Professional Documents
Culture Documents
——օօՕօօ——
MỤC LỤC
1
CÁC THUẬT NGỮ VÀ KÍ HIỆU 2
DANH MỤC HÌNH ẢNH 3
PHẦN 1: CÁC CHỦ ĐIỂM LÝ THUYẾT CHÍNH 3
1.Ngoại tác và sự không hiệu quả của thị trường 4
1.1 Ví dụ về ngoại tác 4
1.2 Ngoại tác tiêu cực 5
1.3 Ngoại tác tích cực 7
1.4 Case study 8
- Đường cầu đối với nhôm phản ánh giá trị của nhôm đối với người tiêu dùng, đo lường
bởi mức giá mà họ sẵn lòng trả. Ở bất cứ sản lượng nào, chiều cao của đường cầu cho
biết mức sẵn lòng trả cận biên của người mua. Nói một cách khác, nó cho biết giá trị
của đơn vị nhôm cuối cùng được mua đối với người tiêu dùng
- Tương tự, đường cung phản ánh chi phí của việc sản xuất nhôm. Ở bất kỳ sản lượng
nào, chiều cao của đường cung cho biết chi phí biên đối với người bán. Nói một cách
khác, nó cho biết chi phí sản xuất của đơn vị nhôm cuối cùng mà nhà sản xuất bán ra.
3
-Nếu không có can thiệp của chính phủ, mức giá điều chỉnh để cân bằng cung và cầu
đối với nhôm. Sản lượng được sản xuất và tiêu thụ ở mức cân bằng thị trường, thể
hiện bởi QMARKET ở Hình 1, là hiệu quả dưới góc nhìn tối đa hóa tổng thặng dư tiêu dùng
và sản xuất. Tức là, thị trường phân bổ các nguồn lực theo cách tối đa hóa các giá trị
đối với những người tiêu dùng nhôm trừ đi tổng chi phí của những nhà sản xuất chế tạo
và bán nhôm. đến những tác động ngoại tác do hành vi của họ gây ra. Chính phủ xử lý
bằng cách cố gắng điều phối những hành vi này để bảo vệ quyền lợi của những người
ngoài cuộc.
Bởi vì ngoại tác, chi phí đối với xã hội của việc sản xuất nhôm lớn hơn chi phí đối với
các nhà sản xuất nhôm. Với mỗi đơn vị nhôm được sản xuất, chi phí xã hội bao gồm
chi phí tư nhân của các nhà sản xuất nhôm cộng với chi phí đối với những người ngoài
cuộc bị ảnh hưởng bất lợi bởi ô nhiễm. Hình 2 phác họa chi phí xã hội của việc sản
xuất nhôm. Đường chi phí xã hội nằm trên đường cung bởi vì nó bao gồm cả các chi
4
phí ngoại tác mà quá trình sản xuất nhôm gây ra cho xã hội. Sự chênh lệch giữa hai
đường này phản ánh chi phí của phát thải ô nhiễm.
→Khi có sự hiện diện của ngoại tác tiêu cực, ví dụ như ô nhiễm, chi phí xã hội của
hàng hóa vượt quá chi phí tư. Vì thế sản lượng tối ưu Q OPTIMUM thấp hơn sản lượng cân
bằng QMARKET
Nên sản xuất bao nhiêu nhôm? Nhà kế hoạch muốn tối đa hóa tổng thặng dư từ thị
trường-giá trị đối với người tiêu dùng nhôm trừ đi chi phí sản xuất nhôm. Tuy nhiên, họ
hiểu rằng chi phí của việc sản xuất nhôm bao gồm cả những chi phí ngoại tác của ô
nhiễm.
Vì thế, họ sẽ chọn mức sản lượng nhôm mà ở đó đường cầu cắt đường chi phí xã hội.
Giao điểm này ấn định sản lượng tối ưu của nhôm trên quan điểm toàn xã hội. Dưới
mức sản lượng này, giá trị biên của nhôm đối với người tiêu dùng
(đo lường bởi chiều cao của đường cầu) vượt qua chi phí xã hội biên của việc sản xuất
nhôm (đo lường bởi chiều cao của đường chi phí xã hội). Nhà kế hoạch không sản xuất
nhôm nhiều hơn mức sản lượng này bởi vì lúc này chi phí xã hội của việc sản xuất
thêm một đơn vị nhôm sẽ vượt quá giá trị của nó đối với người tiêu dùng.
Sản lượng nhôm cân bằng QMARKET lớn hơn sản lượng tối ưu xã hội Q OPTIMUM. Sự không
hiệu quả này xảy ra bởi vì cân bằng thị trường chỉ phản ánh chi phí tư nhân của nhà
sản xuất. Ở mức cân bằng thị trường, người tiêu dùng biên định giá trị nhôm thấp hơn
chi phí xã hội của việc sản xuất nó. Tức là ở Q MARKET, đường cầu nằm dưới đường chi
phí xã hội. Vì thế, giảm sản xuất và tiêu dùng nhôm dưới mức cân bằng thị trường làm
gia tăng tổng phúc lợi kinh tế.
Nhà kế hoạch xã hội đạt được sản lượng tối ưu bằng cách nào? Một cách sẽ là đánh
thuế các nhà sản xuất nhôm trên mỗi tấn nhôm được bán. Thuế sẽ dịch chuyển đường
cung nhôm lên phía trên một lượng bằng với mức thuế. Nếu mức thuế phản ánh chính
5
xác chi phí ngoại tác của chất ô nhiễm thải vào bầu khí quyển, đường cung mới sẽ
trùng với đường chi phí xã hội. Ở mức cân bằng thị trường mới, các nhà sản xuất
nhôm sẽ sản xuất sản lượng nhôm tối ưu xã hội.
Việc sử dụng một loại thuế như vậy được gọi là nội hóa ngoại tác bởi vì nó tạo ra một
khuyến khích cho người mua và người bán trong thị trường tính toán đến chi phí ngoại
tác trong hành vi của họ. Về bản chất, các nhà sản xuất nhôm sẽ tính toán đến chi phí ô
nhiễm khi quyết định cung ứng bao nhiêu nhôm bởi vì thuế sẽ buộc họ chi trả cho
những chi phí ngoại tác này. Và bởi vì mức giá thị trường sẽ chứa đựng thuế đánh lên
nhà sản xuất, người tiêu dùng nhôm sẽ có động cơ sử dụng một sản lượng nhôm ít
hơn. Chính sách này được dựa trên một trong Mười Nguyên lý của Kinh tế học: Con
người phản ứng với những động cơ khuyến khích. Trong những phần sau của chương
này, chúng ta sẽ xem xét chi tiết hơn cách thức mà các nhà lập chính sách có thể xử lý
ngoại tác.
nhiều cử tri được thông tin tốt hơn, đồng nghĩa với một chính phủ tốt hơn cho tất cả mọi
người. Một ngoại tác khác là một xã hội có học thức hơn có xu hướng có tỉ lệ tội phạm
thấp hơn. Một ngoại tác thứ ba là một xã hội có học thức hơn có thể khuyến khích sự
phát triển và phổ biến của tiến bộ công nghệ, dẫn đến năng xuất cao hơn và các mức
lương cao hơn cho tất cả mọi người. Bởi vì ba ngoại tác tích cực này, người ta có xu
hướng tích những người hàng xóm có học thức.
Phân tích ngoại tác tích cực tương tự phân tích ngoại tác tiêu cực. Hình 1.3 cho thấy
đường cầu không phản ánh giá trị xã hội của hàng hóa. Bởi vì giá trị xã hội lớn hơn giá
trị tư, đường giá trị xã hội nằm trên đường cầu. Sản lượng tối ưu được xác định tại giao
điểm của đường giá trị xã hội và đường cung (đại diện cho các chi phí). Vì thế, sản
lượng tối ưu xã hội lớn hơn sản lượng được ấn định bởi thị trường tư nhân.
6
Hình 1. 3 Giáo dục và tối ưu xã hội
→Với sự hiện diện của ngoại tác tích cực, giá trị xã hội của hàng hóa vượt quá giá trị tư
nhân. Vì thế, sản lượng tối ưu Q lớn hơn sản lượng cân bằng Q
OPTIMUM .
MARKET
-Chính phủ có thể sửa chữa thất bại thị trường bằng cách khuyến khích những người
tham gia thị trường nội hóa ngoại tác. Chính sách tích hợp trong trường hợp ngoại tác
tích cực hoàn toàn ngược lại với trường hợp ngoại tác tiêu cực. Để dịch chuyển cân
bằng thị trường gần hơn với điểm tối ưu xã hội, ngoại tác tích cực cần được trợ cấp.
Trong thực tế, đó cũng chính là chính sách mà chính phủ theo đuổi. Giáo dục được trợ
cấp rất nhiều thông qua các trường công và học bổng chính phủ.
Tóm lại: Ngoại tác tiêu cực khiến cho thị trường sản xuất một sản
lượng cao hơn sản lượng mức mong muốn của xã hội. Ngoại tác tích
cực khiến cho thị trường sản xuất một sản lượng thấp hơn sản lượng
đáng mong muốn về mặt xã hội. Để xử lý vấn đề, chính phủ có thể nội
hóa ngoại tác bằng cách đánh
thuế các sản phẩm có ngoại tác tiêu cực và trợ cấp các sản phẩm có
ngoại tác tích cực.
*Tác động lan tỏa của công nghệ, chính sách công nghiệp, và bảo vệ bản quyền
sản xuất chip máy tính tạo ra tác động lan tỏa công nghệ lớn hơn việc sản xuất khoai tây
chiên, thì chính phủ nên khuyến khích sự sản xuất chip máy tính một cách tương đối so với
7
sự sản xuất các khoai tây chiên. Luật thuế Hoa Kỳ hiện thực hóa điều này một cách có giới
hạn bằng cách quy định những khoản miễn thuế đặc biệt cho chi phí nghiên cứu tác động
lan tỏa công nghệ.
-Tác động lan tỏa công nghệ lớn đến đâu, và điều đó gợi ý gì cho chính sách công? Đây là
một câu hỏi quan trọng bởi vì tiến bộ công nghệ là chìa khóa giải thích tại sao-Một loại ngoại
tác tích cực tiềm năng khá quan trọng là tác động lan tỏa của công nghệ - tác động của các
nỗ lực nghiên cứu và sản xuất của một công ty đến sự tiếp cận tiến bộ công nghệ của các
công ty khác. Ví dụ như thị trường robot công nghiệp. Robot hiện đang ở đỉnh điểm của một
công nghệ đang thay đổi rất nhanh chóng. Bất cứ khi nào một công ty lắp đặt robot, công ty
đó có cơ hội khám phá ra một thiết kế mới hơn và tốt hơn. Thiết kế mới có thể đem lại lợi ích
cho không chỉ công ty này mà còn cả xã hội nói chung bởi vì nó sẽ gia nhập vào kho tàng tri
thức công nghệ của xã hội. Tức là, nó có thể đem lại ngoại tác tích cực cho các nhà sản xuất
khác trong nền kinh tế.
-Trong trường hợp này, chính phủ có thể nội hóa ngoại tác bằng cách trợ cấp cho sản xuất
robot. Nếu chính phủ chi trả cho các công ty một khoản trợ cấp cho mỗi con robot được sản
xuất, đường cung sẽ dịch xuống một lượng đúng bằng khoản trợ cấp, và sự dịch chuyển này
sẽ làm gia tăng sản lượng robot cân bằng. Để đảm bảo mức cân bằng thị trường trùng với
mức tối ưu xã hội, khoản trợ cấp phải bằng giá trị của tiêu chuẩn cuộc sống gia tăng theo
thời gian. Tuy nhiên nó cũng là mà các nhà kinh tế thường bất đồng với nhau.
-Một số nhà kinh tế tin rằng tác động lan tỏa công nghệ là rộng khắp và chính phủ nên
khuyến khích các ngành công nghiệp có tác động lan tỏa công nghệ lớn nhất. Ví dụ, các nhà
kinh tế này tranh luận nếu việc và phát triển. Một số quốc gia khác đi xa hơn bằng cách trợ
cấp một số ngành công nghiệp cụ thể được cho là đem lại những tác động lan tỏa công nghệ
lớn. Can thiệp chính phủ trong nền kinh tế nhằm mục đích khuyến khích các ngành công
nghiệp có tính chất cải tiến công nghệ đôi khi được gọi là chính sách công nghiệp.
-Các nhà kinh tế khác hoài nghi về chính sách công nghiệp. Ngay cả khi tác động lan tỏa công
nghệ là phổ biến, sự thành công của một chính sách công nghiệp đòi hỏi chính phủ phải có khả
năng đo lường quy mô của tác động lan tỏa công nghệ từ các thị trường khác nhau. Vấn đề đo
lường này cực kỳ khó khăn. Hơn thế nữa, nếu không có những thước đo chính xác, hệ thống
chính trị có thể đi đến trợ cấp các ngành công nghiệp có ảnh hưởng chính trị mạnh nhất hơn là
những ngành công nghiệp có ngoại tác tích cực lớn nhất.
-Một cách khác để xử lý tác động lan tỏa công nghệ là bảo vệ bản quyền. Luật bản quyền bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư bằng cách cấp cho họ quyến sử dụng độc quyền các sáng chế của họ
trong một khoảng thời gian. Khi một công ty có một đột phá công nghệ, nó có thể đăng ký bản
quyền cho ý tưởng đó và thu nhặt đa số lợi ích kinh tế cho chính phủ. Bản quyền nội hóa ngoại
tác bằng cách cấp cho công ty quyền sở hữu tài sản đối với phát minh của nó. Nếu các công ty
khác muốn sử dụng công nghệ mới, họ phải có được sự cho phép từ công ty sáng chế và trả tiền
bản quyền. Vì vậy, hệ thống bản quyền khuyến khích các công ty tham gia vào nghiên cứu và
các hoạt động đổi mới công nghệ nhiều hơn.
8
Mỗi sự kiện dưới đây tạo ra ngoại tác tích cực hay tiêu cực, hay không có ngoại tác?
2.2 Chính sách dựa vào thị trường 1: thuế và trợ cấp hiệu chỉnh
-Để đối phó với ngoại tác, thay vì ra luật hiệu chỉnh hành vi, chính phủ có thể sử dụng
các chính sách dựa vào thị trường để gắn kết động cơ cá nhân với hiệu quả xã hội.
- Thuế được ban hành để xử lý các tác động của ngoại tác tiêu cực được gọi là thuế
hiệu chỉnh( thuế Pigou) ,lấy theo tên của nhà kinh tế của nhà kinh tế
Arthur Pigou(1877-1959)- người đã sớm ủng hộ loại thuế này.
+Một mức thuế hiệu chỉnh chuẩn mực = chi phí ngoại tác từ 1 hoạt động có ngoại tác
tiêu cực
9
+ Một mức thuế hiệu chỉnh chuẩn mực= lợi ích ngoại tác từ 1 hoạt động có ngoại tác
tích cực
-Để đối phó với ô nhiễm, các nhà kinh tế luôn thích thể ***Bởi vì nó có thể giảm thiểu ô
nhiễm em với một bức chi phí thấp hơn cho xã hội
VD: Giả sử có hai nhà máy giấy- thép. Mỗi nhà máy thải vào dòng sông 500 tấn tạp
chất mỗi năm. EPA Quyết định sẽ giảm số lượng ô nhiễm, họ cân nhắc 2 giải pháp:
Luật điều chỉnh: EPA Có thể bắt buộc Mỗi nhà máy giảm ô nhiễm xuống còn 300
tấn mỗi năm
Thuế hiệu chỉnh: EPA Có thể đánh thuế lên mỗi nhà máy với mức 50 ngàn đô la
cho mỗi tấn tạp chất mà nó thải ra.
→Luật điều chỉnh sẽ định một mức ô nhiễm, trong khi thuế sẽ tạo ra một khuyến
khích kinh tế cho các nhà máy để giảm thiểu ô nhiễm.
Ở nhiều quốc gia, xăng dầu thuộc nhóm hàng hóa bị đánh thuế nặng nhất. Thuế xăng
dầu có thể được xem là một loại thuế hiệu chỉnh nhằm xử lý 3 ngoại tác tiêu cực gắn
liền với việc lái xe hơi:
Kẹt xe: Xăng dầu làm giảm tắc nghẽn bằng cách khuyến khích người ta sử dụng
giao thông công cộng hoặc đi chung xe thường xuyên hơn, sống gần với nơi làm
việc hơn,...
Tai nạn: Thuế xăng dầu là một cách gián tiếp để bắt người ta chi trả khi mà
những chiếc xe lớn và độ “uống” xăng của họ gây rủi ro cho những người khác
→Nó sẽ khiến họ tính toán đến những rủi ro này khi chọn mua xe.
Ô nhiễm: xe hơi thải khói, và sự đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch như xăng,
dầu là nguyên nhân chính của hiện tượng ấm lên toàn cầu →thuế xăng dầu
giảm nguy cơ này bằng cách ↓ sử dụng xăng dầu.
⇒Vì vậy thuế xăng dầu thực sự làm cho nền kinh tế vận hành tốt hơn thay vì gây ra tổn
thất vô ích như những loại thuế khác: giảm thiểu tắc nghẽn giao thông, làm đường bộ
an toàn hơn, tạo ra môi trường trong sạch hơn.
2.4 Chính sách dựa vào thị trường 2: Giấy phép gây ô nhiễm
có thể chuyển nhượng
10
-Trở lại với ví dụ của chúng ta về nhà máy giấy -thép và giả định rằng bất chấp lời
khuyến cáo của các nhà kinh tế, EPA áp đặt luật hiệu chỉnh và yêu cầu mỗi nhà máy
giảm mức ô nhiễm xuống còn 300 tấn tạp chất mỗi năm.
-Một ngày nọ sau khi luật hiệu chỉnh đã ban hành và và cả hai nhà máy đã tuân thủ,
hai công ty đến gặp EPA với một đề án:
Nhà máy thép muốn phát thải tạp chất của nó lên 100 tấn, Mấy giấy đã đồng ý giảm
phát thải của nó bằng một lượng tương ứng nếu nhà máy thép trả cho nó 5 triệu đôla
- Trên quan điểm hiệu quả kinh tế, cho phép thực hiện giao dịch là một chính sách tốt.
giao dịch này chắc chắn khiến cho chủ sở hữu của hai nhà máy cũng có lợi bởi vì họ tự
nguyện đồng ý.
⇒,Vì vậy phúc lợi xã hội được gia tăng bằng cách cho phép nhà máy giấy bán quyền
gây ô nhiễm của nó cho nhà máy thép.
- Ô nhiễm bằng giấy phép gây ô nhiễm có vẻ như rất khác so với thuế hiệu chỉnh,
nhưng hai chính sách có rất nhiều điểm chung:
+ Trong cả hai trường hợp, các công ty chi trả cho ô nhiễm họ gây ra
+ Với thuế hiệu chỉnh, công ty gây ô nhiễm phải đóng thuế cho chính phủ Vũ
+ Với giấy phép gây ô nhiễm, công ty gây ô nhiễm phải trả tiền để mua giấy phép
- Ở hình 2.4a, EPA giới hạn mức ô nhiễm bằng cách giới hạn số lượng giấy phép ra ô
nhiễm, và đường cầu ấn định mức giá của nhiễm. Mức giá và mức ô nhiễm là như
nhau trong cả hai trường hợp
Điểm chung của hai chính sách có thể được minh họa bằng cách xem xét thị trường
cho ô nhiễm. Cả hai phần trong hình 4 đều minh họa đường cầu đối với quyền gây ô
nhiễm. đường cầu này chỉ ra rằng mức giá gây ô nhiễm càng thấp, công ty sẽ chọn gây
ô nhiễm nhiều hơn.
-Trong hình 2.4(a),EPA sử dụng thuế hiệu chỉnh để ổn định mức giá cho ô nhiễm. trong
trường hợp này, đường cung đối với quyền gây ô nhiễm là hoàn toàn co giãn(Bởi vì
các công ty có thể gây ô nhiễm bất kể số lượng nào họ muốn bằng cách đóng thuế), và
vị trí của đường cầu xác định mức ô nhiễm.
-Trong hình 2.4(b), EPA ấn định một mức ô nhiễm bằng cách phát hành giấy phép gây
ô nhiễm. Trong trường hợp này đường cung đối với quyền gây ô nhiễm là hoàn toàn
không co dãn(Bởi về mức ô nhiễm được cố định bởi số giấy phép) và vị trí của đường
cầu ấn định mức giá của ô nhiễm.
Vì Vậy, EPA có thể đạt được bất cứ điểm nào trên những đường cầu cho trước bằng
cách ấn định một mức giá thông qua thuế hiệu chỉnh hoặc cố định một mức ô nhiễm
thông qua giấy phép gây ô nhiễm.
*Tuy nhiên, trong một số tình huống, bản giấy phép gây ô nhiễm có thể tốt hơn đánh
thuế hiệu chỉnh .
11
Giả sử EPA Muốn không có quá 600 tấn tạp chất thải vào dòng sông, nhưng bởi vì
EPA không biết đường cầu đối với ô nhiễm, họ không chắc chắn về mức thuế cần thiết
để đạt được mục tiêu đó. Trong trường hợp này, họ có thể chỉ đơn giản đấu giá 600
giấy phép phát thải tải. Mức đấu giá sẽ là mức thuế hiệu chỉnh cần thiết.
2.5 Những bất bình đối với phân tích kinh tế về ô nhiễm
“Chúng ta không thể ban cho bất cứ ai quyền được gây ô nhiễm chỉ với một mức phí”-
pháy biểu của Thượng nghị sĩ Edmund Muskie -phản ánh quan điểm của một số ngành
môi trường. Họ tranh cãi rằng không khí Và nước sạch là những quyền con người cơ
bản, không nên hạ thấp chúng qua việc nhìn nhận chúng bằng giá trị kinh tế.
-Người ta cho rằng môi trường quá quan trọng và chúng ta nên bảo vệ nó càng nhiều
càng tốt bất chấp mọi chi phí. Các nhà kinh tế rất ít đồng cảm với những tranh luận kiểu
này. Với các nhà kinh tế, thế chính sách môi trường tốt bắt đầu bằng việc công nhận
nguyên lý đầu tiên tên của “10 nguyên lý của kinh tế học’’ trong chương 1: Con người
đối mặt với đánh đổi
12
-Tất nhiên, chỉ không khí và nước sạch có giá trị của nó, có nhưng nhưng giá trị của nó
phải được so sánh với chi phí cơ hội- Tức là những gì mà chúng ta phải từ bỏ để đạt
được nó.
- Loại trừ tất cả ô nhiễm là không thể. Cố gắng loại trừ tất cả ô nhiễm sẽ đảo ngược rất
nhiều những tiến bộ công nghệ cho phép chúng ta hưởng thụ một mức sống cao. Rât
Người I sẽ sẵn lòng chấp nhận nghèo dinh dưỡng, thiếu hụt chăm sóc sức khỏe hay
nhà cửa tồi tàn để làm cho môi trường sạch nhất có thể.
- Các nhà kinh tế tranh cãi rằng một số nhà hoạt động môi trường làm tổn hại chính sự
nghiệp của họ vì không suy nghĩ theo giá trị kinh tế. Một môi trường trong sạch có thể
được nhìn nhận đơn giản là một loại hàng hóa. Các nước giàu có thể có đủ sức để có
môi trường trong sạch hơn các nước nghèo, và vì thế luôn có nhiều chiến lược bảo vệ
môi trường nghiêm ngặt hơn. Chi phí bảo vệ môi trường càng thấp, người dân sẽ đòi
hỏi chúng càng nhiều. Tiếp cận kinh tế với việc sử dụng giấy phép gây ô nhiễm và thuế
hiệu chỉnh giảm chi phí bảo vệ môi trường, và vì thế sẽ gia tăng nhu cầu của người dân
đối với môi trường trong sạch.
+ Qui tắc khuyên chúng ta nên tính toán đến những ảnh hưởng
mà hành động của mình gây ra cho người khác.
→ Theo thuật ngữ kinh tế: Chúng ta nên nội hóa ngoại tác.
13
1. Tổ chức từ thiện để ứng phó với ngoại tác
Ví dụ:
- Các trường cao đẳng đại học nhận quà từ cựu sinh việc, doanh
nghiệp, quỹ tài trợ vì giáo dục có ngoại tác
- -CLB bảo vệ môi trường là 1 tổ chức phi lợi nhuận được tài trợ bởi
các khoản đóng góp
- Chính phủ khuyến khích giải pháp này đối với ngoại tác bằng cách
giảm thuế thu nhập đối với các khoản đóng góp từ thiện
2. Thường thị trường giải quyết ngoại tác bằng cách dựa vào tính vị
lợi của các bên liên quan
-Tích hợp với nhau nhiều loại hình kinh doanh khác nhau:
Ví dụ: một người nuôi ong và một người trồng táo có thể bắt tay
để kết hợp hai loai hình kinh doanh với nhau. Ong có thể giúp táo
thụ phấn để vườn có trái, ngược lại, cây táo sẽ cung cấp mật hoa
để đàn ong tạo ra mật ong. Thế
nhưng họ lại thờ ơ với ngoại tác tích cực từ đối phương. Ngoại
tác có thể đc nội hoá nếu cả 2 hoạt động diễn ra trong cùng 1
công ty.
- Một cách khác là: có thể cho hai bên liên quan tham gia hợp
đồng có thể thể giải quyết sự không hiệu quả thông thường do
ngoại tác gây ra, và giúp cho 2 bên cùng có lợi:
Ví dụ: hợp đồng xác định số cây và số ong một cách tối ưu nhất
Câu hỏi: Liệu các giải pháp tư có hiệu lực đến đâu trong việc ứng
phó với các ngoại tác?
Một định lý được đặt theo tên của một nhà kinh tế học tên Ronald Coase đã cho
rằng giải pháp tư nhất có thể rất hiệu lực trong vài trường hợp
• Định lý Coase:
14
- Các tác nhân kinh tế tư nhân có thể tự giải quyết được
vấn đề ngoại tác.
- Bất kể các quyền được phân bổ thế nào, thì các bên
tham gia cũng có thể đạt được một thỏa thuận trong đó
mọi người đều có lợi và kết cục đạt được là có hiệu quả.
Xét đến quyền sở hữu: Một quyền sở hữu xác định quyền chiếm hữu, sử dụng và từ bỏ
một thứ gì đó
+ Trong trường hợp ngoại tác, quyền sở hữu có thể không được xác định rõ ràng
+ nếu quyền sở hữu được xác định rõ ràng, các bên liên quan đến ngoai tác có thể
đàm phán một giải pháp
15
Nhưng nếu B có quyền được sống trong trật tự và yên ổn
+ A có thể đề nghị trả tiền cho B để được phép nuôi chó
+ Nếu lợi ích của con chó đối với A lớn hơn chi phí của tiếng sủa đối với B thì A và B
sẽ tìm cách thương lượng để A được phép nuôi chó
→ Việc ai có quyền sẽ xác định xem ai phải trả tiền cho ai trong cuộc thương lượng.
- Định lý Coase:
16
-Hàng hóa dc phân loại theo hai đặc tính:tính loại trừ(ngăn chặn người ta sử dụng
hang hóa), tính cạnh tranh tiêu dùng (việc sử dụng hang hóa của người này ảnh hưởng
đến khả năng sử dụng của người khác)
- Thông qua hai đặc tính trên có thể phân chia hang hóa thành 4 nhóm :
1. Hàng hóa tư : có cả tính loại trừ lẫn tính cạnh tranh
2. Hàng hóa công : ko có tính loại trừ và tính cạnh tranh trong tiêu dùng
3. Cách nguồn lực chung: có tính cạnh tranh trong tiêu dùng nhưng ko
có tính loại trừ
4. Hàng hóa nhóm: có tính loại trừ nhưng ko có tính cạnh tranh
*Chương này sẽ phân tích các hàng hóa không có tính loại trừ : hàng hóa
công và nguồn lực chung.
Hàng hóa công không có tính loại trừ và tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Tức là
không thể ngăn chặn người ta tiêu dùng hàng hóa công, và việc sử dụng hàng hóa
công của người này không làm ảnh hưởng tới việc sử dụng của người khác hay còn
được gọi là kẻ thụ hưởng miễn phí(Người thu được lợi ích từ hàng hóa nhưng lại không tốn
tiền).
Chống nghèo: có rất nhiều chương trình chính phủ thiết kế để giúp đợ người
nghèo ‘sống và máy tính cho em , hay trợ cấp tiền cho những người già cô đơn hay
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhưng lại mồ côi do dịch Covid....
*NHIỆM VỤ KHÓ KHĂN CỦA PHÂN TÍCH CHI PHÍ LỢI ÍCH
17
-Phân tích chi phí lợi ích là môn học so sánh các chi phí lợi ích của xã hội trong việc
sản xuất một hàng hóa công, (phải cùng đo lường theo một đơn vị, nếu muốn so sánh
chúng một cách ý nghĩa) hay là sự so sánh giữa chi phí hao tổn và lợi ích nhận
được từ một dự án hoặc hàng hóa sản xuất ra để có sự tương quan cho chủ thể
cung ứng.
Không phải dự án công nào cũng có thể đo lường hết lợi ích chi phí :như xây
đường cao tốc,xây cầu....
18
Vì lẽ đó, Bi kịch nguồn lực chung trở thành một thành ngữ ấm chỉ rằng các tài
nguyên công cộng thường được sử dụng nhiều hơn mức mong muốn theo quan điểm
xã hội.
Câu hỏi được đặt ra là vì sao không ai muốn giảm lượng cừu của họ mà để đến tận
khi chúng phá hủy thị trấn?
-Nguyên nhân là động cơ của xã hội và cá nhân khác nhau. Việc ngăn ngừa sự
hủy hoại của vùng đất gặm cỏ phụ thuộc vào hành động tập thể của những
người chăn cừu nếu những người chăn cừu hợp tác với nhau họ đã có thể giảm
số lượng cừu xuống còn một mức mà thị trấn nguồn lực chung có thể hỗ trợ
được. Tuy nhiên, không có gia đình nào đơn lẻ mà có động cơ giảm lượng cừu
của họ.
*Có thể nói theo một cách kinh tế là khi nguồn cầu về tài nguyên áp đảo nguồn
cung, mỗi cá nhân tiêu thụ thêm một phần tài nguyên sẽ trực tiếp gây hại cho những
người khác, khiến họ không còn có thể nhận được lợi ích từ nguồn cung đó. Các tài
nguyên gặp phải hiện tượng này thường có đặc điểm là mọi người có thể dễ dàng tiếp
cận chúng. Thông thường, bi kịch nguồn lực chung xảy ra khi các cá nhân bỏ bê sự
thịnh vượng chung của xã hội để theo đuổi lợi ích cá nhân.
- Về bản chất, bi kịch nguồn lực chung xuất hiện là do ngoại tác . Khi đàn cừu
của một gia đình gặm cỏ trên vùng đất chung chúng làm giảm chất lượng của vùng đất
đối với gia đình khác, bởi vì người ta thờ ơ với ngoại tác tiêu cực này khi quyết
định sở hữu bao nhiêu cừu kết quả là có một lượng cừu dư thừa.
Nếu lường trước thì thị trấn có thể giải quyết bằng nhiều cách. Họ có thể hiệu chỉnh số
lượng cừu mỗi gia đình được sở hữu, nội hóa ngoại tác bằng cách đánh thuế sở hữu
cừu hoặc bán đấu giá một số lượng giới hạn giấy phép cho cừu gặm cỏ tức là thị trấn
đã có thể xử lý vấn đề gặm cỏ quá mức tương tự như là cách xã hội hiện đại xử lý vấn
đề ô nhiễm.
Và trong trường hợp này có một giải pháp đơn giản hơn là có thể chia vùng đất thành
nhiều mảnh cho các gia đình. Mỗi gia đình có thể rào chắn mảnh đất của họ bằng hàng
rào và bảo vệ nó khỏi bị gặm nhấm quá mức. Bằng cách này vùng đất trở thành hàng
hóa tư thay vì nguồn lực chung. Trong thực tế điều này đã xảy ra ở Anh vào thế kỷ 17
trong phong trào chia đất.
Vì vậy Bi kịch nguồn lực chung là một câu chuyện với một bài học phổ biến: Khi một
người sử dụng nguồn lực chung, anh ta hoặc cô ta làm giảm bớt sự hưởng thụ của
người khác. Bởi vì ngoại tác tiêu cực này, nguồn lực chung có xu hướng bị sử dụng
quá mức. Chính phủ có thể xử lý vấn đề này bằng cách sử dụng luật hiệu chỉnh hoặc
là thuế để giảm mức sử dụng nguồn lực chung. Và một cách khác là chính phủ
đôi khi cũng có thể biến nguồn lực chung thành một hàng hóa tư.
Câu nói của nhà Triết học Hy Lặp cổ đại Aristotle chỉ ra vấn đề nguồn lực
chung:” Những thứ của chung của tất cả mọi người thường ít được quan tâm
19
nhất, bởi vì con người luôn quan tâm đến những thứ thuộc sở hữu của riêng
mình hơn là những thứ họ sở hữu chung với người khác.”
Một số nguồn lực chung quan trọng:
không khí sạch và nước có thể nói rằng là: Thị trường không bảo vệ môi
trường một cách đầy đủ. ngoại tác tiêu cực gây ra bởi ô nhiễm có thể
được giải quyết bằng luật hoặc thuế hiệu chỉnh đối với các hoạt động gây
ô nhiễm. Chúng ta có thể nhìn nhận thất bại thị trường này như một ví dụ
của vấn đề nguồn lực chung. Không khí sạch và nước sạch là những
nguồn lực chung như vùng cỏ miễn phí, suy thoái môi trường là một bi
kịch nguồn lực chung thời hiện đại.
Những con đường tắc nghẽn có thể nói rằng: Những con đường vừa
có thể là hàng hóa công lẫn nguồn lực chung. Nếu một con đường không
bị tắc nghẽn thì việc sử dụng của một người sẽ không ảnh hưởng tới ai
khác. Trong trường hợp này, việc sử dụng không có tính cạnh tranh
trong tiêu dùng và con đường là hàng hóa công. Tuy nhiên nếu một con
đường bị tắc nghẽn thì việc sử dụng con đường đó sẽ tạo ra một ngoại
tác tiêu cực. Khi một người lái xe trên đường, con đường trở nên đông
đúc hơn và những người khác phải lái xe chậm hơn.
Trong trường hợp này con đường là nguồn lực chung. Có thể giải quyết bằng
cách thu phí lái xe. Phí là thuế hiệu chỉnh đối với ngoại tác do tắc đường. Đôi
khi phí không phải là một giải pháp thực tiễn trong trường hợp các con
đường ở địa phương bởi vì chi phí của việc thu phí là quá cao. Nhưng rất
nhiều thành phố lớn đã phát hiện ra rằng tăng phí đường là một giải pháp
hiệu lực trong việc giảm thiểu tắc nghẽn. Tắc nghẽn chỉ xảy ra vào giờ cao
điểm, nên nếu tập trung thu phí vào lúc này sẽ giảm thiểu ngoại tác này. Tạo
động cơ cho lái xe đổi lịch trình giảm tắc nghẽn. (Có một chính sách khác để
đối phó với vấn đề tắc nghẽn đường là thuế xăng dầu. Nếu tăng giá xăng dầu
sẽ giảm số lượng xe. Nhưng chính sách ấy không hoàn hảo vì nó không có
tác dụng khiến lái xe tránh đi vào giờ cao điểm.)
→ Cá, cá voi và các động vật hoang dã: Nhiều loài động vật là nguồn lực
chung. Chúng có giá trị thương mại vì bất cứ ai cũng có thể đi đến đại dương
và bắt chúng. Đại dương là một trong những nguồn lực chung ít được quản
lý nhất vì có hai vấn đề trở ngại trong việc tìm kiếm giải pháp. Đầu tiên là
nhiều quốc gia cùng có chung đại dương vì thế giải pháp nào cũng phải đòi
hỏi hợp tác quốc tế. Thứ hai, bởi vì đại dương quá rộng lớn rất khó để thực
thi thỏa thuận. Có rất nhiều đạo luật nhằm quản lý việc khai thác cá và các
động vật hoang dã. Ví dụ chính phủ thu phí đối với quyền đánh bắt cá và
quyền săn bắn và giới hạn thời gian của mùa đánh bắt cá và săn bắn. Người
dân thường bị bắt buộc phải thả
20
lại các con cá nhỏ và thợ săn chỉ được giết một số lượng giới hạn các con
thú. Tất cả đạo luật này nhằm giảm thiểu việc sử dụng nguồn lực chung.
Case Study:
Bò là một nguồn thực phẩm có giá trị nhưng không ai lo ngại việc loài bò
sẽ sớm bị tuyệt chủng. Có vẻ như nguồn cầu rất lớn đối với thịt bò đảm
bảo rằng loài bò sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh. Vậy câu hỏi đặt ra: Tại sao
giá trị thương mại của ngà voi đe dọa loài voi, trong khi giá trị thương mại
của loài bò lại bảo vệ con bò?
Lý do là voi là nguồn lực chung, trong khi bò là hàng hóa tư. Voi đi lại tự do
mà không có người sở hữu, mỗi kẻ săn trộm có động cơ giết càng nhiều voi
càng tốt. Vì có rất nhiều kẻ săn trộm nên kẻ săn trộm có rất ít động cơ để bảo
vệ loài voi. Trái lại gia súc sống trong những trang trại được sở hữu tư nhân.
Mỗi chủ trang trại bỏ ra rất nhiều công sức để duy trì đàn gia súc của họ vì họ
thu được lợi ích từ nó.
→ Chính phủ đã cố gắng giải quyết vấn đề loài voi này bằng hai cách một số
quốc gia như Kenya, Tanzania và Uganda đã ban hành các đạo luật cấm giết
voi và bán ngà của chúng. Tất nhiên rất khó thực thi những đạo luật này và
loài voi vẫn tiếp tục bị cạn kiệt. Trái lại những quốc gia khác như Botswana,
Malawi, Namibia và Zimbabwe để biến voi thành hàng hóa tư.
Bằng cách cho phép người ta giết những con voi trên lãnh thổ của
họ. Chủ đất có động cơ bảo tồn các loài vật trên mảnh đất của họ
và kết quả là đàn voi bắt đầu tăng lên lại. Khi có sở hữu tư nhân và
động cơ lợi nhuận đứng về phía mình, hi vọng một ngày nào đó
các chú voi có thể thoát khỏi họa tuyệt chủng và có thể giống như
những chú bò.
21