You are on page 1of 22

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

ĐỀ TÀI 15:
PHÂN TÍCH HỌC THUYẾT VỀ “CÁI VÒNG LUẨN
QUẨN” VÀ CÚ HUÝCH TỪ BÊN NGOÀI CỦA PAUL
SAMUELSON. LIÊN HỆ VỚI VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : LÊ THỊ ANH


Sinh viên thực hiện : PHẠM VŨ KHÁNH LINH
Lớp : 211ECO06A03
Mã sinh viên : 23A4010363

Hà Nội, ngày 14 tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1


1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT VỀ “CÁI VÒNG
LUẨN QUẨN” VÀ “CÚ HUÝCH” TỪ BÊN NGOÀI CỦA PAUL
ANTHONY SAMUELSON............................................................................3
1.1. Sơ lược về Paul Anthony Samuelson.....................................................3
1.2. Nội dung học thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên
ngoài..............................................................................................................3
1.3. Đánh giá về học thuyết...........................................................................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN FDI CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY.......................................................................................................7
2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam...........................................................7
2.2. Thực trạng thu hút vốn FDI tại Việt Nam.........................................8
2.3. Vai trò của vốn FDI trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.................10
2.3. Tiêu cực của Việt Nam trong thu hút vốn FDI.....................................12
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG VỐN FDI CHO KINH
TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................15
3.1. Giải pháp để tăng cường vốn FDI cho Việt Nam giai đoạn hiện nay. .15
3.2. Liên hệ trách nhiệm của bản thân....................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hoá, tăng trưởng và phát triển kinh tế đã và
đang trở thành mục tiêu hàng đầu, là thước đo về sự tiến bộ trong mỗi giai
đoạn phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới đất nước, mở cửa và phát triển đầu tư nước
ngoài đã thúc đẩy chuyển dịch, cơ cấu lại nền kinh tế nước ta, nâng cao năng
lực cạnh tranh, tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước, tiến tới hội nhập
quốc tế, từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, các
quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là những nước có
thu nhập thấp, đang mắc phải “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khó. Để tăng
trưởng và phát triển kinh tế buộc chúng ta phải có “cú huých” từ bên ngoài,
nhằm phá vỡ, cũng như thoát “cái vòng luẩn quẩn” đó. Thực tế cho thấy, đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang là “cú huých” mạnh mẽ nhất, được nhìn
nhận như một trong những trụ cột tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Như vậy,
việc quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế và tác động của nguồn vốn FDI đối
đất nước là một điều hết sực cần thiết. Do đó, em đã chọn đề tài: “Phân tích
học thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và cú huých từ bên ngoài của Paul
Samuelson. Liên hệ với vai trò của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế
Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích, tìm hiểu học thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và cú
huých từ bên ngoài của Paul Samuelson từ đó có một nhận thức đúng đắn về
tác động của “cú huých” từ bên ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế, từ đó liên hệ vai trò của vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế ở Việt
Nam và những giải pháp giúp nước ta tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu “cái vòng
luẩn quẩn” và cú huých từ bên ngoài của Paul Samuelson, nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam và giải pháp tăng cường vốn FDI cho tăng
trưởng kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: bài tiểu luận tập trung nghiên cứu học thuyết về “cái vòng
luẩn quẩn” và cú huých từ bên ngoài của Paul Samuelson, tác động của FDI
đến nền kinh tế Việt Nam.
Thời gian: Thời gian nghiên cứu được xác định là từ khi Việt Nam thức
thông qua Luật Đầu tư nước ngoài, văn bản pháp lý quan trọng nhất chính
thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài ở nước ta vào năm 1987 cho đến
thời điểm kết thúc năm 2021.

4. Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các
phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa và hệ thống hóa.

2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT VỀ “CÁI
VÒNG LUẨN QUẨN” VÀ “CÚ HUÝCH” TỪ BÊN NGOÀI
CỦA PAUL ANTHONY SAMUELSON

1.1. Sơ lược về Paul Anthony Samuelson

Paul Anthony Samuelson (1915 – 2009) là nhà kinh tế học người Hoa
Kỳ có nhiều đóng góp to lớn trong quốc tế, tài chính công, kinh tế học vi mô
và kinh tế học vĩ mô. Ông đóng góp vào lý thuyết tân cổ điển về giá cả và lĩnh
vực phân tích tính ổn định. Là người theo trường phái Keynes, ông ủng hộ
quan điểm cho rằng chính sách tiền tệ và tài chính cần phải được phối hợp với
nhau để ngăn chặn lạm phát và suy thoái kinh tế. Trong các công trình nghiên
cứu của mình, ông kết hợp sự phân tích chặt chẽ bằng toán học với các vấn đề
chính sách và đã cho xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về các lĩnh vực lý
thuyết kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, các thế hệ lãnh đạo chính trị, kinh doanh
ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới biết đến ông chủ yếu nhờ cuốn giáo trình
Kinh tế học. Trong thời gian dài, đây là cuốn giáo trình chuẩn được sử dụng ở

các trường đại học danh tiếng nhất của Mỹ và trên thế giới.

1.2. Nội dung học thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên
ngoài

Đây là học thuyết do nhiều nhà kinh tế học tư sản đưa ra, trong đó có
Paul A. Samuelson. Theo ông, để tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung
phải đảm bảo bốn nhân tố đó là nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ
cấu tư bản và kỹ thuật. Cụ thể:

a. Về nhân lực
Yếu tố về năng lực, chất lượng nguồn năng lực là yếu tố tiên quyết,
quan trọng nhất trong tăng trưởng nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc. Các
yếu tố như tư bản, nguyên vật liệu, kỹ thuật đều có thể mua bán hoặc vay
mượn từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển, còn với yếu tố về nhân lực thì

3
khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả khi quốc gia
đó có trình độ văn hóa, sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.
Các quốc gia nghèo trên thế giới có tuổi thọ trung bình thấp (từ 57-58
tuổi), trong khi đó ở các nước tiên tiến tuổi thọ trung bình là từ 72 - 75 tuổi.
Do đó, phải có chương trình kiểm soát bệnh tật, nâng cao sức khỏe và đảm
bảo dinh dưỡng để họ làm việc có năng suất cao hơn, đòi hỏi phải xây dựng
bệnh viện, hệ thống bảo vệ sức khỏe, coi đó là những vốn xã hội có lợi ích
sống còn chứ không phải là hàng xa xỉ phẩm.
Ở các nước đang phát triển, số người lớn biết chữ chỉ chiếm từ 32 -
52%. Do đó cần phải đầu tư cho việc xóa nạn mù chữ, trang bị cho con người
những kỹ thuật mới trong nông nghiệp, công nghiệp; phải gửi những người
thông minh ra nước ngoài để lấy kiến thức và kỹ thuật kinh doanh.
Phần lớn lực lượng lao động của các nước đang phát triển làm việc
trong nông nghiệp chiếm 70%. Do vậy, cần phải chú ý tới tình trạng thất
nghiệp trá hình - lãng phí trong sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, năng
suất lao động không cao; sản lượng sẽ không giảm nhiều khi lao động nông
thôn chuyển nhiều sang công nghiệp.
b. Về tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng trong việc phát tiển kinh
tế. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển cũng có hạn, nhưng dân số
lại đông, điều này dẫn đến tài nguyên bình quân đầu người thấp. Tài nguyên
quan trọng nhất của các nước đang phát triển chính là đất nông nghiệp. Do
vậy, việc sử dụng đất đai có hiệu quả sẽ tác dụng làm tăng sản lượng quốc
dân. Muốn vậy phải có chế độ bảo vệ đất đai, canh tác hợp lý, thực hiện tư
hữu hóa đất đại để kích thích chủ trại đầu tư cải tạo đất.

4
c. Về cấu thành tư bản
Ở các nước đang phát triển, năng suất lao động thấp, chỉ đảm bảo cho
dân cư có mức sống tối thiểu, không có tiết kiệm. Do đó không có vốn để phát
triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng. Để có tư bản các nước này phải đi vay
nước ngoài. Nhưng hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư
vào các nước nghèo vì môi trường đầu tư không thuận lợi như tình hình chính
trị - xã hội không ổn định nên không đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư, đồng
thời các nước đang phát triển thường là những con nợ lớn và khả năng trả nợ
kém, thậm chí vỡ nợ. Vì vậy, tự bản đối với các nước này là vấn đề nan giải.
d. Về kỹ thuật
Các nước đang phát triển có trình độ kỹ thuật thấp, lạc hậu, nhưng có
lợi thế của người đi sau, có thể bắt chước được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến
của các nước đi trước thông qua con đường nhận chuyển giao công nghệ. Đây
là con đường có hiệu quả để các nước đang phát triển nắm bắt được khoa học
công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phát triển kinh tế của đất nước.
Samuelson cho rằng các yếu tố này ở các nước đang phát triển đều khan
hiếm nên việc kết hợp bốn yếu tố này gặp khó khăn trở ngại lớn và ở nhiều
nước nghèo khó khăn lại càng tăng thêm trong “cái vòng luẩn quẩn” của sự
nghèo khổ, có thể được biểu thị qua sơ đồ dưới đây:

Tiết kiệm và
đầu tư thấp

Thu nhập bình Tốc độ tích lũy vốn


quân thấp thấp

Năng suất lao động


thấp

Sơ đồ cái vòng luẩn quẩn của các nước nghèo

5
Để tăng trưởng và phát triển thì cần phải có “cú huých từ bên ngoài”
nhằm phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn”. Tức là các quốc gia này cần có sự đầu tư
từ bên ngoài về về vốn, công nghệ, chuyên gia... Vì vậy, các nước đang phát
triển cần phải có đầu tư nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích
đầu tư nước ngoài nhằm vực dậy và phát triển nền kinh tế.
1.3. Đánh giá về học thuyết
Học thuyết chỉ ra đặc điểm nền kinh tế phổ biến của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam, là các nguồn lực sản xuất bị khan hiếm. Học
thuyết cũng chỉ ra, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
cần phải có những đánh giá chính xác nguồn lực của nước mình để có kế
hoạch khai thác phát triển và sử dụng hợp lý, có hiệu quả cao.
Học thuyết gợi mở một giải pháp cho sự tăng trưởng đối với các nước
đang phát triển là cần phải dựa vào đầu tư của các nước phát triển. Trong điều
kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc mở rộng kinh tế đối ngoại,
tranh thủ các nguồn lực nhất là vốn và công nghệ của các nước đi trước là rất
cần thiết để một nước đang phát triển mở rộng sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu,
thúc đẩy tăng trưởng, qua đó có điều kiện phá vỡ tình trạng nước nghèo. Đó
có thể là cú huých về vốn đầu tư, về công nghệ, chuyên gia… Trong đó vốn
đầu tư nước ngoài FDI được coi là cú huých giúp quốc gia chủ quản giải
quyết được vấn đề về đầu tư thấp thông qua chuyển giao vốn bằng tiền hoặc
tài sản khác vào nền kinh tế, thúc đẩy lượng tích lũy vốn tăng cao. Áp dụng
công nghệ cao trong sản xuất, kinh doanh, quản lí,… giúp nâng chất lượng
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước
ngoài giúp tăng nguồn thu cho đất nước. Giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao
chất lượng tay nghề người lao động cũng là một “cú huých”, một động lực
giúp thúc đẩy kinh tế tại các nước đang phát triển tiến bộ.

6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN FDI CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam
Bài làm xem xét nền kinh tế Việt Nam trên 4 phương diện sau:
Về nhân lực, dân số Việt Nam tính đến 1/1/2022 là 98.565.478 người,
đa số sinh sống ở vùng nông thôn với tỉ lệ là 61,95. Độ tuổi trung bình ở Việt
Nam là 33,3 tuổi, tuổi thọ trung bình mỗi người là 73,7 tuổi. Theo báo cáo
năm 2020, hơn 97% người Việt biết chữ. Đó là kết quả của công cuộc vận
động xóa mù chữ của nhà nước trong những năm gần đây. Song dù dân số
đông, tỉ lệ dân trong độ tuổi lao động cao nhưng lực lượng lao động tại Việt
Nam nhìn chung về trình độ còn thấp, thiếu sự đầu tư cho chất xám. Tư duy
làm việc còn đóng khung, rập khuôn nên ít có sự sáng tạo, đổi mới. Tỉ lệ lao
động có chuyên môn kĩ thuật bậc cao chỉ chiếm 8% (2020).
Về tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam vốn là nước có tài nguyên thiên
nhiên dồi dào, tuy nhiên nguồn khoáng sản còn bị khai thác manh mún, nhỏ lẻ,
trái phép; xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô; công nghệ khai
thác, chế biến còn lạc hậu, chậm được đổi mới... dẫn đến tổn thất, lãng phí
nguồn tài nguyên không tái tạo quan trọng này. Bên cạnh đó, tài nguyên nước
chưa được khai thác tổng hợp, phục vụ đa mục tiêu dẫn đến hiệu quả thấp; tình
trạng thiếu nước theo mùa, cục bộ theo vùng còn nghiêm trọng; diện tích che
phủ của rừng có tăng nhưng chất lượng rừng giảm, rừng tự nhiên xuống cấp
mạnh; nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, năng suất, hiệu quả khai thác
thấp…
Về cấu thành tư bản, thu nhập bình quân của người dân Việt Nam năm
2021 là 4,2 triệu đồng/ tháng. Đây là mức thu nhập tương đối thấp, một phần
do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Điều đó dẫn đến việc mức sống của
người dân chỉ được đảm bảo ở mức tối thiểu đến tương đối, không có tiết

7
kiệm. Dó đó không có vốn để phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng. Để tư
bản cần phải đi vay nước ngoài.
Về kĩ thuật, hiện nay Việt Nam đang có xu hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên trình độ kĩ thuật
còn thấp, chưa áp dụng được các thành tựu công nghệ cao vào sản xuất nên
năng suất còn thấp, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc
tế, do đó bị hạn chế về đầu ra và ảnh hưởng đến vị thế của quốc gia trên
trường quốc tế.
Từ những phân tích nêu trên có thể kết luận, Việt Nam những năm gần
đây có sự tăng trưởng và tiến bộ vượt bậc, song vẫn chưa đạt được những yếu
tố của một nước phát triển. Như vậy, Việt Nam được xếp vào loại các quốc gia
đang phát triển cần một “cú huých” để thoát khỏi vòng luẩn quẩn tù túng mà
mình đang gặp phải mà cụ thể chính là nguồn vốn đầu tư FDI.
2.2. Thực trạng thu hút vốn FDI tại Việt Nam
FDI (foreign direct investment): Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật
Đầu tư Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu
tư nước ngoài bỏ vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia khác để
có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế
tại quốc gia này, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình.
Với lợi thế cạnh tranh về môi trường đầu tư thông thoáng, môi trường
chính trị ổn định, môi trường kinh tế vĩ mô phát triển ổn định, nguồn nhân lực
dồi dào với chi phí thấp, Việt Nam là một trong những quốc gia hấp dẫn với
nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ các lợi thế đó,  dòng vốn FDI vào Việt Nam
những năm gần đây có xu hướng tăng lên, đặc biệt là sau khi Việt Nam tham
gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương.
Bảng: Số lượng vốn và dự án FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020
Tổng vốn FDI đăng Vốn FDI thực hiện Số dự án đăng ký
Năm
ký (Tỷ USD) (Tỷ USD) mới
2010 19,89 11 1237
8
2011 15,60 11 1186
2012 16,35 10,46 1287
2013 22,35 11,5 1530
2014 21,92 12,5 1843
2015 22,70 14,5 2013
2016 26,90 15,8 2613
2017 30,80 17,5 2741
2018 26,30 19,1 3147
2019 38,95 20,38 3883
2020 28,53 19,38 2523
Nguồn: Cục Đầu tư nước
ngoài

Giai đoạn từ năm 2010 - 2014 vốn FDI đăng ký có sự dao động liên tục
và tăng nhẹ từ 19,89 tỷ USD năm 2010 lên 21,92 tỷ USD vào năm 2014. Từ
sau năm 2015 tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam có sự gia tăng mạnh mẽ và
liên tục, với tổng vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2015 là 22,7 tỷ USD, thì đến
năm 2019 con số này tăng lên 38,95 tỷ USD.
Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu bị
ảnh hưởng nghiêm trọng nên vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam có
sự sụt giảm, chỉ đạt 28,53 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019.

Theo: Cục đầu tư nước ngoài

9
Theo Tổng cục thống kê, tính đến 20/9/2021 tổng FDI đăng ký vào Việt
Nam tăng 4,4% so với cùng kỳ 2019. Trong 9 tháng đầu năm 2021, có 94 quốc
gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Singapore là nước dẫn đầu với
tổng vốn 6,28 tỷ USD, chiếm 28,4%; Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn
3,91 tỷ USD chiếm 17,7%. Nhật Bản đứng thứ 3 đạt 3,27 tỷ USD, chiếm
14,7%. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,... Các nhà đầu tư
nước ngoài này đã đầu tư vào 58 tỉnh, thành phố.
Có thể thấy, giai đoạn 2010- 2020 Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng kể trong việc thu hút vốn FDI vào phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và
nhà nước cũng có các chủ trương tạo điều kiện, thu hút nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài vào Việt Nam. Trong văn kiện đại hội XII của Đảng khẳng định:
“Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, có vai trò lớn trong thu hút vốn đầu tư, công nghệ, phương thức
quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu”. Như vậy, vốn FDI chính là
một cú huých đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
2.3. Vai trò của vốn FDI trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
a. FDI giúp tăng cường nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển kinh tế
Chính sách mở cửa cho FDI và thương mại của nước ta cho tới nay rõ
ràng đã giúp đẩy mạnh việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào
mạng lưới sản xuất khu vực và đa dạng hóa xuất khẩu. Đồng thời, tạo ra số
lượng lớn việc làm cho một lực lượng dân số trẻ và đang gia tăng, từ đó cải
thiện được nguồn thu của Nhà nước và cán cân thanh toán. Thực tế cũng cho
thấy vốn FDI đã bắt đầu tạo ra những lợi ích gián tiếp đáng kể nhờ tạo hiệu
ứng lan toả sang những lĩnh vực khác của nền kinh tế, như giới thiệu các công
nghệ, bí quyết kinh doanh mới, các chuẩn mực quốc về sản xuất và dịch vụ,
phát triển kỹ năng cho lực lượng lao động, cũng như tạo việc làm trong các
ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ.

10
b. FDI góp phần chuyển giao công nghệ

Chuyển giao công nghệ, kỹ thuật qua các dự án FDI là một trong những
kênh chủ yếu, có tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ KH&CN, thời gian qua, FDI đã góp phần thúc đẩy đổi
mới và chuyển giao công nghệ, từng bước nâng cao năng lực sản xuất trong
nước. Đặc biệt, trong các lĩnh vực: dầu khí, giao thông, xây dựng, cơ khí chế
tạo, điện tử – viễn thông – tin học, dệt may – giầy dép đã đạt được một số kết
quả bước đầu. Trình độ công nghệ sản xuất trong nước đã được nâng cao một
cách rõ rệt so với thời kỳ trước đây. Đồng thời, trong thời gian qua, hầu hết
các doanh nghiệp trong nước đã đổi mới hoặc nâng cấp các trang thiết bị đáp
ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế.

c. FDI giúp đẩy mạnh xuất khẩu

Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò
của FDI trong suốt hơn 30 năm đổi mới. Những năm gần đây, tỷ trọng đóng
góp của khối FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn. Năm 2020,
khu vực FDI đóng góp 202,89 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước, chiếm tỷ trọng 71,7%. Không chỉ là tỷ trọng chung, mà các con số
thống kê đều cho thấy, ở các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, khu vực FDI luôn
đứng đầu bảng.
Là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, ta có thể nhận thấy xuất
khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Ngay cả trong những năm xuất
khẩu của các ngành kinh tế khác tăng chậm hoặc giảm thì xuất khẩu của khu
vực FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước
khá cao trong nhiều năm. Tuy nhiên, khu vực FDI có mức thặng dư thương
mại khá cao. Điều đó góp phần làm giảm mức thâm hụt thương mại chung
cho cả nền kinh tế.

11
d. FDI – “cú huých” tạo việc làm, cải thiện nguồn nhân lực

Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của
khu vực FDI. Theo kết quả Tổng điều tra lao động việc làm năm 2020 của
Tổng cục Thống kê, nếu năm 1995 cả nước mới có khoảng 330 nghìn lao
động làm việc trong doanh nghiệp FDI, thì năm 2007 đã tăng lên khoảng 1,5
triệu người và đến cuối năm 2020 tăng lên gần 6,1 triệu lao động (chiếm 11%
tổng số lao động khu vực DN). Mặc dù không tạo ra nhiều việc làm so với
khu vực trong nước nhưng tốc độ tăng của lao động khu vực FDI khá cao, gần
4 lần tăng trưởng lao động của nền kinh tế. Nhiều cán bộ, công nhân trong
khu vực FDI là những “hạt nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ,
tay nghề cao của Việt Nam.

2.3. Tiêu cực của Việt Nam trong thu hút vốn FDI
Mặc dù có nhiều tác động tích cực tới kinh tế và sự phát triển bền vững
của đất nước. Song, Việt Nam đã và đang thu hút những nguồn vốn FDI
không sạch dẫn đến có những tác động tiêu cực trên nhiều lĩnh vực:
Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với doanh
nghiệp trong nước: Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối
thủ cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm
chí phải rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên,
cạnh tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững
trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện.
Nguy cơ nhập khẩu công nghệ lạc hậu: Về kênh chuyển giao và phổ
biến công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và DN trong nước cũng không hoặc ít
diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật pháp về sở
hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các
doanh nghiệp trong nước.
Mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế: FDI thường tập
trung vào những ngành có khả năng sinh lợi cao như khai thác tài nguyên
12
khoáng sản, dầu khí, công nghiệp nặng,… Trong khi những ngành như nông
nghiệp lại thu hút được rất ít nguồn FDI. Điều này, dẫn tới sự mất cân đối
giữa các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Xuất hiện nguy cơ rửa tiền: Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị
các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát,
hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức
độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Việt
Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có
tính chất mở hàng đầu thế giới, việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra
đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền.
Gây ô nhiễm môi trường: Có thể nói một trong những tác động tiêu cực
nhất của FDI đối Việt Nam là những ảnh hưởng về môi trường. Hiện nay vấn
đề xử lý nước thải tại Việt Nam chưa được chú trọng, hầu hết các xí nghiệp
chưa có hệ thống xử lý chất thải. Các chương trình giám sát, xử phạt vẫn chưa
được thực hiện một cách toàn diện trong khi ngày càng có nhiều dự án khai
thác tài nguyên, vận chuyển dầu với hiểm họa tràn dầu có nguy cơ gia tăng
trong các năm tới.
FDI ảnh hưởng tới đa dạng sinh thái: Bên cạnh những đóng góp quan
trọng cho ngành Du lịch Việt Nam thì sự đầu tư quá lớn và liên tục gia tăng
trong những năm gần đây đã đặt môi trường tự nhiên Việt Nam trước những
thách thức lớn. Nguy cơ ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên
nước, thuỷ sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông. Các khu công
nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các
động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy. Trong khi đó, vấn đề bảo
vệ tốt môi trường vẫn đang là thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực FDI có nguyên nhân từ sự
yếu kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch
định và thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân chủ

13
yếu do hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và
thiếu nhất quán; sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển của nền kinh tế; hạn chế về nguồn nhân lực,...

14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG VỐN FDI CHO
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Giải pháp để tăng cường vốn FDI cho Việt Nam giai đoạn hiện nay

Ngày nay, nguồn vốn FDI đã và đang giữ vai trò vô cùng quan trọng, là
“cú huých” mạnh mẽ trong tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta chưa có sự kiểm soát trong việc thu nhận và chọn lọc nguồn
FDI chưa sạch. Do vậy, để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong thời gian tới, Việt Nam có thể thực
hiện một số giải pháp dưới đây:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý FDI sạch: Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường. Việt Nam cần có một hệ thống
quản lý thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác bảo vệ môi trường
ở từng cơ sở, trong và ngoài khu công nghiệp. Ngoài việc cụ thể hóa những
quy định pháp luật và xem xét tính hợp lý của một số chỉ tiêu về môi trường,
cần nâng cao hiệu lực của Luật Bảo vệ môi trường. Các cơ quan quản lý cần
cung cấp đầy đủ thông tin pháp luật cho các doanh nghiệp FDI và tư vấn cho
doanh nghiệp về thực thi pháp luật môi trường.
Thứ hai, có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư FDI sạch: Dựa
trên một số tiêu chí cơ bản để đánh giá một doanh nghiệp thực hiện giải pháp
môi trường tốt nhất như: Vận hành với các chuẩn môi trường cao mang tính
toàn cầu; Tích cực gắn kết với các đối tác địa phương; Chuyển giao kỹ năng
và công nghệ thân môi trường tới đối tác tại nước chủ nhà; Đảm bảo để nước
chủ nhà nhận được những lợi ích hợp lý trong FDI, đặc biệt trong các lĩnh vực
tài nguyên thiên nhiên.

Thứ ba, giải pháp trong quy trình đầu tư FDI: Trong lựa chọn đối tác
đầu tư, cần ưu tiên chọn những đối tác doanh nghiệp FDI từ những nước phát
triển có các chuẩn môi trường cao, nơi có quy định chặt chẽ về công tác môi

15
trường. Cần thể chế hoá các công cụ kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp
FDI có thái độ thân thiện hơn với môi trường, nếu không doanh nghiệp chỉ
thực hiện những qui định về tiêu chuẩn môi trường, mà không cố gắng tìm
cách giảm tổng lượng chất thải và áp dụng các giải pháp phòng ngừa hiệu quả.
Trong khâu cấp phép đầu tư, hạn chế tối đa việc cấp phép cho những dự án có
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đầu tư vào Việt Nam, những
dự án không phù hợp với quy hoạch phát triển Việt Nam, khó có triển vọng
khai thác sử dụng. Trong khâu quy hoạch đầu tư, cần phải quy hoạch theo tính
toán tăng trưởng của thu nhập trong nước, sự phát triển FDI để tính ra dung
lượng thị trường cho sản phẩm từ đó đưa ra số lượng dự án hợp lý.
Thứ tư, giải pháp về xúc tiến đầu tư: Cần tổ chức các hội nghị xúc tiến
đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm cung cấp thông tin về môi trường
đầu tư, đồng thời tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với các nhà đầu tư đang hoạt
động tại Việt Nam về môi trường đầu tư của VN.
Thứ năm, thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội trong
bảo vệ môi trường đầu tư: Kinh nghiệm cho thấy vai trò của cộng đồng và
các tổ chức xã hội dân sự có tầm quan trọng trong việc hài hòa lợi ích về kinh
tế, xã hội và môi trường. Theo xu hướng trên thế giới hiện nay, người tiêu
dùng có thể tạo áp lực buộc các doanh nghiệp FDI phải quan tâm nhiều hơn
đến kết quả môi trường của mình. Cộng đồng dân cư nơi có doanh nghiệp FDI
hoạt động có thể tạo sức ép với doanh nghiệp để họ nâng cao chất lượng môi
trường của mình.
Thứ sáu, thu phí hoặc thuế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi
trường và quy định giới hạn ô nhiễm: Trong thời gian tới Việt Nam cần phải
thực hiện giải pháp kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường bằng cách ban hành
hạn ngạch ô nhiễm, quy định lượng khí thải được thải ra môi trường đối với
các doanh nghiệp. Để thực hiện được điều này đòi hỏi Việt Nam cần có một

16
đội ngũ chuyên gia về môi trường để có thể xác định được lượng khí thải nào
và khối lượng bao nhiêu được phép thải ra môi trường.
Để FDI “sạch hơn”, chúng ta cần thiết phải có cái nhìn khách quan hơn
ở nhiều góc độ khác nhau đối với hiệu quả của dòng vốn này mang lại cho
nền kinh tế đất nước để từ đó có cách ứng xử phù hợp hơn nhằm đáp ứng cho
nhu cầu tăng trưởng bền vững nền kinh tế VN.

3.2. Liên hệ trách nhiệm của bản thân


Sinh viên nói chung và bản thân em nói riêng, hiện đang được sống, học
tập và lao động trong môi trường hòa bình; được thừa hưởng những thành quả
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trong
công cuộc đổi mới. Chúng em may mắn khi được gia đình, nhà trường và xã
hội dành nhiều cơ hội học tập để có trình độ văn hóa, chuyên môn cao hơn thế
hệ thanh niên đi trước. Tất cả những lợi thế đó đã và đang là hành trang giúp
sinh viên Việt Nam và bản thân em vững bước tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và củng cố, phát triển nền kinh tế nước nhà. Với tư cách là sinh viên
chuyên ngành Ngân hàng của Học viện Ngân hàng bản thân em nhận thấy
mình cần thực hiện những điều sau góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi “cái
vòng luẩn quẩn” trong nền kinh tế:
Thứ nhất, trung thành tuyệt đối với đường lối xây dựng đất nước nói
chung và mở rộng kinh tế đối ngoại nói riêng của Đảng và Nhà nước ta. Thứ
hai, lập ra kế hoạch học tập cho bản thân với chuyên môn về Ngân hàng. Tìm
hiểu các tài liệu học tập để nâng cao trình độ văn hóa chuyên môn của chuyên
ngành. Nâng cao trình độ học vấn, tạo nguồn nhân lực chất lượng cho đất
nước, thích ứng với thị trường lạo động trong nước và quốc tế. Thứ ba, cần
chủ động tìm hiểu và tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Đầu tư cho bản
thân bằng cách tiếp cận và sử dụng tối ưu các thành tựu khoa học công nghệ
kỹ thuật hiện đại như thành thạo các kỹ năng máy tính, tìm hiểu các thiết bị
phục bị cho công việc, góp phần nâng cao trình độ bản thân. Học và sử dụng
tốt tiếng Anh và một số ngoại ngữ phổ biến trong khu vực, trang bị cho bản

17
thân nền tảng dễ hòa nhập vào thị trường lao động và xu hướng toàn cầu.
Ngoài ra, cần tìm hiểu và phân tích các thông tin quốc tế có ảnh hưởng tới sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

18
KẾT LUẬN
Học thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và cú huých từ bên ngoài của Paul
Samuelson có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là đối với các nước có nền
kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Lý thuyết đã đưa ra nền tảng cơ sở lý
thuyết cho việc vận dụng các yếu tố để đạt được mục tiêu tăng trưởng nền
kinh tế, trong đó yếu tố vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài được nhiều quốc
gia sử dụng. Tuy nhiên, các quốc gia đang phát triển, nhất là Việt Nam khi sử
dụng nguồn vốn dầu tư tư nước ngoài như một “cú huých” để tăng trưởng nền
kinh tế cần thận trọng và chân nhắc để đạ hiệu quả sử dụng yếu tố này là cao
nhất.
Trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, FDI vẫn đóng vai trò quan
trọng với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của
FDI chỉ thực sự quan trọng nếu được sử dụng có hiệu quả cao và tạo được sự
phát triển bền vững. Do đó, Chính phủ nên thu hút, sử dụng FDI một cách có
lựa chọn, khuyến khích đầu tư vào những ngành nền kinh tế thực sự cần và
phát triển đảm bảo tính bền vững về dài hạn.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt


1. PGS.TS. Trần Bình Trọng (2013), “Giáo trình Lịch sử các học thuyết
kinh tế”, Nhà xuất bản Đại học kinh tế Quốc dân
2. Khoa Lý luận chính trị, “Tài liệu học tập và bài tập thực hành Lịch sử
các học thuyết kinh tế”, Học viện Ngân hàng
3. Nguyễn Văn Ngọc, “Từ điển Kinh tế học”, Đại học Kinh tế Quốc dân
4. Tổng cục thống kê (2020), “Niên giám thống kê 2020”, Nhà xuất bản
Thống kê
5. Chu Tiến Quang, Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình thực
hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai
đoạn 2013 – 2020 (www.vnep.org.vn).
Tài liệu trực tuyến
6. TS Nguyễn Văn Thắng, ThS Khuất Trọng Nam (2020), “Một số kiến
nghị về chính sách của Đảng đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”,
Lý luận chính trị: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-
cuuly-luan/item/3305-mot-so-kien-nghi-ve-chinh-sach-cua-dang-doi-
voikinh-te-co-von-dau-tu-nuoc-ngoai.html
7. Trung tá, Ths Hoàng Văn Thu (2021), Thực trạng và một số giải pháp
thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong tình hình đại dịch Covid – 19”,
Học viện chính trị: http://hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/bai-bao-
khoa-hoc/thuc-trang-va-mot-so-giai-phap-thu-hut-von-fdi-vao-viet-
nam-trong-tinh-hinh-dai-dich-covid-19.html

20

You might also like