You are on page 1of 7

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

Phát huy sỨc mẠnh các nguỒn lỰc


“quý hiẾm”cho tăng trưỞng và
phát triỂn kinh tẾ - xã hỘi đẤt nưỚc
TS. Phạm Văn Bốn *

C
ác nguồn lực cho tăng cùng với những luật lệ của nó. tương tác với các nguồn lực khác
trưởng và phát triển vốn Một trong những yếu tố quan trọng trong xã hội. Nguồn lực con người
hạn chế, nay đang dần quyết định sự thành công của quá sẽ không thể phát huy được hiệu
trở nên quý hiếm. Việc nhận thức, trình công nghiệp hóa, hiện đại quả tốt, thậm chí không trở thành
đánh giá và xác định mức độ hiệu hóa đất nước là việc làm thế nào nguồn lực, khi không được nằm
quả của các nguồn lực tài nguyên phát huy tốt nhất sức mạnh tổng trong môi trường thuận lợi về tài
thiên nhiên, tài chính và đặc biệt hợp của tất cả các nguồn lực quý chính và tài nguyên thiên nhiên,
là nguồn lực “con người” có ý hiếm cho đầu tư phát triển, nâng xã hội phù hợp. Lao động của con
nghĩa sống còn trong công cuộc cao sự đóng góp và hiệu quả sử người nằm trong chuỗi yếu tố sản
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất dụng mỗi nguồn lực. xuất sẽ không thể được thực hiện
nước và xây dựng nền kinh tế tự Để đạt được những mục tiêu quá trình tái sản xuất giản đơn, chứ
chủ, hiệu quả và bền vững. tăng trưởng và phát triển kinh tế chưa nói đến việc tạo ra được giá
- xã hội đất nước trong giai đoạn trị tăng thêm, nếu chỉ đứng riêng
1. Tăng trưởng kinh tế tạo những 2011-2015, đòi hỏi chúng ta phải rẽ với các nguồn lực khác, kể cả
thách thức lớn đến vấn đề sử dụng nhận thức được một điều rất nóng lao động đó là lao động của người
các nguồn lực trong xã hội bỏng rằng, các nguồn lực cho phát quản lý, người chủ sở hữu hay
Bước sang thập kỷ mới, chúng triển hiện nay của đất nước là rất lao động của những người công
ta đang đứng trước thách thức rất quý và hiếm. Không phải quy mô nhân, nông dân, thợ thủ công...
lớn của thời đại. Là nước đã thoát của các nguồn lực đang có xu Tài nguyên thiên nhiên sẽ vẫn chỉ
khỏi nhóm các nước có thu nhập là điều kiện, tiềm năng nếu như
hướng bị thu hẹp lại, mà chính
thấp, nhưng nguy cơ chúng ta rơi
sự phát triển của đất nước đã thúc không có nguồn lực tài chính và
vào “bẫy thu nhập trung bình”
đẩy tăng trưởng nhu cầu về nguồn nguồn lực con người tương ứng,
là hoàn toàn có thể, khi mà các
lực một cách mạnh mẽ hơn, đáng thích hợp để hấp thụ và phát huy
nguồn lực cho đầu tư phát triển
kể so với khả năng cung ứng. Với các tính năng tiềm tàng. Cũng
và tăng trưởng chưa thật sự được
khả năng kỹ thuật và công nghệ như vậy, vốn đầu tư sẽ không có
sử dụng có hiệu quả. Nắm bắt
mới, cùng với sự “phẳng hơn” của ý nghĩa, không hiệu quả nếu như
và tận dụng các cơ hội của thời
nền kinh tế toàn cầu thì nhu cầu không có con người trí tuệ và môi
đại công nghệ thông tin và hội
về nguồn lực đã được mở ra rộng trường thuận lợi. Chính sức mạnh
nhập để có những định hướng
lớn, không còn giới hạn. của sự kết hợp các nguồn lực là
thích hợp nhằm đi tắt, đón đầu,
Xét về khía cạnh kinh tế, quá nguồn gốc sản sinh giá trị tăng
có ý nghĩa sống còn đối với nước
trình tăng trưởng và phát triển thêm và là nguyên nhân đích thực
ta trong giai đoạn tăng trưởng và
kinh tế - xã hội đất nước chính của mọi thành công trong tăng
phát triển hiện nay. Phát triển
là quá trình huy động và sử dụng trưởng và phát triển kinh tế - xã
nền kinh tế thị trường, hội nhập
một cách hiệu quả những nguồn hội đất nước. Nếu thiếu một trong
kinh tế quốc tế và khu vực đòi hỏi
lực quý hiếm hiện có. Cần nhận các “mắt xích” nguồn lực nêu trên
chúng ta chấp nhận “cuộc chơi”
thức rằng, mỗi nguồn lực sẽ chỉ (trong đó, nguồn lực con người là
thật sự phát huy tốt được hiệu quả then chốt) thì khó có thể mong tới
* Ngân hàng Phát triển Việt Nam khi có sự kết hợp hài hoà, hỗ trợ, những thành tựu rực rỡ, hoặc có

2 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

chăng cũng chỉ là những sự phát lưu thông và trong tiêu dùng. Khi hệ luỵ cho một nền kinh tế tăng
triển “què quặt”, có tính nhất thời nhận thức này đã trở thành ý thức trưởng nóng, lệ thuộc rất lớn vào
và không bền vững. Sử dụng sức thường trực trong mọi tầng lớp dân bên ngoài, “nợ công” tăng cao, rất
mạnh tổng hợp của các nguồn lực cư, doanh nghiệp, của mọi cấp, dễ xảy ra những cơn “chấn động
là sức mạnh của mỗi dân tộc, mỗi mọi ngành thì bản thân ý thức đó mạnh” khi nền kinh tế thế giới
quốc gia trong mỗi thời kỳ phát sẽ được chuyển hoá thành nội lực, suy thoái như giai đoạn hiện nay
triển kinh tế - xã hội nhất định. như một nguồn lực quý giá. Để và phụ thuộc rất lớn vào chu kỳ
2. Cần coi tiết kiệm là cội nguồn làm được việc đó, đòi hỏi phải tạo khủng hoảng của nền kinh tế toàn
của sự phát triển bền vững ra một hệ thống cơ chế đa dạng cầu kéo theo các bất ổn về xã hội
Thời gian qua, chúng ta chưa để khuyến khích, động viên và khó lường.
thật sự chú trọng tiết kiệm cả về thúc đẩy tiết kiệm trong nước, từ Tiết kiệm vừa là công cụ, giải
sức lao động (trong đó có chất nội bộ nền kinh tế, coi đó là điều pháp quan trọng, vừa là chính
xám), nguồn lực tài chính và tài kiện tiên quyết, cơ sở cho sự phát sách tài chính quốc gia để huy
nguyên thiên nhiên. Là một nước triển ổn định và bền vững không động và sử dụng có hiệu quả các
đang phát triển ở trình độ mới chỉ trong thời kỳ “chống suy giảm nguồn lực tài chính quý hiếm. Tiết
thoát nghèo nhưng chúng ta lại kinh tế”, ngăn chặn sự trở lại của kiệm là khởi nguồn cho việc tích
chưa có tỷ lệ tiết kiệm cao hợp lạm phát mà ngay cả trong những luỹ và tích tụ vốn. Thực hành tiết
lý nhằm không những tạo tiền điều kiện phát triển kinh tế xã hội kiệm cần được thực hiện trong tất
đề cho quá trình tái sản xuất mở năng động. cả các khâu từ đầu tư, sản xuất
rộng mà còn là tiền đề cho sự tăng Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế là kinh doanh, tín dụng và tiêu dùng
trưởng nhu cầu tiêu dùng trong xã nhân tố hết sức quan trọng trong trong mọi lĩnh vực (Nhà nước,
hội trong tương lai. Tiết kiệm là sự việc tạo nguồn cho đầu tư phát doanh nghiệp và dân cư). Tỷ lệ
hy sinh tiêu dùng hiện tại, là sự triển. Kinh nghiệm của các nước tiết kiệm của chúng ta còn khá
“thắt lưng, buộc bụng” trong các đang phát triển cho thấy, tốc độ thấp, chỉ đạt bình quân khoảng
chính sách tài chính vĩ mô nhưng tăng trưởng và phát triển kinh tế tỷ 30-35%GDP giai đoạn 2002-
tiết kiệm lại chính là tiền đề cho lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ 2008. Chúng ta cần phấn đấu
sự phát triển của sản xuất và tiêu nền kinh tế. Ngoài việc bảo đảm đưa tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình
dùng trong tương lai. cho nền kinh tế phát triển năng quân trong thời kỳ đạt 35-40% so
Trong thời gian khá dài, sự tăng động, tiết kiệm từ nội bộ nền kinh với 17-18% thời kỳ 1991-2000 (tỷ
trưởng kinh tế nước ta chủ yếu dựa tế còn góp phần khẳng định tính lệ này của Nhật Bản trong những
vào tăng trưởng vốn (phát triển tự chủ, khắc phục sự phụ thuộc năm 1960 là 39,7%, của Đài Loan
thiên theo chiều rộng). Sự tăng vào nền kinh tế nước ngoài, đặc trong những năm 1980 là 34%,
trưởng vốn đóng góp tới 70,3% biệt quan trọng trong việc thực của Trung Quốc được coi là lớn
vào tăng trưởng GDP trong giai hiện chủ trương xây dựng một nền nhất thế giới trong các nền kinh tế
đoạn 1986-1988, đạt 63% giai kinh tế tự chủ trong giai đoạn hội lớn, đạt 50%, Mỹ chỉ đạt khoảng
đoạn 1997-1999, tăng lên 68% nhập kinh tế khu vực và quốc tế, 10%).
giai đoạn 2000-2007 và thậm chí khi Việt Nam thực hiện đầy đủ Cần thấy rằng, với sự tương đồng
đạt 84,1% vào năm 20091. Điều cam kết của thành viên WTO. Trái về điều kiện kinh tế - xã hội, văn
này khẳng định tầm quan trọng ngược với mô hình tiết kiệm cho hóa mà Việt Nam cần duy trì mức
của nguồn lực tài chính, vốn đầu tăng trưởng là mô hình “kích cầu” tiết kiệm cao hơn, thiên về xây
tư trong sự tăng trưởng và phát nhằm tạo ra tổng cầu lớn hơn để dựng một nền kinh tế tự chủ, hơn
triển kinh tế - xã hội trong thời kéo “tổng cung” với những chính là thiên về tiêu dùng như đối với
gian qua. sách khuyến khích đầu tư, chính nền kinh tế Mỹ. Việc đòi hỏi chính
Để tăng quy mô huy động nguồn sách đầu tư mở rộng và chính sách sách tiết kiệm hợp lý được giải
lực tài chính quý hiếm của đất kích thích tiêu dùng, thậm chí thích không chỉ bởi biểu đồ dân số
nước, đòi hỏi trước hết phải thực “dùng” trước “tiêu” sau. Mô hình thiên về nhóm lao động có độ tuổi
hiện tiết kiệm trong sản xuất, tăng trưởng này có thể kéo theo trẻ (độ tuổi cần phải tiết kiệm),

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 3


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

hay cần cho những khoản chi tiêu khi nguồn lực này không được đưa
lớn trong cuộc đời như: cưới, mua vào sản xuất mà đưa vào quá trình
nhà, giáo dục của con cái và các tiêu dùng thì hiệu quả sử dụng
món hàng sử dụng lâu dài, hay dưới góc độ vĩ mô là thấp nhất.
cần tiết kiệm để chi các dịch vụ Như vậy, không có tiết kiệm (kể
y tế hoặc về hưu, mà quan trọng cả tiết kiệm ngoài nước) thì không
hơn là yếu tố tâm lý không muốn thể có sự tích tụ vốn cho sự phát
“mắc nợ” (một trong 4 cái sợ nhất triển về chất, với trình độ quy mô
của người Việt) và đặc biệt là cần lớn hơn của nền kinh tế quốc dân,
tiết kiệm để lo cho tương lai, thế đặc biệt trong giai đoạn kiến thiết,
hệ tương lai, mà “tương lai” thì xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng
luôn luôn tiềm ẩn sự không chắc kinh tế - xã hội đất nước hiện nay.
chắn. Tiết kiệm cao sẽ tạo cơ sở 3. Cần phát huy sức mạnh của
vững chắc cho sự tăng trưởng bền nguồn lực tài chính khi quy mô còn
vững, cho sự ổn định trong xã hội. khá mỏng
Chính sách tiết kiệm của chúng Theo đánh giá của các chuyên
ta phải thực sự đi vào đời sống gia kinh tế, tiềm năng vốn đầu dựa vào yếu tố vốn nên ICOR giai
xã hội, mọi tầng lớp dân cư, mọi tư trong dân cư còn rất lớn, vào đoạn 2001-2011 đã có xu hướng
thành phần kinh tế trên cơ sở đảm khoảng trên 12 tỷ USD. Nguồn lực tăng nhanh, đạt 4,9 năm 2001
bảo sự ổn định, cải thiện và từng tài chính này phần lớn bị “đóng lên đến 5,3 năm 2008; 8,1 năm
bước nâng cao dần đời sống nhân băng” hoặc đang được sử dụng 2009 và 6,12 năm 2010, tức là
dân thông qua hệ thống chính kém hiệu quả, chủ yếu (trên 40%) để tăng trưởng 1 đồng GDP thì
sách khuyến khích, dư luận xã dùng để mua vàng và ngoại tệ, vốn đầu tư phát triển phải là 6-8
hội lành mạnh và các thể chế bắt nhà đất và các điều kiện cải thiện đồng. Mức này cao hơn nhiều so
buộc tiết kiệm chi tiêu ngân sách sinh hoạt, trên 15% gửi tiết kiệm với giai đoạn trước năm 2000.
cũng như trong toàn xã hội. Tỷ lệ mà chủ yếu là tiết kiệm ngắn hạn Việc huy động các nguồn lực
tiết kiệm có thể sẽ giảm dần cùng và chỉ có gần 20% sử dụng trực cho đầu tư phát triển có ý nghĩa
với sự gia tăng quy mô của nền tiếp cho đầu tư phát triển. cực kỳ quan trọng trong tăng
kinh tế và sự phát triển của cơ sở Giai đoạn 1997-2000, mặc dù trưởng kinh tế, tuy nhiên, việc sử
hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. nguồn vốn huy động cho đầu tư dụng chúng có hiệu quả mới có
Dưới góc nhìn vi mô từ phía các phát triển vẫn liên tục tăng, nhưng vai trò quyết định. Giả định với
doanh nghiệp, hộ gia đình thì tiết hiệu quả sử dụng nguồn vốn thấp nguồn vốn đầu tư huy động được
kiệm chính là việc đưa ra khỏi chu đã dẫn đến sự giảm sút về tốc trong thời gian vừa qua được sử
trình sản xuất, tái sản xuất xã hội độ tăng trưởng kinh tế (GDP) từ dụng có hiệu quả, giảm hệ số
một lượng nguồn lực mà thực chất 9,5% năm 1995 xuống 5,8% năm ICOR xuống mức bằng năm 2006
nguồn lực này chưa có điều kiện 1998, 4,8% năm 1999 và 6,5% thì tốc độ tăng trưởng GDP của
phát huy hiệu quả cao nhất. Trong năm 2000. Nguồn vốn đầu tư trực chúng ta đã có thể cao hơn gấp
tương lai, với lượng vốn lớn hơn, tiếp nước ngoài giảm kéo theo sự 1,5-2 lần so với thực tế.
sử dụng hiệu quả hơn sẽ giúp cho gia tăng của hệ số ICOR đã khẳng Chú trọng phát huy nội lực, huy
các hộ gia đình cải thiện tốt hơn định hiệu quả sử dụng nguồn vốn động các nguồn lực trong nước
đời sống cho bản thân và cho xã đầu tư phát triển trong nước còn cho đầu tư phát triển bằng 30-
hội. Nếu nhìn dưới giác độ vĩ mô thấp. Hệ số ICOR trong giai đoạn 35% GDP, đồng thời tranh thủ
nền kinh tế thì tiết kiệm chính là 1995-2000, gia tăng nhanh từ 3,1 tốt nguồn vốn nước ngoài có vai
quá trình tích luỹ, luân chuyển, năm 1996 lên 4,7 năm 1998; 5,4 trò quan trọng trong việc “xốc
phân phối và phân bổ nguồn lực năm 1999 và 4,16 năm 2000. Tuy lại” nền kinh tế đang trong quá
từ chỗ kém hiệu quả sang chỗ có nhiên, do việc sử dụng nguồn lực trình tái cơ cấu, mà trọng tâm là
hiệu quả cao hơn và đương nhiên kém hiệu quả, tăng trưởng chủ yếu tái cơ cấu đầu tư công. Việc phát

4 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

hoạch phát triển: quy hoạch tổng


thể phát triển kinh tế - xã hội các
vùng, các tỉnh, các thành phố;
quy hoạch phát triển các ngành
kinh tế, xã hội; quy hoạch phát
triển đô thị và nông thôn. Các quy
hoạch phát triển phải vừa bám sát
các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên, xã hội, vị trí địa lý
và phù hợp với các giải pháp tài
chính, làm cơ sở phát huy hiệu
quả các nguồn lực.
Phát huy hình thức đa dạng,
đan xen lợi ích, kết hợp hài hoà
lợi ích, ưu tiên lợi ích của Nhà
nước và xã hội; cần có chính sách
Nguồn lực “con người” có ý nghĩa sống còn trong công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tự chủ, hiệu quả và bền vững khuyến khích đầu tư đối với các
khu vực, các mục tiêu và các đối
huy tốt nội lực khẳng định chính nguồn lực và chính sách tiền tệ -
tượng tham gia đầu tư. Kinh tế
sách phát triển kinh tế - xã hội tín dụng quốc gia; nhanh chóng
ngoài quốc doanh là khu vực hấp
đúng đắn, chủ trương xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách huy
thụ chính nguồn tiết kiệm ngày
nền kinh tế độc lập, tự chủ và tạo động các nguồn lực nhằm nâng
càng tăng của các tầng lớp dân
điều kiện để hấp thụ và phát huy cao hiệu quả quản lý và sử dụng;
cư. Nếu khu vực này không phát
tốt hơn nguồn ngoại lực mà còn là tiếp tục hoàn thiện các cơ chế,
triển mạnh mẽ (kể cả số lượng và
yếu tố quan trọng trong việc thu chính sách huy động vốn và sử
quy mô của doanh nghiệp) thì sẽ
hút, hấp dẫn và hấp thụ nguồn dụng vốn ODA trong các lĩnh vực
vẫn cứ tồn tại nghịch lý hiện nay
vốn nước ngoài. Phát huy nội lực sao cho phù hợp với điều kiện và
là: Tiềm năng nguồn lực tài chính
sẽ góp phần giảm đáng kể những năng lực quản lý và thực hiện của
quý hiếm trong dân cư vẫn còn,
ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, phía Việt Nam; thực hiện hỗ trợ
từ những quốc gia, các nền kinh các nhà tư vấn, nhà thầu của Việt trong khi nền kinh tế vẫn không
tế đang chịu tác động tiêu cực của Nam tham gia được nhiều hơn thể huy động được do thiếu cơ
cuộc khủng hoảng toàn cầu. vào các dự án sử dụng vốn ODA chế hấp thụ nguồn lực một cách
Để phát huy tốt nhất nguồn lực cho vay lại; Nhà nước xây dựng hữu hiệu và phân bổ hiệu quả.
tài chính trong giai đoạn tới, cần chiến lược huy động và sử dụng 4. Nhận thức đúng đắn về việc sức
có nhiều giải pháp đồng bộ như: vốn ODA gắn với quy hoạch phát mạnh của các nguồn lực tự nhiên
Thực hiện triệt để tiết kiệm trong triển chung, tuân thủ chiến lược trong tăng trưởng đang yếu dần
đầu tư, xây dựng, sản xuất và tiêu và cụ thể hoá chiến lược phát triển Nguồn lực tự nhiên của nước ta
dùng nhằm tăng tích luỹ; thực dài hạn, bước đi trong từng thời bao gồm: (1) Tài nguyên đất (với
hiện tiết kiệm và phải kết hợp kỳ. Đối với vốn FDI, cần phải có 33 triệu ha, xếp thứ 55/200 nước
chặt chẽ với chống tham nhũng, biện pháp kiểm soát chặt chẽ sau trên thế giới, trong đó đất đang sử
lãng phí; nhanh chóng phát triển khi cấp phép, bảo đảm việc thực dụng chiếm 68,83% và đất chưa
đầy đủ và hiệu quả các định chế hiện sử dụng nguồn vốn này theo sử dụng chiếm 33,04%, được xếp
thị trường, đặc biệt là thị trường đúng mục tiêu đề ra trên cơ sở tạo vào một trong những quốc gia
vốn, đảm bảo cho các loại nguồn môi trường thuận lợi cho nền kinh hiếm đất có diện tích bình quân
lực được lưu thông dễ dàng, thuận tế trong nước phát triển nhanh trên đầu người thấp nhất thế giới
lợi. Chính sách lãi suất phải chóng, giải quyết việc làm cho 0,3 ha/người); (2) Tài nguyên rừng
hợp lý, bảo đảm hài hoà lợi ích người lao động. Xây dựng, điều (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và
của người sở hữu, người sử dụng chỉnh, công bố công khai các quy rừng sản xuất. Năm 1943 có 14

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 5


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

triệu ha chiếm 43% diện tích tự ngày càng đóng vai trò ít quan để đáp ứng nhu cầu về điều kiện
nhiên; năm 1976, còn 11 triệu ha, trọng hơn trong sự phát triển kinh sống, nhu cầu tinh thần và sự phát
chiếm 34%; năm 1985, có 9,3 tế - xã hội. Vai trò của nguồn lực triển toàn diện của con người.
triệu ha chiếm 30%; năm 1995, tự nhiên từ chỗ là thành phần cơ 5. Phải đặc biệt coi trọng nguồn
có 8 triệu ha chiếm 28%. Hiện bản và động lực phát triển quan lực con người, coi “Con người” là
nay đất rừng quy hoạch là 19 trọng trong các hình thái kinh tế - nguồn lực đặc biệt quý hiếm trong
triệu ha trong đó rừng giàu chiếm xã hội trước kia thì nay sẽ chỉ còn quá trình tăng trưởng kinh tế
11%, rừng trung bình chiếm 33% là nguồn lực mang tính hỗ trợ cho Lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh
và rừng nghèo chiếm 56%. Tổng các nguồn lực khác phát huy vai tiềm tàng, ổn định mà khó có một
diện tích đất dành cho trồng lúa trò và hiệu quả. Trước đây, trồng đất nước, quốc gia, dân tộc khác
đã đạt mức cao nhất từ năm 1993 trọt và săn bắn chủ yếu dựa vào nào có được chính là con người
là 4,1-4,2 triệu ha); (3) Tài nguyên điều kiện và nguồn tài nguyên tự với đầy đủ các đặc tính, kỹ năng,
nước (gần dân số đô thị được cấp nhiên thì với sự phát triển khoa phẩm chất, phong tục và bản sắc
nước, và 32% dân số nông thôn học công nghệ hiện nay, lao động văn hoá. Con người Việt Nam vốn
được cấp nước sạch; nước đang có của con người mà chủ yếu là lao năng động, thích ứng nhanh với
xu hướng cạn kiệt do nhu cầu sử động sáng tạo đã chiếm vị trí và hoàn cảnh. Theo đánh giá của các
dụng cao, chưa có nhận thức đúng thành phần quan trọng trong cấu chuyên gia kinh tế thì ngay từ thời
đắn về tài nguyên nước và bất thành giá trị của các sản phẩm kỳ đầu đổi mới, Việt Nam đã có
hợp lý trong công tác quản lý; đặc công nghệ cao như phần mềm, tỷ lệ biết đọc, biết viết, tuổi thọ
biệt sự phân bổ lượng nước trong dịch vụ điện tử, sản phẩm công và kết quả giáo dục cao hơn nhiều
mùa khô chỉ chiếm 20-30% lượng nghệ số… Điều kiện thiên nhiên so với hầu hết các quốc gia khác
nước cả năm. Mỗi năm, cả nước đang thay đổi vai trò đối với cuộc có bình quân thu nhập đầu người
sử dụng hơn 80 tỷ m3 nước); (4) sống con người từ chỗ là cấu thành tương tự. Nguồn lực con người còn
Tài nguyên khoáng sản (rắn, lỏng, quan trọng trong sản xuất đang trở đi đôi với nhiệt huyết, sức trẻ, kỹ
khí); (5) Tài nguyên năng lượng thành cấu thành không thể thiếu năng kinh doanh và chất lượng
(năng lượng hóa thạch và năng trong đời sống, chuỗi thức ăn và nguồn nhân lực. Những lợi thế về
lượng tái tạo); (6) Tài nguyên khí cân bằng sinh thái cho môi trường sức lao động rẻ, nguồn tài nguyên
hậu (khí hậu nông nghiệp, khí hậu sống của con người giá trị vật chất. thiên nhiêu dồi dào, cơ chế, điều
y học, khí hậu xây dựng, khí hậu Nếu xét về giá trị vật chất, nguồn kiện pháp lý thông thoáng… chỉ
thương mại...) và (7) tài nguyên tài nguyên thiên nhiên dường như mang tính chất tạm thời và ngắn
biển với 3.200 km bờ biển2. đang mất dần vị trí, tuy nhiên, hạn. Thực tế, Trung Quốc không
Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên nếu xét theo giá trị cuộc sống thì những sử dụng nhân công giá rẻ
thiên nhiên của chúng ta đang bị môi trường tự nhiên bị phá huỷ có mà còn kết hợp giữa giá thành rẻ
khai thác quá mức, tình trạng sử thể sẽ “xoá sạch” tất cả những giá và chất lượng bảo đảm và mẫu mã
dụng đất tăng mạnh, tài nguyên trị do con người cùng các nguồn phong phú, da dạng dẫn đến năng
nước ngày càng bị lạm dụng, rừng tài nguyên khác tạo thành, như: suất lao động tăng nhanh chóng.
tự nhiên bị khai thác lấy gỗ, trữ ô nhiễm môi trường, nước biển Yếu tố con người trong tăng
lượng cá cho hoạt động đánh bắt dâng, thiên tai... Để sử dụng có trưởng kinh tế trong giai đoạn
bị cạn kiệt và tài nguyên khoáng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên vừa qua đã có những đóng góp
sản ngày càng bị khai thác nhiều nhiên đòi hỏi chúng ta phải sớm đáng kể, cả về số lượng lẫn chất
hơn, kém hiệu quả... Trong xã hội ý thức được sự cạn kiệt, sự mất lượng. Số liệu thống kê cho thấy,
tương lai, nguồn tài nguyên thiên cân bằng sinh thái nhằm tiết mức tăng trưởng (số lượng) lao
nhiên của mỗi quốc gia sẽ dần kiệm và nâng cao tối đa hiệu quả động đã đóng góp tới 41,7% vào
cạn kiệt, đến lúc chúng ta phải sử dụng nguồn tài nguyên thiên tăng trưởng GDP trong giai đoạn
nghiên cứu, đi tìm những nguồn nhiên trong sản xuất của cải, vật 1986-1988, đạt 21% trong giai
tài nguyên mới, không có sẵn chất. Trong tương lai, nguồn lực tự đoạn 1997-1999, tăng lên 18%
trong tự nhiên. Nguồn lực tự nhiên nhiên cần được sử dụng chủ yếu giai đoạn 2000-2007 và tăng

6 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

lên 28,5% vào năm 2009. Trong thị trường tiêu thụ rộng lớn. Dân 0,435; năm 2000 là 0,528; năm
khi đó yếu tố năng suất lao động số trẻ nên lực lượng lao động của 2010 là 0,59 và năm 2011 là
(năng suất nhân tố tổng hợp TFP) nước ta chiếm khoảng 50% tổng 0,593) nhưng Việt Nam vẫn xếp
đạt mức cao nhất 49,5% giai đoạn số dân. Lực lượng lao động của thứ 128/187 quốc gia được đánh
1989-1996, giảm xuống 14% Việt Nam có khả năng tiếp thu giá. Chỉ báo về tuổi thọ (0,870) có
giai đoạn 2000-2007, thậm chí nhanh các kỹ thuật và công nghệ đóng góp rất lớn, cao hơn hẳn so
giảm xuống -8,3% (năm 2008) và tiên tiến. Nếu được đào tạo và sử với chỉ báo về giáo dục (0,503) và
-12,6% (năm 2009)3. dụng hợp lí, họ sẽ trở thành nguồn thu nhập (0,478) đối với kết quả
Trong thời kỳ cách mạng khoa lực quan trọng cho tăng trưởng và HDI của Việt Nam hiện nay. Mặc
học kỹ thuật, sự đột phá vào các phát triển kinh tế đất nước. dù vậy, có thể khẳng định rằng
lĩnh vực khoa học công nghệ hiện Chính tỷ lệ tiết kiệm cao kết hợp chỉ số phát triển con người - chỉ
đại, công nghệ thông tin, sự xuất với đầu tư mạnh mẽ của chính số quan trọng đánh giá mức độ
hiện các vật liệu mới, công nghệ phủ vào giáo dục đã tạo nên sự phát triển con người và yếu tố con
số… làm ngắn lại chu kỳ sống của tăng trưởng thần kỳ của các nước người trong tăng trưởng của Việt
các sản phẩm, cùng với đó là sự Đông Á trong giai đoạn những Nam còn chưa thỏa đáng và còn
“san phẳng” những sự khác biệt, năm 60 của thế kỷ vừa qua. Nhận nhiều cơ hội để cải thiện và nâng
những lợi thế tuyệt đối cũng như thức được việc xoá bỏ khoảng cao trong giai đoạn tới.
so sánh của từng đất nước, quốc cách giàu nghèo, hạn chế bất Nếu như trong những năm
gia, vùng lãnh thổ. Việc sản xuất bình đẳng chính là việc xoá bỏ 90, tăng trưởng của Việt Nam
các sản phẩm có tính cạnh tranh khoảng cách về tri thức và công đạt được nhờ tăng năng suất lao
cao cũng không còn là sự khác nghệ trên cơ sở xây dựng chính động chiếm tới 40-60% thì trong
biệt và “ưu ái” cho quốc gia nào sách giáo dục và đầu tư hợp lý tạo những năm 2000, con số này chỉ
đó trong nền kinh tế hội nhập môi trường thuận lợi cho đầu tư và còn 15%4 và tiếp tục có xu hướng
quốc tế hiện nay. tăng trưởng. chững lại nếu như chúng ta không
Việt Nam là một nước đông dân, Yếu tố con người đã và đang có mô hình tăng trưởng mới dựa
có nhiều thành phần dân tộc, đứng tiếp tục được quan tâm thích đáng trên hiệu quả, năng suất lao động
hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam hơn, thể hiện sự gia tăng liên tục thay vì mô hình thâm dụng vốn.
Á và hàng thứ 13 trong tổng số của chỉ số phát triển con người Thực tế đã chứng minh rất rõ,
hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên (HDI, được tính dựa trên chỉ số rằng lợi thế về sức lao động rẻ của
thế giới. Dân số là một nguồn lực về tuổi thọ, giáo dục và thu nhập các nước đang phát triển (trong
quan trọng để phát triển nền kinh bình quân đầu người). Mặc dù có đó có nước ta) đang mất đi nhanh
tế với nguồn lao động dồi dào và sự gia tăng đều đặn (năm 1990 là chóng do nhiều nguyên nhân, đặc
biệt đối với các quốc gia có sự
Biểu: HDI của Việt Nam tăng trưởng và phát triển kinh tế
năng động. Vì vậy, nhiều chuyên
gia cho rằng, chỉ có đầu tư phát
triển con người mới là mục đích
cuối cùng của mọi sự phát triển
và là định hướng phát triển duy
trì lâu bền lợi thế so sánh của dân
tộc này so với dân tộc khác và bảo
đảm cho sự phát triển năng động,
bền vững. Những nét văn hoá của
dân tộc có thể bị pha trộn, các
dân tộc khác nhau có thể sống
cùng nhau nhưng bản sắc văn
hoá của mỗi dân tộc khó có thể

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 7


NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ

bị mất đi làm cho sự khác biệt về đào tạo lại với sự giúp đỡ, hỗ trợ chú trọng nguồn tài nguyên quý
văn hoá giữa các dân tộc là không cần thiết, mang tính định hướng hiếm “con người Việt Nam” - tài
thể xoá nhoà. Những thói quen, sở từ phía Nhà nước. Hình thành cơ năng, trí tuệ của dòng dõi Con
thích, những suy nghĩ và phương chế khuyến khích nhân tài thật sự Rồng Cháu Tiên. Trong tương lai,
pháp xử lý các vấn đề khác nhau, nhằm tạo lập và giữ chân những nguồn lực con người sẽ ngày càng
sự khác nhau giữa các quan niệm người giỏi hoạt động trong xã hội. phát huy được sức mạnh vượt trội
của phương Đông và phương Tây… Trong giai đoạn đầu phát triển, đóng góp vào tăng trưởng kinh
chính là những chỗ “không thể có thể tận dụng nguồn tài nguyên kế, đồng thời chính yếu tố con
phẳng của thế giới”5. con người bằng cách sử dụng có người lại chính là mục đích cho
Đầu tư phát triển con người phải hiệu quả nguồn lực sẵn có; khuyến các chiến lược tăng trưởng và
là vấn đề ưu tiên ngay trong giai khích mạnh mẽ việc đào tạo tay phát triển kinh tế - xã hội của
đoạn trước mắt và dài hạn để tạo nghề chuyên môn, công nhân lành mỗi quốc gia nói chung và Việt
ra được những “con người kinh tế”, nghề. Trước mắt, khi nền kinh tế Nam nói riêng. Điều này khẳng
“con người văn hoá” riêng có. Đất chưa hấp thụ hết nguồn nhân lực định tính khoa học trong việc
nước có tiềm năng con người hùng này, có thể nghiên cứu thúc đẩy xác định các thành tố cơ bản
mạnh là cơ sở phát huy mọi tiềm xuất khẩu lao động ra nước ngoài, nhất trong xây dựng đất nước và
năng về của cải, vật chất, phi vật xuất khẩu tại chỗ, nhất là đối với phát triển kinh tế, gồm 2 thành
chất trong xã hội, là nền tảng cho lực lượng lao động có trình độ, tố quan trọng “độc lập dân tộc”
sự phát triển “khác biệt”. Chính tay nghề chuyên môn cao và có và “con người Việt Nam”, trong
“con người kinh tế” sẽ hấp dẫn, lôi hàm lượng chất xám cao. Hình đó “con người” là thành tố có
kéo, tranh thủ các nguồn lực khác, thành cơ chế quản lý và sử dụng tính quyết định.
sẽ hấp thụ có hiệu quả các nguồn nguồn lực con người có tính đến
lực quý hiếm trong xã hội. (Biểu 1) các đặc thù riêng biệt của từng 1
Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: từ bất ổn vĩ
Tất cả các chi phí cho giáo dục, ngành, từng vùng, tránh những mô đến con đường tái cơ cấu, Nhóm tư vấn
chính sách kinh tế vĩ mô Ủy ban Kinh tế Quốc
đào tạo, khoa học, công nghệ… lãng phí, sử dụng nguồn lực quý hội, tr.241
phục vụ cho phát triển con người hiếm của đất nước sai mục đích 2
Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2011:
quản lý tài nguyên thiên nhiên, tr. 36 (Báo
phải được coi là nguồn đầu tư phát và kém hiệu quả. cáo chung của các đối tác cho hội nghị nhóm
triển hiệu quả nhất, bền vững 6. Thay lời kết tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam), Hà Nội
7-7/12/2010.
nhất; đồng thời đòi hỏi cơ chế Từ những phân tích trên có thể 3
Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: từ bất ổn vĩ
quản lý năng động, mang tính đi đến kết luận rằng, các nguồn mô đến con đường tái cơ cấu, Nhóm tư vấn
chính sách kinh tế vĩ mô Ủy ban Kinh tế Quốc
đặc thù. Một mặt, đây là những lực cho đầu tư phát triển ở nước hội, tr.242
chi phí mang tính tiêu dùng trong ta hiện nay đã thật sự trở thành Kinh tế thị trường khi Việt Nam trở thành
4

quốc gia có thu nhập trung bình - Báo cáo


xã hội, mặt khác, chi phí đó lại quý và hiếm. Việc nhận thức chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị nhóm
phục vụ quá trình tái đầu tư sức đúng đắn để có những giải pháp tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam Tháng 6/2011,
tr.15
lao động, hoàn thiện và phát triển huy động và sử dụng hiệu quả các 5
Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng - Tóm
lực lượng sản xuất xã hội. Chi phí nguồn lực quý hiếm có ý nghĩa lược lịch sử thế kỷ 21, 2005.

đầu tư phát triển con người là chi sống còn đối với một nền kinh TÀI LIỆU THAM KHẢO:
phí rất lớn và cơ cấu chi phí lại tế tăng trưởng năng động và bền 1. Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012: từ bất ổn vĩ
mô đến con đường tái cơ cấu, Nhóm tư vấn
hết sức phức tạp. Do đó, việc quản vững. Để bảo đảm được những chính sách kinh tế vĩ mô Ủy ban Kinh tế Quốc
lý nguồn vốn này cần hết sức linh mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2011:
hoạt, năng động trên cơ sở chủ hội đất nước một cách khả quan quản lý tài nguyên thiên nhiên, tr. 36 (Báo cáo
trong giai đoạn tới, cần đánh giá chung của các đối tác cho hội nghị nhóm tư
trương xã hội hoá các lĩnh vực
vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam), Hà Nội 7 -
giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa đúng mức và phát huy tốt nhất 7/12/2010.
3. Kinh tế thị trường khi Việt Nam trở thành
học… Cần xây dựng cơ chế, tạo các nguồn lực trong mối quan hệ
quốc gia có thu nhập trung bình - Báo cáo
dựng dư luận xã hội lành mạnh, khăng khít giữa chúng nhằm khai chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị nhóm
tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam Tháng 6/2011.
chủ động khuyến khích mọi người thác tốt nhất sức mạnh tổng hợp
4. Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng -
tự hoàn thiện mình, tự đào tạo và các nguồn lực, trong đó đặc biệt Tóm lược lịch sử thế kỷ 21, 2005.

8 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012

You might also like