong các thể của chứng rối
loạn ăn uống thường gặp ở trẻ từ 1 đến 6 tuổi là chứng “biếng ăn tâm lý”. Trong một
trong công trình nghiên cứu, Huỳnh Văn Sơn đã thực hiện các phân tích, đánh giá lý
thuyết cơ sở về tâm lý và sinh học chặt chẽ; từ đó, ông định nghĩa “Biếng ăn là hiện
tượng trẻ không chịu ăn đủ lượng (số lượng và chất lượng) thức ăn cần thiết theo nhu
cầu của lứa tuổi hoặc ăn với trạng thái không thoải mái về mặt tinh thần” (Huỳnh Văn
Sơn, 2011b). Từ định nghĩa biếng ăn về thực thể này, ông cũng đồng thời phát biểu
một định nghĩa khác về biếng ăn tâm lý như sau “Biếng ăn tâm lý là một dạng rối loạn
về ăn uống do ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý từ môi trường xung quanh trẻ hay từ
người nuôi dưỡng trẻ” (Huỳnh Văn Sơn, 2011b).
Các hướng tiếp cận và định nghĩa của tác giả thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về
lứa tuổi và thực trạng cuộc sống. Tác giả cũng đồng thời nhận định rằng biếng ăn tâm
lý ở trẻ em sẽ trở nên nghiêm trọng nếu không được quan tâm và cư xử đúng mức.
Biếng ăn tâm lý ở trẻ cũng đồng thời chỉ là biểu hiện giai đoạn không phải bệnh lý do
trẻ chưa chủ động được về hành vi và động cơ của bản thân. Tuy nhiên, biếng ăn tâm
lý ở trẻ vẫn rất đa dạng về nguyên nhân và chủ yếu là do các ảnh hưởng của môi
trường xung quanh. Trong đó, ảnh hưởng của bố mẹ hay người nuôi dưỡng là rất lớn
đến chứng biếng ăn tâm lý ở trẻ. Những phân tích trên đặt ra vấn đề cần có các nghiên
cứu tiếp theo về tình trạng rối loạn ăn uống tại Việt Nam. Các nghiên cứu có thể
hướng đến các nhóm đối tượng có độ tuổi lớn hơn, hoặc các nhóm hành vi cuồng, háu
ăn. Vì hiện nay, ngoài tình trạng suy dinh dưỡng - thấp còi đang là vấn đề mang tính
quốc gia thì béo phì trong lứa tuổi học đường cũng đang gia tăng với tốc độ chóng mặt
(Nguyễn Lân Đính, 2006). Kèm theo đó là áp lực của môi trường sống và học tập
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của trẻ em, khiến hành vi ăn uống của các em
có những dấu hiệu tiêu cực. Từ đó, ảnh hưởng sức khỏe thể chất, tinh thần và gián tiếp
ảnh hưởng kết quả học tập.
Vậy chúng tôi dựa trên những định nghĩa trên đưa ra khái niệm là: Rối loạn ăn
uống được đặc trưng bởi sự rối loạn liên tục về ăn uống hoặc hành vi liên quan đến ăn
uống. Dẫn đến việc tiêu thụ hoặc hấp thụ thức ăn bị thay đổi và làm suy giảm đáng kể
sức khỏe thể chất hoặc chức năng tâm lý xã hội.
3. Thực trạng rối loạn ăn uống:
Nguồn dữ liệu là cơ quan Helping to Outline Paediatric Eating Disorders
(HOPE) Project (N = 1000), một nghiên cứu đăng ký tiềm năng, đang diễn ra bao gồm
các lần giới thiệu ED liên tiếp cho trẻ em. Phụ nữ (N = 256; 12–17 tuổi) với DSM-5
ED đã hoàn thành CDI khi tiếp nhận.

Khoảng 23–48% thanh thiếu niên mắc chứng rối loạn ăn uống bị trầm cảm kèm
theo. Trong đó, tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng cuồng ăn (Bulimia Nervosa) là 50%,
chứng chán ăn tâm thần là 11%.

II. Phân loại theo DSM 5:

1. Dị thực

Tiêu chí chẩn đoán

A. Ăn liên tục các chất không dinh dưỡng, phi thực phẩm trong khoảng thời gian ít
nhất 1 tháng.

B. Việc ăn các chất không có dinh dưỡng, phi thực phẩm không phù hợp với trình độ
phát triển của cá nhân.

C. Hành vi ăn uống không phải là một phần của hỗ trợ văn hóa hoặc thực hiện chuẩn
mực xã hội.

D. Nếu hành vi ăn uống xảy ra trong bối cảnh của các rối loạn tâm thần khác (ví dụ:
khiếm khuyết trí tuệ (rối loạn phát triển trí tuệ), rối loạn phổ tự kỷ, tâm thần phân liệt)
hoặc tình trạng bệnh (bao gồm cả mang thai), thì đủ nghiêm trọng để đảm bảo sự chú
ý lâm sàng bổ sung.

Chẩn đoán phân biệt

Việc ăn những thứ không thể tiêu hóa, không phải thức ăn có thể xảy ra
trong giai đoạn của những rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn phổ tự kỷ, tâm
thần phân liệt) và trong hội chứng Kleine Levin. Trong bất kỳ trường hợp nào
như vậy, một chẩn đoán bổ sung chỉ nên được đưa ra khi hành vi dị thực này tiếp
diễn và đủ nghiêm trọng để bảo đảm chủ ý lâm sàng.

Chán ăn tâm lý: dị thực thường được phân biệt với những rối loạn ăn uống
khác bởi sự tiêu thụ những chất không thể tiêu hóa hay những thứ không phải
thức ăn. Tuy nhiên, một điều quan trọng cần lưu ý là một số biểu hiện của chán ăn
tâm lý bao gồm tiêu thụ những thứ không tiêu hóa được như khăn giấy, như một
cách để kiểm soát sự thèm ăn. Trong những trường hợp ấy, khi ăn những chất
không dinh dưỡng, phi thực phẩm thường cho mục đích kiểm soats cân nặng,
chán ăn tâm lý vẫn là chẩn đoán chính.

Rối loạn giả bệnh: Một số cá nhân với rối loạn giả bệnh có thể cố tình ăn
những vật thể bên ngoài như một dấu hiệu giả vờ các triệu chứng thực thể. Trong
những trường hợp đó, có một số yếu tố của sự giả mạo là phù hợp với việc cố tình
gây thương tích hoặc bệnh tật

Gây thương tích trong các rối loạn nhân cách: Một số cá nhân có thể
nuốt những vật gây hại (ví dụ: pin, kim tiêm, dao,..) trong bối cảnh của khuôn
mẫu hành vi không lành mạnh liên quan đến rối loạn nhân cách hoặc tự gây
thương tích.

2. Rối loạn nhai lại

Tiêu chí chẩn đoán:

A. Hiện tượng thức ăn bị trào ngược trong thời gian ít nhất 1 tháng. Trong
hầu hết các trường hợp, trẻ sẽ nuốt phần thức ăn này, nhưng một số trẻ sẽ
nhổ nó ra
B. Sự lặp lại này không liên quan đến một vấn đề về đường tiêu hóa hoặc tình
trạng bệnh khác (như trào ngược dạ dày thực quản, hẹp môn vị)
C. Rối loạn ăn uống không chỉ xảy ra trong quá trình chán ăn tâm thần, chứng
cuồng ăn vô, ăn vô độ, hoặc rối loạn tránh né/hạn chế tiêu thụ thực phẩm
D. Nếu các triệu chứng xảy ra trong bối cảnh cuả một rối loạn tâm thần khác
(ví dụ: khiếm khuyết trí tuệ hoặc một rối loạn phát triển thần kinh khác),
chúng đủ nghiệm trọng để đảm bảo về sự chú ý lâm sàng bổ sung.

Chẩn đoán phân biệt:

Tình trạng đường tiêu hóa: điều quan trọng là phân biệt trào ngược trong rối
loạn nhai lại với các tình trạng khác được đặc trưng bởi trào ngược dạ dày thực quản
hoặc nôn mửa. Các tình trạng như viêm dạ dày hẹp môn vị thoát vị và hội chứng
sandifer ở trẻ sơ sinh nên được loại trừ bằng cách kiểm tra thể chất và xét nghiệm
thích hợp.

Chán ăn tâm lý và rối loạn ăn nhiều - ói ra: Những người có chứng chán ăn tâm
lý và ăn nhiều - ói ra có thể bị trào ngược và việc nhỏ thức ăn sau đó như một biện
pháp xử lý lượng calo vào vì lo ngại về việc tăng cân.

3. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít

Tiêu chí chẩn đoán

A. Rối loạn ăn uống và nuôi dưỡng (ví dụ: không hứng thú đến việc ăn uống hoặc
thực phẩm, tránh ăn dựa trên cảm giác về vi khuẩn trên bề mặt thực phẩm, lo
ngại hậu quả không tốt của việc ăn uống) như thể hiện việc không đáp ứng nhu
cầu dinh dưỡng hoặc năng lượng thích hợp liên quan đến một hoặc nhiều điều
dưới đây
1. Sụt cân đáng kể
2. Thiếu hụt dinh dưỡng đáng kể
3. Phụ thuộc việc cung cấp chất dinh dưỡng qua đường ruột hoặc thực
phẩm chức năng
4. Đánh dấu sự ảnh hưởng đến các chức năng tâm lý xã hội
B. Sự rối loạn không được giải thích tốt hơn so với thiếu thực phẩm có sẵn hoặc bởi
một thực tiễn bị trừng phạt văn hóa có liên quan.

C. Rối loạn ăn uống không chỉ xảy ra trong quá trình Chánh thanh lý hoặc chính Cùng
ăn và không có bằng chứng thực tế là người này bị rối loạn về cân nặng hay hình dáng
cơ thể.

D. Rối loạn ăn uống không được quy định cho một tình trạng bệnh đồng thời hoặc
không được giải thích tốt hơn bởi một rối loạn tâm thần khác. Khi rối loạn ăn uống
xảy ra trong bối cảnh của một tình trạng hoặc rối loạn khác mức độ nghiêm trọng của
rối loạn ăn uống nằm ngoài tình trạng hoặc rối loạn khác này và đảm bảo sự chú ý lâm
sàng bổ sung.

Chẩn đoán phân biệt

Sự chán ăn và hạn chế tiêu thụ thức ăn là một triệu chứng không cụ thể có thể
đi kèm với một số chẩn đoán rối loạn tâm thần. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít có thể
được chẩn đoán đồng thời với các rối loạn dưới đây nếu tất cả các tiêu chí được đáp
ứng, và rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít đòi hỏi hỏi sự chú ý lâm sàng cụ thể.

Tình trạng bệnh khác: Tránh ăn có thể xảy ra trong các tình trạng bệnh khác,
đặc biệt là đối với những người với các triệu chứng đang tiếp diễn như ói mửa, chán
ăn, chóng mặt, đau bụng, hoặc tiêu chảy. Chẩn đoán rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít đòi
hỏi sự rối loạn của lượng ăn vượt mức được tính trực tiếp bởi các triệu chứng thực thể
phù hợp với tình trạng bệnh; rối loạn ăn uống có thể dai dẳng sau khi bị kích hoạt bởi
một tình trạng bệnh và sau khi giải quyết tình trạng bệnh. Những tình trạng bệnh tiềm
tàng hay những tình trạng tâm thần đi kèm có thể phức tạp hoá việc ăn. Vì những
người lớn tuổi, người bệnh sau phẫu thuật và những người được hoá trị thường mất
cảm giác ngon miệng, một chẩn đoán bổ sung về rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít đòi hỏi
sự rối loạn ăn uống làm điểm trọng tâm chính để can thiệp.

Các rối loạn cụ thể về thần kinh hoặc cơ thần kinh, cấu trúc, hoặc bẩm sinh liên
quan đến những khó khăn khi ăn: Khó khăn khi ăn và phổ biến ở một số tình trạng
bẩm sinh và thần kinh thường liên quan để các vấn đề về cấu trúc và chức năng
miệng, thực quản hoặc lưỡi, như hạ huyết áp của cơ, lưỡi nhô ra, và nuốt không an
toàn. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít có thể được chẩn đoán đối với những cá nhân có
những biểu hiện như vậy miễn và đáp ứng tất cả các tiêu chí chẩn đoán.

Rối loạn phản ứng gắn bó: Một số mức độ bỏ rơi là một đặc điểm của rối loạn
phản ứng gắn bó và có thể dẫn đến phiền muộn trong mối quan hệ mẹ con, điều này
có thể tác động đến sự cho ăn và sự hấp thu của trẻ. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít chỉ
nên được chẩn đoán đồng thời khi tất cả các tiêu chí được thoả mãn cho cả hai bệnh
và nỗi phiên cho ăn là trọng điểm cho sự can thiệp.

Rối loạn phổ tự kỷ: Những người với rối loạn phổ tự kỉ thường thể hiện những
hành vi ăn uống nhất định và có độ nhạy cảm giác cao. Tuy nhiên, những đặc điểm
này không thường dẫn đến mức độ suy giảm cần thiết cho chẩn đoán rối loạn tránh ăn
hoặc ăn ít. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít chỉ nên được chẩn đoán đồng thời nếu tất cả
các tiêu chí được đáp ứng cho cả hai bệnh và khi nỗi phiền về ăn uống cần sự điều trị
cụ thể.

Ám ảnh sợ chuyên biệt, rối loạn lo âu xã hội và rối loạn lo âu khác: Ám ảnh sợ
chuyên biệt, dạng khác, chỉ định “các tình huống có thể dẫn đến nghẹn hoặc nôn” và
có thể biểu hiện kích động của sự sợ hãi, lo âu, hay né tránh cần thiết cho chấn đoán.
Phân biệt ám ảnh sợ chuyên biệt với rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít có thể khó khăn khi
nỗi sợ bị nghẹn hoặc nộn mùa dẫn đến việc tránh thực phẩm. Mặc dù né tránh hay ăn
ít là phụ so với nỗi sợ nghẹn hoặc nôn có thể được định nghĩa là nỗi ám ảnh sợ chuyên
biệt, nhưng trong những trường hợp khác khi vấn đề ăn uống trở nên trọng tâm chính
của sự chú ý lâm sàng, thì rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít trở thành chẩn đoán phù hợp.
Trong rối loạn lo âu xã hội, cá nhân có thể biểu hiện nỗi sợ bị quan sát bởi người khác
khi họ đang ăn, điều này cũng có thể xảy ra với rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít.

Chán ăn tâm lý: Sự hạn chế hấp thu năng lượng liên quan đến những điều kiện
dẫn đến thiếu cân là một đặc điểm chính của chán ăn tâm lý. Tuy nhiên, những cá
nhân với chán ăn tâm lý cũng biểu hiện nỗi sợ tăng cân hay phát phì, hoặc có hành vi
dai dẳng nhằm ngăn chặn sự tăng cân, cũng như những phiền hà cụ thể liên quan đến
nhận thức và trải nghiệm của họ về cân nặng cơ thể và vóc dáng. Những đặc điểm này
không được thể hiện ở rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít, và hai rối loạn này không nên được
chẩn đoán song song. Có thể khó để chẩn đoán phân biệt giữa rối loạn tránh ăn hoặc
ăn ít và chán ăn tâm lý, đặc biệt là ở trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên, vì những bệnh này có
thể cùng có những triệu chứng phổ biến (ví dụ: tránh thực phẩm, thiếu cần). Chẩn
đoán phân biệt cũng có tiềm năng khó khăn đối với các cá nhân với chán ăn tâm lý,
những người chối bỏ nỗi sợ phát phì nhưng vẫn kiên trì tham gia vào những hành vi
ngăn cản sự tăng cắn và những người không thừa nhận mức độ y khoa nghiêm trọng
về sự thiếu cân của họ - sự thể hiện đói khí được định nghĩa “ám ảnh chán ăn tâm lý
không chất béo”. Cần xem xét đầy đủ các triệu chứng, tiền sử gia đình và chẩn đoán
có thể được thực hiện tốt nhất trong bối cảnh theo thời gian liên quan đến lâm sàng.
Đối với một số người rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít có thể trở thành khởi nguồn của chán
ăn tâm lý.

Rối loạn ám ảnh cưỡng chế: Những cá nhân mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế có
thể biểu hiện tránh ăn hoặc ăn ít liên quan đến mối bận tâm với thức ăn hoặc hành vi
ăn uống theo nghi thức. Rối loạn tránh ăn và ăn ít nên được chẩn đoán đồng thời khi
tất cả các tiêu chí được đáp ứng cho cả hai rối loạn và khi ăn uống bất thường là một
khía cạnh chính của biểu hiện lâm sàng cần can thiệp cụ thể.

Rối loạn trầm cảm chủ yếu: Trong rối loạn trầm cảm chủ yếu, sự thèm ăn có
thể bị ảnh hưởng đến mức những cá nhân biểu hiện sự ăn ít nghiêm trọng, thường là
liên quan đến hấp thu năng lượng đi kèm với giảm cân. Sự chán ăn và ăn ít được giảm
đi với giải pháp của các vấn đề tâm trạng. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít chỉ nên được
chẩn đoán đồng thời nếu tiêu chí đầy đủ được đáp ứng ở cả hai rối loạn và khi rối loạn
ăn uống cần điều trị cụ thể.

Rối loạn phổ tâm thần phân liệt: Những người mắc tâm thần phân liệt, rối loạn
ảo giác hoặc nhóm bệnh loạn thần khác có thể biểu hiện hành vi ăn uống kỳ quặc,
tránh các loại thực phẩm cụ thể vì niềm tin hoang tưởng hoặc các biểu hiện khác của
việc hạn chế và né tránh ăn uống. Trong một số trường hợp, niềm tin hoang tưởng có
thể góp phần vào mối quan tâm về hậu quả tiêu cực của việc ăn một số loại thực
phẩm. Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít chỉ nên được sử dụng đồng thời nếu tất cả các tiêu
chí được Cáp ứng cho cả hai rối loạn và khi rối loạn ăn uống cần điều trị cụ thể.
Rối loạn giả bệnh hoặc rối loạn giả bệnh áp đặt lên người khác: Rối loạn tránh
ăn hoặc ăn ít nên được phân biệt với rối loạn giả bệnh hay rối loạn giả bệnh áp đặt lên
người khác. Để vào vai người bệnh, một số cá nhân với rối loạn giả bệnh có thể cổ
tình miêu tả chế độ ăn uống hạn chế hơn rất nhiều so với những chế độ họ thật sự có
thể ăn, cũng như những biến chứng của hành vi đó, chẳng hạn như cần tiếp thức ăn
vào đường ruột hay bổ sung dinh dưỡng, không có khả năng ăn các thực phẩm thông
thường và (hoặc) không thể tham gia một cách bình thường vào các tình huống phù
hợp lứa tuổi liên quan đến thức ăn. Trong rối loạn giả bệnh áp đặt lên người khác, điều
dưỡng viên mô tả các triệu chứng phù hợp với rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít và có thể
gây ra các triệu chứng vật lý như không tăng cân. Như với bất kỳ chẩn đoán rối loạn
giá bệnh nào được áp dụng cho người khác, điều dưỡng viên nhận chẩn đoán thay vì
cá nhân bị ảnh hưởng và chẩn đoán chỉ nên được thực hiện trên cơ sở đánh giá cẩn
thận, toàn diện về người bị ảnh hưởng, điều dưỡng viên và tương tác của họ.

4. Chán ăn tâm lý

Tiêu chí chẩn đoán

A. Suy giảm năng lượng cần thiết, dẫn đến trọng lượng cơ thể thấp đáng kể không
tương xứng với tuổi tác, giới tính và sức khỏe thể chất. Trọng lượng thấp đáng kể
được định nghĩa là trọng lượng ít hơn trọng lượng tối thiểu cho phép, hoặc ít hơn mức
mong đợi tối thiểu đối với trẻ em và thanh thiếu niên.

B. Nỗi sợ hãi về việc tăng cân hoặc trở nên béo, hoặc hành vi dai dẳng gây cản trở
việc tăng cán, mặc dù đang ở mức cân nặng thấp đáng kể.

C. Rối loạn theo cách mà cần nặng và hình dáng cơ thể có sự rối loạn trên thực tế, có
ảnh hưởng thái quá của việc tự đánh giá cân nặng hoặc hình dáng của bản thân.

Chẩn đoán phân biệt

Tình trạng bệnh: Sự giảm cân nghiêm trọng có thể xảy ra, nhưng những cá
nhân với những rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít thường không cảm thấy phiền về cân nặng
hay vóc dáng của họ, hoặc sợ tăng cân hay kiên trì trong các hành vi thích hợp để
chống tăng cần. Giảm cân cấp tính đi kèm với tình trạng bệnh có thể được theo sau
bởi sự khởi phát hay sự tiếp diễn của chán ăn tâm lý, trong khi có thể chủ động nguy
trang với tình trạng bệnh với tính chất phối hợp. Hiếm khi chán ăn tâm lý phát triển
sau ca phẫu thuật cho bệnh béo phì.

Rối loạn trầm cảm chủ yếu: Trong rối loạn trầm cảm chủ yếu, sự giảm cân
nghiêm trọng có thể xảy ra, nhưng đa số các cá nhân mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu
không có nhu cầu với sự giảm cân nghiêm trọng hay mang nỗi sợ căng thẳng về việc
tăng cân.

Tâm thần phân liệt: Những cá nhân mắc tâm thần phân liệt có thể cho thấy
hành vi ăn uống kỳ lạ và thỉnh thoảng trải nghiệm sự giảm cân đáng kể, nhưng họ
không thường cho thấy nỗi sợ về việc tăng cân và muộn phiền về ngoại hình, đây cũng
là những đặc điểm cần có để chẩn đoán chán ăn tâm lý.

Rối loạn sử dụng chất: Những người với các rối loạn lạm dụng chất có thể
thiếu cân do lượng dinh dưỡng kém nhưng nhìn chung không sợ tăng cân và không
biểu hiện nỗi phiền về hình ảnh cơ thể. Những người lạm dụng chất làm giảm sự thèm
ăn (ví dụ: cocaine, chất kích thích) và những người cũng tán thành nỗi sợ tăng cân nên
được đánh giá cần thần về khả năng đi kèm với chứng chán ăn, vì việc sử dụng chất
này có thể biểu hiện hành vi dai dáng gây tăng cân (tiêu chí B).

Rối loạn lo âu xã hội, rối loạn ám ảnh dị dạng cơ thể, rối loạn ám ảnh cưỡng
chế: Một số đặc điểm của chán ăn tâm lý trùng với tiêu chuẩn đánh giá cho rối loạn lo
âu xã hội, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, và rối loạn ám ảnh dị dạng cơ thể. Cụ thể là
những cá nhân có thể cảm thấy bị xúc phạm hay xấu hổ khi hình ảnh ăn uống của
mình bị người khác nhìn thấy ở nơi công cộng - như trong rối loạn lo âu xã hội; có thể
biểu hiện những ám ảnh và cưỡng chế liên quan đến thức ăn - như đối với rối loạn ám
ảnh cũng chế; hoặc có thể bận tâm với một khiếm khuyết ảo về ngoại hình cơ thể -
như trong rối loạn ám ảnh dị dạng cơ thể. Nếu cá nhân chán ăn có nỗi lo sợ xã hội chỉ
giới hạn ở hành vi ăn uống, thì không nên chẩn đoán rối loạn lo âu xã hội, nhưng nỗi
sợ xã hội không liên quan đến hành vi ăn uống (ví dụ: sợ nói quá mức ở nơi công
cộng) có thể đảm bảo chấn đoán thêm cho rối loạn lo âu xã hội. Tương tự, chỉ nên
xem xét chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng chế bổ sung nếu cá nhân biểu hiện nỗi ám
ảnh và cưỡng chế không liên quan đến thực phẩm (ví dụ: sợ nhiễm bẩn quá mức) và
chỉ nên xem xét rối loạn ám ảnh dị dạng cơ thể nếu mối bận tâm dị dạng không liên
quan đến vóc dáng và kích thước (ví dụ: mối bận tâm rằng mũi của một người quả
lớn).

Rối loạn ăn nhiều – ói ra: Những cá nhân với rối loạn ăn nhiều – ói ra thể hiện
những giai đoạn cuồng ăn, tham gia vào những hành vi tránh tăng cần (ví dụ: tự làm
bản thân nôn mửa), và thường lo lắng thái quá về vóc dáng và cân nặng. Tuy nhiên,
khác với những cá nhân với chán ăn tâm lý, dạng cuồng ăn/ói ra, những người với ăn
nhiều ói ra giữ cân nặng ở mức bình thường hoặc cao hơn.

Rối loạn tránh ăn hoặc ăn ít: Những cá nhân với rối loạn này cá thể biệu lộ sự
giảm cần nghiêm trọng hoặc thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng, nhưng họ không có nỗi
sợ tăng cân hay phát phì, họ cũng không cảm thấy phiên trong cách họ trải nghiệm cân
nặng và vóc dáng của bản thân.

5. Rối loạn ăn nhiều - ói ra

Tiêu chí chẩn đoán

A. Tái phát các giai đoạn ăn uống quá độ (binge]. Một giai đoạn được xem là ăn quá
độ được đặc trưng bởi cả hai điều sau đây.

1. Trong một khoảng thời gian hạn chế (ví dụ: trong khoảng thời gian 2 giờ) một cá
nhân ăn một lượng thực phẩm quá nhiều, hơn lượng thực phẩm mà một người bình
thường có thể tiêu thụ trong cùng một khoảng thời gian.

2. Cảm giác có sự thiếu kiểm soát việc ăn uống trong suốt giai đoạn (ví dụ: cảm giác
rằng cá nhân không thể ngừng ăn hoặc kiểm soát những gì mình ăn hoặc ăn bao
nhiêu).

B. Thường xuyên có các hành vi bù trừ không phù hợp để ngăn ngừa tăng cân, chẳng
hạn như tự gây ra nôn mửa; lạm dụng thuốc tràng, thuốc lợi tiểu hoặc các loại thuốc
khác; ăn chay; hoặc tập thể dục quá mức. nhuận cho

C. Xuất hiện đồng thời hành vi ăn quá độ và hành vi bù trừ không phù hợp, ở mức
trung bình, ít nhất 1 lần/tuần trong vòng 3 tháng.
D. Việc tự đánh giá có sự ảnh hưởng quá mức bởi trọng lượng và hình thể. I

E. Sự rối loạn không chỉ xuất hiện trong các giai đoạn của chứng chán ăn tâm lý.

Chẩn đoán phân biệt

Chán ăn tâm lý, kiểu ăn nhiều – ói ra: Những cá nhân với hành vi cuồng ăn chỉ
xảy ra trong giai đoạn chán ăn tâm lý thì được chẩn đoán với chán ăn tâm lý, dạng
cuồng ăn - ói ra, và không nên được chẩn đoán bổ sung với rối loạn ăn nhiều- ói ra.
Đối với những cá nhân với chẩn đoán ban đầu là chán ăn tâm lý, ăn nhiều và ói nhưng
sự biểu hiện không còn đáp ứng tiêu chỉ đầy đủ của chán ăn tâm lý và cả của rối loạn
cuồng ăn - Ói ra (ví dụ: khi cân nặng là bình thường). Cuối cùng chỉ nên đưa ra chẩn
đoán rối loạn ăn nhiều - ói ra khi tất cả các tiêu chí của rối loạn này được đáp ứng
trong ít nhất 3 tháng.

Rối loạn cuồng ăn: Một số người cuồng ăn nhưng không tham gia vào những
hành vi bù đắp thường xuyên. Trong những trường hợp này, cần xem xét chẩn đoán
rối loạn cuồng ăn.

Hội chứng Kleine-Levin: Đối với một số tình trạng thần kinh chức năng như
hội chứng

Kleine-Levin có hành vi ăn uống bị xáo trộn, nhưng các đặc điểm tâm lý đặc
trưng của rối loạn ăn nhiều - ói ra - chẳng hạn như lo lắng thái quá về vóc dáng và
trọng lượng cơ thể thì lại không hiện diện. Sự ăn quá độ thì phổ biển ở trầm cảm, với
những đặc điểm không điển hình; nhưng các cá nhân với bệnh này, họ có các hành vi
bù đắp không phù hợp và họ không thể hiện lo âu thái quá với vóc dáng và cân nặng là
những đặc trưng của rối loạn ăn nhiều – ói ra. Nếu tiêu chí của cả hai rối loạn được
đáp ứng, cả hai chẩn đoán nên được đưa ra.

Rối loạn nhân cách ranh giới: Hành vi cuồng ăn cũng được bao gồm trong tiêu
chí hành vi xâm nhập, một phần trong định nghĩa của rối loạn nhân cách ranh giới.
Nếu tiêu chỉ của cả rối loạn nhân cách ranh giới và rối loạn ăn nhiều – ói ra được đáp
ứng, thì nên đưa ra cả hai chẩn đoán.

6. Rối loạn cuồng ăn

Tiêu chí chẩn đoán

A. Tái phát các giai đoạn cuồng ăn. Một giai đoạn cuồng ăn được đặc trưng bởi cả hai
điều sau đây:

1. Một khoảng thời gian hạn chế (ví dụ: trong khoảng thời gian 2 giờ) một cá nhân ăn
một lượng thực phẩm quá nhiều, hơn lượng thực phẩm mà một người bình thường có
thể tiêu thụ trong cùng một khoảng thời gian.

2. Cảm giác có sự thiếu kiểm soát việc ăn uống trong suốt giai đoạn (ví dụ: cảm giác
rằng cá nhân không thể ngừng ăn hoặc kiểm soát những gì mình ăn hoặc ăn bao niêu).

B. Giai đoạn cuồng ăn có liên quan đến ít nhất ba điều sau đây:

1. Ăn nhanh hơn nhiều so với bình thường.

2. Ăn cho đến khi bội thực.

3. Ăn lượng lớn thực phẩm khi cơ thể không thấy đói.

4. Ăn một mình do xấu hổ vì lượng lớn đồ ăn mà mình tiêu thụ.

5. Cảm thấy ghê tởm với chính mình, chán nản, hoặc rất có lỗi sau đó.

C. Có sự đau khổ rõ ràng vì việc ăn uống vô độ này.

D. Ăn quá độ diễn ra, trung bình, ít nhất một lần/tuần trong vòng 3 tháng.

E. Việc ăn quá độ không liên quan gì tới việc sử dụng các cách thức bù trừ không phù
hợp như trong giai đoạn ăn nhiều – ói, và không chỉ xảy ra trong giai đoạn của rối
loạn

ăn nhiều -ói ra và chán ăn tâm lý.

Chẩn đoán phân biệt

Rối loạn ăn nhiều – ói ra: Rối loạn cuồng ăn có sự cuồng ăn liên tục là đặc
điểm phố biến trong rối loạn ăn nhiều – ói ra, nhưng khác ở một số khía cạnh cơ bản.
Theo những định nghĩa của biển hiện lâm sàng, hành vi bù đắp không phù hợp tiếp
diễn được nhìn thấy ở rối loạn ăn nhiều – ói ra nhưng không biểu hiện ở rối loạn
cuồng ăn. Không như các cá nhân với rối loạn ăn nhiều – ói ra, những cá nhân với rối
loạn cuồng ăn thường không thể hiện những lưu ý về hạn chế trong dinh dưỡng ảnh
hưởng đến cân nặng và vóc dáng giữa các giai đoạn cuồng ăn. Tuy nhiên, họ có thể
nói về nhiều lần cố gắng giảm cân. Rối loạn cuồng ăn cũng khác rối loạn ăn nhiều - ói
ra ở chỗ phản ứng với trị liệu. Những người có rối loạn cuồng ăn thường có tỷ lệ bình
phục cao hơn so với những người với rối loạn ăn nhiều – ói ra.

Béo phì: Rối loạn cuồng ăn liên quan đến thừa cân và béo phì nhưng có những đặc
điểm chính phân biệt với béo phì. Thứ nhất, những mức độ đánh giá quá mức của cân
nặng cơ thể và vóc dáng thường cao hơn ở những cá nhân béo phì mang bệnh này, hơn
là những cá nhân không có rối loạn cuồng ăn. Thứ hai, tỷ lệ phối hợp tâm thần cao
hơn đáng kể ở những người béo phì với bệnh, so với những người không có bệnh. Thứ
ba, kết quả thành công dài hạn của trị liệu tâm lý đáng tin cậy đối với rối loạn cuồng
ăn có thể trái ngược với sự trị liệu dài hạn kém hiệu quả đối với béo phì.

Rối loạn trầm cảm và lưỡng cực: Sự tăng cảm giác thèm ăn và tăng cân được bao gồm
trong tiêu chí giai đoạn trầm cảm chủ yếu và trong những đặc điểm kém phổ biến, đặc
trưng cho các rối loạn lưỡng cực và trầm cảm. Sự ăn nhiều trong bối cảnh giai đoạn
trầm cảm chủ yếu có thể hoặc không liên quan đến sự mất kiểm soát. Nếu tiêu chí đầy
đủ của cả hai rối loạn được đáp ứng, chẩn đoán cho cả hai có thể được đưa ra. Cuồng
ăn và những triệu chứng khác của rối loạn ăn uống được xem là liên quan với rối loạn
lưỡng cực. Nếu tiêu chí đầy đủ của cả hai rối loạn được đáp ứng thì có thể đưa ra chẩn
đoán cho cả hai.

Rối loạn nhân cách ranh giới: Cuồng ăn được bao gồm trong tiêu chí hành vi xâm
nhập, là một phần của định nghĩa rối loạn nhân cách ranh giới. Nếu tiêu chí đầy đủ
của cả hai rối loạn được đáp ứng, thì có thể chẩn đoán cả hai.

IV. Một số nghiên cứu về rối loạn ăn uống


1. Nghiên cứu ở trong nước
a) Rối loạn ăn uống và các yếu tố liên quan ở sinh viên Y khoa tại thành phố Hồ
Chí Minh (Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020).
Nghiên cứu trên sinh viên Y khoa chính quy tại Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh, độ tuổi từ 19 đến 26, 2.500 sinh viên
Kết quả cho thấy: Rối loạn ăn uống ở sinh viên Y khoa Đại học Y Dược Thành
phố Hồ Chí Minh là cao: với 30% tỉ lệ sinh viên có rối loạn ăn uống. Trong đó, 4,9%
sinh viên chán ăn tâm thần; 28,9% sinh viên rối loạn Bulimic, ăn uống vô độ.
Về hình thể: Hơn ⅓ sinh viên thỉnh thoảng hay thường xuyên suy nghĩ về việc
ăn kiêng và lo lắng người khác nhìn thấy mỡ thừa ở vùng bụng (eo) của mình.
2. Nghiên cứu ở nước ngoài
a) Nỗi sợ hãi về rối loạn ăn uống cốt lõi: Mức độ phổ biến và sự khác biệt của nỗi
sợ hãi về chứng rối loạn ăn uống trong các chẩn đoán rối loạn ăn uống
(Mackenzie L. Brown BA,Tiến sĩ Cheri A. Levinson)
Phương pháp: Nghiên cứu trên mẫu N = 229 cá nhân bị rối loạn ăn uống, nhằm
mục đích xác định rõ hơn các đặc điểm về nỗi sợ về rối loạn ăn uống, kiểm tra nỗi sợ
rối loạn ăn uống nào là chủ yếu giữa các người sống với chứng rối loạn ăn uống.
Kết quả:
Các nỗi sợ xếp theo các mức độ, nỗi sợ hãi được nhiều người chứng thực nhất
là sợ bị tăng cân, tiếp theo là sợ thức ăn và sợ bị phán xét.
Những người mắc chứng chán ăn tâm thần (AN) thường xác nhận là sợ thức
ăn.
Khi kiểm tra theo phân loại cân nặng: những người thiếu cân thì thường sợ thức
ăn nhất; người có cân nặng bình thường thì thường sợ tăng cân; người bị thừa cân và
béo phì thì sợ phán xét.
=> Giúp nhà chuyên môn đánh giá nỗi sợ cụ thể của từng cá nhân mắc chứng rối loạn
ăn uống để phục vụ cho việc điều trị và can thiệp.
b) Rối loạn ăn uống và hành vi tự sát ở thanh thiếu niên bị trầm cảm nặng: Thông
tin chi tiết từ các bệnh viện Hoa Kỳ
Tỉ lệ tự tử của thanh thiếu niên mắc trầm cảm, đồng thời với rối loạn ăn uống.
Đại khái, tỉ lệ tự tử của thanh thiếu niên cùng đồng thời mắc chứng trầm cảm và rối
loạn ăn uống cao hơn gấp 5 lần so với thanh thiếu niên chỉ mắc chứng trầm cảm.
Đánh giá tỷ lệ tự tử hoặc cố gắng tự tử đối với những bệnh nhân trầm cảm nặng
mắc chứng rối loạn ăn uống trong bệnh viện ở Mỹ
Phương pháp: Thực hiện nghiên cứu với mẫu là 122.020 thanh thiếu niên có
chẩn đoán chính là trầm cảm nặng từ bệnh viện nội trú, được phân nhóm theo chẩn
đoán mắc rối loạn ăn uống (N = 1675) (trong đó: phân chia như sau: bệnh nhân chán
ăn tâm thần = 240, ăn vô độ là 300, rối loạn ăn uống không xác định là 1135). Rối
loạn ăn uống không xác định đề cập đến các biểu hiện lâm sàng của các triệu chứng
đặc trưng của rối loạn ăn uống gây ra tình trạng đau khổ hoặc suy giảm nghiêm trọng
về mặt lâm sàng nhưng không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán cho bất kỳ rối
loạn ăn uống nào theo sổ tay chẩn đoán và thống kê về rối loạn tâm thần (DSM-IV)
Kết quả: Ý định tự tử ở các thanh thiếu niên trầm cảm nặng mắc rối loạn ăn
uống cao hơn (46,3% so với 14,2 % ở những bệnh nhân nhận được 1 chẩn đoán trầm
cảm nặng).
Nỗ lực tự tử: Ở bệnh nhân có rối loạn ăn uống là 0.9% so với 39,4%.
Nhìn chung, rối loạn ăn uống có liên quan đến tỷ lệ có có ý định tự tử cao hơn
so với người không có rối loạn ăn uống, nhưng tỷ lệ cố gắng tự tử thấp hơn.
Kết luận: Thanh thiếu niên bị trầm cảm nặng có rối loạn ăn uống kèm theo có
tỷ lệ có ý định tự tử cao hơn gấp 5 lần so với bệnh nhân trầm cảm thông thường.
Trong số các chứng rối loạn ăn uống, những người mắc chứng chán ăn tâm
thần có tỷ lệ có ý định tự tử cao hơn gấp 4,8 lần, còn những người mắc chứng cuồng
ăn cao hơn gấp 3,2 lần.

c) Yếu tố hình ảnh bản thân (Body Image) trong rối loạn ăn uống
Theo tổ chức National Eating Disorder, hình ảnh bản thân (Body Image) hiểu đơn giản
là cách mà một người nhìn nhận chính mình (suy nghĩ, nhận thức, thái độ) khi họ nhìn
chính mình vào gương hoặc khi họ hình dung chính họ trong tâm trí. Có 3 yếu tố để
xác định hình ảnh bản thân.
- Điều bạn tin tưởng về ngoại hình của chính mình (bao gồm cả ký ức, giả định,
nhận định khái quát)
- Cảm nhận của bạn về cơ thể, bao gồm cả chiều cao, hình dáng và cân nặng.
- Cách bạn cảm nhận và kiểm soát cơ thể khi bạn di chuyển, những trải nghiệm
về thể chất hoặc cảm nhận trong cơ thể.
=> Nhiều người trong chúng ta nội tâm hóa (internalize) các thông điệp từ khi còn
nhỏ, điều này có thể dẫn đến hình ảnh bản thân tích cực hoặc tiêu cực.
=> Có một hình ảnh cơ thể khỏe mạnh là một phần quan trọng của sức khỏe tinh thần
vfa góp phần ngăn ngừa rối loạn ăn uống.

- Hình ảnh cơ thể tích cực: Nhận thức rõ ràng và chân thực về hình dạng của
bạn; nhìn nhận các bộ phận đúng thực tế. Sự tích cực về cơ thể bao gồm cảm
giác thoải mái và tự tin vào cơ thể của bạn, chấp nhận hình dáng và kích thước
cơ thể tự nhiên. Nhận ra rằng: ngoài hình nói lên rất ít về tính và giá trị của một
người.
- Hình ảnh cơ thể tiêu cực: liên quan đến nhận thức méo mó về hình dạng của
một người, cảm giác xấu hổ, lo lắng và ý thức về bản thân/ Một người khi hài
lòng về cơ thể cảm thấy cơ thể của họ có thiếu sót so với cơ thể của người
khác.
Mặc dù không có nguyên nhân duy nhất nào gây ra chứng rối loạn ăn uống,
nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng cơ thể không thỏa mãn là nguyên nhân được biết đến
nhiều nhất trong sự phát triển của chứng chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ (Stice,
2002).
Một số nghiên cứu về mức độ hài lòng cơ thể:
Trong tờ báo Psychology Today, những người bị rối loạn ăn uống có xu hướng
đánh giá giá trị của bản thân chủ yếu hoặc thậm chí chỉ dựa trên hình dáng, cân nặng
và khả năng kiểm soát của họ. Đặc điểm này phổ biến với với chứng chán ăn tâm thần
và ăn vô độ; xảy ra hơn 50% với bệnh nhân mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ.
=> Đánh giá quá cao hình dạng và cân nặng như một cơ chế duy trì chứng rối loạn ăn
uống
Nghiên cứu trên bài báo cũng đưa ra bằng chứng cho nhận định này:
- Trong số những bệnh nhân mắc chứng cuồng ăn có phản ứng hoàn toàn với
điều trị, những bệnh nhân có mức đánh giá quá cao về hình dáng và cân nặng
dễ bị tái phát nhất.
- Thử nghiệm hai phương pháp điều trị tâm lý cho chứng cuồng ăn đã chỉ ra rằng
các phương pháp tiếp cận hành vi không giải quyết được việc đánh giá quá cao
hình dạng và cân nặng có liên quan đến nguy cơ tái phát cao hơn so với các
phương pháp đã làm.
+ Những người thừa cân hoặc béo phì thường bị xã hội chê bai bởi giới truyền
thông vì truyền hình đặc biệt lý tưởng hóa những nhân vật gầy và mảnh mai.
+ Hầu hết mọi người không hài lòng với hình ảnh cơ thể của họ sau khi so sánh
cơ thể của họ với những nhân vật mảnh mai được miêu tả trên các phương tiện
truyền thông.
Xem nghiên cứu: Sự hài lòng về hình ảnh cơ thể người Châu Á: Sự khác biệt về sắc
tộc và giới tính giữa sinh viên gốc Hoa, người Ấn-Á và người gốc Âu. Nghiên cứu
trên: … năm 2004.
Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể về mức độ hài lòng về cơ thể giữa 3
nhóm dân tộc: Sinh viên châu Âu được báo cáo là có hình ảnh cơ thể thích cực nhất,
tiếp theo là nhóm người gốc Ấn-Á rồi với người Trung Quốc được báo cáo là mức độ
hài lòng cơ thể thấp nhất.
Người Trung Quốc bận tâm về sự hấp dẫn của họ, và ít hài lòng với các bộ
phận cơ thể (ví dụ: khuôn mặt), ít hài lòng với tình trạng thể chất của họ.
[Giải thích]
Một lời giải thích khả dĩ cho việc hài lòng về cơ thể thấp nhất trong số những
người gốc Trung Quốc có thể là do mức cân nặng có thể chấp nhận được. Có một số
bằng chứng từ nghiên cứu Đông Nam Á cho thấy phụ nữ trẻ gặp phải tỷ lệ khuyến
khích giảm cân tương đối cao, đặc biệt là từ mẹ của họ (Mukai Crago, & Shisslak,
1994). Trong số các nữ sinh Nhật Bản trong nghiên cứu đó, những người tiết lộ được
khuyến khích giảm cân, gần 90% thực sự nhẹ cân hoặc có cân nặng bình thường.
Nghiên cứu của họ cũng cho thấy rằng có một mong muốn lịch sử lâu đời đối với phụ
nữ gầy và những triết lý truyền thống như “phụ nữ nên ăn ít hơn nam giới” có thể ảnh
hưởng đến động lực gầy ốm ở Đông Nam Á. Nghiên cứu giữa người dân Trung Quốc
đã nhiều lần phát hiện ra mối quan tâm mạnh mẽ đối với tình trạng thừa cân mặc dù tỷ
lệ thừa cân thực sự rất thấp (A. M. Lee & Lee, 1996; S. Lee và cộng sự, 1996). Ngoài
tỉ lệ khối lượng cơ thể thấp, người Trung Quốc cũng báo cáo cân nặng lý tưởng thấp
hơn so với những người da trắng của họ. Do đó, khi các cá nhân Trung Quốc bắt đầu
với cân nặng lý tưởng thấp hơn đáng kể, các hành vi ăn uống không theo thứ tự có thể
gây ra những hậu quả nghiêm trọng sớm hơn những gì có thể được nhìn nhận theo
quan điểm chẩn đoán của phương Tây (S. Lee, 1991). Các kết quả của chúng tôi có
thể hỗ trợ những lý thuyết này những nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm việc đo
lường trọng lượng cơ thể thực tế để cung cấp bối cảnh giải thích bất kỳ sự mệt mỏi
nào trong mối quan tâm tiềm ẩn về cân nặng này.
Khi xem xét các bộ phận cơ thể cụ thể, chúng tôi nhận thấy rằng phụ nữ gốc
Hoa không hài lòng nhất với kích thước bộ ngực của họ. S. Lee and colleagues (1996)
báo cáo rằng phụ nữ Trung Quốc mong muốn, thậm chí ở một mức độ lớn hơn so với
các đồng nghiệp phương Tây, sự gia tăng kích thước bộ ngực của họ đồng thời với sự
nhỏ nhắn trái ngược nhau đối với tất cả các bộ phận cơ thể khác. Nghiên cứu của Lee
và các đồng nghiệp (1996) cho thấy rằng phụ nữ Trung Quốc do đó thường tự đánh
giá thấp bản thân, vì khả năng sinh học của bộ ngực đầy đặn và thân hình mảnh mai là
không phù hợp. Một nghiên cứu khác được thực hiện ở Bắc Mỹ đã phát hiện ra rằng
phụ nữ Trung Quốc và Nhật Bản không hài lòng với bộ ngực của họ hơn so với những
người da trắng của họ (Marsella et al., 1981; Mintz & Kashubeck, 1999). Nghiên cứu
này và phát hiện của chúng tôi trái ngược với nghiên cứu của Koff và Benevage
(1998), những người phát hiện ra rằng phụ nữ Mỹ gốc Á không hài lòng hơn đáng kể
với kích thước ngực của họ so với phụ nữ Da trắng. nhỏ hơn đáng kể, họ chỉ không
hài lòng như những người đồng cấp da trắng của họ.]

Nghiên cứu: Mối quan hệ giữa hình ảnh cơ thể và tình trạng cân nặng ở các nước
Đông Á: so sánh giữa Hàn Quốc và Đài Loan
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ mô-đun năm 2010 của Điều tra xã hội Đông
Á từ Hàn Quốc (n = 1576) và Đài Loan (n = 2199), chứa các câu hỏi liên quan đến
hình ảnh cơ thể.
Kết quả: Tỉ lệ người có cân nặng bình thường hoặc nhẹ cân ở HQ là 57,0%; ở
Đài Loan là 47,2%; tỷ lệ người béo phì ở HQ là: 22,8%, Đài Loan là 33,2%
Có 47,1% người HQ và 32,8% người Đài Loan có BMI bình thường nhưng xem mình
là thừa cân;
=> Cả người Hàn Quốc và Đài Loan đều nhận thấy họ bị thừa cân hoặc béo phì mặc
dù họ không bị béo phì.
=> Việc nhận thức quá nhiều về cân nặng và không hài lòng về hình ảnh cơ thể có thể
giải thích cho tỷ lệ phẫu thuật thẩm mỹ bao gồm cả hút mỡ cao ở Hàn Quốc. Theo
thống kê của Hiệp hội Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ Quốc tế.
Phụ nữ dễ bị tổn thương hơn bởi áp lực xã hội về sự gầy gò và nhận thức sai về cơ thể
lý tưởng hơn nam giới.

V. Rối loạn ăn uống dưới góc nhìn của các trường phái TLH khác
1. Rối loạn ăn uống dưới góc nhìn của Phân tâm học
Phân tâm học tiếp cận chứng rối loạn ăn uống bằng cách khám phá ra ý nghĩa,
việc khám phá quá khứ của con người. Những sự kiện đã xảy ra trong cuộc sống của
họ và các mối quan hệ của họ với những người khác. Điều này sẽ bao gồm việc khám
phá các khía cạnh khắc nghiệt bên trong của triệu chứng của chứng rối loạn ăn uống.

Theo phân tâm học niềm tin và mong muốn của người biếng ăn dường như bị
bóp méo một cách nghiêm trọng và cần phải làm sáng tỏ không phải tại sao họ lại bỏ
đói bản thân mà là thái độ nền tảng của hành vi đó.
Theo Freud, những thanh thiếu niên mắc chứng rối loạn ăn uống không muốn
lớn lên và tách khỏi cha mẹ của mình vì vậy họ trở nên cố định ở giai đoạn phát triển
môi - miệng khi hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ.Trong chứng biếng ăn, đối tượng là
thức ăn gây ra lo lắng. Họ sợ đánh mất mình trước Người khác và họ tìm cách tách
khỏi nhu cầu của Người khác, vì liên quan đến đồ vật bằng miệng, thức ăn và thức ăn
nuôi dưỡng.
(Recalcati, 2014) Ăn uống và tính dục có quan hệ biểu tượng với nhau. Trẻ
biếng ăn vô thức từ chối xu hướng tính dục của mình là đàn ông hay phụ nữ. Triệu
chứng của họ khiến họ không nghĩ đến bất kỳ hình thức tình dục nào. Khi một nữ vị
thành niên sắp bắt đầu hành kinh, cô ấy phải đối mặt với thực tế rằng cô ấy đang phát
triển các đặc điểm giới tính thứ cấp mới. Cơ thể của cô ấy đang thay đổi vì lượng mỡ
bên trong cơ thể tăng lên trong chu kỳ kinh nguyệt. “Những đứa trẻ biếng ăn nhận
thấy việc ‘tắt tuổi dậy thì là một cách nhẹ nhõm và kết quả là phát triển một ác cảm dữ
dội, hoặc ám ảnh, đối với việc tăng chất béo trong cơ thể ... việc tránh các thay đổi của
tuổi dậy thì là một phần thưởng, do đó là một yếu tố duy trì điều kiện. ”(Moorey,
1991, tr.35). Kiểm soát duy nhất mà trẻ biếng ăn cảm thấy rằng họ có trong cuộc sống
của họ là việc họ từ chối ăn. Bằng cách từ chối ăn, chứng giảm cân, và chúng cũng
giảm các đặc điểm giới tính của mình và trở lại giống trẻ em (vô tính). “Theo kinh
nghiệm lâm sàng của tôi, nhiều người mắc chứng cuồng ăn và biếng ăn cố gắng trì
hoãn vô thời hạn việc nhận ra họ thuộc giới tính nào, như thể đó là một quyết định có
thể được thực hiện một mình. Họ cố gắng xác định là cả nam và nữ vì vậy hãy tưởng
tượng họ có thể tự cung cấp mọi thứ cho bản thân. Một số bệnh nhân rút lui vào dạng
tự ái đặc biệt này, trong khi ở một số bệnh nhân khác, một dạng sớm hơn dường như
xuất hiện, nơi mà kiến thức về sự tồn tại tách biệt khỏi mẹ không được phép tiếp cận
với ý thức “(Farrell, 2005).

Theo nghiên cứu trên các bệnh nhân nữ mắc chứng rối loạn ăn uống mãn tính, dường
như có mối liên hệ với rối loạn cảm xúc trong thời thơ ấu. “... những bệnh nhân này
không có” sự tự tin “và hướng đến chủ nghĩa hoàn hảo ...” sự tự tin “phát triển trong
mối quan hệ với sự tự tin được Người khác thể hiện nếu điều này không thành công
thì sẽ không có “bản thân” – sự tự tin. (sđd, tr.232). Các triệu chứng của rối loạn này
được thể hiện ở cấp độ cơ thể cho thấy rằng gốc rễ nguyên nhân của triệu chứng rối
loạn ăn uống có thể bắt nguồn từ các giai đoạn phát triển ban đầu của thời thơ ấu liên
quan đến sự hòa nhập và trục xuất. Bruch đã thấy thất bại trong việc nuôi dạy con cái
đầy đủ và hiệu quả. Bruch tin rằng đứa trẻ đã không được chỉ ra cách biết, gọi tên
hoặc nhận biết các trạng thái bên trong của mình.
Trong trường hợp nghiêm trọng nhất, đứa trẻ biếng ăn, trong những nỗ lực tách
biệt của mình đã bộc lộ ý muốn tìm đến cái chết. Tuy nhiên, cũng như bản năng chết,
bản năng sống tồn tại song song cùng với nó. Freud coi bản năng chết là “hoạt động
âm thầm” về ý định hủy diệt đối với bản thân. Một phần của bản năng hoặc động lực
này được chuyển hướng ra thế giới bên ngoài và thể hiện mình như một bản năng hiếu
chiến và phá hoại. Các tác động tâm lý hoặc các triệu chứng thể hiện ra thế giới bên
ngoài dưới các hình thức hung hăng, tức giận, bốc đồng và tự tử. Đứa trẻ biếng ăn
cảm thấy rằng chúng đang áp dụng chiến lược duy nhất có sẵn cho để cảm thấy mình
kiểm soát được cơ thể của chính mình, tách khỏi sự nắm bắt của Người khác. Về cơ
bản, nó liên quan đến một cuộc khủng hoảng danh tính cho chủ thể. Có vẻ như những
tưởng tượng vô thức tồn tại đối với những đứa trẻ biếng ăn có thể mang tính chất hủy
diệt chống lại bản thân và người khác. Trong khi các khía cạnh chết người của chứng
biếng ăn đôi khi có liên quan đến chấn thương, ở những bệnh nhân khác, chúng là kết
quả của những khó khăn về phát triển với nguồn gốc từ các mối quan hệ trẻ sơ sinh.

“Cái tôi” của những kẻ biếng ăn ... đàn áp, đàn áp, phủ nhận, thay thế, bên
ngoài và gây ra xung đột về nỗi sợ bị béo phì. “(Wilson, 1988, P.438). Các cá nhân
cảm thấy không thoải mái về bản thân. Cái tôi theo Lacan được hình thành trên cơ sở
mối quan hệ tưởng tượng của chủ thể với cơ thể của chính mình. Bản ngã có ảo tưởng
về quyền tự chủ, nhưng nó chỉ là ảo tưởng, và chủ thể chuyển từ sự phân mảnh và
thiếu hụt sang sự thống nhất ảo tưởng. ”(Benvenuto, Kennedy, & Lacan, 1986, tr.56).
Facebook và ‘Selfie’ là một ví dụ hiện đại về các hình thức truyền thông ảo ảnh / dựa
trên hình ảnh mà chúng ta tham gia trong xã hội ngày nay. Có vẻ như ngày càng có
nhiều người tạo dáng trước máy ảnh và chụp ảnh chính họ để đăng trực tuyến. Ngày
càng rõ ràng rằng những cá nhân này đã trở nên xa lạ với chính họ. Sự xa lánh là sự
thiếu vắng bản thể mà cá nhân phải đối mặt, nhận thức được bản thân trong trí tưởng
tượng của mình. Điều này xảy ra do đối tượng tưởng tượng về bản thân cô ấy. Cá nhân
đang tìm kiếm hình ảnh hoàn hảo là một lý tưởng hão huyền. Facebook và ‘Selfie’
phát huy niềm đam mê của con người với hình ảnh, tách chúng ta ra khỏi chính mình.
Trẻ biếng ăn thiếu nhận thức về bản thân thực sự của mình. Trong mỗi xã hội, trải
nghiệm của con người được cấu trúc bởi các hình thức biểu tượng; ngôn ngữ, hình ảnh
và cách thức biểu diễn mà mỗi nền văn hóa sử dụng để thể hiện thực tại ... Mỗi xã hội,
trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, phát sinh ra những ‘câu chuyện chính’ nhất
định quyết định con người nhận thức về thực tế. ”(Garrett, 1998, tr40). Những ‘câu
chuyện chính’ này là thứ quyết định nhận thức của chúng ta về thực tế và có thể dẫn
đến những hậu quả tai hại cho sức khỏe thể chất và tinh thần của một cá nhân. Những
gì được mô tả hoặc nhận thức là một lý tưởng hão huyền không cho phép sự khác biệt
hoặc sở thích cá nhân “... những biểu hiện trên cơ thể chỉ có ý nghĩa trong chừng mực
mà người kia mô tả một ý nghĩa cho chúng.” (Dor, 1998, Tr.189). Đối với trẻ biếng ăn
tồn tại những xung đột tâm lý vô thức chưa được giải quyết. Người ta tin rằng trong
các giai đoạn phát triển, sự suy yếu trong quá trình phát triển nhân dạng bao gồm khái
niệm về bản thân góp phần gây ra rối loạn hình ảnh cơ thể.

2. Rối loạn ăn uống theo góc nhìn tâm lý học nhận thức
Nhận thức sai lệch là những suy nghĩ hoặc kiểu suy nghĩ không chính xác hoặc
phóng đại. Chúng đôi khi còn được coi là những suy nghĩ rối loạn chức năng , tiêu cực
hoặc tự động. Nhận thức méo mó về thức ăn, cân nặng và hình ảnh cơ thể là một triệu
chứng cốt lõi của cả chứng chán ăn tâm thần và chứng ăn vô độ và nhiều người khác
cũng gặp phải. Suy nghĩ, cảm xúc và hành vi được liên kết với nhau, vì vậy những suy
nghĩ tự động này hoặc sự bóp méo nhận thức có thể dẫn đến các hành vi rối loạn. Điều
trị rối loạn ăn uống thường ưu tiên phục hồi cân nặng, khôi phục lại thói quen ăn uống
bình thường và các thay đổi hành vi khác. Sau đó, điều trị cũng thường giải quyết các
kiểu suy nghĩ có vấn đề.
Mặc dù có sự khác biệt giữa BN và BED về các hành vi liên quan đến ED, hai
chứng rối loạn này dường như có chung cơ chế chẩn đoán chẩn đoán liên quan đến
việc duy trì bệnh lý ED: đánh giá quá cao về hình dạng, cân nặng và ăn uống, đi kèm
với chủ nghĩa hoàn hảo ( Fairburn et al. , 2003). Có ý kiến cho rằng việc hạn chế ăn
uống được kích hoạt bởi những suy nghĩ rối loạn chức năng (ví dụ: 'Tôi không được
phép ăn thực phẩm này.'), Có liên quan đến việc đánh giá quá cao việc ăn uống, cân
nặng và hình dáng (niềm tin cốt lõi, ví dụ: 'Nếu tôi béo, mọi người sẽ không thích tôi.
'), do đó làm nổi bật tầm quan trọng của nội dung nhận thức cũng như những niềm tin
cốt lõi về rối loạn chức năng cơ bản đối với việc duy trì các hành vi liên quan đến ED
( Dingemans và cộng sự, 2006 ; Hughes và cộng sự, 2006 ; Unoka và cộng sự, 2010)
Hơn nữa, người ta đã đưa ra giả thuyết rằng những niềm tin và suy nghĩ dành
riêng cho ED chỉ ra các mối quan tâm về cân nặng, hình dạng và ăn uống là kết quả
của các lược đồ chung chung không tốt hơn, ví dụ liên quan đến bối cảnh giữa các cá
nhân (ví dụ, khiếm khuyết / xấu hổ), và do đó góp phần vào sự phát triển của rối loạn
chức năng ED- các triệu chứng và hành vi liên quan ( Gongora và cộng sự, 2004 ;
Hughes và cộng sự, 2006 ). Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm thay vì mang tính
chất tương quan và những phát hiện làm sáng tỏ mối quan hệ giữa nội dung nhận thức
và các lược đồ cốt lõi không phù hợp, cũng như cách chúng có thể tác động đến hành
vi ăn uống vô độ. Dựa trên các mô hình nhận thức chung đề xuất một trật tự thứ bậc
của những niềm tin và suy nghĩ cốt lõi (ví dụ: Disner và cộng sự, 2011), có vẻ như
những niềm tin cốt lõi tác động đến các hành vi liên quan đến ED thông qua những
suy nghĩ theo tình huống cụ thể.
Ba lĩnh vực chính của rối loạn chức năng nhận thức đã được xác định ở những
người bị ED được chẩn đoán ( Legenbauer và cộng sự, 2007):
(a) suy nghĩ tiêu cực về cơ thể và lòng tự trọng,
(b) suy nghĩ về việc hạn chế ăn và giảm cân, và
(c) suy nghĩ về việc ăn uống và mất kiểm soát. Đặc biệt, sự khác biệt về mức
độ suy nghĩ về việc ăn uống hạn chế đã được tìm thấy giữa những người có BN và
BED. Ngược lại, mức độ suy nghĩ về việc ăn uống và mất kiểm soát có thể so sánh
giữa các loại chẩn đoán. Hơn nữa, mức độ rối loạn nhận thức chung có liên quan đáng
kể đến các triệu chứng rối loạn ăn uống. Cụ thể, tần suất ăn uống vô độ (báo cáo tự
hồi cứu) có liên quan đáng kể đến mức độ suy nghĩ về việc ăn uống và mất kiểm soát,
và mức độ hành vi ăn uống hạn chế được báo cáo có liên quan đáng kể đến mức độ
suy nghĩ về việc hạn chế ăn kiêng ( Legend Bauer et al., 2007). Có thêm bằng chứng
chứng minh rằng sự thay đổi mức độ suy nghĩ về việc hạn chế ăn uống dẫn đến thay
đổi hành vi ăn uống hạn chế ( Legenbauer và cộng sự, 2011 ). Ngoài ra, một số nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm đã chỉ ra rằng cảm giác thèm muốn hoặc suy nghĩ liên
quan đến ED được khơi gợi trong các bối cảnh tình huống cụ thể như tiếp xúc với
thức ăn ngon miệng hoặc cảm ứng căng thẳng (ví dụ, Stirling và Yeomans, 2004 ;
Hilbert và cộng sự, 2007b ; Siep và cộng sự. , 2012 ; Van Dillen và cộng sự, 2013 ;
Yokum và Stice, 2013). Cuối cùng, các mô hình lý thuyết đưa ra giả thuyết rằng phụ
nữ có hành vi ăn uống rối loạn kiểm soát lượng thức ăn của họ để giảm cân hoặc ngăn
ngừa tăng cân bằng cách ức chế suy nghĩ về việc ăn thức ăn (mô hình xung đột mục
tiêu; Stroebe và cộng sự, 2008 ). Tuy nhiên, việc cố gắng không nghĩ đến thức ăn và
cố tình hạn chế ăn sẽ khiến lượng tiêu thụ sau đó tăng lên thay vì giảm ( Erskine và
Georgiou, 2013 ). Các nghiên cứu nêu bật sự liên quan của nội dung nhận thức và các
yếu tố kích hoạt tình huống cụ thể đối với hành vi ăn uống bị rối loạn. Tuy nhiên, các
mô hình nhận thức cũng như nghiên cứu gần đây cũng nhấn mạnh vai trò của niềm tin
cốt lõi / lược đồ không phù hợp như là tác nhân gây ra rối loạn chức năng suy nghĩ
theo tình huống cụ thể.
3. Rối loạn ăn uống theo góc nhìn hành vi:
Quan điểm Hành vi. Đối với các rối loạn thuộc về Quan điểm hành vi, hành vi
mà bệnh nhân thể hiện là bất thường cơ bản, cho dù đó là hành vi tự bỏ đói, bỏ ăn,
uống rượu, rối loạn chức năng tình dục hoặc các hành động khác. Cần phải có hành vi
bất thường về mặt tâm thần. Vắng mặt hành vi, vắng bóng rối loạn.
AN được nhìn nhận tốt nhất từ Quan điểm Hành vi. Nếu không có hành vi tự
bỏ đói, chứng biếng ăn không tồn tại như một rối loạn. Nhiều người có thể đấu tranh
với mong muốn có được sự thon gọn hoặc thay đổi hình dạng. Họ có thể bị bất mãn về
cơ thể, không ngừng so sánh mình với những hình ảnh cơ thể không thể lý tưởng hóa
trên các phương tiện truyền thông. Nếu không có hành vi tự đói, AN như một thực thể
không tồn tại.
Có nhiều lợi thế khi xem AN là thuộc về Quan điểm Hành vi. Đầu tiên, cách
phân loại này tránh việc tìm kiếm một phân loại đơn lẻ, cơ bản hơn, được giả thuyết,
mà trước đây đã cho rằng AN là một forme fruste (dạng không hoàn toàn hoặc bất
thường) của OCD, trầm cảm hoặc tâm thần phân liệt. Mặc dù AN có thể di chuyển
giữa các dạng phụ của EDO, AN không biến thành một chứng rối loạn khác. Thứ hai,
nó cho phép chấp nhận thực tế rằng nhiều con đường xâm nhập, không phải một con
đường duy nhất, có thể dẫn đến hành vi bất thường là tự đói kéo dài, tránh việc phân
chia lĩnh vực này thành các phe phái thúc đẩy sự khởi đầu của rối loạn từ các nguồn
duy nhất. Các nguồn như vậy bao gồm lập trường tồn tại chống lại nỗi sợ hãi về sự
phát triển, phương pháp kiểm soát gia đình, phản đối nữ quyền chống lại sự thống trị
của nam giới, kết quả của rối loạn chức năng serotonergic, bảo vệ chống lại những lời
chỉ trích lặp đi lặp lại ở những điểm quan trọng trong quá trình phát triển hoặc chiến
lược để tự điều chỉnh cảm xúc .
Khi một hành vi bất thường là quan điểm xác định, chẳng hạn như tự bỏ đói là
hành vi cần thiết trong AN, thì các chiến lược điều trị tuân theo một cách logic. Thay
đổi hành vi bất thường, cho dù trong AN, lạm dụng chất kích thích, hoặc trong hành vi
tình dục, là mục tiêu điều trị đầu tiên cho các rối loạn trong Quan điểm Hành vi. Mặc
dù việc điều trị bắt đầu bằng việc thay đổi hành vi, nhưng việc điều trị không kết thúc
ở đó. Đánh giá cao, nếu có thể, những đóng góp của các Quan điểm khác cho phép cá
nhân hóa việc điều trị cho từng bệnh nhân theo sự đa dạng của các con đường khởi
phát hành vi bất thường, và theo các đặc điểm khuynh hướng cụ thể khác nhau đối với
từng bệnh nhân và bất kỳ bệnh đi kèm nào các rối loạn.
Và nếu ai đó giảm cân được khen ngợi hoặc khen thưởng về ngoại hình của họ
nhưng lại có những biện pháp khắc nghiệt để trông như vậy, thì lời khen ngợi này có
thể góp phần vào sự phát triển hoặc duy trì chứng rối loạn ăn uống. Những loại hành
vi nào được khen thưởng và khuyến khích chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố
văn hóa xã hội, chúng ta sẽ xem xét ngay sau đây. Một mối liên hệ hành vi khác với
chứng rối loạn ăn uống là cách thức mà sự lo lắng hoặc căng thẳng có liên quan đến
việc ăn hoặc ăn quá nhiều; những nỗ lực để tránh sự lo lắng đó có thể dẫn đến đói
hoặc say xỉn, và việc giảm bớt lo lắng đóng vai trò như một yếu tố củng cố cho hành
vi.
Khi những người mù xem xét con voi, họ đã đưa ra nhiều kết luận bằng cách
chỉ kiểm tra một phần giải phẫu của con vật. Cách tiếp cận của các Quan điểm tránh
việc phân đoạn này thành các loại loại trừ lẫn nhau bằng cách nhận ra tính ưu việt của
một Quan điểm đối với mỗi rối loạn, một quan điểm đề xuất căn nguyên thay vì phân
loại mô tả, nhưng không loại trừ thông tin khác. Nhiều nỗ lực nghiên cứu hiện đang
đào sâu vào triệu chứng lâm sàng của triệu chứng AN từ các phía khác nhau, các định
hướng lý thuyết khác nhau. Trên thực tế, bởi vì họ đang sử dụng các phương pháp trực
giao với nhau để giải thích các kết quả được tạo ra (hoạt động bất thường của hệ
serotoninergic so với các họ liên kết gần không thể chuyển đổi lẫn nhau), trong thực
tế, ngày càng tiến xa nhau để đạt được sự hiểu biết cơ bản về AN.
4. Rối loạn ăn uống theo góc nhìn sinh lý thần kinh:
● Nguyên nhân di truyền:

Một số người mang gen bệnh theo gia đình làm tăng nguy cơ rối loạn ăn uống
tâm thần, điều này nghĩa là khi bố mẹ hoặc anh chị em ruột mắc chứng bệnh này, bạn
cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Ngoài ra, điều này còn do thói quen ăn uống khi ở
chung khiến nhiều người trong gia đình có thể cùng bị rối loạn ăn uống tâm thần.

● Hormone và các hoạt chất trong cơ thể

- Dopamine : các nghiên cứu chỉ ra rằng dopamine- một loại hormone có liên
quan tới cân nặng, hành vi cho ăn, tăng cường và khen thưởng là một trong những tác
nhân gây ra Eds. Khi ăn, não người sẽ tiết ra dopamine gây cảm giác thoải mái, dể
chịu, hưng phấn, nên đối với các bệnh nhân trầm cảm,, rối loạn lo âu, sẽ có xu hướng
mắc rối loạn ăn uống cao hơn do dùng việc ăn để tạo cảm giác thoải mái, để cảm thấy
được trấn an. Hoặc với những người lạm dụng cảm giác được kích thích, cũng sẽ dung
việc ăn để được trở nên “ hạnh phúc”, sẽ gây ra tình trạng rối loạn ăn uống

- Serotonin: đóng vai trò là một chất dẫn truyền thần kinh, một loại hóa chất
giúp chuyển tiếp tín hiệu từ vùng não này sang vùng não khác. Mặc dù serotonin được
sản xuất trong não, nơi nó thực hiện các chức năng chính nhưng có tới khoảng 90%
nguồn cung cấp serotonin trong cơ thể chúng ta được tìm thấy trong đường tiêu hóa và
trong các tiểu cầu trong máu. Một nghiên cứu ở Anh- London cho thấy rối loạn
serotonin có thể dẫn đến Eds cụ thể những người chán ăn tâm thần có lương serotonin
cao, và ngược lại ở những người có tình trạng ăn ói. Bên cạnh đó, bộ phận thụ cảm
serotonin cũng có sự thay đổi.
- Vùng hạ đồi : những hóa chất là hormone liên quan tới hành vi ăn uống và
cảm giác thèm ăn nằm ở vùng này, nên những người bị tổn thương vùng hạ đồi cũng
có nguy cơ cao sẽ mắc Eds.

- Cholecystokinin : (còn được gọi là _CCK hoặc CCK-PZ) là một hormone


peptide của hệ thống đường tiêu hóa chịu trách nhiệm kích thích tiêu hóa chất béo và
protein, hormone này có tác dụng gây no và giảm ăn. Khi nồng độ hormone này thấp
sẽ gây nên hiện tượng mất cảm giác no, dẫn đến ăn uống không kiểm soát, gây ra Eds.

- Chất điều khiển thần kinh Neuropeptide Y (NPY) : là một hormone hiện diện
rộng rãi ở trung tâm và ngoại vi và duy trì cân bằng nội môi. Về trung tâm, NPY có
chức năng chống lo âu và chống động kinh, có tác dụng ức chế sinh sản, ức chế hưng
phấn cơ bắp, ức chế hưng phấn giao cảm, dẫn đến giảm huyết áp, nhịp tim, chuyển
hóa của cơ thể người. Peptide YY (PYY) còn được gọi là peptide tyrosine tyrosine là
một peptide mà ở người thì được mã hóa bởi gen PYY. Peptide YY là một peptide
ngắn (36 amino acid) được giải phóng từ các tế bào trong ruột và đại tràng để đáp ứng
với thức ăn. Trong máu, ruột, và các yếu tố khác của vùng ngoại vi, PYY hoạt động để
giảm thèm ăn; tương tự như vậy, khi được tiêm trực tiếp vào hệ thần kinh trung ương,
PYY cũng có tính làm chán ăn, hay nói cách khách là giảm thèm ăn.

=> Khi hai chất NPY và PYY này bị giảm hoặc dù số lượng bình thường nhưng vì lí
do đặc biệt nào mà lại bị cản trở bởi hàng rào máu não thì sẽ không thể ức chế được
cảm giác them ăn, dẫn đến Eds.

- Cortisol : được tiết ra tại vỏ tuyến thượng thần, có tác dụng tang đường huyết
và trao đổi chất. Khi hormone này mất cân bằng thì cũng gây nên Eds.

- Các hormone sinh sản estrogen, progesterone và testosterone : các nghiên cứu
mới đây cũng đã chỉ ra sự thay đổi của các hormone sinh sản cũng sẽ gây ra Eds, đặc
biệt xảy ra cao hơn ở nữ giới, từ đó chỉ ra bệnh sẽ dễ xuất hiện và phát triển ở giai
đoạn dậy thì và khi phụ nữ mang thai, đặc biệt cao với những người có gen di truyền
về Eds.

● Liên quan tới bệnh lý khác:


- Bệnh tiểu đường type 1 ( phụ thuộc insulin) : Nghiên cứu cho thấy ¼ bệnh
nhân mắc bệnh tiểu đường type 1 sẽ bị rối loạn ăn uống. Mô hình phổ biến nhất
là bỏ qua bỏ qua việc tiêm insulin- một dạng rối loạn ăn uống thường gặp ở
bệnh nhân mắc tiểu đường loại 1 – có thể gây chết người.

VI. Điều trị:


1. Can thiệp đối với chứng chán ăn:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chứng chán ăn, do vậy trị liệu tối ưu nhất
tùy thuộc vào từng cá nhân. Những dạng can thiệp có thể được sử dụng gồm: trị liệu
hành vi nhận thức, trị liệu gia đình, trị liệu tâm lý chiều sâu, mỗi sự can thiệp đó được
thực hiện như những lời khen, động viên hơn là can thiệp cạnh tranh. Can thiệp có thể
được chia thành 2 giai đoạn, ban đầu thường ở bệnh viện, tập trung vào việc tăng cân,
và giai đoạn sau là một thời kỳ trị liệu ngoại trú kéo dài, tập trung vào thay đổi nhận
thức và hành vi.
1.1. Khuyến khích tăng cân:
Cần phải cho người bệnh điều trị nội trú trong trường hợp cân nặng của họ
giảm nghiêm trọng, dưới 75% cân nặng bình thường. Sự can thiệp ở bệnh viện thường
tập trung cải thiện cân nặng còn thiếu. Tuy nhiên cần tránh nguy cơ nhồi nhét thức ăn
vào rồi lại nôn ra làm vô hiệu việc chữa bệnh.
1.2. Cách tiếp cận hành vi nhận thức:
Giai đoạn thứ hai trong việc trị liệu là những can thiệp nhằm thay đổi hành vi
và duy trì được sự thay đổi đó một cách lâu dài. Có thể cách tiếp cận hành vi nhận
thức được sử dụng một cách rộng rãi nhất là của Garner và Bemis (1985). Nó được
chia thành nhiều giai đoạn, giai đoạn đầu tiên là xác lập mối quan hệ làm việc với cá
nhân. Ở thời điểm này vấn đề mấu chốt nhất là để niềm tin của họ không bị lung lay
khiến họ từ chối trị liệu.
Can thiệp nhận thức có thể có nhiều mục đích bao gồm sự thay đổi những nhận
thức sai lệch và phát triển sự tự chủ. Có thể nhấn mạnh vào những cảm giác và thái độ
sai lạc. Mặc dù có thể không làm thay đổi mong muốn được gầy, tuy nhiên ý thức
được sự lệch lạc và chấp nhận sự thật rằng ít nhiều họ đã phóng đại, có thể giúp họ
thiện chí ăn uống. Tự chủ có thể được cổ vũ bởi sự đối mặt với những nhận thức tiêu
cực và khích lệ cá nhân tin vào trực giác và cảm giác bên trong của họ. Sự thách thức
về mặt nhận thức khích lệ cá nhân quan tâm đến cái giá là những cảm xúc mạnh do
hành vi đưa lại, giúp họ thăm dò một vài sơ đồ sâu bên trong của hành vi, như niềm
tin rằng trọng lượng cơ thể hay ngoại hình có thể là tiêu chuẩn duy nhất cho giá trị bản
thân và kiểm soát hoàn toàn bản thân là điều cần thiết.
1.3. Tiếp cận trị liệu gia đình:
Có nhiều cách trị liệu gia đình khác nhau đã được sử dụng để trị liệu chứng
chán ăn. tuy nhiên đều tìm cách thay đổi cấu trúc quyền lực trong gia đình bằng cách
tăng cường sức mạnh cho cha mẹ, ngăn cản liên minh xuyên thế hệ, giảm sự căng
thẳng cũng như các vấn đề của cha mẹ. Cách tiếp cận này tương phản rõ rệt với can
thiệp hành vi nhận thức với cách khích lệ tự chủ và kiểm soát việc ăn uống của cá
nhân.
❖ Trị liệu cấu trúc gia đình
Cách tiếp cận có 3 nhiệm vụ:
Đầu tiên bao gồm sắp xếp cho gia đình bước vào quá trình trị liệu
Giai đoạn 2 là thời kì bồi dưỡng ăn uống. Đây là giai đoạn gia đình tiến hành
ăn cùng nhau để củng cố mối quan hệ gia đình, đưa ra những sự giúp đỡ, các quy định
về thức ăn và thức uống. Thời điểm này “bệnh nhân” được động viên, liên kết mối
quan hệ gia đình nhằm củng cố những ranh giới hợp lí trong gia đình.
Giai đoạn cuối cùng bao gồm sự thay đổi trong hệ thống gia đình, trong đó có
lấy lại quyền kiểm soát ăn uống của cha mẹ, củng cố sự hợp tác giữa cha mẹ, xóa bỏ
liên kết hoặc thông đồng giữa cha hoặc mẹ với thành viên có rối loạn ăn uống.
❖ Trị liệu hành vi gia đình
Trị liệu hành vi gia đình (Robin và cs.1995) kết hợp tiếp cận hệ thống và trị
liệu hành vi. Mục tiêu của trị liệu bắt đầu từ việc khôi phục cân nặng. Trị liệu theo 3
giai đoạn:
- Kiểm soát việc ăn uống sẽ được chuyển từ con cái sang cho cha mẹ để khôi
phục trật tự trong gia đình. Cha mẹ được hướng dẫn và khích lệ thực hiện
chương trình hành vi tăng cân cho con của họ, bao gồm chuẩn bị bữa ăn, tập
thể dục đều đặn và lập bảng theo dõi những việc làm theo hay không làm theo
kế hoạch. Khi tăng cân thì việc trị liệu được chuyển sang giai đoạn 2. Nó kết
hợp 3 yếu tố:
+) Cải tổ biểu tượng sai lạc về cơ thể và các niềm tin phi lí vào thức ăn
+) Làm việc với gia đình để sửa đổi sự lúng túng, liên minh, trật tự không thích
hợp trong gia đình
+) Chuyển từ từ việc kiểm soát ăn cho người bị rối loạn.
Cuối cùng gia đình có thể được hướng dẫn cách giải quyết vấn đề, các kỹ năng
giao tiếp.

1.4. Trị liệu phân tâm:


Khá nhiều nghiên cứu ca và nghiên cứu không kiểm soát cho thấy tiếp cận
phân tâm học đối với điều trị chán ăn có hiệu quả với vị thành niên về các vấn đề thứ
yếu.
Can thiệp phân tâm học được thực hiện trong một thời gian tương đối hạn chế,
trung bình 24 buổi trong giai đoạn 1 năm. Trong đó nhà trị liệu không đóng vai trò là
người hướng dẫn, chỉ đạo không đưa ra lời khuyên về ăn uống hoặc các vấn đề khác
trong quản trị triệu chứng. Họ lí giải ý nghĩa vô thức và ý thức của các triệu chứng
trong mối quan hệ với tiền sử cá nhân, hậu quả của các triệu chứng và ảnh hưởng của
nó trong các mối quan hệ hiện nay của họ, sự biểu hiện của các ảnh hưởng đó trong
mối quan hệ với nhà trị liệu.
Dare và cộng sự (2001) so sánh hiệu quả các tiếp cận này với tiếp cận trị liệu
gia đình, can thiệp trên cơ sở cá nhân có các yếu tố của các tiếp cận phân tâm và nhận
thức và một trạng thái hỗ trợ lỏng lẻo trong đó những người tham gia không được trị
liệu theo hệ thống. Những người tham gia nghiên cứu có tiên lượng tương đối xấu.
Tuy nhiên kết quả không can thiệp nào hiệu quả hơn can thiệp nào.
1.5. Can thiệp dược lý:
Can thiệp dược lý không cho hiệu quả đặc biệt trong điều trị chứng chán ăn
Jimerson và cs. 1993 tiến hành siêu phân tích tất cả các nghiên cứu có kiểm soát trong
việc điều trị chứng chán ăn bằng thuốc chống trầm cảm và thuốc hướng thần để xem
hiệu quả. Họ cho rằng rất ít bằng chứng về hiệu quả.
Mặc dù điều trị bằng SSRIs có thể có hiệu quả trong điều trị trầm cảm đi kèm
chứng chán ăn song không có bằng chứng nào về sự thay đổi chắc chắn trong những
triệu chứng cơ bản của chứng chán ăn. (Ferguson và cs 1999)
Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ trong nghiên cứu này. Kaye và cộng sự
(2001) cho thấy can thiệp được thực hiện đối với những phụ nữ chán ăn được điều trị
bằng Fluoxetine hoặc bằng placebo có kiểm soát.
Trong một siêu phân tích những so sánh giữa trị liệu tâm lý và dùng thuốc,
Bacatchuk và cộng sự (2002) nhận thấy tỷ lệ thuyên giảm toàn bộ 20% đối với những
người điều trị bằng thuốc chống trầm cảm so với 39% trị liệu tâm lý. Tỉ lệ bỏ dở giữa
chừng ở người dùng thuốc chống trầm cảm cao hơn người trị liệu tâm lý.

2. Can thiệp đối với chứng cuồng ăn:


2.1. Trị liệu hành vi nhận thức
Trái ngược với can thiệp trong chán ăn, đối với chứng cuồng ăn có kết cấu hơn
và tiên lượng tốt hơn (Anderson và Maloney 2001) Một trong những cách trị liệu hành
vi nhận thức tiên phong trong chứng cuồng ăn là tiếp cận 3 giai đoạn (Fairburn 1997)
Giai đoạn thứ nhất có 2 mục tiêu: chứng minh sự cần thiết phải trị liệu và thay đổi thói
quen ăn uống vô độ bằng hình thức ăn đều đặn hơn.
Việc ăn tập trung nghiêm túc vào 3 bữa chính và thêm 2 đến 3 bữa nhẹ có kế
hoạch trước, không được cho nôn hoặc các hành vi tương tự khác. Điều ngày thường
không làm tăng cân. Ngược lại, giảm tần số ăn uống vô độ có thể giúp giảm cân.
Các hoạt động tiêu hao năng lượng như tắm, gặp gỡ bạn bè có thể được sử
dụng để giảm nguy cơ ăn uống vô độ. Một khi bữa ăn được thực hiện đều đặn, ý muốn
nôn sẽ giảm một cách tự nhiên. Phần cuối của giai đoạn này, những buổi trị liệu có thể
bao gồm cả thân chủ và bạn bè thân thiết, họ hàng, với mục đích đưa ra là một môi
trường có thể hỗ trợ sự thay đổi hành vi.
Giai đoạn thứ 2 bao gồm sử dụng cả quy trình hành vi và nhận thức nhằm
chống lại sự định kiến hình dáng và cân nặng và những nhận thức lệch lạc khác. Can
thiệp hành vi có thể bao gồm ăn những loại thức ăn trước kia tránh né, nếu cần có thể
tăng năng lượng đầu vào.
Điều này được thực hiện theo hệ thống thứ bậc bắt đầu từ những thức ăn có thể
chấp nhận được cho đến những thức ăn có thể gây ra lo âu mức độ nặng hoặc mong
muốn ăn vô độ hoặc dùng thuốc xổ ruột. Cùng thời điểm thân chủ được khuyến khích
nhận diện những sự thừa nhận tiêu cực về hình dáng và cân nặng của họ và tìm bằng
chứng để củng cố hoặc chống lại chúng bằng cách sử dụng kĩ thuật thách thức khả
năng nhận thức
Giai đoạn 3 liên quan đến việc duy trì những sự tiến bộ đạt được trong 2 giai
đoạn đầu, cân nhắc chiến lược ngăn ngừa tái phát khi trị liệu kết thúc.
Trị liệu này thường cho kết quả tốt nhanh chóng cũng như lâu dài.
2.2. Trị liệu liên cá nhân
Một cách tiếp cận trị liệu tâm lý khác cũng khá hiệu quả trong trị liệu cuồng ăn.
Tâm lý trị liệu liên cá nhân (IPT) tập trung chủ yếu vào những chiến lược cải thiện
mối quan hệ liên cá nhân trong việc loại trừ bất kỳ vấn đề trị liệu nào khác. Fairburn
và cs. thấy rằng nó kém hiệu quả hơn trị liệu nhận thức trong các đợt trị liệu ngắn
ngày,
Tuy nhiên sau 1 năm không còn sự khác biệt và đối với những người tham gia IPT vẫn
tiếp tục có sự cải thiện.
2.3. Can thiệp dược lý
Thuốc trầm cảm cho cuồng ăn làm giảm tần số ăn vô độ với tỷ lệ trung bình là
56% so với 11% placebo (Jimerson và cs 1993) Ty nhiên rất nhiều người trị liệu bằng
thuốc chống trầm cảm đã bỏ dở giữa chừng do bị phụ thuộc vào thuốc. Thêm vào đó,
tỉ lệ tái phát ở nhóm này lên đến 30%-45% sau khoảng 4-6 tháng bỏ điều trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Tài liệu tham khảo từ sách, bài báo nghiên cứu
● Janet Polivy and C. Peter Herman (2002). Causes of eating disorders.
Department of Psychology, University of Toronto, Erindale Campus,
Mississauga, Ontario, Canada.
● The Psychoanalytic Understanding of Anorexia Nervosa and The Therapeutic
Response, Fiona Gaynor, May 2015
● Sầm Vĩnh Lộc (2017). Rối loạn ăn uống: dưới góc nhìn của một dạng rối loạn
tâm thần. Tạp chí khoa học tập 14 số 5.
● Applying the Four Perspectives to Anorexia Nervosa. From to:
https://eatingdisordersreview.com/applying-the-four-perspectives-to-anorexia-
nervosa/
● By James E. Mitchell, MD and Kristine Steffen, Pharm D, PhD University of
North Dakota School of Medicine, Fargo Reprinted from Eating Disorders
Review January/February 2009 Volume 20, Number 1
● Ghaderi, A. (2020). Eating disorders. Functional Analysis in Clinical
Treatment, 421–449. doi:10.1016/b978-0-12-805469-7.00018-8
● Waller, G. orcid.org/0000-0001-7794-9546 and Raykos, B. (2019) Behavioral
interventions in the treatment of eating disorders. Psychiatric Clinics of North
America, 42 (2). pp. 181- 191. ISSN 0193-953X
https://doi.org/10.1016/j.psc.2019.01.002
● Eating disorders rise at puberty, menopause. Is there a hormonal link By Kate
Willsky, the Washington post
● Eating disorders: clinical features and pathophysiology Diane Alix Klein*, B.
Timothy Walsh1 Columbia University/NYSPI, Unit #98, 1051 Riverside
Drive, New York, NY 10032, USK
● Keel PK, Mitchell JE. Outcome in bulimia nervosa. Am J Psychiatry
1997;154:313 – 21.
● Anderson IM, Parry-Billings M, Newsholme EA, Fairburn CG, Cowen PJ.
Dieting reduces plasma tryptophan and alters brain 5- HT function in women.
Psychol Med 1990;20:785 – 91.
● Bello, N. T., & Hajnal, A. (2010). Dopamine and binge eating behaviors.
Pharmacology Biochemistry and Behavior, 97(1), 25–33
● Watson, S. (2021, July 20) Dopamine: The pathway to pleasure. Harvard
Health Publishing.
● Alonso-Alonso, M., Woods, S. C., Pelchat, M., Grigson, P. S., Stice, E.,
Farooqi, S., Khoo, C. S., Mattes, R. D., & Beauchamp, G. K. (2015). Food
reward system: Current perspectives and future research needs. Nutrition
Reviews, 73(5), 296–307.
● ScienceDaily. (2011, February 28). Binge eaters' dopamine levels spike at
sight, smell of food. ScienceDaily.
● Brewerton TD. Toward a unified theory of serotonin dysregulation in eating
and related disorders. Psychoneuroendocrinology 1995;20: 561 – 90.
● Jimerson DC, Lesem MD, Kaye WH, Hegg AP, Brewerton TD. Eating
disorders and depression: is there a serotonin connection? Biol Psychiatry
1990;28:443 – 54.
● Weltzin TE, Fernstrom JD, McConaha C, Kaye WH. Acute tryptophan
depletion in bulimia: effects on large neutral amino acids. Biol Psychiatry
1994;35:388 – 97.
● Watson H.J., Egan S.J., Limburg K., Hoiles K.J. Normative data for female
adolescents with eating disorders on the Children’s depression inventory. Int.
J. Eat. Disord. 2014;47:666–670. doi: 10.1002/eat.22294.
● Mackenzie L. Brown BA,Cheri A. Levinson PhD (2022). Core eating disorder
fears: Prevalence and differences in eating disorder fears across eating
disorder diagnoses. https://doi.org/10.1002/eat.23728
● Rikinkumar S. Patel, Tanya Machado, and William E. Tankersley (2021).
Eating Disorders and Suicidal Behaviors in Adolescents with Major
Depression: Insights from the US Hospitals. doi: 10.3390/bs11050078
● Paul Bennett (2003), Abnormal and clinical psychology, Open University
Press Maidenhead-Philadelphia
● Fairburn, C.G. (1997). Eating disorder, in D.M Clark and C.G Fair (eds)
Science and Practice of Cognitive Behavior Therapy.
● Jimerson, D.C., Herzog, D.B and Brotman, A.W(1993) Pharmacologic
approaches in the treatment of eating disorder, Harvard Review of Psychiatry,
1: 89-93
● Ferguson, C.P., La Via , M.C.,Crossan, P.J et al (1999) Are serotonin
selective reuptake inhibitors effective in underweight anorexia nervosa?.,
International Journal of Eating Disorder,25:7-11.
● Nguyễn Thị Mỹ Dung, Khương Huỳnh Long, Thái Thanh Trúc. Rối loạn ăn
uống và các yếu tố liên quan ở sinh viên y khoa tại thành phố Hồ Chí Minh. Y
học thành phố Hồ Chí Minh, tập 24, số 1, 2020. Nguồn truy cập:
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/307464/CVv395
V24S012020106.pdf
● Greenberg BS, Eastin M, Hofschire L, Lachlan K, Brownell KD. Portrayals of
overweight and obese individuals on commercial television. Am J Public
Health. 2003;93(8):1342–8
● Margaret Alexis Kennedy. Asian Body Image Satisfaction: Ethnic and Gender
Differences across Chinese, Indo-Asian, and European-Descent Students.
Eating Disorder. Eating Disorders, 2, 2004, 12(4):321-36.
DOI:10.1080/10640260490521415
● Jin-Won Noh, Young Dae Kwon, Youngmi Yang, Jooyoung Cheon & Jinseok
Kim. Relationship between body image and weight status in east Asian
countries: comparison between South Korea and Taiwan. BMC Public Health.
814 (2018). Truy cập ngày 31, 10, 2022, nguồn:
https://bmcpublichealth.biomedcentral.com/articles/10.1186/s12889-018-5738
-5

2. Tài liệu tham khảo từ web


● Phân loại rối loạn ăn uống. Viện Tâm lý Việt Pháp. Trích xuất từ:
https://tamlyvietphap.vn/kien-thuc-tam-ly/phan-loai-roi-loan-an-uong-2421-44
754-article.html
● Rối loạn ăn là gì? Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Trích xuất từ:
https://bvnguyentriphuong.com.vn/ngoai-tieu-hoa/roi-loan-an-la-gi
● 6 rối loạn ăn uống thường gặp và các triệu chứng của chúng. (2022). Trích xuất
từ:
https://www.healthline.com/nutrition/common-eating-disorders#-1.-Anorexia-n
ervosa
● Các chứng rối loạn ăn uống ở Úc. Trích xuất từ:
https://www.nedc.com.au/assets/Fact-Sheets/Translations/Eating-Disorders-in-
Australia-Vietnamese.pdf
● Carlos M. Grilo (2017). Psychological and Behavioral Treatments for
Binge-Eating Disorder. From to:
https://www.psychiatrist.com/jcp/eating/psychological-behavioral-treatments-bi
nge-eating-disorder/
● About Eating Disorders. From to:
https://eatingdisorderfoundation.org/learn-more/about-eating-disorders/infogra
phic-2/

You might also like