You are on page 1of 36

ĐÈ ÁN: " VAI TRÒ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI

NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC


NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG
TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ"
LỜI NÓI ĐẦU
[ ]
Lật giở những trang sử vàng son của toàn dân tộc Việt Nam, nhân
dân Việt Nam, đất nước Việt Nam đã đi qua thế kỉ XX với những chiến
công hiển hách và những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại - Một thế
kỉ của đấu tranh gian nan, oanh liệt dành lại độc lập tự do, thống nhất tổ
quốc và bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Chúng ta tự hào về dân tộc
ta - Một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo, tự hào về Đảng ta -
Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Bước sang thế kỉ XXI, Cách mạng
nước ta vừa bước sang thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những
nguy cơ thách thức không thể xem thường. Cùng với những thắng lợi đã
giành được từ trước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, những
thành tựu to lớn và rất quan trọng của thời kì đổi mới đã làm cho thế và lực
của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Từng ngày từng giờ, đất nước ta chuyển
mình trong xu thế phát tiển và hội nhập. Bên cạnh những cơ hội lớn về cơ
sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế, tiềm năng lớn về lao động, tài nguyên,
tình hình chính trị và xã hội cơ bản ổn định, nhân dân có phẩm chất tốt đẹp,
môi trường hoà bình, sự hợp tác liên kết quốc tế và xu thế tích cực trên thế
giới tạo điều kiện phát triển. Nhưng hơn bao giời hết còn cần có một cơ chế
quản lí phù hợp, những quan hệ kinh tế có hiệu quả. Đặc biệt đặt trong giai
đoạn phát triển nền kinh tế thị trường dưới chế độ chủ nghĩa, để tạo động
lực cũng như giải pháp cho sự phát triển ổn định đòi hỏi sự đoàn kết của
toàn Đảng, toàn dân ta trong mọi hoạt động phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tận dụng mọi nguồn lực trong nước, đồng thời sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực từ bên ngoài để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Một
trong những phương hướng mà Đảng và Nhà nước ta nhận định và thấy
được tầm quan trọng quyết định nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước đó chính là nhu cầu về vốn đầu tư phảt triển. Trong
đó chúng ta có thể thấy được vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
trong nước và nước ngoài - nghiên cứu về thực trạng vai trò cũng như mối
quan hệ giữa hai nguồn vốn này để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm phát
huy có hiệu quả nhất các nguồn vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển
kinh tế Việt Nam. Từ đó chúng ta có được cái nhìn bao quát về tình hình
kinh tế đất nước, nhằm đẩy mạnh tình hình phát triển kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh. Qua nghiên cứu đề tài: “Vai trò và mối quan hệ giữa hai
nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế, lấy thực tiễn Việt Nam để chứng minh”. Chúng
em xin trình bày những nội dung chính sau:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung;
Chương II: Thực trạng vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
ở Việt Nam;
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn.
Thông qua đề tài này, ngoài những kiến thức lí luận, chúng em còn
có những định hướng rõ ràng cũng như sự tìm hiểu chi tiết khi tiếp xúc với
thực tiễn. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu có hạn, chúng em không thể
tránh khỏi những thiếu xót trong cách nhìn tổng thể. Kính mong thầy giáo
và các bạn nhận xét đóng góp ý kiến để chúng em hoàn thiện đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU
TƯ (NVĐT)

1. Khái niệm:

1.1 Vốn đầu tư:


Là nguồn lực tích luỹ được cuả xã hội, cơ sở sản xất kinh
doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu
hiện dưới các dạng tiền tệ các loại hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá
vô hình và hàng hoá đặc biệt khác.

1.2 Nguồn vốn đầu tư


Là các kênh tập trung và phân phối cho vốn đầu tư phát triển
đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.

2. Phân loại NVĐT

2.1 Nguồn vốn trong nước


Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân
sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và
nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn
chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư
quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho
các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá
trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác
dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của
Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này
phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay
vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển
từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với
các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định
là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước
vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số
hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực
kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước
vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với
chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt
động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ
của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp
đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của
dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác
xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu
một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận
không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập
gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn
tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng,
ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn
vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ
thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các
nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ
phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
Tập quán tiêu dùng của dân cư.
Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách
thuế thu nhập và các khoản đóng góp với xã hội.
Thị trường vốn.
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ
sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm
cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt
lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn
vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn dỗi
của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và
chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền
kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy
động nào có thể làm được.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi
rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital
flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá
trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.
Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển
đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ
ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi
hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không
hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân
loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official
development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính
thức (ODA -offical development assistance) và các hình thức viện
trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các
chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang
phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi
cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi
về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng
có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này
thường di kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính
hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì
vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần
phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không
việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho
nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về
nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có
thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối
với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là
không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ
tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời
gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không
nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự
thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của
thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng
của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của
nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của
nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu
dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác
nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không
phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu
tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu
tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo
toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc
đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao
về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn
này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước
nhận đầu tư .
Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của
các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên
vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối
lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước
đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng
gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất
hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm
1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi
vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu
vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.

3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư

Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith,
một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho
rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động
tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có
tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn
không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các
mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề
trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong
một nền kinh tế hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và
khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng
khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là phần tiêu hao vật
chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo
tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm
bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực
II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực
I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả
hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu
sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn
hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện
này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản
xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng
quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở
khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai
khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu
vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của
C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất
mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản
xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản
xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích
luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được
các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng
“Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình,
Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng
phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông
cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với
tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
(I) (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát
từ tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất
và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch
giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi
phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người
tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành
chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy,
xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta
gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất
mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh
tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm
của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là
tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không
nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp
nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có
tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một
số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ
chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề
bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư
thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể
phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định,
theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào
đó từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền
kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền
kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có
thể được chuyển sang cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại,
vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó
nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp
này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn
hơn tích luỹ nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì
có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài
hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan
trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu
đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì
quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài
vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
II. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG VIỆC THÚC
ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển

Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm


(hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định
Phát triển kinh tế có thể hiều là một quá trình lớn lên (hay tăng
tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lựơng (tăng
trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.

2. Vai trò của vốn đầu tư tới tăng trưởng và phát triển
kinh tế

Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc
gia. Riêng đối với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng
được khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng
trưởng và phát triển của mọi đất nước.

3.1 Vai trò của vốn trong nước


Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò
quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước . Trong lịch
sử phát triển các nước và trênphương diện lý luận chung, bất kỳ nước nào
cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính . Sự chi viện bổ sung từ bên
ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước
có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục
tiêu quan trọng đề ra của quốc gia.

3.1.1. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN)


Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối
lượng đầu tư
Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận
lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mội thành phần kinh tế theo định hướng
chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng
lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo
theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
.
Với vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định điều điều tiết vĩ
mô, vốn tư NSNN đã được nhận thức và vận dụng khác nhau tuỳ thuộc
quan niệm của mỗi quốc gia. Trong thực tế điều hành chính sách tài khoá,
Nhà nước có thể quyết định tăng, giảm thuế, quy mô thu chi ngân sách
nhắm tác động vào nền kinh tế. Tất cả những điều đó thể hiện vai trò quan
trọng của NSNN với tư cách là công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất hữu
hiệu nhất, là công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái …

3.1.2 Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp


Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh
tế có sự chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng,
hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát
từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ trợ cho sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.

3.1.3 Vốn đầu tư của nhân dân


Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và
chi tiêu của các hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn
này mà đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp,
nó cũng giải quyết được một phần lớn công ăn việc làm cho lao dộng nhàn
rỗi trong khu vực nông thôn từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế,
nâng cao đời sống nhân dân.
Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng
trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách
chắc chắn và lâu bền. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát
triển, khả năng tích luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn
nước ngoài để bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng.

3.2 Vai trò của vốn nước ngoài


Nếu như vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai trò
chủ yếu thì vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong những bước
đi ban đầu tạo ra “cú hích” cho sự phát triển. Điều này được thể nghiệm
trên các vai trò cơ bản sau:
Một là: Bổ sung nguồn vốn cho đàu tư khi mà tích luỹ nội bộ nền
kinh tế còn thấp. Đối với các nước nghèo và kém phát triển, nguồn vốn
trong nước huy động được chỉ đáp ứng hơn 50% tổng số vốn yêu cầu. Vì
thế gần 50% số vốn còn lại phải được huy động từ bên ngoài. Đó là lý do
chúng ta phải tích cực thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ( bao gồm vốn hỗ
trợ phát triển chính thức - ODA, đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI…)
Hai là: Đảm bảo trình độ công nghệ cao phù hợp với xu thế phát
triển chung trên toàn thế giới. Điều này giúp đẩy nhanh sự phát triển của
các dịch vụ cung cấp có chất lượng và cho phép sản xuất các sản phẩm đáp
ứng tiêu chuẩn quốc tế - là cơ sở tạo nên sự bứt phá trong khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trong nước trên thị trương quốc tế.
Ba là: Con đường ngắn nhất đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và khu vực, cũng như bảo đảm các nghĩa vụ vay và trả
nợ nhờ vào việc tăng cường được năng lực xuất khẩu.
Bốn là: Có vai trò tích cực trong việc nâng caô chất lượng nguồn
nhân lực và chuyển giao công nghệ .
Đi sâu tìm hiểu ta có thể nhận rõ vai trò cụ thể của từng loại vốn
nước ngoài.
3.2.1 Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA)
Đây là nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy không quan trọng như
nguồn FDI song cũng đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề .Chủ yếu là
cùng với FDI bổ sung cho vốn đầu tư phát triển.
Ngoài ra ODA còn có vai trò quan trọng trong việc giúp các nước
nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học,công nghệ hiện đại và phát triển
nguồn nhân lực.
Và cuối cùng ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước
đang và chậm phát triển.

3.2.2 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)


Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số các nguồn huy động từ
nước ngoài. Không chỉ có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã
hội, mà biểu hiện cụ thể thông qua ba tiêu chí:
- Kích thích công ty khác tham gia đầu tư
- Góp phần thu hút viện trợ phát triển chính thức
- Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, do đó tăng thêm tỷ lệ huy động
vốn trong nước.
Ngoài ra FDI còn góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao
trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng
kinh tế.
FDI còn có vai trò tích cực trong việc góp phần giải quyết việc làm
và quan trọng hơn cả là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số
lượng lao động có việc làm và chuyên môn cao ở trong nước ngày càng
tăng, và điều cơ bản mà FDI đã làm được đó là không chỉ nâng cao tay
nghề mà còn thay đổi tư duy và phong cách lao động theo kiểu công nghiệp
hiện đại, là lực lượng tiếp thu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản
lý tiến bộ .
Từ đó mà hiệu quả làm việc và năng suất lao động cũng tăng nên thể
hiện qua thị trường quốc tế đẫ chấp nhận sản phẩm của các nước kém phát
triển này. Chính vì vậy mà FDI còn có vai trò mở rộng thị trường trong
nước và nước ngoài.
Cuối cùng, vai trò của FDI thể hiện qua việc lành mạnh hoá các thể
chế kinh tế - tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Để có thể thu hút
FDI, chúng ta phải đứng trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật nhằm xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Có
như thế chúng ta mới lọt vào tầm ngắm của các nhà đầu tư nước ngoài.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN

Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của một nước đang phát triển
do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ là rất khiêm tốn.
Nhưng giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm hoàn chỉnh
hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát
triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn
giữa đầu tư với tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này
do nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu
có chỉ đa phần là hàng sơ chế nông sản, nguyên liệu thô… có giá trị gia
tăng thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải
nhập khẩu hàng cao cấp máy móc thiết bị kĩ thuật công nghệ… có giá trị
gia tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn
nằm trong tình trạng thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này, nhiều nước đã
tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm tài trợ cho những thiếu hụt đó.
Mặt khác với các nước đang phát triển thường rơi vào vòng luẩn
quẩn
Thu nhập bình quân thấp → Tiết kiệm, Đầu tư thấp
↑ ↓
Năng suất thấp ← Tăng trưởng chậm

Để tạo ra sự “cất cánh” cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản
lượng, mức thu nhập ngày càng gia tăng muốn vậy cần phải có vốn đầu tư
và kĩ thuật tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự
đảm bảo một cách khó khăn sự sinh tồn của mình, không thể trông đợi
hoàn toàn vào con đường “ thắt lưng buộc bụng ” tích luỹ nội bộ. Mà
không phát triển nhanh thì nước đó luôn rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt
hậu phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài lúc này là cơ sở để tạo công ăn việc
làm cho số lao động thường là dư thừa, thực hiện phân công lao động mới
nhằm mục tiêu nâng cao năng suất lao động. Đây là tác động kép của vốn
đầu tư nước ngoài vừa tạo công ăn việc làm đồng thời làm gia tăng thu
nhập cho người lao động và đất nước. Vốn đầu tư nước ngoài khuyến khích
nhập các công nghệ tiên tiến là cơ sở làm gia tăng năng suất lao động xã
hội, gia tăng sản lượng làm nền kinh tế tăng trưởng. Trên cơ sở đó làm gia
tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế: Ngân sách Nhà nước tăng do thu thêm thuế
lệ phí từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tích luỹ dân cư tăng do thu
nhập tăng. Như vậy nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn
là đáp ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn góp phần gia tăng nguồn vốn
tích luỹ trong nước.
Song không phải là lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng đem lại hiệu
quả như mong muốn, mà nó cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ
nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài. Vì vậy,
vấn đề là làm thế nào để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài? Mà
thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy tác dụng cần có một tỉ lệ
vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn nước
ngoài thì trong nước cũng phải chuẩn bị sẵn một số cơ sở nhất định toạ điều
kiện cho vốn nước ngoài hoạt động hiệu quả. Theo kinh nghiệm của một số
nước nhóm NICS thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển tỉ lệ này thường
thấp 1/1.5 nghĩa là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước.
Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công gnhiệp
chế biến có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao thì tỉ lệ này tăng lên 1/2.5.
Ngoài ra vốn đầu tư trong nước còn đóng vai trò định hướng cho dòng đầu
tư nước ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Đầu tư trong
nước trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sỡ hạ tầng căn bản, đầu ra,
đầu vào…song lại thiếu máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại để tạo ra
sản phẩm đạt chất lượng cao, mang tính cạnh tranh so với quốc tế để phục
vụ cho nhu cầu xuất khẩu.Với cơ sở hạ tầng sẵn có đó thì đầu tư nước
ngoài trở nên an toàn và ít tính rủi ro hơn, bởi vì bản chất của dòng đầu tư
nước ngoài là tìm kiếm nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn, đem lại nhiều lợi
nhuận hơn sẽ làm đầu tư nước ngoài tập trung nhiều hơn.
Như vậy vốn trong nước và vốn nước ngoài có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Như Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hoá vốn nước ngoài có thể đóng vai trò xung lực tạo
sức đột phá cho bước nhảy vọt sản lượng, cũng như những cơ sở vững chắc
cho việc đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh lâu bền. Song về lâu dài nó không
thể đóng vai trò quyết định so với nguồn lực riêng có của đất nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC, NƯỚC
NGOÀI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG Ở VIỆT NAM

Trong hơn một chục năm trở lại đây với việc chuyển sang hệ thống
thị trường mở của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta đã thu được
nhiều thành tựu đáng khích lệ.Từ chỗ khủng hoảng thiếu trầm trọng, ngày
nay đời sống nhân dân đã được nâng lên một bước ,được đánh giá là một
quốc gia an toàn cho đầu tư với tốc độ tang trưởng cao trong một thời kì
dài, nền chính trị ổn định. Đạt được kết quả đó là nhờ chủ trương đúng đắn
của Đảng và nhà nước ta trong việc khơi thông nguồn lực trong nước tận
dụng nguồn lực nước ngoài.Vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đã góp
phần quan trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng và sự phát triển kinh tế nước
ta.Tìm hiêủ về thực trạng hai nguồn vốn trong thời gian qua sẽ cho chúng
ta cách nhìn đúng đắn hơn về vai trò của hai nguồn vốn cũng như mối quan
hệ giữa chúng.Từ đó ta có thể đưa ra các biện pháp về huy động và sử dụng
hai nguồn lực này cho sự phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Bảng 1: Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển

Năm Tỉ lệ Tổng số Khu vực trong nước Khu Tỉ lệ VĐT


VĐT/GDP % % Tổng số KTNN Ngoài QD vực có trong nước/
VĐTNN nước ngoài
1995 27.1 100 69.6 42 27.6 30.4 2.29
1996 100 74 49.1 24.9 26 2.85
1997 28.3 100 72 49.4 22.6 28 2.57
1998 100 79.3 55.5 23.4 20.7 3.83
1999 19.7 100 82.7 58.7 24 17.3 4.78
2000 32.9 100 81.3 57.5 23.8 18.7 4.35
2001 34 100 81.6 58.1 23.5 18.4 4.43
2002 34.3 100 81.5 56.2 25.3 18.5 4.41
Ước 2003 35.9 100 83.5 56.5 26.7 16.5 5.06
Tổng hợp Thời báo kinh tế Việt Nam

I.THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC

Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế Đảng luôn xác định nhiệm
vụ và giải pháp quan trọng phát triển kinh tế xã hội là “huy động tối đa
nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội nhất là nội lực, nguồn lực trong dân
và tăng sức thu hút đầu tư nước ngoài, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư đặc
biệt là vốn đầu tư của nước ngoài, tăng cường quản lý sử dụng đất đai, đề
cao kỉ luật tài chính, đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, phấn
đấu giảm bội chi”.Thực tế cho thấy tỉ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước
luôn chiếm khoảng trên 70% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hiện nay
có xu hướng ngày càng tăng.

1.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước

Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì đầu tư từ khu vực nhà nước luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tỉ lệ này đạt khoảng 50% và hiện nay có
xu hướng ngày càng tăng. Giai đoạn 1996-2000 tỉ trọng vốn đầu tư phát
triển khu vực kinh tế nhà nước chiếm 54.6% so với tổg vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội. Đến giai đoạn 2001-2003 là 56.87%, riêng vốn đầu tư
thực hiện của khu vực nhà nước năm 2003 ước tính chiếm 56.52% tổng
vốn đầu tư phát triển.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước bao gồm các thành
phần: Ngân sách nhà nước,vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước,
nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.

1.1 Ngân sách nhà nước (NSNN)


NSNN có vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều
khiển kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó tạo ra môi trường đầu tư thuận
lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng
chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật. Đồng thời NSNN cũng góp
phần trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất
của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng và quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội. Hiện nay chi cho đầu tư phát triển luôn chiếm khoảng 30%.
Năm 1994 chi của NSNN cho đầu tư là khoảng 1 tỷ USD trong khi GDP là
15.5 tỷ USD như vậy tỷ lệ đầu tư từ ngân sách đạt khoảng 6% GDP.Trong
giai đoạn 1996-2000 đẻ phù hợp với sự phát triển kinh tế NSNN bước đầu
được cơ cấu lại theo hướng tích cực và có hiệu quả hơn.Việc cải cách thuế
giai đoạn 2, cùng với triển khai luật ngân sách đã góp phần thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tổng thu ngân
sách tăng bình quân hàng năm trên 7% cao hơn mức bình quân tăng GDP
của giai đoạn này. Chi cho đầu tư phát triển tăng lên bình quân khoảng
25% GDP trong tổng chi NSNN. Trong giai đoạn này tổng nguồn vốn đầu
tư thuộc NSNN bình quân 5 năm chiếm 21.5% tổng vốn đầu tư xã hội, tức
là khoảng 8 tỉ USD. Đến năm 2000 tỷ lệ chi NSNN là 24.7% so với GDP
trong đó chi cho đầu tư phát triển là 6.7%.Tỷ Lệ chi đầu tư phát triển tăng
dần qua các năm : Năm 2000 là 8.4% năm 2002 là 8.2% và năm 2003 ước
đạt 7.7%.
Chi phí đầu tư phát triển của NSNN cho các ngàmh kinh tế thì tập
trung chủ yếu ở lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông chiếm khoảng 35.3%, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn khoảng
22.5%, cho các lĩnh vực còn lại bao gồm khoa học công nghệ, giáo dục đào
tạo, y tế , văn hoá, thể dục thể thao chiếm khoảng 36.7%. Như vậy nhờ tăng
đầu tư, số công trình được đưa vào sử dụng và năng lực của hầu hết các
ngành đều tăng. Gía trị tài sản cố định đến cuối năm 2000 tăng khoảng
30% so với 1995.
Đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia được ngân sách cấp
rất lớn: Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo ,chương trình 135 đã tạo được niềm
tin của đồng bào và dân tộc với Đảng và Nhà nước; dự án trồng 5 triệu ha
rừng…
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra với vốn đầu tư phát triển có nguồn gốc từ
NSNN là việc thực hiện vẫn trong tình trạng phân tán dàn trải, thiếu tập
trung, số lượng các dự án ngày càng gia tăng.Theo số liệu của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư thì năm 2003 các bộ và địa phương đã bố trí 10600 công
trình tăng 2500 công trình so với năm 2000. Trong đó các công trình do địa
phương bố trí tăng 47%, nhiều dự án là theo ý kiến chủ quan của ngành địa
phương.Việc đầu tư dàn trải như thế lại diễn ra trong điều kiện nguồn ngân
sách còn nhiều hạn hẹp khiến nhiều công trình xây dựng dở dang nằm chờ
vốn gây lãng phí nguồn lực, tình hình nợ đọng vốn trong đầu tư xây dựng
khá cao. Theo số liệu cho đến giữa năm 2003, được tổng hợp từ các
bộ,ngành 53/61 tỉnh, thành phố thì số nợ này lên tới 11000 tỷ đồng. Giao
thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn là những bộ có khối
lương nợ đọng lớn.
Nhưng đáng ngại nhất là vấn đề chất lượng các công trình xây dựng
chưa thực sự được đảm bảo. Không ít công trình mới bàn giao, đưa vào sử
dụng chưa được bao lâu đã nhanh chong xuống cấp và hư hỏng… Việc sai
phạm dẫn đến những tổn thất về chất lượng không chỉ từ phía các đơn vị thi
công mà ngay từ các đơn vị tư vấn thiết kế, các cơ quan thẩm tra thẩm
định kinh tế…
Việc thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn
đề nhức nhối cần được tập trung giải quyết vì chất lượng các công trình tác
động đến thời gian sử dụng tạo ra trình độ về cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế.
Do đó, đòi hỏi phải có giải pháp thiết thực để sử dung có hiệu quả vốn đầu
tư từ nguồn ngân sách này.

1.2. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước(DNNN)


Theo số liệu thống kê thì năm 2000 có khoảng 5700 DNNN, nhưng
hầu hết nhỏ bé về quy mô: Vốn bình quân dưới 5 tỷ chiếm 66% trong đó
DNNNcủa các tỉnh, thành phố có vốn 1 tỷ chiếm 30%, nhiều tỉnh là 60%.
Đến năm 2001 số DNNN giảm còn 5355 và năm 2001 là 5364 doanh
nghiệp. Đấy là do chủ trương cơ cấu lại hệ thống DNNN thực hiện chuyển
đổi hình thức DNNN.Trước đây, vốn cho DNNN chủ yếu được cấp từ ngân
sách thì nay thực hiện cổ phần hoá để đa dạng hoá các nguồn vốn.Trước
đây, đa số các doanh nghiệp đều trong tình trạng làm ăn thua lỗ, khoảng
hơn 20% gây nên gánh nặng ho NSNN.Trong ba năm 1997-1999 NSNN
cấp gần 8000 tỷ đồng trực tiếp cho các DNNN, 1464.4 tỷ để bù lỗ nhằm
làm giảm gánh nặng tài chính. Ngoài ra, từ năm 1996 chính phủ còn miễn,
giảm thuế là 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088.5 tỷ, khoanh nợ 3392 tỷ, dãn nợ
540 tỷ và tiếp tục cung cấp 8685 tỷ tín dụng ưu đãi cho DNNN.Theo chủ
trương mới, thực hiện cổ phần hoá các DNNN còn khả năng sản xuất, giải
thể những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ keo dài.Tính đến hết 11-2000 đã cổ
phần hoá và chuyển đổi sở hữu cho 520 doanh nghiệp, với tổng vốn là
2000 tỷ chiếm 1.6% tổng số vốn đầu tư của Nhà nước vào khu vực
DNNN.Sau khi cổ phần hoá thì các doanh nghiệp này đều làm ăn có lãi với
doanh thu tăng gấp 2 lần, nộp NSNN tăng 2.5 lần, tốc độ tăng trưởng vốn
là 2.5 lần. Với 300 DNNN cỡ lớn (trong đó có 90 doanh nghiệp thuộc các
tổng công ty 90-91 đóng góp trên 80% tổng thu NSNN của khu vực
DNNN. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước có được từ hai nguồn
là ngân sách cấp và lợi nhuận để lại. Hiện nay còn thêm huy động từ nguồn
cổ phần hoá. Tính đến thời diểm 31/12/2002 tổng số vốn doanh nghiệp Nhà
nước là 895,2 nghìn tỉ đồng chiếm 62.1% so với tổng vốn của các doanh
nghiệp tăng 9,5% một năm. Đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước vào
GDP tăng lên năm1995 là 30,4% thì đến 2001 là 30,6%. Song ở khu vực
này vẫn còn nhiều tồn tại, doanh nghiệp Nhà nước với vai trò ngày càng
lớn- chỉ là sức người cản trở thay vì là sức kéo đối với tăng trưởng. Chính
phủ đổ rất nhiều vốn đầu tư vào khu vực này nhằm vực dậy, đưa khu vực
này thực hiện được vai trò là đầu tàu tăng trưởng là nơi nắm giữ vốn lớn,
khoa học công nghệ tiến bộ song số doanh nghiệp bị thua lỗ vẫn chiếm
17,5% năm 2000 và 16,7% năm 2001, 14,7% năm 2002 mức lỗ bình quân
ủa một doanh nghiẹp là 4 tỉ dẫn đến thất thoát nguồn lực hoặc một số doanh
nghiệp có lãi song bấp bênh, lãi có được là do được bảo hộ và đối xử ưu
đãi: Như cácnhà máy đường, xi măng… mặt khác trong khi Nhà nước với
những nỗ lực nhằm cải cách những doanh nghiệp hiện có và làm cho nó
hiệu quả hơn thì những doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập lại chỉ vì lí
do có những dự án về cơ sở hạ tầng và thay thế nhập khẩu. Một số cơ quan
thành lập ra doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, không tiến
hành bất cứ nghiên cứu thị trường nào cho sản phẩm của mình. Do đó
nhiều doanh nghiệp Nhà nước vừa thành lập đẫ bị mắc nợ, sản phẩm không
bán được và dư thừa công suất. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước
nằm trong diện bị chuyển thể tìm cách ôm đồm thêm chức năng công ích
để được giữ lại trong tay Nhà nước. Với những bất cập trên khu vực này
cần phải có những cải cách mạnh mẽ và tích cực hơn.

1. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân


Khu vực tư nhân Việt nam, cả bộ phận doanh nghiệp có đăng ký và
bộ phận hộ gia đình phi chính thức chiếm 40% GDP và 90% số việc làm
năm 1998 khu vực này có vốn đầu tư phát triển khá và có xu hướng ngày
càng gia tăng. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua
và trong thời gian tới là tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho phát triển
kinh tế đặc biệt là nguồn vốn trong dân. Nhà nước đã ban hành luật doanh
nghiệp và đến nay sau 4 năm thực hiện ta đã huy động được trên 10 tỉ
USD. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một
lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để nguồn vốn từ
khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và phần tích luỹ của
cách doanh nghiệp dân doanh.

2.1 Tiết kiệm của khu vực dân cư


Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước một bộ phận không nhỏ
trong dan cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do
tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư
không phải là nhỏ tồn tại dưới dạng vàng ngoại tệ tiền mặt. Nguông vốn
này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Điều này đã được thể hiện bằng thực tế, nguồn vốn huy động từ tiết
kiệm của dân cư chiếm 80% tổng nguồn vốn huy độgn của toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Qua một số đợt phát hành công trái đã huy động một
lượng vốn rất lớn từ dân cư, chỉ một thời gian ngắn nhưng số tiền huy động
đã lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đống góp
khoảng 1/3 GDP, giai đoạn 1996 – 2000 tiết kiệm của khu vực dân cư
chiếm 15% GDP và xu hướng ngày càng tăng

Bảng2 : Tỉ lệ tiết kiệm dân cư / GDP (%)


1999 2000 2001 2002 2003
Tiếtkiệm/GDP 22% 29,6% 31,2% 32,1%
Tỉ lệ tăngGDP 4,8% 6,79% 6,89% 7,04% 7,24%
Thời báo kinh tế Việt Nam

Khu vực này còn đóng góp một nguồn thu ngoại tệ khá từ lượng kiều
hối chuyển về của người đi xuất khẩu lao động và thân nhân ở nước ngoài.
Trong 9 tháng đầu năm 1999 lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam đạt 585
triệu USD cả năm 1999 đạt khoảng 1,2 tỉ USD. Nguồn vốn tiết kiệm của
dân cư góp phần quan trọng vào vốn đầu tư phát triển chiếm khoảng 25%
ngày càng quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi xu hướng đầu tư
nước ngoài đang giảm sút thì đây là nguồn bù đắp quan trọng. Tuy nhiên
do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn hoạt động chưa hiệu quả nên mặc dù
thu hút được tiết kiệm dân cư song chưa đầy đủ, hai là việc sử dụng vốn tiết
kiệm này chưa đạt hiệu quả các ngân hàng hiện nay còn dư nợ cho vay
trong khi khu vực tư nhân cần vốn lại không được vay. Đây là bất cập cần
giải quyết để khai thông nguồn lực từ sức dân.

2.2 Đầu tư của khu vực dân doanh


Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua và trong
thời gian tới là tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đặc
biệt là nguồn vốn trong dân. Năm 1999 Nhà nước ban hành luật doanh
nghiệp và đến nay sau 4 năm thực hiện ta đã huy động được trên 10 tỉ USD
bình quân mỗi năm là 2,5 tỉ USD. Năm 2003 đầu tư của tư nhân và dân cư
là 58000 tỉ đồng tăng 24,9 % so với năm 2002. Theo thời báo kinh tế Việt
Nam thì số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên qua từng năm, năm
2000 số lượng doah nghiệp tư nhân là 35004 thì 2001 là 44314 và năm
2002 là 55236, tỉ lệ tăng số doanh nghiệp tư nhân là 25,6% một năm (trong
đó tăng nhanh nhất là công ty cổ phần chiếm 93,3%, công ty TNHH
49,9%)ở khu vực này số doanh nghiệp có lãi tăng từ 27916 lên 32593
doanh nghiệp và 2002 là 41743 doanh nghiệp tổng mức lãi tăng dần từ
3168 tỉ đồng lên 4753 tỉ và 7024 tỉ, lãi bình quân của một doanh nghiệp
tăng lên từ 0,11 tỉ đến 0,15 tỉ và 0,17 tỉ. Và khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh năm 1995 góp 54,7% GDP và năm 2001 góp 46,8% GDP.
Điều này khẳng định tiềm năng phát triển to lớn của khu vực này. Khu vực
tư nhân năng động có thể tăng trưởng nhanh và tạo việc làm mà không cần
có sự hỗ trợ nào từ ngân sách hay gần giống ngân sách. Nếu tạo điều kiện
thông thoáng và tính hiệu rõ ràng từ phía chính phủ. Tốc độ tăng vốn đầu
tư phát triển vủa khu vực ngoài quốc doanh hiện nay là cao nhất năm 2002
tăng 18,3 so với năm trước và năm 2003 tăng 25% so với năm trước mặc
dù có nhiều tiến bộ về tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu song cũng còn tồn
tại nhiều yếu kém và bất cập. Phần lớn các doanh nghiệp đều có qui mô
nhỏ phân tán với công nghiệp lạc hậu, việc phát triển doanh nghiệp còn
mang tính tự phát, năng lực cạnh tranh còn yếu kém.

2. Thị trường vốn

Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phảt triển kinh
tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị
trường chứng khoán là trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của
từng hộ dân cư, vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính. Hoạt
động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phảt triển như mong muốn
song bước đầu đã được triển khai khá suôn sẻ không gây ra những biến
động lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
Cho đến gày 20/12/2003 thị trường giao dịch chứng khoán đã tổ chức được
692 phiên giao dịch với tổng lượng giao dịch đạt 5189 tỉ đồng. Riêng tổng
năm 2003 tổ chức được 239 phiên giao dịch đạt 2991 tỉ đồng bình quân
12,5 tỉ/ 1 phiên giao dịch. Doanh số giao dịch tăng 2,76 lần so với doanh số
giao dịch năm 2002. Thông qua bảo lãnh phát hành và đấu thầu lớn hơn
100 loại trái phiếu chính phủ và niêm yết trên thị trường giao dịch chứng
khoán với khối lượng trên 11000 tỉ. Tổng giá trị chứng khoán niêm yết (
cổ phiếu, trái phiếu) tính theo mệnh giá là 12397 tỉ đồng chiếm 2,32% GDP
năm 2002. Công chúng đã dần quen với một phương thức đầu tư mới với
khoảng trên 16000 tài khoản giao dịch trong đó có 152 nhà đầu tư có tổ
chức và 85 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư đã góp
phần quan trọng cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đặc
biệt là trong giai đoạn gần đây. Số lượng tài khoản và giao dịch thường
xuyên của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên đã góp phần kích thích nhà
đầu tư quay lại với thị trường chứng khoán. Song hoạt động của thị trường
này còn nhiều bất cập như qui mô thị trường nhỏ bé, chưa tổ chức tốt thị
trường thứ cấp hiệu quả với trái phiếu đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Kiến
thức và hiểu biết của công chúng còn hạn chế, các công cụ chính sách của
Nhà nước còn thiếu đồng bộ, thị trường bị chia cắt: Thị trường tiền tệ do
ngân hàng nhà nước quản lý, thị trường bảo hiểp do bộ tài chính, thị trường
chứng khoán do uỷ ban chứng khoán Nhà nước quản lý giám sát. Nhà nước
chưa đưa ra được chiến lược phát triển thống nhất chung chính vì vậy thị
trường vốn chưa thể hiện được vai trò của mình là cái van điều tiết các
nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn.

II.THỰC TRẠNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Sau khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa chuyển sang nền kinh
tế thị trường thì Việt Nam đã mở ra một kênh mới rất có triển vọng trong
việc thu hút nguồ lực từ bên ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đặc
biệt là từ khi chính phủ ban bố luật đầu tư nước ngoài khối lượng FDI gia
tăng nhanh dần qua các năm. Và FDI đã góp phần tạo đà tăng trưởng
nhanh cho kinh tế nước ta. Cuối năm 1993 là thời điểm đánh dấu bước
chuyển của động thái dùng vốn nước ngoài, khi mà các thành tựu cải cách
đã đủ sức chứng tỏ triển vọng phát triển nhanh và lâu bền của nền kinh tế
Việt Nam.Tháng 10/1993 diễn ra Hội nghị lần 1 các nhà tài trợ cho Việt
nam tại Pari - ở hội nghị này các chính phủ và tổ chức quốc tế cam kết tài
trợ cho Việt nam 1.860 tỉ USD. Ngay sau đó cùng với sự giúp đỡ của các
nhà tài trợ quốc tế ta đã giải quyết nợ quá hạn với IMF. IMF cũng tuyên bố
cho Việt Nam vay theo thể thức dự phòng 230 triệu USD. Đến năm 1994
Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, năm 1995 Việt
Nam chính thức gia nhập ASEAN. Những điều đó đã làm dòng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam được thuận lợi hơn.
1. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức

Nếu như FDI làm thúc đẩy chuyển địch cơ câú thì ODA lại là nguồn
tài trợ quan trọng cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triểnvăn hoá giáo dục
y tế, là động lực cho phát triển bền vững nếu biết sử dụng đúng. ODA với
đặc điểm vay ưu đãi thời hạn dài là phần thiết yếu để thực hiện tái thiết đất
nước, nhưng hiện nay nguồn vốn này càng khó khăn hơn do có sự cạnh
tranh giữa các nước nghèo trong khi ngân khố ODA của các nước giàu
ngày một giảm.Vốn ODA được đầu tư chủ yếu theo các chương trình dự án
giúp phát triển khu vực kém phát triển, vùng núi,vùng sâu vùng xa đặc biệt
là các chương trình xoá đói giảm nghèo, định canh định cư …

Bảng 3: Cam kết giải ngân vốn ODA 1995-2002(tỷ USD )


Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Cam kết(1) 2.26 2.43 2.4 2.2 2.1 2.4 2.4 2.5
Giải ngân(2) 0.74 0.9 1 1.24 1.35 1.65 1.5 1.53
Tỷ lệ (2)/(1) 0.327 0.37 0.417 0.564 0.643 0.688 0.625 0.612
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư )

Qua 10 lần tổ chức hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam số vốn cam
kết đều tăng dần qua các năm. Song số vốn được hợp thức hoá bắng ký kết
các hiệp định thì lại không tăng tương xứng. Như năm 2002số vốn này đạt
2.574 tỷ USD giảm 26%so với kết quả của năm 2000. Trong đó vốn vay là
gần 1.3347tỷ USD và viện trợ không hoàn lại khoảng 239.4triệu USD. Như
vậy kể từ năm 1993 tống số vốn ODA được các nhà cam kết tài trợ dành
cho Việt nam lên đến 22.43 tỷ USD chưa kể đến phần tài trợ riêng để thực
hiện cải cách kinh tế. Trong đó tính đến hết 2002 tổng số vốn được hợp
thức hoá bằng hiệp định đạt khoảng 16.5 tỷ USD và số vốn giải ngân đạt
khoảng 11.04 tỷ USD. Rõ ràng là vốn giải ngân đạt tỷ lệ chưa cao, so với
vốn cam kết thì còn thấp chỉ đạt 49.2%. Có thể thấy rằng nhu cầu vốn ODA
ở nước ta là rất lớn.Theo “chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói
giảm nghèo” thì thời kỳ 2001-2005 Việt Nam cần thực hiện số vốn ODA
khoảng 9 tỷ - nghĩa là mỗi năm cần thực hiện 1.8tỷ USD. Như vậy kết quả
giải ngân chưa đảm bảo được yêucầu đề ra. Điều đó cũng cho thấy rằng
vấn đề quản lý sử dụng vốn ODA ở nước ta chưa đạt hiệu quả, chưa khai
thác tốt được tác động tích cực của nguồn vốn này. Cứ với tình hình sử
dụng vốn ODA như vậy thì việc vay vốn ODA không những không làm
phát triển kinh tế mà còn gia tăng nợ quốc gia. Nhất là 5năm tới khi thời
hạn trả nợ của một số khoản ODA đã đến mà các chương trình dự án
không hiệu quả không có khả năng thu hồi vốn trả nợ. Song cũng không
thể phủ nhận những thành tựu mà ODA đem lại cho sự phát triển của nước
ta. Nhờ ODA mà cơ sở hạ tầng trong nước được cải thiện hơn (dù có thể
còn thiếu đồng bộ ). Tất cả các chương trình dự án lớn, các công trình trọng
điểm quốc gia đều có sự góp mặt của vốn ODA: Đường sá được mở mang,
các nhà máy, các công trình phục vụ dân sinh, đặc biệt ODA góp phần đưa
Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu về xoá đối giảm nghèo trên thế giới.
ODA đã tạo điều kiện hoàn thiện cơ sỏ hạ tầng cho sự phát triển kinh tế,
khơi thông được các nguồn lực trong dân .
Theo ngân hàng thế giới (WB) Việt Nam hiện nay đang đứng trước
ba thách thức là cần đẩy mạnh cải cách, tăng tốc giảm nghèo và cải thiện
chất lượng quản lý Nhà nước. Khả năng tiếp nhận và giải ngân ODA là thể
hiện nội lực và tài trí của người Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất
nước. Nếu biết khơi dậy cả mọi nguồn vốn trong dân để thực hiện các dự
án ODA thì sẽ đẩy mạnh được việc giải ngân vốn ODA,từ đó sẽ ngày càng
tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của các nhà tài trợ quốc tế

2. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)


Kể từ năm 1998 khi luật đầu tư nước ngoài bắt đầu có hiệu lực đến ngày
20-12-2002 đã có 2582 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng
ký 50.3 tỷ USD và vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 24 tỷ USD.Trong số
này có khoảng 1800 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh vói
tổng vốn đăng ký 25 tỷ USD.
Bảng 4: Một số chỉ tiêu đóng góp của đầu tư nước ngoài
Chỉ tiêu\Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000
1 Doanh thu(triệuUSD) 2063 2743 3815 3910 4600 6167
2Xuất khẩu (triệuUSD) 336 788 1790 1982 2547 3300
3. Tỉ trọng trong GDP 6.3 7.39 9.07 10.03 12.24 13.25
(%)
4. Tốc độ tăng trong công 8.8 21.7 23.2 24.4 20 23
nghiệp (%)
5. Tỉ trọng trong công 25.1 26.2 28.9 32 34.4 36
nghiệp (%)
6. Nộp ngân sách(triệu 195 263 315 317 271 260
USD)
7. Lao động trực tiếp 220 250 270 296 327
( ngàn người)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành lên một khu vực
kinh tế mới: Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Từ đó đẻ ra 2014
doanh nghiệp mới và 1584 cơ sở sản xuất kinh doanh phụ.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu ở nhóm ngành
công nghiệp và dịch vụ bao gồm công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, công
nghiệp dầu khí công nghiệp thực phẩm và xây dựng…chiếm hơn 61% vốn
đăng ký và 67% vốn thực hiện 71% số lao động, 94% doanh thu và 91%
giá trị xuất khẩu (không kể dầu thô ) của toàn khu vực đầu tư nước ngoài.
Như vậy rõ ràng đầu tư nước ngoài đã thực hiện theo định hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo
hướng gia tăng tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ.
Theo tổng điều tra gần đây thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm gần 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội 25.1% giá trị sản xuất công
nghiêp 27.4% kim ngạch xuất khẩu cả nước và tạo việc làm cho 400000 lao
động trực tiếp cùng hàng vạn lao động gián tiếp khác.Và thu nhập của
người lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn so vơí các
khu vực khác .
Đóng góp của khu vực này cho ngân sách nhà nước tăng lên qua các
năm: năm 2000 nộp NSNN đạt 1.3%so với GDP thì đến 2003 ước đạt 1.5%
so với GDP Kết quả sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực của khu
vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều đạt tốc độ tăng trưởng vượt trội so
vơí các khu vực kinh tế trong nước. Chẳng hạn năm 2002 trong khi giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 11.7%
hay khu vực ngoài quốc doanh là 19.2% thì khu vực doanh nghiệp cố vốn
đầu tư nước ngoài tăng 24.8% hoặc kim ngạch xuất khẩu trong nước 6.3%
thì đầu tư nước ngoài tăng 23.7%. Như vậy đầu tư nước ngoài đóng vai
trò là đầu tàu trong quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế nước ta hiện
nay.
Có thể nói đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cho sự
tăng trưởng kinh tế các năm qua ở Việt nam là rất lớn, được xem là xung
lực chính. Tuy nhiên một câu hỏi được đặt ra là liệu sự tăng trưởng trên còn
tiếp tục được duy trì không nếu đầu tư của khu vực nước ngoài mỗi năm
một giảm sút từ năm 1997 cuộc khủnh hoảng tiền tệ Châu á đã làm dòng
vốn đầu tư nước ngoài bị đình trệ, tỷ lệ đầu tư của khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài giảm từ 28% năm 1997 đến 2001 còn 18.4%và năm 2003 ước
đạt 16.8%, quy mô các dự án cũng có xu hướng giảm dần. Hiện nay quy
mô trung bình một dự án đăng ký cấp phép là là chưa đầy 2 triệu USD
trong khi giai đoạn trước là 10 triệu USD (năm 1994) Nhịp độ tăng vốn
đầu tư nước ngoài cấp mới và vốn thực hiện suy giảm. Năm 1997 giảm
49% so với năm trước, năm1998 giảm 16%. Vốn thực hiện năm 1997 đạt
3.25 tỷ tăng 25% nhưng năm 1998 lại giảm 40% năm 1999 giảm 25%. Số
dự án đã cấp xin giảm tiến độ là 6-7 tỷ nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm
chừng hoặc thu hẹp sản xuất .
Song vốn đầu tư trực tiếp vẫn còn một số hạn chế:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài còn một số bất hợp lý: Đầu tư rất ít
vào dự án nuôi trồng và chế biến nông sản (khai thác nguồn lực trong nước
hướng về xuất khẩu) cơ khí chế tạo (tạo điều kiện phát triển khoa học kỹ
thuật) mà còn tập trung vào những địa phương có điều kiện thuận lợi những
ngành dự kiến có thể thu lợi nhuận nhanh. Chủ trương đa phương hoá
nguồn đầu tư nước ngoài còn chưa thực hiện tốt. Vốn đầu tư nước ngoài từ
Châu Á chiếm 70% trong đó ASEAN chiếm 25% trong khi vốn từ Châu âu
và Mỹ còn thấp, bài học về khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á còn chưa
ráo mực. Nếu tập trung thu vốn của một khu vực xuất khẩu của khu vực
đầu tư nước ngoài tăng nhanh song chủ yếu là các mặt hàng gia công: Dệt
may, giày dép lắp ráp điện tử …giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh
trên thị trường không cao. Công tác dự báo chưa chuẩn xác dẫn đến rủi ro
làm dự án bị đình trệ bị rút giấy phép. Công tác quản lý cấp phép đầu tư
thực sự vẫn chưa thông thoáng quá tập trung vào thủ tục ban đầu nhưng lại
buông lỏng quản lý sau giấy phép là khâu quyết định thành bại của dự án.
Việc phân phối vốn đầu tư để sản xuất hàng thay thế nhập khẩu mạnh hơn
xu hướng sản xuất hàng hoá hướng vào xuất khẩu, có thể thấy rõ là 3/4 vốn
FDI trong khu vực công nghiệp được tập trung vào khu vực thay thế nhập
khẩu, chỉ 1/4 FDI tập trung vào phục vụ xuất khẩu. Hơn nữa khu vực FDI
bỏ ra khá nhiều vốn đầu tư cho một việc làm 66000USD cho thấy đầu tư
nước ngoài thay thế nhập khẩu cần nhiều vốn hơn là sản xuất hàng xuất
khẩu cần nhiều lao động. Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn gây ra nhiều tác
động tiêu cực khác khai thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc
xử lý ô nhiễm môi trường, bóc lột người lao động bản xứ, chuyển giao kĩ
thuật công nghệ lạc hậu nhưng lại khai khống lên giá trị lợi ích của nước
nhận đầu tư. Như năm 1995 qua giám định 14 doanh nghiệp liên doanh thì
có 6 doanh nghiệp bị khai khống máy móc thiết bị với tổng số là 13,173
triệu USD, với ưu thế về vốn kĩ thuật, kinh nghiệm tổ chức quản lý sản
xuất dẫn đến gây lũng loạn và phá sản các doanh nghiệp trong nước kém
sức cạnh tranh. Lợi ích mà đầu tư nước ngoài đem lại là không nhỏ nhưng
để phù hợp với lợi ích và định hướng phát triển quốc gia nhà nước cần có
chính sách quản lý phù hợp vừa tăng cường thu hút vừa kiềm chế tác động
tiêu cực.

3. Thực trạng về mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và


nước ngoài

Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận
động chủ yếu của đòi sống quốc tế hiện nay. Với xu hướng này, mở cửa và
hội nhập các nền kinh tế quốc gia và khu vực trở thành điều kiện bắt buộc
của sự phát triển. Bên cạnh đó với sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học kĩ
thuật công nghệ khi tiềm lực kinh tế nói cung của thế giới đã trở nên hùng
hậu, vấn đề tăng trưởng lâu bền, tốc độ cao và dịch chuyển cơ cấu trở thành
quản lý phát triển cho mọi nền kinh tế hiện đại. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng ấy, bên cạnh yếu tố quyết định của nội lực thì đầu tư trực
tiếp nước ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng tạo nên đà tăng trưởng.
Vốn đầu tư nước ngoài năm 1995 thu ngân sách từ khu vực nước ngoài đạt
128 triệu USD thì đến năm 1997 là 315 triệu USD và đến năm 2000 là 260
triệu USD đóng góp vào thu ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 30%. Trong những năm gần đây các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên tục có mức đóng góp vào ngân sách
nhà nước năm sau tăng cao hơn năm trước (năm 2001 tăng 20,4%, năm
2002 tăng 26,9%, năm 2003 tăng 30% ) góp phần vào nguồn thu để nhà
nước giải quyết các vấn đề xã hội, an ninh quốc phòng.
Đầu tư nước ngoài góp phần tạo ra một số năng lực sản xuất, ngành
sản xuất, phương thức quản lý và kinh doanh mới thúc đẩy doanh nghiệp
trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo ra cho nền kinh tế nước ta nhiều công nghệ mới hiện đại
mà biểu hiện cụ thể nhất là ở các lĩnh vực viễn thông dầu khí, hoá chất,
điện tử tin học, ô tô xe máy… làm tiền đề cho sự phát triển của một số
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Ta cũng học tập được nhiều mô hình
quản lý tiên tiến và các phương thức kinh doanh hiện đại trên thương
trường quốc tế đã được áp dụng trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Đây có thể được coi là những yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp trong nước
không ngừng thúc đẩy đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp trên thị
trường. Trong thời gian qua khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một trong những nhân tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.Với tỷ trọng bằng 35% giá trị sản lượng cả
nước khu vực kinh tế này góp phần quạn trọng trong việc nang cao giá trị
sản xuất trong cả nước từ 11%/ năm lên 13%/ năm .
Bên cạnh đó các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn tạo ra nhiều
hàng hoá trong thị trường trong nước góp phần thay thế hàng nhập khẩu, và
khu vực này cũng có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao nhất làm
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế cho nước ta với kim ngạch xuất khẩu
bằng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đầu tư nước ngoài cũng
làm tăng lượng việc làm cho lao động, tính đến nay là khoảng 44 vạn lao
động trực tiếp cùng chục vạn lao động gián tiếp, với thu nhập của người
lao động cao hơn 30% các khu vực khác. Hàng năm thu nhập của người lao
động ở khu vực này lên đến 300-350 triệu US. Ngoài ra khu vực này còn
thúc đẩy quá trình phát triển đổi mới và hội nhập của nước ta vào nền kinh
tế thế giới. Nhờ có đầu tư nước ngoài mà các quan hệ song phương và đa
phương được mở rộng, phát triển, Việt Nam từng bước hội nhập nền kinh
tế khu vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở rộng
bạn hàng và thị phần ở nước ngoài. Như vậy đầu tư nước ngoài có rất nhiều
tác động tích cực tới sự phát triển và mở rộng của đầu tư trong nước. Đầu
tư nước ngoài đã tích cực đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế Việt
Nam, gia tăng về quy mô tích luỹ và chất lượng đầu tư cho nền kinh tế.Vừa
thúc đẩy tích luỹ nội bộ vừa tạo ra môi trường cạnh tranh cọ sát cho các
doanh nghiệp Việt Nam trước thềm hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Ngược lại đầu tư trong nước cũng tác động rất lớn đến đầu tư nước
ngoài là định hướng cho dòng chảy đầu tư đầu tư nước ngoài vào các ngành
và lĩnh vực cần thiết. Khi đầu tư trong nước được tập trung tạo ra cơ sở hạ
tầng, nguồn năng lực cho một ngành nhất định thì làm cho chi phí trung
gian sản xuất trong ngành đó giảm đi, tỷ suất lợi nhuận trong ngành tăng
lên làm các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được đầu tư vào ngành đó
hơn. Ví dụ trong các năm qua khi đầu tư trong nước tập trung vào ngành
thuỷ sản tăng diện tích nuôi trồng, tăng sản lượng làm cho ngành công
nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển, ngay lập tức có công ty nướcc ngoài
muốn đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản hoặc trong ngành công nghiệp
may mặc là nơi thu hút vốn đầu tư khá do tận dụng được nguồn lao động
rẻ. Ở Việt Nam, lĩnh vực du lịch khách sạn cũng là nơi thu hút vốn đầu tư
khá, vốn đầu tư trong nước luôn chiếm một tỷ lệ ưu thế hơn so với vốn đầu
tư nước ngoài, các năm qua tỷ trọng vốn đầu tư trong nước tăng dần qua
các năm: Năm1995 tỷ lệ vốn đầu tư trong nước so với vốn đầu tư nước
ngoài là 2.29 lần, năm 1999 là 4.78 lần và năm 2003 là 5.06. Điều đó khẳng
định nguồn chủ yếu, quyết định là vốn đầu tư trong nước. Mặc dù ta có thể
thấy vốn đầu tư trong nước và nước ngoái có mối quan hệ mật thiết song
hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Các năm qua vốn đầu tư trong nước tăng
thêm song lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng ngày càng
giảm- không chỉ ở FDI mà ngay cả ODA nếu không có biện pháp điều
chỉnh để tăng trở lại nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì các năm tới trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ gặp nhiều khó khăn.
Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải có biện pháp điều chỉnh kịp thời gia tăng
nguồn vốn trong nước, tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy
tăng trưởng.
CHƯƠNG III

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG


MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN

I .NHỮNG NGUYÊN NHÂN

Từ thực trạng nêu trên về nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoài cũng như mối quan hệ giữa chúng. Hạn chế đã nêu có thể gây cản trở
tới quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Nguyên nhân của những hạn
chế này theo chúng tôi xuất phát từ những điều chủ yếu sau:

1. Môi trường pháp lý

Đầu tiên là khâu cấp giây phép đầu tư, thủ tục hành chính rườm rà,
mất thời gian. Mặc dù đã có những quy định mới cải tiến song lại dẫn đến
“một cửa nhiều khoá ” chưa có sự phối hợp giữa các bộ ngành địa phương.
Hai nữa là tính ổn định của pháp luật và chính sách chưa cao, thiếu tính rõ
ràng, không thể dự đoán trước được. Các chính sách liên quan đến FDI
thay đổi nhiều, một số trường hợp chưa tính kỹ đến lợi ích chính đáng của
nhà đầu tư, làm đảo lộn phương án kinh doanh gây thiệt hại cho họ. Nhiều
văn bản duới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống.
Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết
lại, “đẻ” thêm quy trình dẫn đến tình trạng “ trên thoáng dưới chặt ” thậm
chí chồng chéo, thiếu thống nhất làm nản lòng các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Hiện nay các chính sách ưu đãi về thuế, tài chính chưa cao,
chưa giải quyết thoả đáng lợi ích cho các bên.
2. Môi trường kinh doanh.

Môi trường kinh doanh ở Việt Nam hiện nay còn chưa thông thoáng,
thiếu hấp dẫn và thiếu tính đồng bộ.Trước hết thể hiện ở chi phí kinh cao,
khả năng sinh lời thấp.Theo kết quả điều tra giá điện tại Việt Nam cao gấp
2 lần Thượng Hải, Băngkok, cước phí vận chuyển container cao gấp 2 lần
Singapore, cước phí điện thoại cao gấp 2 lần các nước khác. Các khoán chi
phí ngoài luật (tư vấn chạy thủ tục) tình trạng sách nhiễu của cán bộ, tệ
quan liêu vẫn còn tồn tại. Mặt khác công tác quản lý còn chưa tốt nên tình
trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, sản xuất hàng giả, hàng nhái, gian
lận thương mại vẫn còn phổ biến. Các thị trường còn thiếu tính đồng bộ, thị
trường công nghệ và các dịch vụ thông tin, tài chính, bảo hiểm, kiểm toán
chưa phát triển kịp thời với các yêu cầu của lĩnh vực đầu tư. Thị trường vốn
- thị trường chứng khoán chậm phát triển đãc hạn chế khả năng đáp ứng
yêu cấu vốn vay của các thành phần kinh tế. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
còn nhiều hạn chế, giao thông vận tải, bưu điện nhiều nơi đang trong tình
trạng xuống cấp. Chất lượng lao động Việt Nam chưa đáp ứng được yêu
cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tính kỷ luật kém, tay nghề chưa
cao.

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU

Trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư phát triển nhằm thực hiện
mục tiêu chiến lược là rất lớn. Do vậy ta phải cùng lúc phấn đấu huy động
ở mức cao nhất nguồn vốn trong nước phát huy tối đa nội lực, đồng thời
phải xây dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm cải tạo
nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam, tích cực thu hút
vốn đầu t ư nước ngoài.

1.Vốn đầu tư trong nước

Với vốn đầu tư từ NSNN cần tập trung, rà soát lại các dự án, bố trí
vốn cho các công trình then chốt. Kiên quyết không bố trí vốn một cách
tràn lan cho các công trình, dự án chưa đủ các điều kiệ ,nhất là về quy
hoạch. Nguồn bù dắp thiếu hụt ngân sách được thực hiện chủ yếu thông
qua các hình thức :đấu thấu tín phiếu kho bạc nhà nước, bán lẻ trái phiếu
chính phủ qua kho bạc nhà nước, đấu thầu và bảo lãnh phát hành qua thị
trường chương khoán tập trung.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
giám định đầu tư, chống lãng phí tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản,
đảm bảo sử dụng vốn một cách có hiệu quả, tập trung theo mục tiêu kế
hoạch và cơ cấu đầu tư hợp lý.
Với nguồn vốn tín dụng cần đẩy mạnh việc huy động, đặc biệt vốn
trung và dài hạn mở rộng đầu tư thông qua tín dụng với các thành phần
kinh tế nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng thương mại
cần đa dạng hoá các hình thức hoạt động vốn, đặc biệt chú ý các loại vốn
trung, dài hạn đồng thời phải có các biện pháp tích cực thu hồi nợ quá hạn
để tạo nguồn tiếp tục cho vay. Cần có cơ chế cho phép các tổ chức tín dụng
mở rộng phạm vi cho vay ngoại tệ trong nước theo hướng tập trung cho vay
các dự án sản xuất hàng xuất khẩu .
Với nguồn vốn từ doanh nghiệp và dân cư cần có các chính sách để
huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính của mọi thành phần kinh tế cho
đầu tư phát triển.Thông qua việc cải thiện môi tường đầu tư đẩy nhanh việc
giải quyết các thu tục hành chính, công khai cơ chế chính sách …nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận các yếu tố sản xuất.Thực
hiện các giải pháp ưu đãi từ thuế tín dụng, giao quyền sử dụng đất, cho thuê
tài sản. Xoá bỏ sự phân biệt đói xử giữa các thành phần kinh tế trong các
văn bản pháp lý, quan niệm xã hội, các quy định hành chính.

2. Vốn đầu tư nước ngoài

Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu
tư nước ngoài như tài chính ngân hàng, thuế, xuất nhập khẩu, đất đai, lao
động. Có chính sách đặc biệt ưu đãi vào khu công nghiệp như giảm giá
thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giải quyết dứt điểm vấn
đề giải phóng mặt bằng, chính sách đền bù nên ổn định, nhất quán, kiên
quyết. Từng bước thực hiện tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao
dịch vãng lai. Tạo điều kiện cho các doanh nghệp đầu tư nước ngoài dược
tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng (cả trung và dài hạn) tại các tổ
chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tiến tới cổ phần hoá các
doanh nghiệp nước ngoài. Ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù
hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
các doanh nghiệp dồng thời đảm bảo các điều kiện của nhà nước. Về việc
thực hiện giảm chi phí đầu tư, thực hiện điều chỉnh giá, phí một số hàng
hoá dịch vụ tiến tới áp dụng mặt bằng giá thống nhất với doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện đổi mới
và đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư theo chủ trương đa phương hoá các
đối tác nhằm tạo thế chủ động trong mọi tình huống, tranh thủ tiềm lực
vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế.Việt nam cần phải đẩy mạnh tuyên truyền hình ảnh của mình ra bên
ngoài, tăng cường mạng lưới xúc tiến trong và ngoài nước (tổ chức các
buổi hội thảo, thuê các tổ chức độc lập nước ngoài chuyên làm công tác
xúc tiến đầu tư …)
Với nguồn vốn ODA cần đồng bộ hoá khung pháp lý của Việt nam,
nghiên cứu và tiến hành sửa đổi một số nghị định liên quan đến quản lý và
sử dụng nhằm tạo sự hài hoà giữa thủ tục của phía các nhà tài trợ và phía
Việt Nam . Thực tế đòi hỏi Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính cùng các
ban ngành chức năng cần có những cuộc tiếp xúc trao đổi với các nhà tài
trợ. Các nhà tài trợ chỉ nên thống nhất với chính phủ về các quy định có
tính chất chung nhất, các chi tiết cụ thể nên giao quyền cho các địa phương
thống nhất để phù hợp với đặc thù của họ, hạn chế được những vướng mắc
trong quá trình triển khai dự án sau này. Phát triển nguồn nhân lực cho dự
án ODA bằng cách nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự án thông qua
hình thức tập huấn đào tạo ngắn ngày đối với một số nghiệp vụ đặc thù của
dự án.Về lâu dài cần chuẩn hoá trình độ cán bộ phục vụ dự án: Phải có
trình độ đại học trở lên và thông thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh
chóng chính xác các công việc của dự án .
Trên đây là một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác thu hút và sử
dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Mặc dù chưa thực sự đầy đủ nhưng
đó là những định hướng giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát
huy hiệu quả nguồn vốn đầu tư .
PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy nhìn lại vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong
nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưỏng và phát triển kinh tế ở
nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta có thể thấy được những vấn đề lý luận chung như thực trạng về
vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Để từ đó có được một số kiến
nghị, giải pháp nhằm phát huy những lợi thế làm giảm bớt những mặt còn
hạn chế. Có thể thấy rằng nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn
nước ngoài là quan trọng, tuy nhiên giữa hai nguồn vốn có tỉ lệ khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi nước, nhu cầu về đầu tư cũng khác
nhau trong mỗi thời kỳ khác nhau. Trong sự vận động khác nhau không
ngừng, luôn biến động của thế giới bất kỳ quốc gia nào cũng phải hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu.Vì vậy Việt Nam hiện nay đang nỗ lực xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy phát triển kinh tế Đảng và nhà nước
đã có những nhận định đúng đắn đối với vai trò của đầu tư trong toàn bộ
nền kinh tế, đặc biệt là vai trò của hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài. Đặt nguồn vốn đầu tư trong điều kiện hơn 10 năm đổi mới chúng ta
đã thu được những thành tựu quan trọng đáng tự hào và đã có nhiều cố
gắng để giải quyết mối quan hệ giữa hai nguồn vốn,đặc biệt chúng ta đã và
đang hoàn thiện hàng loạt các chính sách kinh tế cũng như các biện pháp
ưu đãi phù hợp dựa trên những nguyên tắc về kinh tế thị trường một cách
triệt để nhằm tháo gỡ những khó khăn những bất cập còn tồn tại. Nhìn nhận
rõ và giải quyết được những vấn đề đã nêu trên sẽ góp phần không nhỏ
trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh tổng
hợp góp phần vào việc hoàn thiện những mục tiêu chủ yếu mà đất nước đề
ra. Từ đó có thể phát huy tốt tiềm lực bên trong, tăng cường thực lực kinh
tế làm cho đất nước phồn vinh thịnh vượng - đây là điều quốc gia nào cũng
mong muốn mà Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình kinh tế đầu tư - NXB thống kê năm 2002


2. Giáo trình kinh tế phát triển - NXB thống kê năm 1999
3. Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ - Nguyễn Hồng Minh
4. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế của Viêt Nam -
NXB chính trị Quốc gia
5. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn
6. Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật Bản sau chiến
tranh
7. Đánh thức con Rồng ngủ quên
8. Tích tụ và tập trung vốn trong nước
9. Tài chính chứng khoán Việt Nam Số 1 + 6 năm 2000 số 9- 2001 tr3
10. Kinh tế Việt Nam 2002-2003 - Thời báo kinh tế Việt Nam
11. Kinh tế Việt Nam 2003-2004 – Thời báo kinh tế Việt Nam
12. Tài chính kinh tế và phát triển
13. Tạp chí Cộng sản - Số 15 + số 18/2003
14. Nghiên cứu kinh tế - Số 265 Tr6/2000
15. Thời báo kinh tế Việt Nam - Số 10 -15/2004
MỤC LỤC

Lời nói đầu ............................................................................................ 1


Chương I: Những vấn đề lý luận chung............................................. 3
I. Khái niệm phân loại và bản chất của nguồn vốn đầu tư ................ 3
1. Khái niệm ........................................................................................... 3
1.1. Vốn đầu tư....................................................................................... 3
1.2. Nguồn vốn đầu tư............................................................................ 3
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư............................................................... 3
2.1. Nguồn vốn trong nước .................................................................... 3
2.2. Nguồn vốn nước ngoài.................................................................... 4
3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư ......................................................... 6
II. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế ................................................................................... 9
1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển ................................................. 9
2. Vai trò của vốn đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ............. 9
2.1. Vai trò của vốn trong nước ............................................................ 9
2.2. Vai trò của vốn nước ngoài ............................................................. 10
III. Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn .................................................... 12
Chương II: Thực trạng vốn đầu tư trong nước, nước ngoài và mối
quan hệ giữa chúng ở Việt Nam ........................................................ 14
I. Thực trạng về nguồn vốn trong nước............................................... 15
1.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước ........................................................ 15
1.1. Ngân sách nhà nước ....................................................................... 15
1.2. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước .................................. 16
1.3. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân ...................................................... 17
2. Thị trường vốn ................................................................................... 19
II. Thực trạng về vốn nước ngoài ........................................................ 20
1. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức ............................................. 20
2. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................. 20
3. Thực trạng về mối quan hệ giữa vốn đầu trong nước và nước ngoài 24
Chương III: Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan
hệ giữa hai nguồn vốn .......................................................................... 27
I. Những nguyên nhân ......................................................................... 27
1. Môi trường pháp lý ........................................................................... 27
2. Môi trường kinh doanh ..................................................................... 27
II. Một số kiến nghị chủ yếu ................................................................ 28
1. Vốn đầu tư trong nước ...................................................................... 28
2. Vốn đầu tư nước ngoài ...................................................................... 29
Kết luận ................................................................................................. 31
Tài liệu tham khảo .............................................................................. 32

You might also like