You are on page 1of 3

Đặc điểm của ODA

Đặc điểm của ODA


Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng sau:

Thứ nhất

Tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi. Quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho các
quan hệ kinh tế, chính trị... giữa các quốc gia ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường.
Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài
trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên
sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu
hướng giảm đi. Điều đó đã được chứng minh trên thực tế là trong các năm 1980 - 1994
trong tổng số ODA của thế giới, tỉ trọng ODA song phương từ 67% tăng lên 69% trong
khi đó tỉ trọng ODA đa phương giảm từ 33% xuống 31%.

(Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).

Thứ hai

Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA.

Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước liên
bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một số nước công hoà thuộc Nam Tư
cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến
sự hỗ trợ quốc tế. ở Châu á, Trung Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar... cũng đang
cần đến nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu tiếp
nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Các
vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên sự cạnh tranh giữa các nước
tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra
còn chịu nhiều tác động của các yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng
đồng rộng rãi, dựa trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào
ổn định kinh tế - xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước thế giới
thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước đang phát triển với tư
cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên liệu, lao động). Mặt khác, chính sách

1/3
Đặc điểm của ODA

đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân
tố tạo nên xu hướng phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do
đó là sự chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược, viện trợ ...
khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch trong quá trình
thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn vốn này. Chính sự cạnh tranh
gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp nhận viện trợ của các nước đang phát triển.
Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai
Cập. Bên cạnh đó, Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ
trọng này đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ) và
Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984 đến 1993/1994, tỷ trọng thu
hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ 29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung
á khác và Châu Đại Dương từ 20,3% lên 22,9%; Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê từ
12% lên 14% (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).

Thứ ba

Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều.

Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải khác nhau, có thể
là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng quan hệ hợp tác về
chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan
của nhà tài trợ. Lúc đầu họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước
láng giềng của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các
nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư mà việc đầu
tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt khác chính những yếu tố
trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác biệt lớn trong quá trình nhận viện
trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển
đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai...

Thứ tư

Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan.

Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP của các nước phát
triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng nước có khối lượng ODA lớn như
Nhật Bản, Mỹ... thì tỷ lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua.
Tuy có một số nước như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có tỷ lệ ODA
chiếm hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn. Thêm
vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát triển cũng là một
trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước cung cấp ODA dựa vào kết quả
hoạt động của nền kinh tế của mình để xem xét khối lượng ODA có thể cung cấp được.
Nhưng hiện nay các nước phát triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh

2/3
Đặc điểm của ODA

tế của mình như khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu
sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong nước.

Tuy nhiên, ở các nước phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/năm trong các năm 1991 -
1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt. Do sự
phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn vốn chuyển dịch vào các nước đang phát
triển có thể sẽ giảm sút trong các năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát
triển hỗ trợ cho các nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn
nhất định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động hiện nay
hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước đang phát triển như
nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi
là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế, ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc voà chính
sách đối ngoại khôn khéo và khả năng hấp thụ vốn nước ngoài của chính nền kinh tế
nước đó. Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt của ODA so với các
nguồn vốn khác.

3/3

You might also like