You are on page 1of 192

.

‘¿V-

■ U m


VŨ DƯƠNG NINH (Chủ biên) - PHAN V
NGUYỄN VĂN TẬN - TRẦN THỊ VINH ■S* ,

. V i ® ; • A V ‘\* '\ v

1 *1 1 1

■aC'' '

slil ': :

DX.037117
N H À X U Ấ T BẢN Đ A I HO C s ư P H A M
MỤC LỤC• ■

Trang

Lời nói đầu.................................................................................................................................. 7

Chươnẹỉ
QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG THỜI KÌ ĐẦU
CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI • • •

I - Phát kiến địa lí và sự hinh thành quan hệ quốc tế trên phạm vi thế giới..............................................9

II - Những biến động lớn ở châu Âu trong các thế kỉ XVI - XVII......................................................... 13

llll * Quá trình di dân ở Bắc Mĩ và sự thành lập Liên bang Mĩ (1776)................................................. 20

Ch ươn ạ / /
QUAN HỆ QUỐC TẾ ở CHÂU Â u
TỪ CÁCH MẠNG PHÁP ĐẾN HỘI NGHỊ VIÊN
(1789-1815)

ỉ - Quan hệ Quốc tế trong thời ki cách mạng Pháp.......................................................................... 27

I! - Quan hệ quốc tế trong những năm chiến tranh của Napôlêông................................................... 33

III - Quan hệ quốc tế trong những nảm cuối cùng của Đế chế Napôlêông........................................ 40

Chươìiẹ I I I
QUAN HỆ QUỐC TẾ ở CHẢU Â u
Từ HỘI NGHỊ VIÊN ĐẾN CHIẾN TRANH PHÁP - PHổ
(1815-1871)

I - Hội nghi Viên và sự thành lập tổ chức Đổng minh Thẩn thánh..................................................... 47

II - Sư can thiệp của Đóng minh Thần thánh đối với phong trào cách mạng cháu  u......................... 53

III - Cuộc cách mạng còng nghiệp ở chàu Âu và những hệ quả của nó............................................. 55

IV - Quan hệ quốc tế xung quanh vấn đé phương Đông..................................................................59

V - Quan hệ quốc tế trong phong trào cách mang giữa thế kỉ XIX.................................................... 66

VI - Quan hệ quốc tế trong phcng tràc công nhân 1848 - 1871 ........................................................ 72

3
Cììươììg IV
QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC
VÀ TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA
CỦA CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY

I - Nhu cầu thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc..................................................................................77

II - Cuộc đấu tranh phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa các nước đế quốcđối với châu Á.....................78

III - Các nước đế quốc xâm lược và phàn chia khu vực ảnh hưởng ở châu Phi.................................. 86

IV - Sự bành trướng của nước Mĩ ở khu vực Mĩ latinh....................................................................... 90

Clìirơỉìg V
QUAN HỆ QUỐC TẾ
Từ SAU CHIẾN TRANH PHÁP - PHổ
ĐẾN KẾT THÚC THẾ CHIẾN THỨ NHẤT (1871 -1918)

I - Sự hình thành các khối liên minh quân sự ở châu Âu trong những năm cuối thế kỉ XIX..................... 95

II - Quan hệ quổc tế đầu thế kỉ XX............................................................................................... 100

III - Quan hệ quốc tế trong phong trào công nhân từ cuối thế kỉ XIX
đến trước khi bùng nổ Thế chiến I (1871 -1914)........................................................................... 110

IV - Quan hệ quốc tế trong thời kì Thế chiến I (1914 -1918)........................................................... 112

Chương V ỉ
QUAN HỆ QUỐC TẾ
GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919 -1939)

I - Sự hỉnh thành trật tự thế giới mới sau Thế chiến I (1919- 1929)................................................. 123

II - Quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết - Liên Xô

và Phong trảo cộng sản trong những nảm 20 của thế kỉ XX........................................................... 136

III - Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít và sách lược đấu tranh của Quốc tế Cộng sản......................... 141

IV - Quan hệ quốc tế trước khi chiến tranh bùng nổ....................................................................... 151


Chương V II
QUAN HỆ QUỐC TẾ
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ H AI (1939 -1945)

I - Giai đoan thứ nhất (9/1939 - 6/1941):

Phe phát xít xâm chiếm châu Âu, mở rộng chiến tranh ở Đông Nam Á và Bắc Phi............................ 159

II - Giai đoạn thứ hai (6/1941 - 11/1942):

Chiến tranh lan rộng toàn thế giới vả sự hinh thành Đổng minh chống phát xít................................. 166

III - Giai đoan thứ ba (11/1942 - 12/1943):

Bước ngoặt của chiến tranh, quân Đóng minh chuyển sang phản công........................................... 175

IV - Giai đoan thứ tư (12/1943 - 8/1945):


Quân Đóng minh tổng phản công tiêu diệt phát xít Đức và quân phiệt Nhật.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc................................................................................................179

Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 191


9

5
LỜ I NÓI ĐẨU

Thực hiện dirờnq lố i Đ ô i mới cùa Đảnẹ, quan lìệ (lỏi ỉìỉỊoạị cùa nước ta
ỉiqàv I ờnạ r ộ ỉiẹ m ờ tlìeo phirơ/iọ chúm 7
< </ phươiìạ lioú, (Uí ílựMỊ lio ú tì êtì tinh
thần Vièí Num muốn lủ ban Ví) dôi túc tin ( ây cùa tất cả cúc HƯỚC trong cộnọ
• • • V l * t 1 /

CÍỔ/IÍỊ quốc tê pììấtĩ đấu vì lìoủ bình, lìỢỊ) tác vù phút triển.
Dê dạt dược tìhữiiq thành tựu tiẹủv ( ủ/tạ Ịớỉì ỉrotiẹ tiến trình hội nhập quốc tê,
việc hiển biết vê lịch SỪ CỊUUH hệ CỊUÔC té lủ diêu vỏ CÙMỊ cutí thiết. Ti otiq chươiiạ
trình (ĩủo tạo dụi học, môn học Lịch sử quan Ììệ quốc tê có vị tri CỊIÌUÌI trọníỊ.
Môn học tìùy tiìiằni CUM* cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bân vê CỊIỈÚ
trình pììút triển của ttìôi quan hệ qiữa cúc CỊIÌÔC qicỉ, nhữ/ì q biên động lớ/ì iron ạ
Í/HCUÌ hệ quốc tế. Từ dó, sinh viên bước đần có cơ sà lịch SỪ đẻ phún tícìì nhữĩiq
sự kiện dã LỊUU và rèn luyện khả tìủtiỸ* dự báo tình hình trước tìhữnẹ biến chuyển
(UiỉìíỊ tiếp íliễỉì tronq dòi sônẹ chinh t r i tliế qiới. M ôn học này p h ô i liỢỊ) với các
ttìôtì học khúc' trong i ỉiươìig trình (lào tạo ịL í luận về quan hệ quốc tế, Kinh tê
quốc tế, Luật pháp quốc tê, Quan hệ đỏi ììạoại Việt Nam...), sè vừa dủtìì ìnio
tihữììạ tr i thức về /ịch sử, vừa ạợi tìiở tiìiữnạ suy n q h ĩ về hiện tụi và tươỉHỊ la i;
vừa man %tính lí thuyết, vừa có V nqlìŨỊ thực tiễn dôi veri sự ỉìội lìlìập quốc tê
cùa tì ước nhí).
Giáo trình /lủv được coi là tài ỉiẻii cơ bản dê siỉìh viên có kiến thức nền
tíiìì^ chim ạ, còn khi gùỉ/iẹ (ỉạv Ví) học tập, rất cần thum khảo nhiều tài ỉiệu
khác, dặt ra các vấn dề, ÍỊÌCỈ định cức tình ìiuốtiạ dê thảo ỉ HÚlì, rút ra nhữ/iq
ki/ill nẹ/liệm lich sử vủ dề xuất các qiíỉi pháp thực tiễn.
Giáo trình này dược bién soạn sau một sô tìùììì qicỉnẹ (lạy thử nẹhiệm tại
Khoa Quốc tê học Trườtìg Đ ạ i học Khoa học .xã hội vủ Nhân vãn (Dại học
Quốc gia Hủ Nội) Ví) ỏ ttìộì sô trườnạ khúc. ChúmỊ tôi xin ẹửi lời cam ơìì ( liàn
thành âêìì cúc ÍỊÌÚO sư, qiửng viê/ì và sinh viên dà ẹóp ỷ âé b ổ SHMỊ, sửa chữa;
càììì ơn Thạc s ĩ Bùi Hổnạ Hạnh del SƯU tầm bản (ĩồ vủ hình ảỉtìt đê minh hoạ
nội dung cuốn sách. Rất mo/iạ nhận được V kiến đónẹ ỈỊÓỊ) cùa ban dọc.

Các tác giá

7
Chương I

QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG THỜI KÌ ĐẦU


CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI

I. PHÁT K IẾ N Đ ỊA L Í V À s ự H ÌN H T H À N H Q U A N HỆ Q u ố c TẾ
TRÊN PH ẠM V I T H Ế GIỚ I
1. Những phát kiến địa lí vĩ đại cuối thế kl X V - đầu thè kl X V I
Do nhu cầu mở rộng hoạt động thương mại
và nhờ vào sự tiến bộ kĩ thuật cùa ngành hàng
hải, từ cuối thế k ỉ X V , nhiều nhà thám hiểm
châu Âu đã đi tìm những con đường biển để sang
phương Đông - nơi mà họ hi vọng sẽ kiếm được
nhiêu vàng bạc và của cải. Có thê kể đến ba phát
kiến địa lí lớn sau đây:
Cuộc hành trình của Vaxcô dơ Gama (Vasco
de Gama) xuất phát từ Bổ Đào Nha, men theo bờ
hiển châu Phi đến điểm cưc nam của châu lue
• •

(nay là M ũi Háo vọng) rồi vượt qua Ân Độ


,

Dương, cập bờ biên phía tây An Độ. Đây là cuộc Vaxcô đơ Gama
(1469 (?) - 1524)
khám phá đầu tiên của người châu Âu đê tới
phương Đông bàng đường biển.
Nhữim chuyến vượt Đại Tây Dương của
Crixtôp Côlông (Christophe Colomb) và sau là
của Vêpuxơ Am êrigô (Vepuce Am erigo) xuất
phát từ Tày Ban Nha đã phát hiện ra một lục địa
mới là châu MT. Ban đầu, người ta tường lầm đấy
là Ấn Độ nên gọi là Tây Ấn Độ hoặc Tân thế giới
và gọi CƯ dân bản địa là người Indian (Indians).
Cuộc thám hiểm của Phécnăng Magienlăng Crixtôp Côlóng
(1451 - 1506)
(Fernand de Magenllan) đi qua Đại Tây Dương
để đến châu MT, rồi men xuống mỏm cực nam của châu lục, vượt qua Thái Bình
Dương tới một quẩn dào, ngày nay là Philippin. Từ đấy, đoàn thuyên tiếp tục di
lới Ản Độ rồi theo con đường của người Bổ Đào Nha, vòng qua châu Phi trớ về
châu Au.
Ba cuộc phát kiến địa lí lớn cùng nhiều cuộc thám hiểm tiếp theo của người
châu Au đã đem lại những hệ quả to lớn vượt xa dự kiến ban đầu.
Trước các phát kiến địa lí kể trên, lịch sử cũng đã ghi nhận một số
cuộc thám hiểm quan trọng, còn để lại nhiều tài liệu có giá trị như:

Máccô Pôlô (Marco Polo, 1254 - 1324) người Vênêxia (nay thuộc
nước Ý). Từ năm 1271, ông đi theo con đường từ Trung Đồng xuyên qua
lãnh thổ rộng lớn của đế quốc Mông c ổ , vào Trung Quốc và ở lại đó 26
năm (1269 - 1295), có thời làm quan dưới triều Nguyên. Cuộc hành trình
này được kể lại trong cuốn Du kí của Máccô Pôlô, cuốn sách đấu tiên ở
châu Âu viết về những điều kì diệu của miền Viễn Đông.

Trịnh Hoà trong thời gian 28 năm (1405 - 1433) đã thực hiện 7 cuộc
du hành bằng đường biển từ Trung Quốc đến Hổng Hải và cử người đi
thăm nhiều cảng biển vùng Đống Phi.

Một số giả thuyết cho rằng Tây Ban Nha không phải là người đầu
tiên phát hiện ra châu Mĩ mà công lao đó hoặc thuộc về người Viking ở
Bắc Âu, hoặc thuộc người Trung Hoa vào những thế kỉ trước đó.

2. Những hệ quả của công cuộc phát kiến địa lí


Những cuộc hành trình khám phá thế giới cuối thế kỉ X V và những năm
tiếp sau đã khẳng định giả thuyết Trái Đất là hình cầu mà không phải là một
mặt phẳng như người xưa tưởng tượng. Từ đó, cách nhìn nhận về hành tinh
chúng ta đang sống, về các châu lục và hải đảo có nhiều thay đổi. Các nhà khoa
học tiếp tục tìm hiểu về Trái Đất, bầu trời, có nhiều đóng góp to lớn vào các
ngành khoa học Đ ịa lí, Thiên văn, Hàng hải, Đ ịa chất và đi sâu vào nhiều ngành
nhân văn.
Việc tìm ra những vùng đất inới tạo nên luồng di cư ồ ạt giữa các châu lục,
chủ yếu là những người từ châu Âu đi sang châu MT đê tìm vàng, chiếm đất và
khai khẩn. Sau đó có đỏng đảo người da đen từ châu Phi bị đưa sang làm nô lộ
trong các đồn điền. Cùng thời gian đó, nhiều người châu Âu đi sang Ân Độ, rồi
từ đó đi tiếp đến vùng Đông Nam Á, vòng lên đến Trung Ọuốc, Nhật Bán. Như
vậy là đà hình thành nhiều con đường nối liền các châu lục, tạo nên sự giao lưu
giữa các miền trên Trái Đất. Con người khi di chuyển đều mang theo sác thái
văn hoá của quê hương mình. Ở nơi mới, theo dòng thời gian, các cộng đồng cư
dân hoà nhập một cách tự nhiên, tiếp thu lẫn nhau những điều mới lạ để dần
dần tạo nên sắc thái văn hoá của cộng đồng cư dân mới. Do vậy, sự giao lưu
văn hoá trên quy mô lớn đã tạo nên chuyển biến quan trọng trong đời sông vật
chất và tinh thần của loài người.
M ột hệ quả quan trọng của những phát kiến địa lí là sư thúc đẩy giao lưu
thương mại giữa các vùng miền trên Trái Đất. Trước đây, hoạt động buôn bán
đã được mở mang, tạo nên thị trường trong nước hay thị trường khu vực, kết nối
các quốc gia lân bang. Địa Trung Hải chính là một trung tâm thương mại lớn
thời cổ đại nối liền các thị trường Nam Âu, Bác Phi và Trung Đông. Các phát
kiến địa lí đã mở rộng phạm vi hoạt động hàng hải, chuyến dẩn trung tâm
thương mại sang Đại Tây Dương, hình thành hai tuyến đường buôn bán lớn trên
phạm vi thê giới: 1. Con đường nôi liền châu Âu với thị trường phương Đông,
ra đời các cồng ti Đông Ân Độ của Hà Lan, của Anh, của Pháp...; 2. Con đường
đi sang châu M ĩ, tạo nên "tam giác thương mại Đại Tây Dương” qua lại giữa ba
châu lục Âu - Phi - MT. Nhờ vậy, thị trường rộng lớn đà hình thành trên quy mô
thế giới.
Từ xa xưa, đã có những tuyến đường buôn bán lớn vận chuyển hàng
qua từ châu Âu sang phương Đông:

Con đường qua Địa Trung Hải, Ai Cập, Hồng Hải đến Ấn Độ, nhưng
người Aráp đã khống chế tuyến đường này buộc người châu Âu phải mua
lại hàng từ tay người Aráp đắt gấp 8 đến 10 lần.

Con đường xuyên qua vùng sa mạc, đổng cỏ, hẻm núi vùng Trung Á
với những đoàn lạc đà thồ nặng hàng hoá trên lưng, đặc biệt là loại hàng
tơ lụa Trung Hoa để bán trên thị trường châu Âu, nhưng "con đường tơ
lụa" này bị hạn chế bởi sự ngăn chặn của dân du mục người Ápganixtan
và sau này là sự bành trướng của Đế chế Thổ Nhĩ Kì trên một khu vực
rộng lớn - vùng Tiểu Á và bản đảo Bancãng.

Tình thế đó đã thúc bách người Âu đi tìm những con đường biển để
tới phương Đông.

Cùng tham gia cuộc hành trình của các thương nhân là các nhà truyền giáo,
những người tự nhạn sứ mệnh truyền bá giáo lí đạo Thiên Chúa đến những
miền xa xôi của Trái Đất. Hoạt động của họ mang ý nghĩa văn hoá, là sợi dây
kết nối những nền văn hoá xa lạ, mang đến một tôn giáo mới đối với CƯ dân
phương Đông. Sau này, sự lợi dụng tôn giáo vào các cuộc chinh phục thuộc địa
đà phần nào làm thay đổi ý nghĩa ban đầu của nó.
3. Sự hình thành quan hệ quốc tẻ trên phạm vi thế giới
Từ khi hình thành các quốc gia, đã sớm xuất hiện mối giao lưu giữa các
nước gần nhau do nhu cầu qua lại, kết íhân, buôn bán và tiến hành những cuộc
chiến tranh giành giật đất đai, mở rộng lãnh thổ. Trong điều kiện của nền kinh
tế tự nhiên, việc buôn bán giữa các vùng miền chưa phát triển thì vấn đề thương
mại chưa trở thành mặt chủ yếu trong mối quan hệ giữa các nhà nước. Nổi lên
vẫn là những cuộc chiến tranh bành trướng diễn ra liên miên, có khi được tiến
hành dưới danh nghĩa tôn giáo qua các cuộc Thập tự chinh.
Trong khoảng 200 năm từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIII đã xảy ra 8 cuộc
viễn chinh lớn của các đạo quân theo Thiên Chúa giáo tiến sang phương
Đông. Quân lính đeo trên ngực cây Thánh giá nên những cuộc chinh
chiến của họ được gọi là Thập tự chinh.
• • W • • I •

Khi nhà nước lớn mạnh thì những mối quan hệ giữa các quốc gia với quốc
gia càng phát triển, đa dạng và phức tạp. Những cuộc chiến tranh bành trướng ở
châu Á cũng như châu Âu đã làm xuất hiện những đế quốc chiếm lĩnh cả một
vùng đất đai rộng lớn, thu phục nhiều vương triều nhỏ bé thành chư hầu, xác
lập quyền lực và uy thế của Đế chế.
Có thể nêu lên một số đế chế nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại như
Đế chế Ba Tư (550 - 330 tr. CN), Đế chế Hi Lạp (thế kỉ IV tr. CN), Đế chế
La Mã (thế kỉ I tr. CN - thế kỉ V sau CN), Đế chế Trung Hoa (từ thế kỉ 2 tr.
CN), Đế chế Aráp (từ thế kỉ VI), Đế chế La Mã Thần thánh (từ thế kỉ IX),
Đế chế Mông c ổ (thế kỉ XIII), Đế chế Ottoman (từ thế kỉ XIII)...

Những phát kiến địa lí đã tác động mạnh mẽ vào sự biến đổi ở châu Âu và
châu MT trong thế kỉ X V I - X V II. Hai quốc gia đi tiên phong trong những cuộc
thám hiểm trở thành hai nước giàu có nhờ vào việc thiết lập hộ thống thuộc địa
và cướp bóc, vơ vét cùa cải ở những vùng mới khám phá. Người Bồ Đào Nha
đặt ách thống trị thực dân ở một số nơi thuộc ven biển châu Phi (Ảnggôla,
Môdămbích, Ghinê Bitxao) và lạp thương điếm ở Ân Độ, Malacca, Macao...
Một phần lanh thổ Nam MT là Braxin cũng thuộc Bồ Đào Nha sau cuộc thám
hiểm của nhà hàng hải Cabran (Pedro Alvares Cabral) năm 1500. Người Tây
Ban Nha từ các hòn đảo đặt chân đầu tiên thuộc vùng biển Ả ngti dà lần lượt
xâm nhập Mêhicô rồi lan xuống hầu khắp vùng Trung - Nam MT. Quần đâo
Philíppin ở Đông Nam Á cũng tluiộc vể Tây Ban Nha cho đến năm 1898 thì
chuyển sang tay MT. Tiếp theo là các cuộc chinh phục thuộc địa của người Hà
Lan, người Anh, người Pháp và các nước châu Âu khác trên các phần còn lại
của châu Á, châu Phi và MT latinh. Cùng với những thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất, quấ trình chinh phục thuộc địa dược coi là hoàn
thành vào cuối thế kỉ X IX , khi không còn vùng đất nào không bị người phương
Tây xâm chiếm. Do vậy, cuộc đua tranh giành giật lại thuộc địa giữa các nước
thực dân đà trờ thành một nội dung quan trọng trong quan hệ quốc tế.
Đến lúc này, mối quan hệ quốc tế đà vượt qua khuôn khổ nhỏ hẹp giữa một
sỏ nước trong từng khu vực mà liên quan đến nhiều quốc gia thuộc các châu
lực, xoay quanh nhiều vấn để trên phạm vi thế giới.

II. NHŨNG BIỂN ĐỘNG LỚN Ở CHÂU Âu TRONG CÁC THẾ KỈ


X V I - X V II
1. Những tín hiệu của sự ra đời chê độ xã hội mới
o • • • •

Hoạt động thương mại tấp nập trên mật biển lan toả vào thị trường nội địa
các quốc gia đã thúc đẩy mạnh mẽ các ngành sản xuất công nghiệp và khai thác
nguyên liệu, trở thành những tiền đề thúc đẩy sự ra đời của một nển kinh tế mới
- kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN). Nhiểu nước ở ven bờ Đại Tây Dương đẩy
mạnh hoạt động thương mại, phát triển cảng biển và đô thị, hình thành một tầng
lớp thị dân mới gắn liền với hoạt động công thương nghiệp. Họ có nguyện vọng
thoát khỏi sự quản lí và kiểm soát của nhà nước phong kiến, được hưởng chế độ
thuê khoá thấp, được tự do buôn bán và lập công xưởng, được mờ rộng hoạt
dộng ra thị trường thế giới.
Đòi hỏi đó dẫn đến mâu thuẫn không tránh khỏi giữa giai cấp tư sản mới
ra đời với nhà nước quân chủ phong kiến là lực lượng vẫn muốn tiếp tục thâu
tóm mọi quyển hành, kể cả quyển khống chê hoạt động công thương nghiệp.
Nó báo hiệu sự rạn nứt của chế độ phong kiến, thê hiện trước tiên trong các
cuộc đấu tranh về vân hoá, tòn giáo cho tới các cuộc nổi dậy khởi nghla giành
chính quyền.

Phong trào Văn hoá Phục hưng (thế kỉ XV - thế kỉ XVI) gắn liền với
tên tuổi nhiều nhà khoa học như Côpécnich (Nicolas Copernic), Bruno
(Giordano Bruno), Galilê (Galileo Galilei), Kẽple (Johann Kepler)...; nhiều
nhà văn như Sêchxpia (William Shakespeare), Xécvantet (Miguel de
Cerventès), Rabơle (François Rabelais); nhiều nhà điêu khắc và họa sĩ
như Lêỏna đơ Vanhxi (Leonard de Vinci), Mikenlăngiơ (Michelangelo
Buonarroti), Raphaen (Raffaelo Sanzio), Rembran (Rembrandt)... Dưới
danh nghĩa phục hưng nền văn hoá cổ Hi - La, các nhà tư tưởng cấp tiến
đòi hỏi giải phóng tư tưởng, thoát khỏi sự ràng buộc của nhà nước phong
kiến và nhà thờ La Mã, đề cao tính nhân văn, quyền tự do cá nhân, tôn
trọng con người. Đó là những tín hiệu về sự xuất hiện một trào lưu tư
tưởng mới, chuẩn bị cho sự ra đời một chế độ xã hội mới.

Cùng thời gian này diễn ra phong trào c ả i cách tôn giáo, khởi nguồn
từ nước Đức với vai trò tiên phong của Máctin tin Luthơ (Martin Luther),
Tômát Muynxe (Thomas Münzer), từ Thuỵ Sĩ với học thuyết Canvanh
(Jean Calvin) rồi lan rộng sang nhiều nước châu Âu. Những người cải
cách (Tin Lành) vẫn giữ nguyên giáo lí trong Kinh Thánh nhưng bài bác
sự suy đồi của hệ thống giáo hội La Mã, phê phán mọi thứ lễ nghi rườm
rà và lãng phí, chủ trương đề cao đức tin qua những hoạt động tôn giáo
giản dị, ít tốn kém và không mất nhiều thời gian. Điều đó phù hợp với
nguyện vọng của đông đảo quấn chúng lao động và tầng lớp tư sản đang
hình thành. Cuộc đấu tranh giữa những người Tin Lành với những người
Thiên Chúa (giáo hội La Mã) ở nhiều nơi đã biến thành những cuộc xung
đột đẫm máu, chiến tranh tàn khốc.
• 9

Dưới khẩu hiệu Văn hoá Phục hưng hay dưới danh nghĩa Cải cách tôn giáo,
những cuộc đấu tranh thường tiềm ẩn mối mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa
lực lượng tư sản với chế độ quân chủ được Nhà thờ La Mã hỗ trợ. Do vậy, mối
quan hệ giữa các quốc gia trong chiến tranh tôn giáo ở các thế kỉ X V I - X V II
mang ý nghĩa của cuộc đấu tranh chuẩn bị cho sự ra đời chế độ xã hội mới.

2. Cách mạng Hà Lan - cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử
• c y • • o I — / •

Vùng Nedơlân (Netherlands - Đất thấp) bao gồm một lãnh thổ rộng lớn,
ngày nay là Hà Lan, Bỉ, Lúcxămbua và một số nơi ở Đông Bắc nước Pháp. Thời
trung đại, Nedơlân bị phụ thuộc vào Đế chế Tây Ban Nha. Đây là khu vực kinh
tế phát đạt với các thành phố sầm uất như Anvécpen, Amxtécđam...
Anvécpen (Anverpen) có khoảng 10 vạn dân, có bến cảng tiện lợi, có
thể đậu một lúc 2500 thuyền buôn đến từ các nơi, có hơn 1000 chi nhánh
thương vụ ngoại quốc, hằng năm có chừng 5000 nhà buôn nước ngoài
đến giao dịch.

Amxtécđam (Amsterdam) có khoảng 3 vạn dân, thường xuyên có


hơn 2000 thuyền đậu, chuyên buôn bán các mặt hàng hương liệu, lương
thực, đổ da, đồ gỗ... Nghề cá, nghề đóng thuyền rất phát triển.

14
Trên bước đường phát triển, Nedơlân gặp nhiều trở ngại, phái giải quyết 3
vấn đề cơ bản: 1. Cần phải thoát khỏi ách thống trị của Đế chế Tây Ban Nha để
trơ thành một quốc gia độc lập; 2. Cần xác lập địa vị thống trị của giai cấp tư
sản mới ra đời đang đòi hỏi tự do phát triển còng thương nghiệp; 3. Cẩn gạt bò
sự khống chế của Nhà thờ Thiên Chúa giáo để đạo Tin Lành có thể hoạt động
rộng rãi, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Ba vấn đề đó phản ánh mâu thuẫn
vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính giai cấp trong xã hội dẫn đến phong trào
cách mạng dưới bộ áo tôn giáo trong nửa sau thế kỉ X V I.
Cuộc khởi nghĩa đầu tiên bùng nổ vào tháng 8/1566 ở một số tinh miền
Nam. Quần chúng nổi dậy tấn công các nhà thờ và tu viện Thiên Chúa giáo,
phá đổ tượng thánh, mở cửa nhà tù phóng thích tù nhân. Cuộc khởi nghĩa nhanh
chóng lan rộng ra miền Bắc, lôi cuốn 12 trong tổng số 16 tỉnh tham gia. Năm
1579 trong khi một số tỉnh miền Nam thành lập Đồnq minh A rut có khuynh
hướng thỏa hiệp với bọn cầm quyền Tây Ban Nha thì một số tỉnh miền Bắc
thành lập Đồnq minh Utrêch gồm Hôlân, Dilân, Brúcxen, Anvécpen... dê thúc
đẩy cuộc đấu tranh đến cùng. Ngày 26/7/1581, Đồng minh Utrêch tuyên bố phế
truất vua Philip II với tư cách vua của Nedơlân, chính thức thành lập Cộng hoà
liên tỉnh miền Bắc, mang tên tỉnh lớn nhất là Hồlân (ta thường gọi là Hà Lan)
do Vinhem Orangiơ đứng đầu.
Vinhem Orangiơ (Vilhelm Orange Nassau, 1533 - 1584) là hoàng
thân ở Đức được thừa kế công quốc Orangiơ và các miền thuộc địa ở
Hà Lan, được coi là người sáng lập dòng họ Orangiơ Nassau. ông
tham gia cuộc đấu tranh chống ách thống trị Tây Ban Nha, thành lập
Đồng minh utrêch, khi cách mạng thành công trở thành Quốc trưởng
Hà Lan (1581).

Trong cuộc đấu tranh này, Hà Lan nhận được sự ủng hộ của Anh và Pháp
vốn là những đối thủ của Tây Ban Nha. Tuy vậy, phải đến năm 1609, sau khi
vua Philip II qua đời thì Tây Ban Nha mới kí hiệp định đình chiến trong thời
hạn 12 năm, công nhận nền độc lập của Hà Lan, cho phép thương nhàn Hà Lan
được buôn bán với các thuộc địa của Tây Ban Nha. Nhưng sau thời hạn này,
chiến tranh lại tiếp diễn từ năm 1621, hoà vào cuộc Chiến tranh 30 năm cho
đến khi kết thúc. Đến năm 1648, trong Hội nghị đình chiến Vetxphalen, nền
độc lập của Hà Lan mới chính thức được công nhận. Còn các tính miền Nam
như Brúcxen thì vẫn thuộc Tây Ban Nha, đến thế ki X V III lệ thuộc Áo và Pháp.
Phái đến cuộc cách mạng năm 1830, nước Bi mới giành dược độc lập.

15
Cách mạng Hà Lan đánh dấu thành công của cuộc cách tnụiiạ tư sán đần
tiên troìiạ Ị ịch sử, mở ra con đường phát triển kinh tê tư bân chủ nghĩa. Năm
1609, Ngân hàng quốc gia Amxtécđam được thành lập, là ngân hàng mang tính
chất tư bản đầu tiên ở châu Âu. Hà Lan khi đó thực sự trở thành trung tâm
thương mại, tín dụng, là đầu mối buôn bán với thế giới. Từ đây, các thương
nhân Hà Lan nhanh chóng hoà nhập vào thị trường quốc tế, mang bán những
sản phẩm len dạ và chăn nuỏi nổi tiếng rồi chở về các loại hương liệu, quế, hồi,
hồ tiêu... Còng ti Đông Ấn của Hà Lan (viết tắt là VOC) thành lộp năm 1602
đóng vai trò quan trọng trên tuyến dường buôn bán với phương Đông và thiết
lập thuộc địa rộng lớn ở Inđônêxia, giành được sự ưu đãi của nhà cầm quyền
Nhật Bản (là nước phương Tây duy nhất được buôn bán với Nhật Bản, tạo nên
phong trào "Hà Lan học" ở nước này). Năm 1626, Hà Lan lại thành lập Công ti
Tây Ân để buôn bán với châu M7. Họ chiếm được một vùng đất ở Bắc MT, xây
dựng thành phố N iu Amxtécđam (sau bị người Anh chiếm, đổi thành Niu Oóc).
Nghề hàng hải ở Hà Lan nhanh chóng phát triển, chuyên chở hàng thuê cho
nhiều nước nên được mệnh danh là "Người chở hàng trên biển". Hà Lan trở
thành nhà nước TBCN đầu tiên trên thế giới.

3. Chiến tranh Ba mươi năm (1618 - 1648) và Hiệp ước Vexphalen


Từ đầu thế kỉ X V II, cuộc chiến tranh giành giật quyền lực giữa các quốc
gia mang màu sắc tôn giáo lan rộng ở châu Âu. Khi đó, dòng họ Hapxbua chế
ngự Đê chế La Mà Thần thánh ra sức củng cố thế lực của đạo Thiên Chúa, đàn
áp những người theo đạo Tin Lành. Năm 1618, những người Bôhêmia chống lại
các sứ giả của Hoàng đế La Mà thần thánh, đã làm bùng nố cuộc chiến tranh
kéo dài 30 năm (1618 - 1648). Khởi đẩu là những trận chiến từ nước Đức giữa
hai lực lượng tôn giáo thuộc phái Tin Lành và phái Thiên Chúa, dần dần lôi
cuốn nhiều nước châu Âu tham chiến. Đó là cuộc chiến tranh giữa hai thế lực:
một bên là dòng họ Hapxbua đang thống trị Đ ế chế La Mã Thần thánh cùng
Tây Ban Nha và các cồng quốc ở Đức theo đạo Thiên Chúa; bên kia là các công
quốc cũng ở Đức theo đạo Tin Lành với sự tham gia của Đan Mạch, Thuỵ Điển
và Pháp. Thuỵ Điển và Pháp tuy là quốc gia Thiên Chúa giáo nhưng lại đứng về
phe Tin Lành Đức nhằm hạn chế sự bành trướng thế lực của dòng họ Hapxbua.
Điểu đó cho thấy về thực chất, dây không hẳn là cuộc chiến tranh vì mục tiêu
tôn giáo mà là cuộc đấu tranh giữa sự kháng định quyền lực cùa các nhà nước
đang lớn mạnh với sự thông trị của dòng họ Hapxbua trong Đế chế.

16
Tháng 10/1648, Hiệp ước Vexphalen được kí kết giữa hai bên tham chiến,
kết thúc cuộc chiến với tháng lợi của các nước Đan Mạch, Pháp, Thuỵ Điển.
Cũng trong dịp này, nén độc lập của Hà Lan, Thuỵ Sĩ được công nhận. Hiệp
ƯỚC Vexphalen là văn bản xác nhận sự hình thành hộ thống các quốc gia độc
lập và có chủ quyén ở châu Âu. Nó đánh dấu một bước tiến quan trọng là quốc
gia đã trở thành chủ thê cư bản trong quan hệ quốc tế. Có thể nói một cách khác
là Hiệp ước Vexphalen đà mờ đầu cho việc hình thành một "trật tự thế giới", ở
đó địa vị chủ thể của các quốc gia đã được xác lập, dần dần xuất hiện một sỏ
"nước lớn" có vai trò chi phối những biến động trong quan hệ quốc tế.

4. Cách mạng Anh - bước ngoặt CƯ bản sang chê độ tư bản chủ nghĩa
Nước Anh nầm trên hòn đảo tây bắc châu Âu được mệnh danh là "Xứ sở
sương mù". Thời cổ - trung đại, khi Đ ịa Trung Hải được coi là trung tâm văn
hoá và thương mại của châu Âu thì nước Anh là một xứ sở hẻo lánh, vai trò khá
mờ nhạt trong các m ối quan hệ với châu lục. Nhưng từ sau phát kiến địa lí, phát
huy lợi thế nằm ngay ven bờ Đ ại Tây Dưưng, người Anh dã nhanh chóng hoà
nhạp vào việc buôn bán với thị trường phương Đông và hình thành luồng di dân
sang Bác M ĩ.
Do những điểu kiện tự nhiên thuận lợi, nghề nuôi cìai phát triển, len dạ trở
thành sản phẩm rất có giá trị và là mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng. Thương
nhân Anh làm giàu nhanh chóng, việc sản xuất lông cìru và dệt len dạ trở nên
phát đạt. Giữa thế kỉ X V I, giá trị hàng len dạ bán ra chiếm đến 80% giá trị hàng
xuất khẩu. Cả nước từ thành phố đến nông thôn đểu tham gia sản xuất len dạ.
Bộ mặt kinh tế của nước Anh thay đổi nhanh chóng, trung tâm tài chính đặt ở
khu X iti (Luân Đôn), Sở giao dịch không những có ảnh hưởng ở Anh mà còn
Hên hệ với nhiéu trung tâm ở châu Âu. Từ nửa sau thế k ỉ X V I, nhiều cồng ti
thương mại ra đời, hoạt động buôn bán từ ven biển Bantich đến châu Phi, từ
Trung Quốc đến châu MT.

Có thể kể một số công ti của người Anh buôn bán trong từng khu vực
như Công ti châu Phi, cỏng ti Mátxcơva, Công ti Tây Ban Nha, Công ti
Thổ Nhĩ Kì... Đặc biệt năm 1600, Anh thành lập Công ti Đông Ấn Độ,
cạnh tranh gay gắt với Hà Lan và Pháp trèn thi trường phương Đồng,
đóng vai trò quan trọng trong việc xâm lược và đặt ách thống trị thực dân
ở Ấn Độ và một số nơi khác.

17
Hoạt động còng thương nghiệp của nước Anh đã tác động sâu sắc vào nông
thôn, nhiều nhà quý tộc chuyên đổi ruộng đất trồng lúa mì sang thành đổng cỏ
nuỏi cừu. Quá trình rào đất nuôi cừu đã lỏi cuốn nông thôn Anh bước vào nền
sản xuất hàng hoá gắn với thị trường và do dó làm cho số đông các nhà quý lộc
phong kiến chuyến thành những nhà quý tộc tư sản hoá, lịch sử Anh gọi là "quý
tộc mới". Họ sẽ cùng giai cấp tư sản tiến hành cuộc cách mạng ở nước Anh
giữa thế kỉ X V II.
Cách mạng Anh diễn ra dưới hình thức nội
chiến (1642 - 1649) giữa một bên là thế lực tư
sản và quý tộc mới do tướng Crốmoen lành đạo
chống lại một bên là thế lực phong kiến do nhà
vua Sáclơ I (Charles I) cầm đầu. Cuộc đấu tranh
này cũng khoác bộ áo tôn giáo giữa Thanh giáo
(giáo phái cải cách) với Anh giáo (tách khỏi
hệ thống La Mã do vua Anh làm Giáo chủ).

Kết quả là lực lượng cách mạng thắng thế, ngày Sáclơ 1(1600- 1649)
19/5/1649 nền Cộng hoà được tuyên bố thành
lập dưới sự lành đạo của Crômoen.
Ôlivơ Crômoen (Oliver
Cromvvell, 1599 - 1658) là một nhà
chính trị, một nhà quân sự có tài,
theo Thanh giáo, lãnh đạo cuộc
đấu tranh chống nền quân chủ của
Sáclơ I. Ông chỉ huy đội quân
"Sườn sắt" có kỉ luật và kinh nghiệm
chiến đấu, đảnh bại quân đội nhà

vua ở trận Nêdơby (1645). Sau khi


Ôlivơ Crồmoen (1599 - 1658)
tuyên bố lập nền Cộng hoà và xử tử
Sáclơ I, Crômoen thâu tóm quyền hành, thiết lập chế độ độc tài cá nhân
dưới danh hiệu "Bảo hộ vương" nên không được lòng dân.

Trong chính sách đối ngoại, Crômoen tiến hành cuộc chiến tranh xâm krực
đảo Ailen (1649), tiếp đó là Xcốtlen ( 1650). Năm 1652, trên cơ sở lực lượng
lớn mạnh nhanh chóng, nước Anh phát động cuộc chiến tranh chống Hà Lan,
địch thủ cạnh tranh trên mật biển. Sau 2 năm, Anh thắng, Hà Lan buộc phải
chấp nhận "Luật Hàng hải" quy định nước Anh chi nhập khẩu hàng hoá do tàu

18
Anh và tàu của nước có hàng mang đến. Nhir vậy, Hà Lan bị tước vai trò của
"Người chở hàng trên biển". Năm 1654, nước Anh lại tiến hành chiến tranh với
Tây Ban Nha, tuy thắng lợi nhưng chiến lợi phẩm không bù đắp được phí tổn
chiến tranh.

Sau khi Crômoen qua đời (1658), tình hình chính trị rơi vào khúng hoàng.
Con của Crômoen là Risớt (Richard) lên nấm quyển tò ra không có năng lực, bị
phế truất ngay năm sau (1659). Giai cấp tư sản và quý tộc mới đi tìm lời giải
trong sự thỏa hiệp với thế lực phong kiến dòng họ Schiua (Stuarts) đang lưu tán
ở châu Âu. Nhưng sự trở vé của Sáclơ II (Charles II) năm 1660 và sau dó là
Giêm II (James II) năm 1665 (đểu là con của nhà vua bị xử tử Sáclơ I) làm cho
quần chúng bất mãn, giới cầm quyền thất vọng. Không thực hiện theo lời hứa
hẹn tôn trọng địa vị và lợi ích của tư sản, các ông vua trở vể đéu ra lệnh phục
hồi toàn bộ quyển lực, trả thù những người đã tham gia cách mạng, thậm chí
quật mả Crômoen đê treo cổ.
Giai cấp tư sản Anh liển tìm lối thoát bằng cách liên hệ mời Ọuốc trưởng
Hà Lan là Vinhem Orangiơ Nassau sang trị vì ở Anh. Tháng 11/1688, ông dẫn
12 000 quàn đổ bộ vào nước Anh làm đảo chính giành ngôi vua. Giêm II bỏ
chạy sang Pháp, cuộc đào chính không xảy ra trận giao chiến nào, lịch sử nước
Anh gọi là cuộc "Cách mạng vẻ vang".

Vinhem III Orangiơ Nassau (1650 - 1702) làm Quốc trưởng Hà Lan từ
1689 đến 1702. Là con rể của Giêm II (cháu ngoại Sáclơ I) nên ông có đủ
danh nghĩa hoàng tộc thay thế ngôi vua ở Anh. Là người đứng đấu nước
Hà Lan phát triển CNTB, ồng đã hiểu và thừa nhận lợi ích của giai cấp tư
sản Anh.

Năm 1689, Nghị viện Anh thòng qua 'Đạo luật về quyền hành", theo đó,
nhà vua không có quyén duy trì hay hủy bỏ luật pháp, các công việc quan trọng
đều do Nghị viện quyết định, các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước nghị viện.
Ngôi vua chỉ mang tính hình thức, là đại diện quốc gia. Chế độ quân chủ lập
hiến được thiết lập.
Từ đó, nước Anh hước vào thời kì ổn định về chính trị và phát triển vé kinh
tế. VỊ thế quốc tế của nước Anh dần dược nâng cao, dẫn đầu trong các hoạt
động công thương nghiệp trên thị trường thế giới. Do những thành tựu vé cài
tiến kĩ thuật, từ cuối thế kỉ X V III, nước Anh bước vào quá trình còng nghiệp
hoá. Đây là bước ngoặt cơ bàn xác lập vị thế hàng đầu của nước Anh và tác

19
động mạnh mê đến bước phất triển của CNTB ở châu Âu. Do vậy, cách mạng
Anh tuy diễn ra sau Hà Lan nhưng được coi như bước đột phá mở đầu thời kì
TBCN ở châu Âu và trên phạm vi thế giới.

III. QUÁ TR ÌN H DI D Â N Ở BẮC M Ĩ V À S ự T H À N H LẬP LIÊ N BANG


M Ĩ (1776)
1. Quá trình di dàn ừ Bác M ĩ
Việc phát hiện châu MT đã mờ ra một quá trình di dân ổ ạt từ châu Âu sang
Bắc M ĩ trong suốt 3 thế kỉ (thế kỉ X V I - thế kỉ X V III). Muộn hơn người Tây
Ban Nha đến vùng Trung và Nam MT, những di dân người Anh đặt chân lên đất
Bắc M ĩ vào những thập niên đầu thế kỉ X V II, thiết lập vùng định cư đầu tiên ở
Giêmxtao (Jamestown). Năm 1607 có khoảng 100 người, đến năm 1624 có
14000 người di trú ở vùng này. Số người đến ngày càng tăng và lan rộng ra
nhiều vùng đất ven biên Đại Tây Dương. Ngoài người Anh, nơi đây cùng dã
xuất hiện những cộng đồng người Hà Lan, người Thuỵ Điên, người Pháp...

Những di dân người Anh sang Bắc Mĩ thường do các nguyên nhân
sau đây: 1. Việc rào đất nuôi cừu ở nước Anh đã làm cho đông đảo nông
dân không có nơi nương thân, phải rời bỏ quê hương đi tìm kiếm việc làm,
vượt biển sang miền "đất hứa"; 2. Để trốn chạy vì những biến động chính
trị của thời cách mạng; 3. Để tránh những vụ xung đột tôn giáo giữa người
theo Thanh giáo với Giáo hội Anh. Sau đó, khả năng làm giàu do khai
phá đồn điền và phát triển thương mại ngày càng thu hút thêm nhiều
người sang Bắc Mĩ.

Ban đầu việc di dân diễn ra một cách tự phát, một vài công ti tư nhản (Công
ti Viếcginia, Công ti Vịnh Maxachusét...) đirợc Chính phủ trao quyền quân lí và
khai thác. Người dân vùng đất mới tự xây dựng cuộc sống với quyền tự trị rộng
rãi. Sau dần, nhất là vào thời kì phục hồi vương triều Schiua, nhà nước Anh
ngày càng tăng cường việc kiểm soát các thuộc địa ở Băc MT.
Các thuộc địa của Anh được chia thành 3 vùng: 1. Miền Đòng Bắc (Niu
Inglân) cằn cỗi không thế làm nông nghiệp song lại có vịnh Maxachusét và
cảng biển Bỏxtưn rất thuận lợi cho việc buôn bán với bên ngoài; 2. Mién Trung
khá đa dạng về mặt vãn hoá và ngôn ngữ vì nguồn di dân từ nhiều nơi dến
(Anh, Hà Lan, Thuỵ Điên, Pháp, Đan Mạch, Na Uy, Đức, Ba Lan, Ý...), thành
plìỏ trung tâm là Philađenphia; 3. Miền Nam chú yếu làm nòng nghiệp trong

20
các đồn điền lớn và các trang trại, có cảng Chalextơn (Nam Carôlina) là trung
tâm thương mại, cửa ngõ xuất khẩu nông sản như gạo, bòng, mía, thuốc lá...

C A -N A -Đ A

hô ỉĩĩkrõn ẳ 1

/6
. j. -T- xtơn

ĩ2
'ài
• •
en-phi-a

ĐẠI

É TÁ Y i
CA-RÕ-LIN-NA BẢ
ã-i D Ư Ỡ N G
\CA-RO-UNvN
%

% \ NAM
o:
o Rốt Ai-len
Cô-nèch-ti-cớt
Niu Giơ-xi
Đơ-la-oa
Mè-ri-len
1/ iN Ít M Ê - / / / - CỂt
V Niu Hảm-sai

13 thuộc địa của Anh ỏ Bắc Mỉ


• t

Các cộng đồng cư dân dần dần hình thành hao gồm người bản địa Inđiân
(thường gọi là người da đỏ), người Âu da trắng, người Phi da đen (là nguồn
nhân lực chính trong các đồn điển với thân phận nô lệ). Họ sinh sống trên cùng
một vùng lành thổ, lâu dần tạo nên một ngôn ngữ chung mà nguồn gốc chính là
tiếng Anh, hàng ngày có sự giao lưu về kinh tế và văn hoá, mang một tâm lí
chung của những người đi khai phá lạp nghiệp ờ những miền xa xôi, gian khổ.
Những yếu tô đó gắn kết những thế hộ cư dân tiếp nối thành một cộng đồng
mang tính dân tộc, ngày càng xa rời quê hirơns ban đầu của cha ỏng họ. Đồng
thời, những lợi ích về chính trị và kinh tế càng thúc đáy họ gắn bó với nhau,
tách khỏi SƯ r à n ơ buộc của nước Anh, nưi vẫn coi ho chí là các công dân thuôc
địa của Vương quốc.

21
Ngoài việc phân chia thành 13 thuộc địa có thể chế khác nhau, Chính phủ
Luân Đôn đã ban hành nhiều đạo luật có tính chất cưởng bức đối với vùng Bắc
VTĨ thuộc Anh.
Có thể kể một số đạo luật sau đây: luật về thuế đường, cấm nhập
rượu rum, đánh thuế rượu vang, cà phê và nhiều mặt hàng khác; luật về
tiền tệ không cho phép bất kì thuộc địa nào được phát hành tiền giấy; luật
về nghĩa vụ của các thuộc địa phải cung cấp cho quân đội Hoàng gia lều
trại, lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác.

Đặc biệt đạo luật về Tem thuế quy định dán tem để đánh thuế vào tất cả
báo chí, sách vở, biểu ngữ, hợp đồng, môn bài, chứng thư... Loại thuế này liên
quan đến tất cả các hạng người từ nhà báo, luật sư, tăng lữ đến các doanh
nhân... nên đã gây ra làn sóng bất mãn trong nhản dân. Năm 1765, nhiều người
tham gia một tổ chức bí mật mang tên "Những đứa con của Tự do" nhầm chông
lại đạo luật về Tem thuế, nói rộng hơn là chống chế độ thực dân Anh, bằng biện
pháp bạo lực. Năm 1767, Bộ trưởng Tài chính Taoxhen công bố nhiều loại thuế
mới gây nên tình trạng rối loạn ở cảng Bôxtơn. Ọuân lính Anh được điều đến
trân áp những người chống đối càng làm cho tình hình thêm căng thẳng.

2. Chiến tranh chống thưc dân Anh và bản Tuyên ngôn Độc lập của
nước M ĩ (1776)
Tinh hình căng thảng đà khơi sâu mối mâu thuẫn giữa nhân dân các thuộc
địa Bắc M7 với nhà nước thực dân Anh. Nó phản ánh nguyện vọng của nhân
dân Bác MT muốn thoát khỏi chế độ cai trị thực dân Anh để tuyên bố thành lập
một quốc gia độc lập, có điều kiện phát triển kinh tế.
Vụ đổ chè xuống biên ở cảng Bôxtưn đêm 16/12/1773 được coi là ngòi nổ làm
bùng phát cuộc chiến tranh của nhân dân Bắc Mĩ chống chế độ thực dân Anh.
Tháng 12/1773, ba chiếc tàu chở chè của Anh cập cảng Bỏxtơn bất
chấp sự phản đối của người dân ở đây. Việc nhập chè chỉ đem lại lợi
nhuận cho thương nhân Anh nhưng sẽ tiêu diệt ngành sản xuất và chế
biến chè ở Bắc Mĩ. Đẽm 16, một nhóm người giả trang làm người da đỏ
đã đột nhập lên tàu và ném các kiện chè xuống biển. Chính phủ Anh
trừng phạt bằng đạo luật đóng cửa biển Bôxtơn cho đến khi bồi thường
xong những thiệt hại về chè, hạn chế quyền lực của chính quyền địa
phương và ngăn cấm hoạt động của các tổ chức đoàn thể.
Ngày 5/9/1774, Đ ại hội lục cíịíi lần thử nhứt họp ớ Philađenphia gồm 55
đại biểu của các thuộc địa (trừ Gioócgia) ra nghị quyết về quyền của người dân
lập nghiệp ờ thuộc địa về "sự sống, tự do và tài sán” , về quyển cùa cơ quan lập
pháp địa phương được xác định "toàn bộ các trường hợp đánh thuế và hình thức
nhà nước nội bộ", thành lạp "Hiệp hội lục địa" đóng vai trò của tổ chức lãnh
đạo các thuộc địa xóa bỏ những tàn dư của chính quyền Hoàng gia. Hiệp hội
lập tức nhận được sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân từ những người
nghèo, các nhà doanh nghiệp, các chủ đồn điền cho đến các trại chủ và giới trí
thức. Cũng có một số người tò ra lo ngại muốn đi tìm giải pháp thòa hiệp mà
không dùng bạo lực.
Ngày 19/4/1775, quân đội Anh tiến vào làng Lêxinhtơn xả súng bắn vào 70
chiến sĩ thuộc tổ chức "Những người Một phút" (Minutemen, có nghĩa là sẵn
sàng chiến đấu ngay khi nhận lệnh trong một phút). Tinh hình trờ nên hết sức
căng thẳng.
Ngày 10/5/1775 Đụi hội lục đia lun tỉìứ Ììiỉi
họp ờ Philađenphia hạ quyết tâm chiến đấu, tố chức
các đơn vị dân quân thành lực lượng vũ trang lục
địa do Đai tá Gioóc Oasinhtơn làm Tổn£ tư lệnh.
G. Oasinhtơn (George Washington,
1732 - 1799) nhà hoạt động chính trị lãnh
đạo phong trào chống chế độ thực dân
Anh, là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang
Mĩ năm 1775, trở thành Tổng thống đầu
tiên của Hoa Kì năm 1789, được tái cử G. Oasinhtơn
(1732- 1799)
năm 1792.

Đ ại hội quyết định giao cho một tiểu ban


gồm 5 người, do Giépphecxơn đứng đầu, soạn
thảo một tuyên ngôn li khai khỏi chế độ cai trị
của nước Anh.
T. Giépphecxơn (Thomas Jefferson,
1743 - 1826) nhà hoạt động chính trị, tác
giả chính của bản Tuyên ngôn Độc lập
Hoa Kì (1776). Ổng được bầu làm phó tổng
thống (1797) rồi làm tổng thống trong 2 Thómát Giépphecxơn
nhiệm kì (1801 - 1809). (1743 - 1836)

23
Ngày 4/7/1776, bán Tuyên IIÍỊÔH Dộc ỉậj) dược thòng qua tại Đại hội đại
biểu 13 bang.

Đại hội lục địa thông qua Tuyên ngôn Độc lập

Trong đoạn mở đầu, Tuyên ngôn nêu lên ha ý tưởng cơ bản: 1. M ọi người
sinh ra đều bình đẳng, được tạo hoá ban cho những quyền tất yếu và bất khả
xâm phạm là quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc; 2. Để đảm
bảo những quyền này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được
những quyền lực chính đáng trên cơ sờ sự nhất trí của nhân dân; 3. Bất cứ khi
nào có một thê chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này thì nhân
dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ và lập nên một chính quyển mớisaocho có
hiệuquả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của nhân dân.
Những ý tưởng này phản ánh sự tiếp nhận của Giépphecxơn và các
nhà soạn thảo Tuyên ngôn từ các tác phẩm của trào lưu Triết học Khai
sáng ở Pháp với tên tuổi Vônte, Mồngtexkiơ, Rútxô; từ các nhà lí thuyết
chính trị của Anh như Giôn Lốccơ với tác phẩm Luận thuyết thứ hai về cai
trị bàn về những quyền tự nhiên của con người, như Tômat Pênơ từ cuốn
chuyên luận nổi tiếng Lương tri công kích chế độ quân chủ "một con
người trung thực có giá trị đối với xã hội nhiều hơn tất cả nhữngđứa lưu
manh vồ lại đội vương miện đã từng sống trên thế gian này".

Sau khi lên án các tôi ác của chế đô thực dân Anh mà kẻ đai diên là nhà
• • •

vua, Tuyèn ngôn "trịnh trọng công khai và tuyên hố rằng cấc thuộc địa lièn
minh vứi nhau này đã và có quyển phải là quốc gia tự do và dộc lập". Ọuốc gia
tự do và dộc lập này từ bỏ mọi sự trung thành với nhà vua Anh, xóa bỏ những
liên hệ chính trị với nước Anh. có quyén tiến hành chiến tranh, kí kết hiệp ước
hoà hình, xây đựng liên minh, thiết lập quan hệ thương mại và thực thi mọi
công việc của một quốc gia có chủ quyển.
Như vậy trên lành thổ Bắc MT đã ra đời một nhà nước độc lập. Bán Tuyên
ngôn Độc lập chẳng những là vãn kiện chính trị quan trọng của nước Mì mà
những tư tưởng của Tuyên ngôn còn có giá trị thời đại sâu sắc, có tiếng vang
lan xuống vùng Trung Nam M7 đang đấu tranh thoát khỏi ách thực dân Tây Ban
Nha, đổng thời được sự hưởng ứng của nhân dân châu Âu đang muốn xóa bò
chế độ quàn chủ phong kiến lỗi thời, đi tìm dân chủ tự do.

3. Liên minh Pháp - M ĩ trong cuộc chiến tranh chòng Anh


Nước Pháp đón nhận tin tức về cuộc chiến tranh chống Anh ở Bắc MT trong
niểm hân hoan. Nhân dân và giới trí thức đánh giá đây là một sự kiện tiến bộ
nhằm thiết lập chế độ xà hội mới dân chủ và công bằng. Sau này, những tư
tướiig của bân Tuycn ngôn Độc lập càng làm nức lòng dân chúng, nhiều người
tình nguyện sang chiến đấu bên cạnh các chiến binh Bắc M7 vì lí tưởng chung.
Chính phủ Pháp dưới triều đại Buốcbông (Bourbons) cũng hưởng ứng cuộc
đấu tranh này nhưng với động cơ khác. Họ coi dây là CƯ hội để trà thù nước
Anh do sự thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc M7.
Theo hoà ước năm 1763, Pháp phải trao cho Anh toàn bộ vùng đất dà chiếm
gồm Canada, miền Hổ Lớn, thượng nguồn lưu vực sòng M ilx ix ip i. Thất bại đó
dã làm sụp đổ giấc mơ vé một đê chế Pháp tại đây.
Để thiết lập và tăng cườim mối liên hệ với chính phủ Pháp, Phranklin được
cử làm đại diện của MT tại Pari. Bằng trí thòng minh và tài ngoại giao khéo léo,
Phranklin đà giành được cảm tình cùa nước Pháp và qua đó dóng cóp tích cực
cho liên minh Pháp MT.
B. Phranklin (Benjamin Franklin, 1706 - 1790): nhà hoạt động chính
trị Mĩ, nhà báo, nhà vật lí học. ông là một thành viên trong nhóm khởi
thảo Tuyên ngôn Độc lập; sáng chế cột thu lỏi năm 1752. Do tài ngoại
giao khéo léo, ông được Chính phủ Pháp gửi giúp một đạo quân, một
hạm đội và một khoản viện trợ đặc biệt. Trong thời gian ở Pháp, ống tham
gia Viện Hàn lám khoa học, gặp Rỏbexpie (Robespierre) và Đăngtồng
(Danton) là những nhà cách mạng thuộc phái Giacôbanh (Jacobin).

25
Trong giai đoạn đầu, phía MT gập nhiều khó khăn, phải nếm trái nhiều thất
bại. Tháng 5/1776, Pháp bắt đầu phái 14 con tàu chở vũ khí và đạn dược tiếp tế
cho các chiến binh Bắc M7. Phần lớn khí giới do M ĩ sứ dụng đểu có nguồn gốc
từ Pháp. Chiến thắng Xaratôga (10/1777) của MT đã đưa cuộc chiến tranh bước
vào giai đoạn mới.
Tháng 2/1778, MT và Pháp kí Hiệp ước hữu nghị và thương mại, trong đó,
Pháp chính thức công nhận nước M7 là một quốc gia độc lập, có chủ quyẻn.
Năm 1779, Tây Ban Nha cũng tham gia cuộc chiến, đứng vể phía Pháp nhưng
không phải là đồng minh của M7. Năm 1780, Anh tuyên chiến với Hà Lan vì
Hà Lan vãn tiếp tục buôn bán với MT. Như vậy, vé khách quan, khối liên kết
các nước châu Âu đã tạo ra một mối hiểm nguy cho Anh. Tháng 7/1780, vua
Pháp Lui X V I gửi tiếp một đội quân viển chinh 6000 người sang chiến đấu
cùng quân đội Mĩ. Đồng thời, hạm đội Pháp phối hợp với hạm đội M7 tuần tiều
trên biển ngăn cản lực lượng tăng viện và tiếp tê của Anh. Với 18 000 quân của
liên quân Pháp - MT, cuộc chiến tranh cách mạng đạt được nhiều thắng lợi.
Quân Anh sau khi bị thua trận ở Ioóctao (9/1781 ) đã mất hi vọng chiến thắng.
Nhưng phải 2 năm sau, do kết quả đàm phán hoà bình ở Pari, nước Anh mới
công nhận nển độc lập, tự do và chủ quyển của 13 thuộc địa cũ, có ranh giới
lãnh thổ từ bờ Đại Tây Dương, phía tây đến sông M itx ix ip i, phía bác đến
Canada và phía nam đến Phloriđa, trừ một vài vùng trao trá Tây Ban Nha. Nơi
đây đã trở thành 13 tiểu bang tự do và độc lập, nén tảng ban đầu của nước Mĩ
ngày nay.
Như vậy, Cuộc chiến tranh chống Anh ở Bắc MT vừa là một cuộc chiến
tranh giành độc lập, vừa mang tính chất một cuộc cách mạng tư san. Kết quá
của nó là đã thành lập nhà nước Liên bang M7 (thường gọi là Hợp chúng quốc
Hoa Kì) và mở dirờiig cho đất nước phát triển kinh tê TBCN. Nưức M ĩ từ đây
trờ thành một nhân tô quan trọng trên bình diện chính trị quốc tê và sẽ tham gia
vào những hoạt động quan hệ quốc tế trên phạm vi thế giới.

26
Chương II

QUAN HỆ QUỐC TẺ ở CHÂU Âu


m

TỪ CÁCH MẠNG PHÁP ĐẾN HỘI NGHỊ VIÊN


(1789 - 1815)

Những sự kiện quan trọng chi phối mối quan hệ quốc tế ứ châu Âu từ năm
17K9 đến năm 18 15 là Cách mạng tư sản Pháp và cuộc chiến tranh của
Napôlêông. Kết thức lịch sử một phần tư thê kỉ đầy biến động trong quan hệ
quốc tê châu Âu là sự thất bại của Napôỉêông và việc triệu tập Hội nghị Viên
năm 1815, hội nghị ngoại giao lớn đầu tiên trên thế giới.

I. Q U A N HỆ QUỔC TẾ TRONG THỜ I K Ì CÁCH M ẠN G PHÁP


1. Cuộc Cách mạng tư sản Pháp
Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đà làm rung chuyển cả châu Âu và có
tiếng vang toàn thế giới.

Cuộc tấn cồng pháo dài - nhà tủ Baxti (14/7/1789)

Quá trình Cách mạng tu sàn Pháp có thê chia thành 3 siai đoạn:
- Giai đoạn chinh quyền Lập hiến (1789 - 1792) được thiết lập sau
cuộc khởi nghĩa ngày 14/7/1789 tiến còng nhà ngục Baxti, ban hành bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyển.
- Giai đoạn chính quyền Girôngđanh (Girondins, 1792 - 1793) đã
tuyên bố thành lập nền Cộng hoà thứ nhất ở Pháp, xử tử vua Lui XVI
(Louis XVI). Liên minh các nước châu Âu mở đầu cuộc tiến công chống
lại Cách mạng Pháp.

- Giai đoạn chính quyền Giacôbanh (Jacobins, 1793 - 1794) đã tiến


hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài và cải cách dân
chủ, đưa cách mạng lẽn tới đỉnh cao. Cuộc đảo chính ngày 27/7/1794 lặt
đổ chế độ Giacôbanh, chấm dứt thời kì cách mạng.

Những người tiến bộ ở các nước nhiệt liệt chào mừng cách mạng Pháp, xem
nó như là dấu hiệu mở đầu cho một ki nguyên mới, kỉ nguyên của "Tự do -
Bình đáng - Bác ái". Nhân dân các nước thuộc địa cùa Tây Ban Nha và Bổ Đào
Nha ỡ MT latinh đón nhận bản Tuyên nqô / 1 Nhún íỊityềtì vù Dủỉì qnxên như là lời
kêu gọi đấu tranh giải phóng. Những nước láng giềng với Pháp chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của cuộc cách mạng này. Nếu như với nhân dân bị áp bức khát khao
thoát khỏi ách cường quyền chuyên chế, những tin tức từ Pari cách mạng dem
đến hi vọng và niềm tin, thì những kẻ đại diện cho chế độ cũ - vua, quý tộc và
tãng lữ của các quốc gia quân chủ - lại hoang sợ trước sự lớn mạnh của phong
trào cách mạng. Đê quốc Áo, đế quốc Nga, vương quốc Phố coi cách mạng
Pháp là kẻ thù nguy hiểm, lo ngại ảnh hường của nó sẽ làm lung lay chế độ
quân chủ. Nước Anh tư sản cũng chống lại cách mạng Pháp vì không muốn có
một đối thủ cạnh tranh trên thương trường. Sự thù địch đối với cách mạng Pháp
đã tập hựp các nước phong kiến chuyên chế lớn nhỏ ở châu Âu cùng nước Anh
tư sản lập thành liên minh chống Pháp.
Sau cuộc chính biến Técmiđo (27/7/1794), cách mạng Pháp đi vào thoái
trào. Năm 1799 Napôlêỏng Bỏnapactơ lên nắm quyển. Năm 1804 thành lập Đế
chế thứ nhất tồn tại cho đến năm 1815.
Trong suốt quá trình đó, nước Pháp luôn tiến hành chiến tranh với các nước
châu Âu tập hợp trong các liên minh chống Pháp mà thành phần của nó biến
đổi tùy theo tình hình. Trên thực tế, những kẻ chủ chốt trong các liên minh này
là Anh, Nga, Áo và Phổ.

2. Sự thành lập Liên minh chòng Pháp lan thứ nhát (1792 - 1797)
Sau khi cuộc khởi nghĩa ngày 14/7/1789 ờ Pari giành dược thảng lợi, Chính
phú Lập hiến được thành lập, vẫn duy Irì ncôi vua cua Lui X V I. Nhưne thế lực
phong kiến Pháp không cam chịu thất bại, hí mạt lien lạc với các nước quân chú

28
châu Âu đê chống lại cách mạng, Lui X V I tính chuyện trốn ra nước ngoài dế
cáu cứu ngoại viện.
Vụ trốn chạy không thành của Lu i X V I (21/6/1791) và sự phát triển của
phong trào cộng hoà dân chú ở Pháp làm cho các nước phong kiến chuyên chế
châu Âu hoảng sợ, vội vã xúc tiến việc thành lập Liên tììitìỉì chốnq Pháp lần ỉhứ
nliất (1791 - 1792). Đứng đầu Liên minh là Áo và Phổ - hai nước láng giềng bị
cách mạng Pháp đe doạ trực tiếp. Ngày 27/8/1791, hoàng đế Áo và vua Phổ đã
kí Tuycn bò Tinnít, theo đó hai nước cam kết cùng hành động nhàm khòi phục
chính quyền của L u i X V I. Đến ngày 7/2/1792, Á o và Phổ kí tiếp một hiệp ước
liên minh cam kết mỏi bên góp hai vạn quân đế chống Pháp. Cả hai bên đễu hi
vọng sẽ được đén bù bằng những chiến lợi phẩm giành được từ cuộc chiến
tháng đòi với nước Pháp cách mạng. Vua Phổ muốn chiếm Andiít, hoàng đế Áo
muốn mở rộng đất đai ở Bí hoặc đổi Bí lấy Bavaria.
Trước sự đe doạ can thiệp của Áo và Phổ, các thế lực chính trị ở Pháp có
phản ứng khác nhau. Vua Lui X V I, mặc dù đã phê chuẩn Hiến pháp
(13/9/1791) và tuyên thệ trung thành với quốc dân, nhưng dã cùng với các
tướng lĩnh và giới quý tộc âm mưu đây nước Pháp vào cuộc chiến tranh với các
triều đình phong kiến châu Âu. Họ tin rằng quân đội mới thành lập của nước
Pháp cách mạng không đủ sức chịu đựng "một nửa trận" khi phải đương đầu với
nhữim đạo quân phonu kiến nổi tiếng thiện chiến. Cánh hCru trong Quốc hội lập
pháp là phái Phơiăng (Feillant) lo sợ chiến tranh vì những biến động do chiến
tranh tạo ra có thể làm tuột khỏi tay họ chính quyển mới giành được còn chưa
vCmç chác. Một bộ phận của phái Phơiăng do La Phayét (La Fayette) cầm đầu
chí muốn tiến hành những cuộc chiến tranh nhỏ với bọn quý tộc lưu vong ờ
sòng Ranh và chống Áo. Phái Girôngđanh là phái cuồng nhiệt chủ trương phát
động chiến tranh, hi vọng chiến tranh sẽ đánh lạc hướng quần chúng trong nước
khỏi những yêu sách cải cách và thắng lợi của chiến tranh sẽ củng cố chính
quyền của giai cấp tư sản, mở rộng đất đai và biên giới của nước Pháp. Những
người dân chủ cách mạng, đứng đầu là Rôbcxpie (Robespierre) và Mara
(Marat) hiếu rằng chiến tranh là không thê tránh khỏi. Nhưng phái này kicn
quyết phản đối ý đồ của phái Girôngđanh tiến hành chiến tranh trước khi tiêu
diệt kẻ thù trong nước ỉà bọn quý tộc và giới quân phiệt phản động. Nhiệm vụ
trước mắt là đẩy mạnh cuộc cách mạng trong nước đến cùng. Trong trường hợp
bị can thiệp, Mara đà phác thảo kế hoạch tiến hành một cuộc chiến tranh nhân
dân, trong đó nhân dân Pháp sẽ triển khai hoạt độns du kích chống lại kẻ thù.

29
Bất chấp sự phàn đối của những người dân chủ cách mạng, chính phú Lập
hiến đà tuyên chiến với hoàng đế Áo ngày 20/4/1792. Cuộc chiến tranh về
phía Pháp khi dó là cuộc chiến tranh chính nghĩa vì nó bào vệ những thành
quả của cách mạng chống lại sự can thiệp vũ trang của các cường quốc
chuyên chế châu Au.
Đúng như dự đoán của những người dân chú cách mạng, quân Pháp licp
tiếp bị bại trận vì nó là đội quân kế thừa cùa chê dộ phong kiến chưa được cái
tổ, lại bị sự phản bội của bọn tướng lĩnh quý tộc khi đỏ vẫn nám quyền chi huy.
Kế hoạch tác chiến bị Mari Ảngtoanét (Marie Antoinette) - vự Lui X V I và là
em gái hoàng đế Áo - bí mật trao cho kẻ thù. Chính bà ta đã khẩn cầu Còng
tước Brunxvich (Brunswick), tổng chí huy quân dội can thiệp ra bản tuyên cáo
de doạ sẽ xoá sổ Pari nếu như quân Phiíp dám đụng đến hoàng gia.
Tất cả những hành độim đó chi có thể làm cho sự căm phẫn của quần chúng
lên đến cao độ. Giờ đày tinh thần ái quốc thống nhất với tinh thần cách mạng,
báo vệ Tổ quốc đồng nghĩa với bào vệ cách mạng. Sự thống nhất này dã dẫn
đến cuộc khởi nghĩa ngày 10/8/1792 lật đổ ngòi vua cùng Chính phù Lập hiêìi,
thiết lập chính quyền Girôngđanh.
Chiến thắng trên mặt trận quân sự ứ Vanmi (Valmy) ngày 20/9 đánh dấu một
bước ngoặt của tiến trình chiến tranh, quân Pháp chuyển sang thế tấn công.
Thành Vécđoong dược giải phóng ngày 8/10 và Lỏngvi ngày 20/10, sau đó quân
Pháp vượt biên giới tiến sang Bí, Đức. Những đạo quân Pháp giương cao kháu
hiệu "Hoà bình với lều tranh, chiến tranh với lâu đài". Binh lính Pháp muốn giải
phóng cho nhân dân các nước bị bọn vua chúa áp bức bóc lột. Tuy nhiên, núp
dưứi khẩu hiệu đó, những người Girôngdanh lại nuôi ý đổ xâm chiếm dất đai bao
quanh nước Pháp, lộp ra những nước cộng hoà lệ thuộc Pháp.
Một ngày sau chiến thắng Vanmi, ngày 21/9/1792 chế độ Cộng hoà được
thiết lập ở Pháp. Ngày 11/12/1792, Lui X V I bị đưa ra xét xử, ngày 21/1/1793 bị
chém đầu. Lấy cớ Lui X V I bị giết, tất cả các nước thù địch với cách mạng Pháp
nhanh chóng tập hợp thành một liên minh chống Pháp. Lần này nước Pháp
không chỉ tiến hành chiến tranh với Áo và Phổ mà còn phải chống lại những kẻ
thù vốn là kẻ cạnh tranh cũ với Pháp là Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha và các tiếu
quốc ờ Ý. Nước Anh mặc dù đã là nhà nước tư bản chú nghĩa nhưng lại tham
chiến nhằm đâu tranh với những tư tường và thê chế cách mạng, làm suy yếu sự
hùng mạnh về kinh tế của tư bán Pháp. Đồng thời, Anh thấy không the trông
chừ vào lực lượng của Phổ và Áo, nhất là sail khi Pháp chiếm Bí và đe doạ Hà
Lan là những đia hàn có tầm chiến lược quan trọng dối với Anh.
c , . • I • c

30
Bận can dự vào vân đé Ba Lan, Nga không thế trực tiếp tham gia Liên minh
chòng Pháp nhưng đã cát đứt quan hệ ngoại giao với Pháp vào tháng
2/1793 để ủng hộ Liên minh.
Là phái chủ chiến nhưng không chuán bị gì cho chiến tranh, lại có ý đỏ
thoá hiệp với ké thù trong chính sách đối ngoại, phái Girôngđanh không thế
lành đạo nước Pháp chống lại một liên minh phản cách mạng rộng lớn như vậy.

3. Tháng lợi của cách mạng Pháp trong cuộc dâu tranh chông thù trong
giặc ngoài
Đến tháng 3/1793, cách mạng Pháp lâm vào tình thế vò cùng nghiêm
trọng: khủng hoảng kinh tế xã hội và khủng hoang chính trị gắn chặt vào
nhau. Trên mạt trận quân sự, quân Pháp liên tiếp bị thất bại. Sau một loạt thất
hại ở Hà Lan, Pháp bị thua ở Bi. Việc mất Bi dẫn đến việc mất tả ngạn sông
Ranh vào cuối tháng 3. Chiến trường sắp bị đẩy trờ lại lãnh thổ nước Pháp.
Tinh hình nguy ngập về quân sự làm cho xung đột nội bộ giữa phái
Girôngdanh bất lực và thoái hoá với phái Giacôbanh cấp tiến và cách mạng
lẽn đến đỉnh điểm, dẫn tới cuộc khởi nghĩa ở Pari từ ngày 31/5 đến 2/6/1793.
Chính quyền Giacôbanh được thiết lập do Luật sư Ròbexpic đứng đầu. Phát
huy nhiệt tình cách mạng của quần chúng và thi hành những biện pháp kiên
quyết, phái Giacôbanh đà đưa cách mạng vượt qua cơn thử thách hiểm nghèo.
Macximiliẽng đơ Rôbexpie
(Maximilien de Robespierre, 1758 -
1794): luật sư, đại diện cho Đẳng
cấp thứ ba trong Hội nghị Ba đẳng
cấp. Sau cách mạng 1789, ồng
đứng về lực lượng dân chủ, chịu ảnh
hưởng tư tưởng của Rútxỏ (Jean
Jacques Rousseau). Ngày
2/6/1793, ông đứng đấu cuộc khởi
nghĩa ở Pari lật đổ chế độ
Girôngđanh, trở thành người đứng
đấu chính quyền Giacôbanh
(Jacobin).

Ngay sau khi nắm quyền,


Rôbexpie đã ban hành pháp lệnh
ruộng đất, quy định tịch thu ruộng

31
đất của nhà thờ và quý tộc phong kiến, chia thành từng mảnh nhỏ đem
bán cho nông dân, trả dần trong 10 năm. Nông dân được giải phóng khỏi
mọi nghĩa vụ đóng góp phong kiến. Chính sách này đã đem lại ruộng đất
cho nông dân, thiết lặp ở Pháp chế độ kinh tế tiểu nông. Đồng thời, ỏng
thực hiện chế độ chuyên chính cách mạng, thành lập các đội đặc nhiệm
để bắt bọn gian thương đấu cơ tích trữ lương thực thực phẩm, trấn áp bọn
gián điệp, làm tay sai cho nước ngoài. Chính trong dịp này, Hoàng hậu
Mari Ăngtoanét bị bắt trong khi đang bí mật chuyển bản đồ quân sự sang
nước Áo, sau đó bị xử tử.

Những biện pháp trên đã làm chơ đòng đào quần chúng nhân dân phấn
khởi, từng địa phương nổi dậy tấn cóng bọn phong kiến để nắm chính quyển
và chia ruộng đất. Lực lượng thù địch trong nước nhanh chóng bị đập tan. Gần
60 vạn thanh niên tình nguyện nhập ngũ đế bảo vệ Tổ quốc, cũng có nghĩa là
bảo vệ mảnh đất vừa giành được. Quân đội Pháp đirợc cải tổ, quân sĩ bầu
những người có tinh thần dũng cảm lên chỉ huy, nhiều người xuất thân là
nông dân, người chăn ngựa, thợ mộc, thự rèn... Các nhà trí thức dược động
viên sáng chế vũ khí, tìm ra chiến lược, chiến thuật mới. Nhừ đỏ, quân đội
cách mạng đã giành được nhiều thắng lợi vào tháng 9 và tháng 10, làm thay
đổi cục diện chiến tranh. Quân Áo bị tan rã, quân Anh và quân Phổ phải rút
lui. Đến đống - xuân 1793 - 1794, quân Pháp chuyên sang thế chù động tiến
công. Tulông được giải phóng khỏi quân Anh, Andát thoát khỏi tay quân Phổ
và quân Áo. Quân thù bị quét sạch khỏi lành thổ nước Pháp.
Nhĩmg chiến thắng quân sự tường chừng củng cỏ thêm sức mạnh cho những
người Giacôbanh nhimg trái lại, khi nguy cơ can thiệp từ bên ngoài bị đẩy lùi thì
sự rạn nứt, phân hoá và đấu tranh trong nội bộ Giacôbanh trở nên gay gắt. Chiến
thắng ờ Phlơruýt vào tháng 6/1794 là thắng lợi quân sự cuối cùng cùa những
người Giacôbanh đã thúc đẩy quá trình đó, dẫn tới cuộc đảo chính ngày
27/7/1794 (theo lịch mới của Pháp là ngày 9 tháng Técmiđo - Thermidor).
Nguyên nhân cơ bản của cuộc đảo chính là do tầng lớp đại tư sàn Pháp muốn xoá
bỏ sự hạn chế đối với chế độ sờ hữu lớn và chấm dứt thời kì chuyên chính cách
mạng. Sự bất đồng giữa các phái về chính sách đối ngoại cũng là một nguyên
nhân quan trọng thúc đẩy sự tan rã của chính quyền Giacôbanh. Đại tư sàn Pháp
tiến hành cuôc đảo chính Técmiđo đê dọn đườim cho việc hiến dần cuộc chiến
tranh chính nghĩa thành cuòc chiến tranh xâm lirơc.
II. Q UAN HỆ QUOC TE TRONG NHỮNG N Ả M CHIÊN TR AN H CUA
NAPỎLÊÔNG
1. Sự tan vở của Liên minh chòng Pháp lán thứ nhát
Sau khi lật đổ chính quyển của những người Giacôbanh, lợi dụng thắng lợi
của quân đội cách mạng đã giành được và sự bất đồng giữa các nước tham gia
Liên minh chống Pháp, phái tư sản Técmiđo đà kí hoà ước Baden với Phổ
(5/4/1795). Phố rút khỏi Liên minh đê tham dự cuộc phân chia Ba Lan lần thứ
ba với Nga và Áo, thừa nhận những thắng lợi của Pháp, cho Pháp sáp nhập Bi
và các đất của Đức ờ tả ngạn sông Ranh. Ngày 16/5/1795, Hà Lan buộc phái kí
hoà ưức nhượng cho Pháp Phlăngđri và bồi thường một số tiển lớn. Tháng
7/1795, Tây Ban Nha cũng phải kí hoà ước nhượng cho Pháp Xanh Đômingồ.
Sau đó hai bên kí hiệp ước "phòng thủ và tấn công" chống Anh vì Anh ngày
càng tìm cách đẩy Tây Ban Nha ra khỏi các thuộc địa ờ châu MT. Tây Ban Nha
bị lôi kéo vào chiến tranh từ năm 1796 đến năm 1801 và trở thành còng cụ lệ
thuộc Pháp.
Mặc dù Phổ, Tây Ban Nha và Hà Lan rút khỏi Liên minh, chiến tranh vẫn
tiếp tục. Tháng 4/1797, sau khi bị thất bại nặng, Áo phải kí hiệp định đình
chiến Lêồben và ngày 7/10/1797, Napôlêông Bônapactơ kí hoà ước với Áo ở
Campôphoócmiô. Pháp được chiếm Bỉ, một số đảo ở biển Ađriatích, Áo thừa
nhận việc thành lập các nước cộng hoà ờ Bắc và Trung Ý. Những điểu khoản bí
mật cho phép Pháp chiếm tả ngạn sông Ranh đến bắc Côblenxơ. Áo được giữ
lại Vênêxia. Như vậy là Liên minh chống Phấp lần thứ nhất tan vỡ. Chỉ CÒI1 lại
Anh tiếp tục chiến tranh và chuẩn bị thành lập Iĩiột liên minh mới.
Sau khi hoàn thành chiến dịch ở Ý, Chính phù Đốc chính cử Napồlêông
chí lìiiy một đạo quân đi đánh Anh ở A i Cập, de doạ con đường đi Ân Độ của
Anh. Sau đó, Napôlêông đế quân đội lại cho tướng Clẽbe chi huy và bí mật trở
về Pháp.

2. Liên minh chống Phấp lần thứ hai (1798 - 1803)


Vấn để Ý và A i Cập là cớ đê Anh thúc đẩy Áo, Ý, Nga, Thổ cùng Hà Lan
thiết lạp Liên tììinh chốỉìiỊ Pháp lầỉỉ thứ hai vào năm 1798, sail đó Thuỵ Điên
C lin s tham gia. Thắng lợi của Pháp đe đoạ vị trí của Nga ở châu Âu và Cận
Đỏng nên Nga tham gia Liên minh nhằm đánh đuối quân Pháp ra khỏi Ý. lật đổ
nền cộng hoà và khôi phục triều đại Buốcbông ờ Pháp.

33
&ii&ỉi 4'

• v V -

Ệ t à :? tỳr* ĩ / *ÍÍ>J
t * V % , ầ í

' 4 í m ' l ì l fí
V ' . • ' * 7 ; • • /

7 *

Napôlêông Bônapactơ (1769 - 1821)

Nước Pháp lại bị đe doạ giống như năm 1792 - 1793. Cuộc khúng hoáng
lần này dã dãn đến cuộc chính biến ngày 9/11 /1799 (dược gọi là Chính biến
tháng Bruyme - tháng Sương mù). Napôlêông trở thành vị Tổng tài thứ nhất với
quyền hành rất lớn.
Napôlèông Bônapactơ (1769 - 1821) tốt nghiệp trường quân sự hàm
Thiếu úy, chỉ huy pháo binh vây hãm thành Tulồng. Năm 1794, ông được
phong Thiếu tướng, Tư lệnh pháo binh trong chiến dịch tấn công Ý, thể
hiện tài năng quân sự trong việc đánh thắng liên quàn Áo - Piẻmông;
năm 1799 lật đổ chính quyền Đốc chính, thiết lập chế độ Tổng tài, làm
Tổng tài thứ nhất, nắm mọi quyền hành; năm 1804 thành lập Đế chế thứ
nhất, lên ngồi Hoàng đế - Napồlêông đệ nhất (1804 - 1815).

Nước Pháp tiến hành chiến tranh với Liên minh thứ hai. Do mâu thuẫn với Áo
về vấn đề Ý, năm 1800 Nga rút khỏi Liên minh. Quan hệ Nsa - Anh cũng xấu đi
do việc Anh chiếm đảo Manta. Napôlêông đã lợi dụng những mâu thuẫn trong phc
Liên minh, giành được một loạt chiến thắng (chiến thắng Marengô, 14/6/1800) mờ
đường cho quân Pháp tiến đến Thíi đô Viên. Áo phái kí Hoà ước Luynevin ngày
9/2/1801 xác định lại những điều kiện của hoà ước Campòphoócmiô.
Đê khoét sâu sự bất đồng giữa Nga và Anh, Napôlêône ra lệnh thá tùbinh
Nga bị bắt trong chiến dịch năm 1799 về nước. Nga lioàim Paven I bát đầu hiệp
thương với Pháp về một liên minh chốim Anh, dề ra kế hoạch chiếm đát cùa
Thổ, đổng thời thiết lập ảnh hưởng cùa hai nước ờ Trung Âu và Nam Ý. Nga
9

hoàng còn quyêt định đưa quân Côdăc sang An Độ dè đánh Anh. Nhưng việc
cắt dứi quan hệ thương mại với Anh đe doạ lợi ích của quý tộc và địa chủ Nga
nên đà gây ra phản ứng cùa giới quý tộc cung đình và giới quân sự, cuối cùng
dẫn đến việc sát hại Paven I (23/3/1801).
Những cuộc chiến tranh do Napỏlêông tiến hành đà thực sự thay đổi tính
chất cửa thời chiến tranh cách mạng, nhằm mục đích giành những thị trường
mới, xác lập bá quyền của Pháp về công thương nghiệp, chính trị và quân sự ở
châu Âu. Ngoài việc vơ vét nguyên liệu ờ các nước bị chinh phục, Napôlêông
còn bát phải bổi thường chiến phí. Năm 1801, nguồn thu nhập đặc biệt này đà
chiếm 123 triệu phrăng trong sỏ 770 triệu phrăng tổng thu nhập của nước Pháp.
Sau khi lên ngôi, Nga hoàng Alêcxãng I từ bò liên minh với Napỏlêòng
nhưng kí với Napỏlẽông một Ihoả ước trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc về ánh
hưởng chung của Nga và Pháp đối với Trung Âu và Nam Ý. Quan hệ ngoại
giao giữa Nga và Anh được nòi lại. Anh hứa rút quân khỏi Manta và A i Cập.
Mặc dù công thương nghiệp phát triển nhanh chóng và trở nên giàu có,
nhưng Anh khó có thế chịu đựng sự căng thẳng của chiến tranh kéo dài. Những
chi phí lớn cho các nước đồng minh, việc không ngừng tăng cường hạm dội làm
cho ngân khố cạn kiệt. Đế bù đắp, chính phú phải vay nợ và tăng thuế, do đó sự
bất bình trong nước ngày càng gia tăng. Xu hướng thoả hiệp tăng lên trong giới
tư sản với hi vọng là việc hoà giải với Pháp sẽ mỡ rộng thị tnrừng châu Âu cho
hàng hoá của Anh. Năm 1801, Anh bắt đầu thương lượng hoà hình với Pháp.
Tháng 3/1802, hai bôn kí Hoà ước Amiêng. Anh vẫn được giữ Xàylan và
Tơriniđát nhưng không được can thiệp vào công việc của Hà Lan, Đức, Ý, Thuỵ
Sĩ. Pháp từ bỏ tham vọng ở A i Cập nhưng dược lấy lại quần đào Ảngti. Quần đào
ỉôniêng biến thành nước Cộng hoà bày đảo đật dưới sự bào trợ của Nga và Thổ.
Hoà bình được lập lại ở châu Âu nhưng chí là tạm thời, Pháp còn chiếm
nhiều đất đai, nhất là Bi, Hà Lan được ví như "một khẩu súng lục" chĩa vào trái
tim cùa nước Anh. Vì vậy, tháng 5/1803 chiến tranh giữa Anh và Pháp lại tiếp
tục diễn ra.
Những chiến thắng quân sự của Napôlêông đối với Liên minh thứ hai càng
củng cố địa vị độc tài của ỏng ta. Năm 1804 Napôlêông trở thành hoàng đế và
Đế chế 1 được thiết lập ừ Pháp. Nhưng thắng lợi của Pháp trên lục địa chau Âu
còn chưa dược vững clìắc chừng nào lực lượng cùa Anh và Nga - những đối thú
mạnh và nguy hiểm nhất của Pháp - còn chưa bị đánh bại.

35
Ngay từ năm 1801, Napôlêông bắt đầu chuẩn bị tổ chức một cuộc tân công
sang nước Anh. Mùa thu năm 1803 tại cảng Bưlỏnhơ, Napôlêỏng tạp trung 13
vạn quân và tuyên bố: "Chỉ cần ba ngày sương mù, ta sẽ làm chủ Luân Đón của
Nghị viện và Ngân hàng Anh quốc". Thế nhưng do ưu thế của hạm đội Anh, kế
hoạch đổ bộ của Pháp không được thực hiện. Điều quan trọng là Anh đã không
đơn độc trong cuộc đối đầu với Pháp.

3. Liên minh chông Pháp lán thứ ba (1805 - 1806)


Những ý đồ mở rộng xâm lược của Pháp đà dẫn đến sự thành lập một liên
minh mới, Liên ìììiìììì chô/iẹ Pháp lần thứ ha, vào năm 1805 gồm Anh, Nga, Áo,
Napôli, Thuỵ Điên. Napôlêông phải điều quân dự tính đổ bộ sang Anh tới Nam
Đức để đánh quân Liên minh. Ngày 2/10/1805, hạm đội Pháp - Tây Ban Nha bị
hạm đội Anh tiêu diệt ở Traphanga (eo biển gần thành phố Cácđit của Tây Ban
Nha). Còn ở trên bộ, trước khi quân Nga kịp tham chiến, một lực lượng quân Áo
đã bị Napôlêông đánh bại và đạo quân chủ lực của Áo buộc phải đầu hàng ở
Unmơmà không chống cự. Ngày 13/11, quân Pháp tiến vào Viên. Nga hoàng chỉ
còn hi vọng vào sự tham gia của quân Phổ. Đế kết thúc chiến tranh trước khi
quân Phố tham chiến, Napôlêỏng điều quân lên phía bắc, nhử liên quân Nga - Áo
đến một địa điểm chọn trước và ngày 2/12/1805, ngày kí niệm 1 năm lẻ đăng
quang, Napoleons đánh thắng quân Nga - Áo ở Aoxteclích, một "trận đánh kiểu
mẫu" theo đánh giá của các sử gia quân sự Đức.
Áo phái kí Hoà ước Prexbuốc vào cuối năm 1805, mất một loạt đất đai,
thừa nhận Napỏlcông là vua của nước Ý và tra cho Pháp một số tiền bồi thường
lớn. Để củng cố sự thống trị ở Trung Âu, năm 1806 Napôlêông lập ra Liên
minh sồng Ranh (lúc đầu gồm 16 quốc gia Đức) lệ thuộc Pháp, tháng 8/1806
buộc hoàng đế Áo phải từ bỏ danh hiệu hoàng đế Đức. Như vậy, Đế chê La Mã
thần thánh thời trung đại bị xoá bỏ. Cũng trong năm đó, triều đại Buốcbông ờ
Napỏli bị quân Pháp đánh chạy ra X ix ilia dưới sự báo vệ của hạm đội Anh.
Người anh cả của Napôlêông là Giôdép Bônapactơ được phong làm vua Níipôli,
người em là Lui Bônapactơ làm vua Hà Lan.

4. Liên minh chỏng Pháp lán thứ tư (1806 - 1808)


Việc thành lập Liên minh sòng Ranh và những cuộc xâm lược mới của
Napôlêông đã thúc đẩy các nước thù địch tiếp tục chiến tranh. Vua Nga
Alêcxăng I từ chối kí đình chiến với Pháp. Nga và Anh nối lại hiệp thương với

36
Phổ và sau đó với Tliuỵ Đicn. Tháng 9/1 (S06 đã hình thành Liên tììiiììì dìốnq
Plìáị) lần thứ tư gồm Anh, Nga, Phổ và Tluiỵ Điển.
Chiến tranh với Liên minh lần thứ tư gồm hai chiến dịch chống Phổ và
chống Nga.
Quan Phổ hoàn toàn không được chuẩn bị cho chiến tranh. Troníi hai trận
giao chiến diễn ra cùng ngày 14/10/1806 ơ Iêna và Aosơtét, quân Phổ bị đánh
bại. Quân Pháp tiến vào Béclin và chiếm một phần lớn nước Phổ.
Sau khi quân Phổ thất bại, Đông Phổ trở thành chiến trường chính. Tháng
2/1807, ở Prâyxít - A ilau dã diễn ra một trận giao chiến đẫm máu giữa quân
Nga và quàn Pháp. Ngày 14/6/1807, quân Pháp giành được thắng lợi ờ Phritlan.
Kliỏng còn đổng m inh trên lue đia và khôn" nhận được sư chi viên của Anh
• • W • • • •

trên thực tế, Nga buộc phải từ bỏ chiến tranh với đế chế Napôlêông. Pháp cũng
cần có thời gian nghỉ ngơi. Ngày 7/7/1807, Nga và Pháp dã kí một hoà ước và
một hiệp ước liên m inh chống Anh tại Tinđít. Nga phải rút khỏi liên minh, đoạn
tuyệt với Anh, tham gia phong toả lục địa, thừa nhận tất cả những thắng lợi của
Pháp ở châu Âu. Đ ổi lại, Pháp hứa cho Nga rãnh tay hành động đối với Thuỵ
Điển và Phố. Ngày 9/7, Phổ cũng buộc phải kí với Pháp một hoà ước với những
diều kiện hốt sức nặng nẻ: Phổ bị chia cát, mất phán ờ Ba Lan, Hanôvơ và tất cả
đất đai ở phía tây sông Enbơ, mát 5 triệu dân trên tổng sô 10 triệu, sô quân Phổ
bị uiứi hạn ở mức 42 000 người. Với đất đai lấy được của Phổ, Napôlêông
thành lập hai nước mới: Vương quốc Vetxphali do vua Xắcxônhi - một đồng
minh lệ thuộc Pháp - đứng đầu và Đại công quốc Vácxava do Giêrôm - em trai
của Napôlêỏng - làm vua; tiếu quốc Dắcden đổi thành Vương quốc Dắcden. Ba
nước này gia nhập Liên minh sông Ranh. Việc thành lập Vương quốc Véxphali
và Đại công quốc Vácxava là nhằm chống Phổ và chống Nga.
Không thể đổ bộ lèn đát Anh, cùng khòng thế chiến thắng dược hạm đội
Anh trên bien, sau khi chinh phục dược gần như toàn bộ lục địa châu Âu,
Napốlêỏng ỉ quyết định sử dụng biện pháp mới là "phong toa lục địa", bao
vây cô lập Anh vé kinh tế. Tháng 1 1/1806, sau khi chiếm được Bcclin và sail
Hoà ước Tindít, Napôlôỏng I dã kí những sắc lệnh tuyên bố bao vây quần đáo
nước Anh. Viêc buôn hán và mọi quan hệ khác của Anh hi câm một cách
• • I • • •

Híihicm ngặt. Toàn bộ hàng hoá của Anlì bị phất hiện trên lãnh thổ Pháp và
các đồng minh của Pháp đéu bị tịch thu. Bằng những biện pháp trên,
Napỏlêỏng I nghĩ làng có thế "bóp chết" nước Anh về kinh tế. Chính sách
"phong toà lục lỉịa " ban đầu có thể uây cho Anh những khó khăn nhất định

37
nhưng không buộc được Anh phai đáu hàng. Anh đà trá đũa bàng sự phong
toá đường hiên đối với Pháp và các dóng minh của Pháp. Tàu thuyền của Anh
bát giữ các tàu buôn của Pháp, phong toâ các hải cảng cua Pháp và bất chấp
mọi trờ ngại, đà dùng con đường buôn lậu đưa hàng hoá cua Anh vào châu
Âu, vào ngay cá đất Pháp. Hậu quâ ỉà đã gây cho bán thân nước Pháp những
khỏ khăn vẻ kinh tế (đặc biệt là thiếu nguyên liệu mà chí có Anh và các thuộc
địa của Anh mới có như bons, thuốc nhuộm...). Chính sách phong toả đà gây
bất bình trên toàn bộ lục địa châu Âu, côns nshiệp Pháp khòng đáp ứng nhu
cầu hàng hoá bằng công nghiệp Anh.
Năm 1807, những cuộc xâm chiếm lãnh thổ của Napôlêông I nhằm mục
đích hoàn toàn cắt nước Anh ra khỏi lue địa châu Âu và sử dung toàn bộ lưc
• • • W • •

lượng của châu Âu để chống Anh. Để thực hiện mục đích này, Napôlêông I
quyết định xâm chiếm bán đảo Pirênê. Bổ Đào Nha bị lệ thuộc vào Anh vể kinh
tế đã khước từ việc tham gia phong toà lục địa. Để trả đũa, Chính phủ
Napôlêông kí với Tây Ban Nha một hiệp ước phân chia Bổ Đào Nha giữa Pháp
và Tây Ban Nha. Ngay sau đó, quân Pháp vượt biên giới Bổ Đào Nha chiếm
Lixbon. Hoàng thân nhiếp chính Bổ Đào Nha phải chạy sang Braxin (lúc đó là
thuộc địa của Bổ Đào Nha). Thế nhưng quân Pháp bị nhân dan Bổ Đào Nha
được sự chi viện của quân đoàn viễn chinh Anh và của hạm đội Anh đánh trả
quyết liệt, phải rút khỏi Bồ Đào Nha. Quân Pháp ở Tây Ban Nha, lúc đầu hoạt
động với tơ cách là quân đổng minh sail biến thành đội quân xâm lược. Hoàng
gia Tây Ban Nha bị đánh lừa và bị dẫn độ vể Pháp. Thế nhưng quân dân Tây
Ban Nha không chịu khuất phục dà nổi dậy tiến hành cuộc chiến tranh giải
phóng. Những đạo quân tinh nhuệ của Pháp bị giam chân tại đây trong một thời
gian dài làm cho sức mạnh quân sự của Pháp bị suy yếu.
Liên minh Nga - Pháp kí Ở Tinđít tò ra không bền vìmg. Việc phái cắt đứt
với Anh về thương mai làm cho kinh tế Nga hi đình trê, khôn lĩ đơơc ui ới quân
sự Nga ủng hộ. Họ muốn trả thù cho nhfrnu thất bại mà Nga phải gánh chịu
trong cuộc chiến năm 1X05 - 1807. Chính phủ Nsa nhận biết âm mưu của
Napôlêông I là ngăn cản sự bành trướng cũa Nua ờ Cận Đông, phá hoại ánh
hưởng của Níĩa ở Thổ. A lếch xăng I cù II2 cãm tức về việc Chính phú Pháp
không chịu rút quân hố trí gần biên aiới Nga, xúi giục người Ba Lan chống
Nga. Thế nhưng lúc đó Nga còn phái liến hành gần như cùng một 1ÍIC ha cuộc
chiến tranh (với Iran năm 1805, với Thổ năm 1X06 và với T luiỵ Điển năm
1808), do dó Nua khỏim thể và không muốn cat đứt quan hệ với Pháp. Chính
phu Napoleons cĩíns không muốn đoạn tuyệt với Nga vì vẫn chù Inrưng lối
kéo Nga chống Anh. Năm 180X (cuối tháng 9) cả hai vị hoàng đế đà gặp nhau
ở Écphuốc. Cuộc hội kiến Écphuốc diễn ra troim bầu khống khí thân thiện,
nhưng đó chi là một tấm màn che đậy. Mâu thuẫn giữa Nga và Pháp ngày
càns trở nên khó khắc phục.

5. Liên minh chóng Pháp lán thứ năm (1808 - 1812)


Thất bại của quân Phấp ở Tây Ban Nha dã gây một ân tượng lớn đối với nhân
dân các nước bị Napôlêông I chinh phục, nhất là ờ Đức và Áo. Nền quân chủ
Hápxbuôc dần dần lấy lai đươc sức Ịưc sau thám hoa 1805 và bí mât chuẩn bị
J • • • • • •

chống Pháp như thi hành chê độ nghĩa vụ quân sự trong toàn quốc, xoá bỏ chế độ
trừng phạt roi vọt trong quân đội, bí mật hiệp thương với Anh để thành lạp một
liên minh mới. Ngoài Anh và Áo, tham gia Liên ỉììitìh (7/ớ//ẹ PhÚỊ) lần thử /lủm
còn có Tây Ban Nha. Nga điều quân đến Galixi (theo thoà thuận của cuộc hội
kiến Écphuốc) nhung không hành động chống quân Áo. Ngày 5 và 6/7/1809, tại
Vagram, quân Áo bị thất bại nặng nề và buộc phải kí Hoà irớc Sơnbrun vào tháng
10 năm đó. Áo mất một vùng lãnh thổ với 3,5 triệu dân, phải giảm quân sỏ xuống
15 vạn, bồi thường cho Pháp 85 triệu phrăng và phải tham gia phong toả lục địa.
Nén quân chú Hapxbuốc bị lệ thuộc vào nước Pháp tư san. Những cuộc xâm
chiếm lành thổ của nước Pháp vẫn tiếp tục. Trong năm 1809, Napòlêỏng sáp
nhập Rôma và những vùng đất khác cùa Giáo hoàng Pie V III vào Đố chế của
mình; năm IS 10 còn sáp nhập thêm Hà Lan vì nước này phá hoại việc phong toả
lục địa, có lợi cho thương nhân Hà Lan. Cuối năm 1810 và đầu năm 1811, toàn
bộ bờ biển Bắc Hải (các thành phố tự do như Hãmbuôc, Bremen, Liubếc và công
quốc Ondenbuốc) cũng bị sáp nhập vào đế quốc Napôlêông.
Đến năm 1812, Napôlêông đà lập ra một dế quốc gồm 75 triệu dân, chiếm
gần một nửa cư dân lực địa châu Âu, gấp ba lần dân số nước Pháp. Biên giới
Pháp mơ rộng vé phía bắc, phía đỏng và phía nam bao gồm Bi, Hà Lan, tả ngạn
sông Ranh, toàn bộ bờ biển Bắc Hải, Xoavoa và Nixơ, một phần lớn Bác và
Trung Ý. Tất cả những vùng đất này với thành phần cư dân khác nhau bị coi
như những bộ phận cấu thành Đế chế Pháp. Thế nhưng sự hùng mạnh của nó
chí là tạm thời tỉo tấc dộng của những mâu thuẫn bcn trong và bcn ngoài ngày
cànc n&hicm tron£.
c c • c

Sail that bại của Liên minh thứ năm, quan hệ Nga - Pháp trở nên căng
tháim. Những điéu kiện mà hai bên đã kí năm 1807 ở Tindít không đáp ứng
được nhữns lợi ích kinh tế và chính trị của N<:a. Việc cắt dứt liên hệ vói Anh do
bị cp buộc phái phong toá lục địa đã ánh hường nghiêm Irọng đến ngoại thương

39
của Nga (từ 100 triệu rúp năm 1807 tụt xuóng còn 83 triệu cùng năm đó). Việc
xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp bị giảm dã ảnh hưởng đến cán càn thanh toán
và làm giảm giá đồng rúp. Giá hàng hoá tăng trở thành gánh nặng đỏi với người
tiêu dùng. Đến năm 1810, Chính phủ Nga dần dần không tuân thù những điêu
kiện của chính sách phong toả lục địa gây thiệt hại cho địa chủ, quý tộc và
thương nhân Nga. Chính phủ Nga bắt đầu cho tàu buôn các nước chở hàng hoá
có nguồn gốc từ Anh vào hải cảng Nga. Tháng 12/1810, Aỉêchxãng I thông qua
biểu thuế quan mới hết sức bất lợi đối với hàng nhập từ Pháp (chủ yếu là rượu
vang, mĩ phẩm). Những đòn trả đũa của Nga đã làm cho Napôlêông I điên giận
và ra lệnh "đốt tất cả những gì từ Nga tới".
Xung đột giữa Nga và Pháp ở Trung và Cận Đông - nơi mà đại tư sản Pháp
có nhiêu lợi ích kinh tế - cũng không thê chấm dứt. Giới ngoại giao của
Napôlêông xúi giục Côngxtăngtinỏpôn và Téhéran chống lại Nga, ngăn cản
việc tăng cường sự bảo hộ của Nga ở Mônđavia và Valaxia. Tháng 3/1808, hiệp
thương hí mật giữa Nga và Pháp vể việc phân chia đê quốc Thổ bị bế tắc. Chính
phủ Pháp chống lại việc xác lập ảnh hưởng của Nga ở vùng Vịnh, ngăn không
cho hạm đội Nga tự do đi ra Địa Trung Hái.
Chính giới Nga hết sức lo lắng về chính sách của Pháp trong vấn để Ba
Lan. Năm 1809, Napôlêông I sáp nhập miền Tây G alixi vào cồng quốc
Vácxava với ý đồ biến công quốc này thành bàn đạp tấn công Nga. Đế lôi kéo
quý tộc Ba Lan, Napôlêông hứa sẽ khôi phục độc lập cho quốc gia Ba Lan, sáp
nhập vào Ba Lan các vùng Lítva, Bêlôrútxia và hữu ngạn Ưcraina.
Sự thống trị của Chính phủ Napôlêông đã gây ra sự bất bình sâu sắc dối với
Chính phủ Nga đang muốn mớ rộng ảnh hưởng ờ đây. Các thành phô thuộc
Đồng minh Hanxơ là Hămbuốc, Brêmen, Liubiếc cũng bị mất độc lạp. Pháp trở
thành một cường quốc Bantích.
Tất cả những cuộc xâm chiếm này đã đc doạ Nga một cách trực tiếp. Rõ
ràng là Napôlêông không muốn có sự hiện diện ở Đông Âu một lực lượng quân
sự mạnh như Nga. Chiến tranh Pháp - Nga là điều không thể tránh khỏi.

III. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG NHŨNG N Ă M c u ố i CÙNG CỦA


ĐÊ CHÊ NAPÔLÊÔNG
1. Cuộc tán công của Napỏléỏng vào nước Nga năm 1812
Để chuẩn bị tấn cống Nga, Napôlêông I bát đầu tìm kiếm đổng minh, hứa
hẹn sẽ trả công bằng đất đai chiếm được của Nga. Nçày 24/2/1 K I 2, Pháp dã kí

40
liên minh quân sự với Phổ. Phố cử một dạo quân 2 vạn người đặt dưới quyền
điểu khiên cúa Napỏlêòng. Ngày 14/3/1812, Pháp cũng kí một hiệp ước tương
tự với Áo, theo dó Áo đóng góp 3 vạn quân. Cá hai hiệp ƯỚC trên được kí dưới
áp lực thô bạo của các nhà ngoại giao Pháp.
Chính phủ Napồlêồng còn xúi giục Thuỵ Điển gây chiến tranh với Nga,
hứa trá lại phần Ba Lan mà Nsa đã chiếm năm 1809. Nhưng Chính phủ Thuỵ
Điển lại đứng về phía Anh và Nga, vì hai nước này hứa là nếu thắng Pháp thì sẽ
chuyển giao cho Thuỵ Điển nước Na Uy khi đó lệ thuộc vào Đan Mạch - một
đồng minh của Pháp. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến thái độ cùa Thuỵ Điển
chống Pháp là việc quân đội Pháp chiếm Pômerani của Thuỵ Điển và những tổn
thất gây ra cho Thuỵ Điển bởi chính sách ' phong toả lục địa". Ngày 5/4/18 ỉ 2,
Nga và Thuỵ Điển đã kí hiệp ước liên minh quân sự nhầm đảm bảo an ninh cho
biên giới Tây Bắc cùa Nga.
Một thắng lợi to lớn của ngoại giao Nsa là kí được Hoà ước Bucarét với
Thổ vào tháng 5/1 S I 2. Hoà ước Bucarét châm dứt cuộc chiến tranh kco dài
trong nhiéu năm diễn ra giữa Nga và Thổ, cho phcp Nga sử dụng những đạo
quân hoạt động trên chiến trường Thổ dế chống lại quàn xâm lược của
Napồlêỏng.
Mặc dù vạy, khi chiến tranh bắt đầu, Nga một mình phải dương đầu với lực
lưựng vũ trang của Pháp, của các nước đồng minh và chư hầu Pháp. Ọuan hệ
liên minh giữa Nga và Anh bị cắt đứt bởi Hoà ước Tindít, chí đến 18/7/1812
mới được nối lại, tức là sau khi quân Pháp đột nhập biên giới Nga. Hưn nữa,
giới cầm quyền Anh chỉ chi viện cho Nga một sỏ ĩiền nhỏ và một sỏ lượng vù
khí không nhiều.
Rạng sáng 24/6/1812, không tuycn chiến, đại quân của Napôlêông vượt
sông Nenian, đột nhập biên giới Nga. Đạo quân này vừa đông về sô lượng
(khoảng 575 000 kê cả quân dự bị), vừa tinh nhuệ mà nòng cốt của nó là quân
chú lực Pháp gồm những đơn vị đã tìmg chiến thắng trên các mật trận châu Âu
với những tướng lĩnh tài ba như Nây, Muyra... Trước nguy CƯ bị xâm lược, nhà
vua Nga cử Cutudốp tổ chức cuộc chiến tranh bào vệ Tổ quốc.
Cutudốp (1745 - 1813): Nguyên soái, đã từng tham gia và chỉ huy
nhiều cuộc chiến tranh của nước Nga. Được phong làm Tư lệnh tối cao
chỉ huy cuộc kháng chiến chống Napôlêông, ông thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dán, đánh thắng kẻ địch có Ưu thế về lực lượng đã từng
chinh phục hấu khắp châu Âu...
Đứng trước ưu thê của quân Pháp, ông chủ trương tạm rút lui đế bảo toàn
lực lượng (quân Nga chỉ có 180 000 biên chế thành 3 cánh cách xa nhau).
Ngày 7/9, một trận giao chiến tổng lực đã diễn ra ở Bôrôđinô, nằm ở khoảng
giữa Xmôlenxcơ và Mátxcơva. Cả hai bên đéu bị tốn thất lớn. Sau trận
Bỏrôđinô, hộ chỉ huy Nga do Cutudốp đứng đầu quyết định rút khỏi
Mátxcơva, để lại đằng sau một kinh thành rực cháy. Ngày 13/9 quân Pháp
tiến vào Mátxcơva. Từ đây, Napôlêòng đã ba lần mưu toan tiến hành hiệp
thương nhưng thất bại. Cuộc chiến tranh nhân dân chỏng xâm lược đà không
cho phép Nga hoàng Alếchxăng I, cho dù ông ta muốn, nối lại quan hệ với
Pháp. Sợ việc lưu lại lâu ở Mátxcơva hoang tàn, không có lương thực sẽ làm
cho quân đội bị tan rà, Napôlêông quyết định rút quân vé phía tây đế rồi mờ
lại một chiến dịch vào năm 1813. Nhưng trên dường rút quân, quân Pháp bị
quân chủ lực và quân du kích Nga chặn đánh liên tục, bị tổn thất lớn. Lo sợ
khi được tin có chính biến ở Pari (do tướng Malê cầm đầu), ngày 6/12
Napôlêông giao cỊuyền chỉ huy quân đội cho ĩướng M uy ra, vội và trơ về Pháp.
Các thống chế Pháp định tập hợp lực lượng còn lại ờ V ilin ỏ đế tố chức chống
đỡ quân Nga đang tràn tới nhưng thất bại. Không đầy 2 vạn lính Pháp vượt
sông Nêman tháo chạy trở về. Thắng lợi của quân đội và nhân dân Nga đã
giáng một đòn chí mạng vào sự bành trướng của Đế chế Napôlêông, làm thay
đổi tương quan lực lượng ở châu Âu, là dấu hiệu mơ đáu cho việc giải phóng
tất cả các nước bị Napôlêônç chinh phục và áp bức. Tháng 12/18 12, quân Nga
tiến đến biên giới phía Tây. Mặc dù Cutudốp phán đối, cho rằng chiến tranh
đã kết thúc vể phía Nga, nhưng chù trương tiếp tục chiến tranh được
Alếchxãng I ủng hộ đà thắng thế. Ngày 13/1/1813, quân Nga tiến sang Đônc
Phổ. Một cao trào giải phóng của nhân dân Đức trỗi dậy cùng với việc quàn
Nga tiến vào đất Đức. Ngay từ tháng 12/1812, tướng Ioóc chi huy quân Phổ
đã phán lại Napôlêông, cùng với bộ chi huy Nga kí một thoả hiệp đình chi các
hành động quân sự chống Nga và không chịu phục tùng sự chỉ huy của thống
chê Pháp Mácđônan. Vì sợ Napốlêông, vua Phổ ra lệnh cách chức Ioóc và trao
ỏng ta cho toà án xét xử nhưng sail đó lại huỷ bo Iĩiệnh lệnh này.

2. Liên minh chống Pháp lán thứ sáu (1831 - 1814)


Ngày 28/2/1813, tại Calise, vua Phổ Phriđrích Vi nhem III kí với Nga một
hiệp ước liên minh chống Pháp. V i nhem III và triều đình Phổ thây rằn 2 nếu
không dựa vào cao trào đấu tranh giài phóng cuà nhân dân và nám quyền lành
đạo thì nển quân chủ Phổ có nguy cư bị lật đổ. Hoàng đế Nga và vua Phổ kêu
gọi các tiểu vương quốc Đức tham gia cuộc đàu tranh chons Pháp và cành cáo

42
nếu quốc vương nào không tham gia sẽ bị lật đổ. Thực ra trong thâm tâm, cá
vua Phổ lẫn hoàng đế Nga đéu hoàn toàn không theo đuổi mục tiêu giải phóng,
đặc biệt không muốn trao quyén tự do cho nhân dân. Họ chí muôn thu lợi trước
hết vé chính trị và đất đai trong việc đánh bại Pháp. Hoàng đế Nga muôn chiếm
Đại công quốc Vácxava, vua Phổ muốn mở rộng đất sang Xácxônhi và các tiểu
vương quốc thuộc Đức.
Mùa xuân năm 1813, Anh và Nga tổ chức Liên minh chông PlìÚỊ) lần thứ
sáu. Ngoài Anh và Nga, thành phần của Liên minh này còn có Phổ, Thuỵ Điển,
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Triều đình Áo chần chừ vì không muốn ảnh
hưởng của Nga và Phổ được tăng cường, lo ngại nếu quân Pháp bị đánh bại thì
sẽ gây ra một cao trào cách mạng và kháng chiến của nhân dân Pháp. Điều đó
không có lợi cho nển quân chủ Áo. Hem nữa, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Áo
là Méttécnich (M etternich) không quên Napôlêòng I là chồng của công chúa
Áo Mari Luycỉơ và "ông vua thành Rôma" - cháu ngoại của hoàng đế Áo sẽ là
người kế thừa đế quốc Napồlêông.
Chiến sự diễn ra ờ Xácxônhia, quân Pháp vừa được Napôlêông tổ chức lại
và hổ sung đà giành thắng lợi trong hai trận giao chiến ở Luyxen (2/5) và
Bauxen (21/5). Ngày 4/6, Napỏlẽông để tranh thủ thời gian đà kí đình chiến với
Nga và Phổ cho đến ngày 28/7, sau đó kéo dài đến 10/8 và bắt đầu hiệp thương.
Các nước Liên minh đòi Chính phủ Phấp từ bỏ những đất đai mà Pháp đà chiếm
được trừ Bi, tả ngạn sông Ranh, Xavoa, Nixơ và các đất ở Ý. Napôỉêông I đã
khước từ những để nghị ấy.
Tháng 8/1813, sau thất bại trong hiệp thương giữa Pháp và các nước Liên
minh, Áo tham gia Liên minh. Lần này quân Liên minh chiếm ưu thế về sô
lượng. Trận giao chiến quyết định của chiến dịch năm 1813 diễn ra ở Laixích
được gọi là "trận giao chiến giữa các dân tộc". Quân Phấp bị đánh bại, tổn thất
lên tới 58 000 người.
Cuối năm 1813 và đầu năm 1814, quân Liên minh từ nhiều phía tiến vào
lãnh thổ nước Pháp. Việc quân Liên minh tiến vào đất Pháp đã ảnh hircmsz đến
tính chất của chiến tranh, bộc lộ rõ mục đích phân động và ích kỉ của chính phú
các nước quân chủ châu Âu. Sự không nhất trí vé triều đại sẽ được xác lạp ở
Pháp và vấn đề kiến tạo châu Âu sau chiến tranh đã không cho phép quân Liên
minh nhanh chóng tiến về Pari. Cuối cùng, theo đẻ nghị của ngoại trường Anh,
bốn nước Anh, Nga, Áo, Phổ đà kí Hiệp ước Sômông ngày 1/3/1814. Các nước
cam kết khòng kí hoà ƯỚC riêng rẽ với Pháp và đấu tranh chống Pháp cho đến
khi giành được thắng lợi hoàn toàn. Mỗi nước dóng góp 15 vạn quân.Ricim
nước Anh, thay vì góp quân đội sẽ dóng góp mỗi năm 5 triệu bảng Anh.
Ngày 30/3/1814, 10 vạn quân Liên minh tiến đến Pari, ciánh tan quân Pháp
chốt chật đường vào Thủ đô. Napỏlêôníĩ I vội và trở về Pari nhưng đã muộn.
Ngày 31/3, quân Liên minh do Alếchxăng I dẫn đầu tiến vào Pari, những đại
biểu của quý tộc phong kiến Pháp hân hoan chào đón quân Liên minh.
Napỏlôông mưu toan tiếp tục chiến tranh nhưng các thống chế của ông ta
không đồng tình. Tâm lí thất bại, muốn nghỉ ngơi nảy sinh và ngày càng tăng
trong giới chỉ huy cao cấp mà từ khá lâu đã biến thành một tầng lớp gần gũi với
quý tộc cung đình. Napôlêông I buộc phải thoái vị và nhường ngôi cho con trai
là "ông vua thành Rồma". Thế nhưng dưới áp lực của phe Liên minh, Thượng
viện Pháp đà thông qua quyết định lật đổ Napôlêông và đưa em trai Lui X V I là
Lui X V III lên ngôi vua nước Pháp. Triều đại Buốcbông được phục hồi.
Napôlêông bị đày ra đảo Enbơ (Địa Trung Hải).

3. Liên minh chống Pháp lán thứ bảy. Chiến tranh kết thúc (1815)
Ngày 30/5/1814, tại Pari đã kí hoà ước giữa các nước chiến thắng và nước
Pháp chiến bại. Pháp mất tất cá đất đai đã chiếm được trong các cuộc chiến
tranh cuối thê ki X V III - đầu thế ki X IX . Hoà ƯỚC cũng quy định là sẽ tiến hành
một hội nghị CỊUỐC tế ở V iên để giải quyết những vân đề về chính trị và lành thổ
có liên quan dêìi các nước châu Âu.
Tháng 9 năm đó, Hội nghị Viên được triệu tập nhưng cuộc tranh luậngay
gắt kéo dài do sự tranh chấp quyền lợi giữa các nước thắng trận. Việc triều đình
Lui X V III ra lệnh đòi lại tất cả ruộng đất đà bị bán dưới thời Giacỏbanh và
• • t W •

buộc nông dân phải truy nộp tỏ thuế trong những năm cách mạng đà làm dấy
lên làn sóng bất mãn trong nông dân.
Napôlêông lợi dụng sự chia rẽ giữa các nước tham gia hội nghị và tâm
trạng thất vọng của quần chúng, đà quyết định rời đảo Enbơdê trở về, đổ bộ lên
đất Pháp. Được sự hưởng ứng của dông đáo nông dân, chỉ cần ba tuần lẻ hành
quân, Napôlêông đã về tới Pari. Trước nguy cơ phục hồi của đế quốc
Napôlêông, các nước tham dự hội nghị Vicn tạm gác những bất đồng, lập tức
tập hợp thành một liên minh mới, Liên minh chống PliÚỊ) lun tlìứ bdv. Ngày
22/6/1815, quân đội Liên minh đã giáng cho Napôlêông đòn cuối cùng ừ
Oatéclô (Waterloo - Bi). Napôlêông thất trận, bị bát đi đày ư đáo Xanh Helen
(Đại Tây Dương) và chết ở đó nãm 1821.

44
Sự sụp đổ của Đế chế Napôỉêồng chấm dứt cả một thời kì chiến tranh liên
miên dã cướp đi 7 triệu sinh mạng. Đ ó là cuộc chiến tranh mang tính chất xâm
lược. Nhưng về khách quan, nó đã ỉàm lung lay nền tàng cùa chế độ quân chủ
phong kicn nhiều nước châu Âu. Nhân dân các nước đà đấu tranh thoát khỏi
ách thống trị của nước Pháp tir sản. Nhưníi không phải tất cả các nước đó đã
được giải phóng thực sự vì lực lượng đánh bại Napỏỉêông là một liên minh mà
đại bộ phận là các quốc gia phong kiến phân động. Tiếp theo sự sụp đổ của đế
chế Napòlêông là sự tấn công điên cuồng cua các thế lực quý tộc và tăng lữ
phân động trong từng nước cũng như trên lục địa châu Âu.
Như vậy, trong khoảng một phần tư thế kỉ (1789 - 1815), tình hình châu Âu
hết sức sôi động hởi thắng lợi của cách mạng tư sản Pháp và ảnh hưởng cua
Pháp đôi với các nước châu Âu. Trục chính cùa môi quan hệ quốc tế xoay
quanh mâu thuẫn giữa các nước quân chú phong kiến châu Âu cùng nước Anh
tư bản chủ nghĩa chống lại nước Pháp cách mạng. Khi Napỏlêông mờ rộng
cuộc chiến tranh xâm lược các nước châu Âu, các liên minh chỏng Pháp hình
thành nhưng đều không ngăn được bước tiến quân của Napôlêông. Phải đến sau
thất bại trên chiến trường nước Nga năm 1812, Đế chẽ của Napỏỉêông I mới đi
vào thoái trào và thất bại hoàn toàn tại chiến trân Oatéclô ớ Bí (6/1815). Lịch sử
• • • '

châu Âu birớc sang môt thời kì mới.

45
Chương III

QUAN HỆ QUỐC TÊ ở CHÂU Âu


m

TỪ HỘI NGHỊ VIÊN ĐẾN CHIẾN TRANH PHÁP - PHổ


• ■

( 1815 - 1871)

Hội nghị Viên (1815) đà thiết lập một trật tự thế giới mới, chi phối quan hệ
quốc tế ờ châu A u trong thời gian 1815 - 1871 xoay quanh ba nội dung chính.
Đó là:
- Cuộc đấu tranh giữa các thế lực phản động mà hiện thân là Đồng minh
Thần thánh với phong trào cách mạng tư sản đang lan tràn.
- Cuộc đấu tranh giữa các cường quốc nhầm giành ưu thế kinh tế, chính trị,
quân sự và tăng cường xâm chiếm thuộc địa.
- Cuộc đấu tranh của phong trào công nhân châu Âu với sự ra đời của học
thuyết Mác và hoạt động của Ọuốc tế thứ nhất.

I. HÔI N G H I V IÊ N V À SƯ T H À N H LÀP T ổ CHÚC Đ ồ N G M IN H


THAN TH AN H
Trước khi tiến vào Pari, những nước chính tham gia Liên minh chống Pháp
lần thứ sáu thoả thuận sẽ triệu tập một hội nghị ngoại giao. Tháng 9/1814, hội
nghị khai mạc tại Viên (Áo). Đày là hội nghị ngoại giao lớn chưa từng có trước
đó, 216 đại biểu của hầu hết các nước châu Âu tham dự, trừ đế quốc Thổ Nhĩ
Kì. Vai trò chính và quyết định trong hội nghị thuộc về những nước mạnh nhất
đã chiến thắng Napôlêông là Nga, Anh và Áo.

1. Mục đích của các nưởc chiến tháng trong Hội nghị Viên
Mục đích đầu tiên cùa những IIước tham gia Hội nghị là đàn áp những
plion« trào dân chủ và dân tộc ờ châu Âu, khỏi phục trật tự phong kiến chuyên
chế cũ ừ các nước đã từng bị Napôỉêông chinh phục.
Mục đích thứ hai là cúng cố thắng lợi, ngàn cản không cho nước Pháp
quay trở lại chế độ Napôlêông. Muốn vậy, cần phải mở rộng và tăng cường
thế lực các nước có biên giới chunsĩ với Pháp, biến các nước này thành hàng
rào chốn« Pháp.
Hội nghị Viên

Mục đích thứ ba nhằm thoả mãn tham VOI1 Ç xâm chiếm đất đai, phân chia
lãnh thổ các nước châu Âu mà không đếm xỉa đến nguyện vọng dân tộc và biên
giới các nước.

2. Mâu thuản và thoà hiệp giữa các nước lớn trong Hội nghị Viên
Trong Hội nghị đã bộc lộ những mâu thuẫn trầm trọng giữa các nước lớn.
Đế tăng cưừng ảnh hường của Nga ở Tây Âu, Nga hoàng Alếchxăng I chủ
trương duy trì hai nước mạnh là Áo và Phổ. Đó sẽ là hai lực lượng đối trọng
cạnh tranh với nhau. Ngoài việc tìm cách tránh khỏi sự đc doạ của Pháp, Nga
hoàng lại không muốn để cho Pháp bị hạ uy thế quá mức và quá yếu làm mất di
khả nâng thu hút lực lượng của các quốc gia Đức về phía tây. Ở Đỏng Âu, Nga
muốn chiếm hầu như toàn bộ Còng quốc Vácxava. Đế thực hiện tham vọng
này, Nga hoàng hứa ban hành ở Ba Lan một hiến pháp hạnchế và cho phcp lập
quan đội để lôi kco một bộ phận quý tộc Ba Lan.
Áo và Phổ chống lại âm mưu của Nga hoàng, không muốn mang lại quyền
tự trị dìi là hạn chế cho những vùng đất Ba Lan mà hai nước muốn chiếm giữ
cho mình. Đế dược sự đổng tình của Phổ trong việc giành cho Nga phần lớn đất
Ba Lan, Nga hoàng hứa ủng hộ tham vọng của Phổ đối vứi toàn bộ Xácxônhi
(là đồng minh và chư hầu của Napôlêông I).

48
Chính phủ Anh muốn giữ độc quyển vé công thương nghiệp và thuộc địa.
Cách tốt nhất đê đạt được mục đích là ủng hộ các thế lực quý tộc phản động châu
Âu, tìm mọi cách kéo dài tình trạng dinh trệ và lạc hậu ở những nước có khả
năng cạnh tranh với Anh. Bộ trưởng Ngoại giao Anh là Kétxơnri ra sức hoạt động
để giữ cho Anh những thuộc địa đã chiếm dược của Pháp, của Tây Ban Nha và
Hà Lan trong thời gian chiến tranh với Napôlêông. Trước hết là phải làm cho
Pháp suy yếu vì Pháp là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm nhất của Anh, hạn chế
Pháp trong phạm vi biên giới năm 1792. Chính phủ Anh kiên quyết đòi khôi
phục triéu đại Buốcbông ớ Phiíp. Anh cũng coi trọng việc thiết lập hàng rào
chống Pháp, tìm cách tăng cường lực ỉượng của Phổ trên bờ sông Ranh.
Chính sách ngoại giao của Anh là tạo ra sự đối trọng giữa các nước trên lục
địa châu Âu. Chừng nào các nước ở đây còn "giữ thế cân bằng" thì Anh còn có
thể đóng vai trò trọng tài và rảnh tay xâm chiếm thuộc địa. Kétxơnri tìm cách
chống lại kế hoạch của Nga hoàng, sợ ảnh hưởng của Nga tăng lên ờ châu Âu
nên chủ trương thu hẹp đến mức tối thiểu vùng đất Ba Lan cắt cho Nga, tăng
phần của Áo và Phổ trong việc phân chia Ba Lan lần mới này.
Đại biểu của Á o tại Hội nghị là Ngoại trưởng Méttécnich. Phong trào cách
mạng và giải phóng dân tộc đã đe doạ nén quân chủ Hápxbua - nhà tù của các
dân tộc. Vì vạy, M éttécnich tích cực bảo vệ những nền tảng của các thế lực
phong kiến, chuyên chế phản động bằng cách làm cho chúng sự hài cách mạng
và tập hợp lại xung quanh chính sách của Áo. Chính phủ Áo chủ trương kiềm
chế thế lực của Phổ và Nga. Chính sách của Mcttccnich đối với Đức là duy trì
sự phân tán của Đức đê đảm bảo ưu thế của Áo ờ đây.
Méttécnich Winneburg (1773 - 1859): nhà hoạt động chính trị nước
Áo, Đại sứ tại Pari, giữ chức Ngoại trưởng (1809) sau kiêm Thủ tướng
(1821). Ông được coi là linh hồn của Hội nghi Vièn (1814 - 1815), thiết
lập sự cân bằng ở châu Âu và tăng cường thế lực của Áo ở Đức và Ý.
Dưới danh nghĩa Đồng minh Thẩn thánh, can thiệp vào các cuộc nổi dậy
của phong trào dân chủ tự do ở bất cứ nước nào, được mệnh danh là
"cảnh sát của châu Âu” . Bị lật đổ bởi cuộc Cách mạng tháng 3/1848.

Cơ sư của chính sách tham tàn và phản động của Phó ở Hội nghị là ủng hộ
chế độ chuyên chế địa chủ Phổ, chiếm Xácxônhi và những vùng đất giàu có ở
sồng Ranh.
Chính phủ Pháp xem Phố là đôi thủ nguy hiểm, sợ thế krc của Phổ sẽ tăng
cường khi sáp nhập được Xácxônhi. Pháp muốn cho Phổ vùng sông Ranh và
Vécxphali theo đạo Thiên Chúa thay vì đất Xácxônhi theo dạo Tin Lành với hi
vọng Phổ không thê đồng hoá những vùng đất này. Vì vậy, Tanlâyrãng ra sức
chông lại việc Phổ chiếm toàn bộ Xácxônhi. Ngoại trưởng Pháp đà lợi dụng
mâu thuẫn giữa các nước trong hội nghị để giành cho Pháp vị trí cường quốc
thứ năm mặc dù Pháp đà bị thất bại vé quân sự.

Tanlâyrăng (Charles Maurice de Talleyrand Périgord, 1754 - 1838):


nhà hoạt động chính trị và ngoại giao Pháp, là Tổng đại diện của giới
tăng lữ Pháp (1780) sau đoạn tuyệt với Giáo hội, tham gia Chính phủ
Lập hiến sau Cách mạng 1789, lưu vong sang Anh và Mĩ (1792 - 1796).
Trở về nước, ông làm Ngoại trưởng dưới thời Đốc chính và Đế chế
Napôlẽông, đã kí kết nhiều hoà ước với các nước châu Âu, sau bị thất
sủng (1809) do không tán thành chính sách đối ngoại của Napồlêông. Đế
chế sụp đổ, ông đứng đầu Chính phủ lâm thời (1814), bỏ phiếu phế truất
Napỏlêông, đưa Lui XVIII lên ngôi; lại được cử giữ chức Ngoại trưởng
trong Chính phủ Trung hưng (1815), đại diện của nước Pháp tại Hội nghị
Viên. Sau Cách mạng năm 1830, ông làm Đại sứ ở Anh.

Kétxơnri và Méttécnich ủng hộ Tanlâyrăng nhám ngăn cản Nga. Sự tăng


cường ảnh hưởng của Nga do đánh thắng Napôlêông làm cho các nước đồng
minh của Nga sợ đến mức ngày 31/1/1815 Anh, Á o và Pháp đã kí một liên
minh bí mật nhằm chống lại kế hoạch của Nga và Phổ trong vấn để Ba Lan và
Xácxônhi. Ba nước liên minh này sẽ giúp đỡ nhau vé quân sự, tăng cường áp
lực đối với Nga và Phổ. Áo, Anh và Pháp cam kết là nếu "một trong ba nước kí
hiệp định bị sự đe doạ của một hay một số nước khác" thì sẽ giúp đờ lẫn nhau,
mỗi nước góp 15 vạn quản và kí hoà ước riêng rẽ với các nước khác.
Phổ buộc phải đồng ý nhận một phần bấc Xácxônhi, phần phía nam còn lại
của Xácxônhi trở thành một vương quốc độc lập. Nga phải từ bỏ tham vọng sáp
nhập toàn bộ Công quốc Vácxava nhưng phái được chia phần lớn nhất Pôdơnan
và Gơđăngxơ (Đandích) vẫn thuộc Phổ. Ngoài ra Phổ còn được Pômerani.
G alixi dành cho Áo.
ở phía tây, Phổ còn được hai vùng rộng lớn trước đây gồm những vương
quốc nhỏ - tinh Ranh và Vécxphali. Đây là những vùng phát triển nhất của Đức
vẻ kinh tế và có vị trí chiến lược quan trọng. Việc sáp nhập những vùng này cho
phép Phổ sau này chinh phục được một số hộ phận lãnh thổ Đ ik , trớ thành đối
thủ mạnh nhất và nguy hiểm nhất của Pháp.

50
Tại hội nghị này, Ba Lan bị chia cắt lần thứ tư. Do sự chia cắt mới này, giới
cầm quyền ba nước Nga, Áo, Phổ đều quan tâm đến việc cùng nhau đàn áp
phong trào dân tộc ở Ba Lan. Chỉ có Cracốp còn là điểm tranh chấp không thoả
thuận được. Cuối cùng đã lập ra nước cộng hoà nhỏ bé gồin thành phò Cracốp
và vùng phụ cận. Sự liên minh giữa Nga hoàng với Phổ và Á o trong việc phân
chia Ba Lan và áp bức nhân dân Ba Lan đã thúc đáy việc củng cô thế lực phong
kiến chuyên chế phản động ở châu Âu.
Hội nghị Viên sắp diễn ra vào giai đoạn chót, thì Napồlêông lợi dụng sự
chia rẽ giữa các nước tham gia Hội nghị, quyết định rời đảo Enbơ, dổ hộ lên đất
Pháp, và chi cần ba tuần đã tiến vé Pari. V ội vàng bỏ chạy, L u i X V III bò quên
bản văn kiện bí mật ngày 31/5 ờ trên bàn. Napỏlêông I bắt được, ra lệnh cho
giao thông viên tức tốc sang Viên trao cho Nga hoàng. Alếchxăng tức tối khi
biết sự liên kết hí mật giữa Anh, Áo và Pháp đê chống Nga nhưng phải kiềm
chế. Trước nguy cơ phục hồi của đế quốc Napôlêông, các nước tham dự Hội
nghị tạm gác những bất đồng, lập tức tập hợp thành một liên minh mới, Liên
minh chống Pháp lần thứ bảV, để giáng cho Napôlêông đòn cuối cùng ở
Oatéclồ (6/1815).

3. Nội dung cơ ban của Hiệp định Viên


Ngày 9/6/1815 trước thất bại của Napôlêông ở Oatéclô không lâu, văn bản
cuối cùng của Hội nghị Viên (gồm 121 điểu khoản và 17 điểu phụ) đã được kí
kết với hi vọng tạo lập một trật tự mới tưởng là vừng chắc. Trên thực tế, người
ta đã không tính đến sự xuất hiện của quan hệ sản xuất mới, đến com giông tò
chiến tranh kéo dài 15 năm làm rung chuyên nền tảng của chế độ phong kiến và
chế độ chuyên chế ở châu Âu. Nội dung chính gồm 3 vấn để chính sau đây:
- Nước Pháp phải bồi thường chiến phí 700 triệu phrăng, phải đế cho 15
vạn quân Đổng minh vào chiếm đóng trong 3 năm.
- Thiết lập một ììLỉỉìg rù o chống PỈIÚỊ) ờ dọc biên giới phía đông của nước Pháp.
Gồm những vùng đất mới của Phổ ở phía tây {ù ;h Rênani và
Vétxphali); Hà Lan và Bỉ sáp nhập thành Vương quốc Hà Lan, còn đươc
cả công quốc Lucxămbua; Thuỵ Sĩ được phục hổi như là một quốc gia
độc lập và trung lập; Vương quốc Xácđenha (Ý) được phục hồi và tăng
cường để đóng vai trò bàn đạp chống Pháp từ phía nam.

- Xác định kết quả phân chia chủỉi Ân vủ thuộc (lịa giữa các nước chiến
thắng Napỏlêông.
Nga được phần lớn đất đai Ba Lan, giữ được Phần Lan và Bétxarabi
đã sáp nhập từ trước.

Anh được đảo Manta và những thuộc địa của Hà Lan và của Pháp.
Quan trọng nhất là thuộc địa Cáp ở Nam Phi và đảo Xâylan. Đây là
những vị trí có ý nghĩa chiến lược để mở rộng việc xâm chiếm Ấn Độ.

Phục hồi quyền thống trị của Áo ở đông bắc Ý gồm Lômbácđia và
Vênêxia, duy trì sự phân tán của Ý và khôi phục chế độ phong kiến của
các các tiểu vương quốc Ý.
Thành lập Liên minh Đức gồm các quốc gia Đức và một phần đất Áo.
Liên minh Đức gồm 34 vương quốc và 4 thành phố tự do (Hămbuốc,
Bơrêmen, Liubèc và Phrângphua trẽn sông Mainơ). Chỉ có một phần đất
của Phổ và Áo nằm trong liên minh. Phần đất ngoài Lièn minh của Phổ là
Đông Phổ, Pôdơnan; của Áo là Hung, Galixi và phần lớn những vùng
nam Xlavia của đế quốc.

Ngoài ra còn xác định biên giới mới của các quốc gia Xcăngđinavi:
Na Uy thuộc Đan Mạch buộc phải sáp nhập với Thuỵ Điển như là sự bồi
thường cho Thuỵ Điển vi đã mất Phấn Lan. Nhân dân Na Uy thoát khỏi
ách thống trị của Đan Mạch lại rơi vào ách áp bức của Thuỵ Điển.

Những nghị quyết của Hội nghị Viên đã thúc đẩy sự củng cố tạm thời thế
lực phong kiến phản động và là công cụ dế chia lại bản đồ châu Âu, xác định
tương quan lực lượng mới hình thành do sự tan vỡ của đế quốc Napôlêông. Việc
thành lập Liên minh Đức là ý đồ của Méttécnich nhằm tạo ra rào chắn phòng
ngừa những cuộc tiến quân mới của Pháp có thể xảy ra trong tương lai, đồng
thời đám báo cho Áo đóng vai trò lãnh dạo nước Đức. Như vậy, việc thành lập
Liên minh thực ra không nhằm thống nhất dân tộc Đức, mà ngược lại dã củng
cố sự chia cắt của nó và duy trì những tiểu vương CỊUỐC phong kiến phân tán.

Trong khi khôi phục tính độc lập vẻ mặt nhà nước của các quốc gia bị
Napôlêông chinh phục, Hội nghị đà đặt các nước này nằm dưới quyén của giai
cấp quý tộc phản động và các triéu đại cũ. Trong nhiều trường hợp, các dân tộc
bị lệ thuộc vào ách thống trị của nước ngoài vì lợi ích của các nước chiến thắng.

4. Thành lập Đổng minh Thần thánh và Đỏng minh Tứ cường


Đế củng cô và thực hiện những nghị quyết của Hội nghị Viên, báo vệ chế
độ chuyên chế, giáo hội và các nền tảng khác của thế lực phong kiến phản động
ờ châu Âu, Alếchxãng I đà đé nghị với người đứng đấu các nước thành lập cái
gọi là Dớ//ẹ fììiuh Thần thánh mà văn bản do chính ông ta soạn thảo. Nga
hoàng muôn mang tinh thần Thiên Chúa giáo vào tổ chức này nhằm loại trừ sự
tham gia của Thổ, để sau này Nga có thể tiến hành chiến tranh chỏng Thổ. Năm
1815, văn bản này được hầu hết các nước quân chủ châu Âu kí. Chính phú Anh
do sợ sự thiếu nhất trí trong nghị viện đã không kí chính thức nhưng tỏ ý tán
đồng. Đóng vai trò chính trong Đổng minh là Nga và Áo, nhiệm vụ chính của
Đồng minh ỉà chống lại các phong trào cách mạng và phong trào dân tộc.
Theo đề nghị của Anh, ngày 20/11/1815 bốn nước Anh, Nga, Áo, Phổ lộp
Đồnq minh TứcưỜMỊ với cam kết không bao giờ để cho triều đại Napôỉêông trở
lại cầm quyển ở Pháp. Các nước tham gia phải ủng hộ điều kiện ấy bàng vũ lực
và chống lại phong trào cách mạng. Bốn nước tuyên bô là liên minh của họ vẫn
duy trì lực lượng ngay cả khi quân đội của họ rút khỏi Pháp và sẽ triệu tập các
hội nghị thường kì để xem xét những biện pháp chung nhằm báo vệ hệ thống
"cân bans chính trị" ở châu Âu và những trật tư nhà nước do ho thiết lâp ra.
• • • • 1

Hiệp ước Đồng m inh Thần thánh và hiệp ước Đổng minh Tứ cường là cơ sở của
những hoạt động của các hội nghị ngoại giao từ năm 1818 đến năm 1822.
Như vậy, Hiệp định Viên 1815 đã thiết lập một trật tự thê giới mới - Trật tự
Viên, với hai tổ chức Đồng minh Thần thánh và Đổng minh Tứ cường nhằm
ngăn chặn sự phục hồi của nước Pháp và trấn áp phong trào tư sản đang dâng
cao ở các nước. Sự thoa thuận của các nước lớn trong việc chia xẻ đất đai ở
châu Âu đã xâm phạm lợi ích của nhiều dân tộc. Do vậy, phong trào đâu tranh
chống lại các nền quân chủ, đi theo trào lưu tư sản vẫn tiếp tục phát triển trong
những thập kí tiếp sau.

II. S ự C A N THIỆP CÚA ĐỒNG M IN H T H A N TH Á N H Đ ố i VỚ I


PHONG T R À O C ÁC H M Ạ N G C H Â U Â u
Năm 1818, bôn nước Nga, Áo, Phổ và Pháp đà họp với danh nghĩa Đổng
minh Thần thánh. Lúc đó, Pháp đã trả dược một sỏ tiền bồi thường lớn nên các
nước Đồng m inh quyết định rút quân trước thời hạn và cho phép Pháp tham dự
hội nghị với tư cách là một bcn tham gia có đầy đủ quyển hành. Pháp có nghĩa
vụ ủng hộ và tuân thủ các hiệp ước năm 1815.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng dân chú ở Ý và ở Tây Ban
Nha, Đồng m inh Thán thánh đã giao việc can thiệp vào nước Ý cho Áo và việc
đàn áp cách mạng Tây Ban Nha cho Pháp. Nhưng sự can thiệp và dàn áp cách

53
mạng Y và cách mạng Tây Ban Nha đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước Đổng
minh Thần thánh trở nên gay gắt.
Pháp không muốn thế lực của Áo được tăng cường ở Ý do quân Áo
chiếm Piêmông và Napôli. Anh tuy không tham gia Đồng minh Thần
thánh nhưng trên thực tế ủng hộ tổ chức này nhằm đàn áp các phong trào
cách mạng, cũng không hài lòng về việc Pháp tăng cường ảnh hưởng ở
bán đảo Pirênê vì đây là thị trường tiêu thụ hàng hoá quan trọng của Anh.
Anh cũng phản đối kế hoạch của Đổng minh Thần thánh mở rộng sư can
thiệp ở Mĩ latinh. Thủ tướng Canninh của Anh nói: "Nếu chúng ta hành
động một cách khôn khéo thì châu Mĩ của Tây Ban Nha được giải phóng
sẽ trở thành châu Mĩ của Anh".

M ĩ cũng lợi dụng sự sụp đổ của đế quốc thực dân Tây Ban Nha và sự căng
thảng trong quan hệ giữa các nước châu Âu đê tăng cường địa vị của mình, làm
suy yếu ảnh hưởng của các nước châu Âu ở Tân lục địa. Đó là lí do thúc đẩy sự
ra đời "Học thuyết Mơnrô" của MT năm 1823.
Cuộc cácli mạng PliÚỊ) thủììg 7/1830 dã lật đổ triều đại Buốcbông, là một
đòn giáng mới vào nguyên tắc "chính thống" của Đồng minh Thần thánh. Nền
Quân chú tháng Bảy được thiết lập dưới sự trị vì của Lui Philip (Louis Philippe
thuộc dòng họ Oóclêăng).
Để củng cố địa vị quốc tế của mình, Lui Philip tim cách nhân nhượng
Anh. Chính phủ Anh công nhặn triều đại Lui Philip nhằm chống Nga và
buộc Pháp phải nhượng bộ. Sự gần gũi Anh - Pháp đã làm cho ý đổ của
Nga can thiệp vào cách mạng Pháp bị chôn vùi. Khi cách mạng 1830 nổ
ra ở Pháp, Nicôlai I tích cực thúc đẩy sự can thiệp của các nước châu Âu,
nhưng việc hiệp thương với Áo và Phổ đã không thành. Các triều đại ở Áo
và Phổ không dám chấp nhận đề nghị của Nga vì sợ sự can thiệp vào
cách mạng Pháp có thể gây ra những chấn động xã hội nghiêm trọng ở
trong nước, đồng thời cũng không muốn Nga tăng cường thế lực và ảnh
hưởng trong cồng việc châu Âu. Bị cô lập, Nicôlai I buộc phải thừa nhận
"vị vua của chướng ngại vật" này (tức là Lui Philip).

Cũng trong năm 1830, nhân dán B ỉ nổi dậy chống ách thống trị của
Hà Lan, giành độc lập.
Pháp mưu toan giúp đỡ Bỉ bằng quân sự vì muốn đưa con trai của Lui
Philip lên ngồi vua Bỉ. Anh phản ứng, Nga định thoả hiệp với Anh và can
thiệp nhưng cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan đã làm phá sản kế hoạch của Nga.

54
Năm 1831, Anh, Pháp, Nga, Phổ và Hà Lan thỏa thuận tôn trọng nén độc
lập và trung lập của Bi.
Cuộc khởi nẹhĩư Ba Lun (11/1830) có ý nghĩa tiến bộ đối với phong trào
đấu tranh chống chế độ Nga hoàng cũng như chông thế lực phong kiến phản
động Áo và Phổ. Những người lãnh đạo khơi nghĩa và giai cấp tư sản Ba Lan
không quan tâm đến yêu sách của nhân dân chống chế độ nông nô và đòi ruộng
đất nên không được sự úng hộ của quần chúng. Họ đặt hi vọng vào sự giúp đờ
của Anh và Pháp. Pháp muốn can thiệp nhưng sợ tình hình sẽ phức tạp lại
không có đủ lực lượng. Chính phủ Anh cũng làm ngơ. Cuộc khởi nghĩa thất bại.
Vào cuối những năm 40, làn sónq cách mạ nạ tìăỉìì /848 sôi động hom đà
lan tràn cả Tây Âu. Khởi đầu là cuộc Cách mạng tháng Hai ở Pháp, Lui Philip
bị lật đổ, Pháp trở thành một nước cộng hoà (nền Cộng hoà thứ hai, 1848 -
1851 )- Cách mạng nhanh chóng lan sang các quốc gia Đức, Áo, Y, Valaxia và
Mônđavia. Đầu năm 1849, cách mạng nổ ra ở Hunggari (nằm trong thành phần
đê quốc Áo). Những biến cô cách mạng ờ các vương quốc Valaixia và Mònđavi
được Nga hoàng xem như mối đe doạ trực tiếp đôi với Nga. Do đó Nicòlai dà
chi viện cho Áo đàn áp cách mạng Hung. Đáu tháng 5 năm 1849, 15 vạn quân
Nga được điéu sang Hung. Do ưu thế áp đảo của quân Áo và quân Nga, cách
mạng Hung bị đàn áp.

III. CUỘC C ÁCH M Ạ N G CÔNG NGHIỆP ở C H Â U Â u V À NHŨNG


IIỆ Ọ U Á C U A NÓ
Cùng với những diễn biến sôi động vé chính trị và quân sự cuối thế ki
X V III - đẩu thế kỉ X IX , ở châu Âu đà diễn ra một quá trình công nghiệp hoá,
khởi đầu từ nước Anh rồi lan sang các nước khác trên lục địa. Cuộc cách mạng
công nghiệp chảng những tạo nên sự thay đổi lớn lao trong nền sản xuất mà còn
tác dộng mạnh mẽ đến sự biến chuyển về tương quan lực lượng trong quan hệ
quốc tế.

1. Những thành tựu của cách mạng công nghiệp


Việc sử đụng máy hơi nước của Giêm Oát trong các ngành sản xuất công
nghiệp đà tạo nên một chuyên bien lớn có tính cách mạng, làm cho năng suất
lao động tảng lcn mạnh mẽ và tổ chức sản xuất thay đổi rõ rệt.
Gièm Oát (.James Watt, 1736 - 1819V thợ cơ khí. kĩ SƯ người Xcốtlen.
Năm 1769, ông được cấp bằng sáng chế chiếc máy hơi nước đấu tiên.

55
Những phát minh tiếp theo làm cho
máy hơi nước ngày càng hoàn thiện,
trở thành nguồn động lực chính vận
hành trong các nhà máy. Để ghi nhận
công lao của Gièm Oát, người ta đã
dựng bức tượng kỉ niệm ở Oetxmintơ
khi ông qua đời, thọ 83 tuổi, với dòng
chữ: "Người đã nhân lên gấp bội sức
mạnh của Con Người".

Việc hoàn thiện và sử dụng rộng rãi máy


hơi nước được coi là bước mở đầu của quá
trình cơ giới hoá, mang ý nghĩa một cuộc cách
mạng công nghiệp.
Máy hơi nước đã tạo ra một nguổn động lực mới, làm giám nhẹ sức lao
động cơ bắp, tạo điều kiện cho sự chuyển cách thức lao động bằng tay sang sử
dụng máy. Nhờ vậy, sản lượng tăng lên gấp nhiều lần mà trước dó khòng thê
hình dung nổi.
Đó là thành tựu cơ bản của công nghiệp hoá, đánh dấu bước nhảy vọt cách
mạng trong lịch sử sán xuất của loài người, bước chuyển từ nền văn minh nông
nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Dần dần đã xây dựng nên một cơ cấu
công nghiệp ngày càng hoàn chỉnh, một hệ thống nhà máy có quy mỏ sản xuất
lớn, thiết lập mạng lưới giao thông đường sắt, đường thuỷ và đường hiển chạy
bàng đầu máy hơi nước,
Nước Anh đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp đã chiếm giữ vị trí
hàng đầu thế giới về công ĩhưưiig nghiệp và hàng hải. Năm 1850, nước Anh đà
sản xuất 1/2 sản lượng than đá, 1/2 sản lượng gang của toàn thế giới. Năm 1825
đoạn đường sắt đầu tiên được khánh thành, đến năm 1850, chiều dài dường sắt
của nước Anh lên đến 10 OOOkm. Nhiều công ti hàng hải ra dời với những đội
tàu biển có trọng tải lớn.
Nước Pháp đẩy mạnh quá trình còng nghiệp hoá từ những năm 30, phát
triển mạnh vào những năm 40 - 60 thế kỉ X IX . Máy hơi nước được sử dụng
rộng rãi, từ 65 chiếc (1820) lên 27 081 chiếc (1870). Trong thời gian 1832 -
1869, sản lượng than đá tăng từ 2,5 triệu lên 13,5 triệu tấn, gang từ 222 000 lên
1,4 triệu tấn, sắt từ 148 000 lên hơn 1 triệu tấn. Cùng khoảng thời gian trên,
chiều dài đường sất tăng từ 38km lcn 16 465km. Ngoại thương Pháp có bước

56
phát triển nhanh. Đặc biệt, ngành ngân hàng trong thời gian 1851 - 1869 đà
tăng gấp 5 lần, nước Pháp trờ thành chủ nợ lớn nhất của thế giới, đến năm
1868: 14 nước vay ngân hàng Pháp số tiền 33 tỉ phrăng.
So với Anh và Pháp, nước Đức tiến hành công nghiệp hoá muộn hơn, bắt
đầu từ những năm 40, sôi động vào những năm 50 - 60 của thế kỉ X IX , khi
còng cuộc thống nhất đất nước chưa hoàn thành. Tuy vậy, nển công nghiệp tăng
trưởng rất mạnh mẽ. Trong khoảng thời gian 1860 - 1870 sản lưựng than đá
khai thác từ 12 triệu lên 26 triệu tấn, chiều dài đường sắt từ 3869km lên 11
523km. Nhiều trung tâm công nghiệp hình thành ở vùng tây nam đất nước.
Theo đà đó, nhiều nước châu Âu (và cả nước MT) đã du nhập kĩ thuật, từng
bước công nghiệp hoá, tạo nên sự thay đổi cơ bản trong sản xuất và nền kinh tế -
xã hội.

2. Những hệ quả của cách mạng công nghiệp đối với quan hệ quốc tế
Những phát minh khoa học và sự áp dụng kĩ thuật mới đà thúc đẩy nền sản
xuất phát triển nhanh chóng, tạo ra một nguồn của cải vô cùng phong phú, da
dạng, chất lượng cao. Các hoạt động công thương nghiệp trở nên hết sức sôi
động, thị trường thế giới được mờ rộng và hầu như đã khơi dậy một tiềm năng
to 1ớn mà bấy lâu chưa được biết đến.
Đánh giá chung về hệ quả của cách mạng công nghiệp, trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản (1848), Mác và Ănghen viết:
"Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp, chưa đầy một thế kĩ
đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
• w • • V / • • • w

xuất của tất cả các thế hệ trước gộp lại. Sự chinh phục những lực lượng
thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hoá học vào công
nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt,
máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc điều hoà dòng
sông, hàng đám dân CƯ tựa hô như từ dưới đất trôi lên - có thê kỉ nào
trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm
tiềm tàng trong lòng lao động xã hội?"<l)

Những biến chuyển trên kco theo nhiều sự thay đổi trong tổ chức và quản lí
sản xuất, rồi đến lượt nó, sự thay đối này lại thúc đẩy độ tăng trưởng của nền
sản xuất. Xã hội công nghiệp dần dần hình thành với những chuẩn mực mới về

( I ) MỚI - Ăn\>lnMn - Tuyển tập, Tập I . N XB Sự thật, H, I9X0, Ir. 547.


4

57
tiêu chuẩn hoá, đồng bộ hoá, chuyên môn hoá và tập trung hoá. Khác với nền
kinh tế tự nhiên, người sản xuất đổng thời là người tiêu dùng ngay chính sản
phẩm do mình làm ra, đến thời đại công nghiệp với trình độ chuyên mòn hoá
cao, mỗi người chí làm ra một sản phẩm hoặc một phần sản phẩm. Người sản
xuất cung cấp vật phẩm của mình ra thị trường đồng thời là người tiêu thụ sản
phẩm của người khác. Yếu tô thị trường được kích thích trong phạm vị từng địa
phương đến thị trường quốc gia và quốc tế. Điều đó tãng cường sự ràng buộc
giữa các thị trường với nhau, giữa các quốc gia vói nhau. Vấn đề thị trường
trong nước và thị trường thế giới trờ thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà
nước với sự ủng hộ của giai cấp tư sán. Vấn đề xâm chiếm lành thổ qua các
cuộc chiến tranh bao hàm một nội dung rộng hơn trước là chiếm những vùng
giàu tài nguyên phục vụ cho nền còng nghiệp trong nước, chiếm những thị
trường có sức mua hầu như chưa khai thác và chiếm nguồn lao động rẻ mạt của
người dân bàn địa phục vụ những công trình đầu tư tại chỏ. Do vậy, đi sau cuộc
cách mạng công nghiệp ở những nước tư bản hàng đầu là quá trình xâm chiếm
thuộc địa và giành giật đất đai, dẫn đến những cuộc chiến tranh có quy mô rộng
lớn và mức độ khốc liệt hơn nhiều so với trước đây. Vấn đề thị trưừng và thuộc
địa chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tê của thời cận và
hiện đại.
Những tiến bộ kĩ thuật dirực vận dụng vào ngành còng nghiệp chiến tranh
đã sản xuất ra nhiều loại vũ khí tôi tân, những phương tiện vận chuyên hiện đại,
những mạng lưới thông tin liên lạc nhanh... đà làm cho những cuộc chiến tranh
trở nên khốc liệt hem với khá năng sát thương và sức tàn phá nặng nề gấp nhiều
lần so với trước dây.
Hơn thế nữa, quá trình hội Iìhập thị trường thế giới và công nghiệp hoá đã
làm cho tốc độ phát triển của các quốc gia không đều nhau, đã diễn ra những
cuộc chạy đua và bứt phá ngoạn mục. Vào đầu thời phát kiến địa lí, Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha là các quốc gia làm chủ đại dương, phát tài nhờ các COI1
đường buôn bán với phương Đỏng và khai phá Tân lục địa thì khi đi vào quá
trình còng nghiệp hoá, các nước này đã chậm chân, phải lùi xuống hàng thứ
yếu. Trên lục địa châu Âu, các nền quân chủ Áo, Phổ, Nga đà một thời lừng lẫy
chi phối tình hình, cố tập hợp lực lượng trong Hội nghị Viên (1815) với sự ra
đời của Đồng minh Thần thánh. Nhưng rồi tổ chức Đổng minh Thần thánh đà
phái chấp nhận thất bại trong các cuộc đàn áp phong trào cách mạng ở Ba Lan,
ờ Bí... và phải lùi hước trước sự lớn mạnh của các quốc gia còng nghiệp Anh và
Pháp. Nền công nghiệp đã tỏ rõ ƯU thế vượt trội, xàm nhập cá vào các quốc íiia
chưa tiến hành cách mạng tư sản, tạo nên một xu thế không thể cản phá được.
Đó chính là sự thắng thế của chú nghĩa tư bản đối với chế độ phong kiến đã trở
nên lỏi thời. Chính ưu thế đó đà kháng định thắng lợi của các cuộc cách mạng
tư sán trong cuộc đấu tranh chống phong kiến. Trường hợp nước Đức là một ví
dụ của sự vươn lên khi di vào con đường công nghiệp hoá, tuy vẫn duy trì lợi
ích của quý tộc phong kiến nhưng trên thực tế đã chuyển thành một quốc gia tư
sản. Do vậy, giữa thế ki X IX , vị trí sáng giá trong quan hệ quốc tê châu Âu đã
thuộc về nước Anh, nước Phấp và sau nãm 1871 có thêm nước Đức.
Những hệ quả trên sẽ chi phôi những biến động trong quan hệ quốc tế ờ
châu Âu cuối thế k ỉ X IX - đầu thế ki X X và có ảnh hường đối với tình hình
chung của thế giới.

IV. Q U A N HỆ QUỐC T Ế XU N G Q U A N H VAN ĐỀ PHUƠNG đ ô n g


1. Tầm quan trợng của vấn đé phưưng Đỏng đòi với các nước lớn
Sự tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc châu Âu tập trung xung
quanh vấn dé phương Đông mà tâm điểm là vùng Bancăng. Trong sự tranh chấp
này, Nga luôn luôn là một trong những đầu mối chủ chốt.
Có ba nhân tố cư bán làm xuất hiện "vấn đề phương Đông" ngày càng trở
nên phức tạp, gay cấn: 1. Sự suy vong của đế quốc Thổ Nhĩ Kì (đê quốc Ôxman
hay Ottoman) vốn một thời nổi tiếng hùng mạnh. 2. Sự phát triển của phong
trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước chông ách thông trị của Thố. 3.
Màu thuẫn giữa các cường quốc châu A ll trong việc tranh giành ảnh hướng,
bành trướng thế lire irons khu vực.
Sự suy vong của đế quốc Thổ phong kiêìi quân sự và sự phát triển của
phong trào giải phóng dân tộc đã tạo cơ hội cho các nước lớn ở châu Âu can
thiệp vào còng việc nội bộ của Thổ. Lành thổ của đế quốc Thổ có những vùng
hết sức quan trọng về kinh tế và chiến lược ở Cận Đông gồm eo biển Hắc Hải,
A i Cập, X yri, một phần Cápcadơ và toàn hộ bán đảo Bancăng.
Đối với Nga, việc giải quyết vấn đề phương Đông gắn liền với việc giải
quyết vấn đề eo biển Hắc Hai, đâm báo an ninh của biên giới phía nam và tăng
cường ngoại thương qua Hắc Hãi. Nga lo ngại nếu đế quốc Thổ tan vờ thì khu
vực này sẽ trở thành miếng mồi của các nước châu Âu. Vì vậy, Nga muốn tăng
cường vai trò của mình ở Cápcatlơ và ờ Bancăng đê ngăn chận sự bành trướng
cua các nước khác.

59
Vấn đề trung tâm là vấn đề Bancãng. Việc bào hộ cư dân ĩheo đạo Chính
Thống ở bán đảo Bancăng là cớ để Nga can thiệp vào công việc ở Cận Đông,
chống lại ý đồ bành trướng của Anh và Áo. Điều mà Nga quan tàm không phải
là quyền tự quyết của nhân dân các nước bị Thổ thống trị mà chủ yếu là lợi
dụng phong trào giải phóng dân tộc để mở rộng ảnh hưởng chính trị của Nga ở
Bancăng. Nhimg do kết quả của một quá trình lâu dài (khoáng một thế kỉ) với
sự giúp đỡ của Nga, nhân dân Bancăng thoát khỏi ách thống trị của Thổ, giành
được độc lập.
Thổ cũng thi hành chính sách xâm lược, trả thù, khôi phục sự thống trị ở
Cnrm và Cápcadơ, đàn áp khốc liệt phong trào giải phóng của nhân dân các
nước bị Thổ áp bức.
Trong những năm 20 - 50 của thế kỉ X IX , đà xuất hiện ba lần khủng hoảng
trong "vấn đề phương Đông” :
1. Vào đáu những năm 20: cuộc khởi nghĩa năm 1821 ở Hi Lạp.
2. Vào đầu những năm 30: khởi nghĩa của Xuntan A i Cập chư hầu và nguy
cơ tan rã của đế quốc Thổ.
3. Vào đầu những năm 50: sự tranh chấp giữa Nga và Pháp về "thánh địa
Palextin", nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Cnmi.

2. Giai đoạn thứ nhất của cuộc khủng hoang phưưng Đỏng (1821 - 1829)
- Cách mạng H i Lạp 1821
Cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp năm 1821 lúc đầu bị thất bại. Nghĩa quân bị đàn
áp tàn khốc, các lực lượng tiến bộ ở châu Âu và Nga lên án hành dộng dã man
của Thổ. Nhưng Nga và các nước trong Đồng minh Thần thánh đã không giúp
đỡ nghĩa quân Hi Lạp. Áo, Nga và Phổ kí tuyên bố lên án cuộc khởi nghĩa Hi
Lạp là "cuộc cách mạng" chống lại Xuntan "hợp pháp". Thế nhưng Anh và
Pháp, dể tăng cường ảnh hưởng ở Bancăng và Cận Đòng, quyết định lợi dụng
cuộc xung đột giữa Thổ và Hi Lạp bằng cách thừa nhận Hi Lạp là một bên
"tham chiến" (chứ không phải là khởi nghĩa). Nga buộc phải đồng ý cùng Anh
và Pháp hành động chung.
Tháng 3/1826, tại Pêtécbua, Anh và Nga kí một nghị định thư: hai
nước có nghĩa vụ làm trung gian giữa vua Thổ và nghĩa quân Hi Lạp.
Pháp cũng tham gia nghị định thư. Ba nước đã kí hiệp nghị "bảo vệ tập
thể" lợi ích của Hi Lạp. Vua Thổ nhận được tối hậu thư là phải trao quyền
tự trị cho Hi Lạp, liền bác bỏ. Anh, Nga và Pháp liền đưa ham đội đến bờ
biển Hi Lạp. Trong trận đụng đấu ở Navarin tháng 10/1827, hạm đội của
Thổ bị đánh tan. Chiến thắng Navarin đã thúc đẩy cuộc đấu tranh giành
độc lập của Hi Lạp thắng lợi.

Hành động chung của Anh, Pháp và Nga không xoá bò được mâu thuẫn
giữa các nước này. Để trói buộc chan tay của Nga ử Cận Đông, Anh xúi giục
tinh thần phục thù của Iran đối với Nga. Với sự giúp dỡ của các cố vấn quân sự
và tiền chi viện của Anh, quân đội Iran được tổ chức lại.
- Chiến tranh Nga - Iran (1826 - 1828)
T in về cuộc khởi nghĩa tháng chạp năm 1825 ờ Nga được Chính phủ Iran
xem là thời cơ triển khai cuộc chiến tranh chống Nga nham lấy lại những đất ở
Cápcadơ bị mất theo Hoà ước G uylixtan năm 1813. Vào giữa tháng 7/1826, sáu
vạn quân Iran, không tuyên chiến, đã tiến sang Cápcadơ và hành quân đến
Tiphơlít. Nhimg sau đó bị chặn lại và chịu hết thất bại này đến thất bại khác.
Tháng 4/1827, chiến sự chuyên sang đất Iran. Cuối tháng 12/1827, quân Nga
tiến về Têhêran, chính phủ Iran buộc phải kí hoà ước vào đầu tháng 2/1828.
Theo Hoà ước Nga - Iran: Đông Ácmênia sáp nhập vào Nga, Iran
phải bồi thường 20 triệu rúp, thương nhân Nga được ưu đãi trong việc
buôn bán với Iran, tàu thuyền Nga được tự do đi lại ở biển Caxpiên.

- Chiến tranh Nga - Thồ (1828 - 1829)


Hoà ước kí với Iran đã cho phép Nga ránh tay ĩrước cuộc xung đột quân sự
đà chín muồi với đế quốc Thổ có lạp trường công khai thù địch với Nga, muốn
trả thù và phá hoại có hệ thống những điều khoán của các hoà ước trước đó.
Chính phù Thổ bắt giữ tàu buồn Nga để tìm cớ phát động chiến tranh. Ngày
14/4/1828, Nicòlai I tuyên chiến với Thổ. Áo giúp vũ khí cho Thổ và tập trung
quân ở biên giới Nga.
Chiến tranh là một thử thách nặng nề đối với Nga. Quân Nga trang bị
kém về kĩ thuật, tướng tá bất tài, lúc đầu đã không giành được một chiến
thắng nào. Trong chiến dịch năm 1828, bằng những nỗ lực và tổn thất
lớn, quân Nga chiếm được Valakbu và Mônđavi, vượt sông Đunai và
chiếm được một loạt pháo đài trèn lãnh thổ Bungari. Chiến dịch năm
1829 đã diễn ra thành công khi quân Nga tiến sang Bancăng và ở
Cápcadơ bao vây một loạt pháo đài.

Đầu tháng 8 /1829, Adriapôn hoạt động quân sự kiên quyết hưn vì sọ làrn
càng thẳng quan hệ với các nước phương Tây khác. Tàu chiến của quân Anh

61
tiến tới các eo biến. Quân Nga cũng dã bị kiệt sức, vá lại lúc đó Nga lại không
> »

muốn sự sụp đố của đê CỊ11ỐC Thố vì "việc duy trì đế quốc Ottoman có lợi hơn là
bất lợ i” . Bừi sự sụp đổ cùa dế quốc này dẫn đến hậu quả ỉà các nước châu Ảu sẽ
chiếm được những vùng quan trọng có ý nghĩa chiến lưực, biên giới phía nam
của Nga bị đe doạ. Vì vậy, đầu tháng 9/1829, Hoà ước Nga - Thổ đã được kí ờ
Adriapôn. Theo đó, Nga chiếm dược một vùng không lớn nhưng có tầm quan
trọng, củng cỏ vị trí của Nga ở Biến Đen và chặn đứng sự bành trướng của Thổ
sang Cápcadơ.
Hoà ước Ađriapỏn có ý nghĩa lớn dối với nhân dân trên bán đảo Bancăng:
Hi Lạp được độc lập hoàn toàn, quyển tự trị của Xécbi, Valakhi và Mỏnđavi
được mở rộng. Như vậy là màn thứ nhất của "vấn để Phương Đông" kết thúc có
lợi cho Nga: Nga chiếm được những vùng lãnh thổ quan trọng, tăng cường ảnh
hưởng ở Bancãng và ờ Cápcadơ.

3. Giai đoạn thứ hai của cuộc khủng hoảng phưưng Đỏng: Chiên tranh
Ai Cập - Thổ (1832 - 1833)
Nga đã giành được thắng lợi lớn ờ Cận Đông trong những năm 1832 - 1833
khi tham gia cuộc xung dột TTiổ - A i Cập, mở đầu cho giai đoạn thứ hai của
"vấn đé phương Đỏng".
Năm 1832, quân Ai Cập đánh bại quân Thổ và tiến sát Côngxtăngtinôpôn.
Thổ yèu cầu các nước châu Âu chi viện. Anh, Pháp từ chối vì muốn tăng
cường ảnh hưởng ở Ai Cập. Áo không chuẩn bị. Trái lại, Nicôlai I sốt sắng đáp
ứng yêu cẩu của Thổ. Tháng 2/1832, hạm đội Nga tiến đến Bôxpho. Sau đó,
đoàn quân viễn chinh Nga gồm 3 vạn người đổ bộ lên vùng phụ cận của
Côngxtăngtinôpỏn. Nhờ đó, Côngxtăngtinôpôn tránh được nguy cơ bị thất thủ.
Môhamét Ali phải đình chiến với vua Thổ.

Nga và Thổ đã kí một hiệp ước liên minh vào tháng 6/1833. Hai bên sẽ chi
viện quân sự cho nhau nếu một tronç hai nước bị nước thứ ba tấn công. Có một
điểu khoản bí mật quan trọng là trong trường hợp Thổ không chi viện quân sự
cho Ngathì khi có chiến tranh nổ ra, Thổ phải đóng cửa các eo biển, cấm
không cho tàu chiến các nước qua lại trừ Nga.
Năm 1839, Môhamét A li lại nổi dậy chống vua Thổ. A li đà thành lập một
đạo quân lớn và đánh bại quân Thổ trong một số trận. Vua Thổ cầu viện Nga.
Lần này các nước châu Âu lại can thiệp, Năm 1840 - 1841 tại Luân Đôn đà kí
hai hiệp nghị, theo đó liên minh Nga - Thổ bị thay thế bàng sự bảo trợ tập thẻ
của 5 nước Anh, Nga, Áo, Phổ và Pháp. Đối với Thổ, Nga không còn được đặc
quyền cho tàu chiến qua lại các eo biến Bỏxpho và Đácđanen bị đặt dưới sự
kiêm soát chung.
Vào những năm 40 của thế kí X IX , N icôlai I thấy rằng đế quốc Ôxman
nhất định sẽ bị sụp đổ. Năm 1844, Nicôlai I sang Luân Đòn đê hiệp thương với
Anh việc chia nhau "di sản" của Thổ. Những người lãnh đạo Anh giữ lập trường
quanh co, lảng tránh, họ dồng ý là nếu Thổ tan rã thì sẽ hiệp thương với Nga
nhims từ chối không kí với Nga bất kì một hiệp nghị nào.

4. Giai đoạn thứ ba của cuộc khùng hoàng phưưng Đông: Chiến tranh
Crưm (1853 - 1856)
Vào đầu những năm 50 của thế kỉ X IX , "vấn dề phương Đòng" bước vào
giai đoạn thứ ba, giai đoạn hết sức gay cấn, dẫn đến cuộc chiến tranh Crirm.
Nguycn cớ đẩy đến chiến tranh là sự tranh chấp xuất hiện vào năm 185Ü giữa
giáo hội Chính thống và giáo hội Cơ đốc về "thánh địa Palextin" nằm trên lãnh
thổ đế quốc Thố.
Vấn đề là ở chỗ những đài kỉ niệm Thiên chúa giáo ở Giêruxalem và
vùng phụ cận thuộc giáo hội nào sở hữu. về vấn đề này đã diễn ra sự
đụng độ giữa Nga bảo vệ giáo hội Chính thống và Pháp bảo trợ cho
những người theo Cơ đốc giáo.

Trong thực tế, lí do sâu xa là cả hai nước đều muốn tăng cường thế lực ờ
Cận Đòng, đều có ý đồ dùng hiện phấp quân sự dể giải quyết.
Lẽn nắm chính quyền năm 1851, Napôlêông III muốn có một "cuộc
chiến tranh nhỏ" thắng lợi để củng cố ngai vàng. Nicôlai I muốn dựa vào
sự ủng hộ của Áo vì vừa mới giúp Áo đàn áp cách mạng Hung, đổng thời
dựa vào khả năng có thể thương lượng với Anh.

Năm 1853, Anh và Pháp đã kí một hiệp nghị bí mật chống Nga. Áo do sợ
ảnh hưởng của Nga được tăng cường, sẵn sàng ủng hộ bất cứ hành động nào
chống lại Nga. Do đó, chiến tranh Crưni nổ ra trorm bối cảnh Nga bị cò lập về
ngoại giao. Nga phải chiến đấu với một liên minh các nước tư bản phát triển
cao hơn về kĩ thuật. Điều kiện trong nước cũng hết sức bất lợi đối với Nga:
công nghiệp quân sự lạc hậu, chi huy bất tài, sự tham nhũng của các cơ quan
quân nhu, giao thông toi tệ... đã làm giám năng lực chiến đấu của quân đội.
Chiến tranh Cnrm mang tính chất xâm lược đôi với cả hai phía. Nếu như
Nga hoàng muốn chiếm các vịnh Hắc Hái và mớ rộn Sĩ ¿inh hirởiig ở Bancăng thì
Anh và Pháp lại muốn loại Nga khói bờ hiển Hắc Hải và khỏi việc phân chia
Cápcadư. Thổ thì theo đuổi mục đích trà thù.
Tháng 2/1853, Nga cử Đại sứ A. Xmensicôp đến Côngxtăngtinôpôn
với yêu sách mang tính chất tối hậu thư, đòi khối phục quyền của giáo hội
Chính thống Nga ở Palextin và đòi trao cho Nga hoàng quyền bảo trợ
giáo dân, giáo hội Chính thống ở Thổ. Theo lời khuyên của đại sứ Anh,
Thổ nhượng bộ vấn đề "thánh địa Palextin" nhưng lại bác bỏ yêu sách
bảo trợ giáo dân theo Chính thống giáo.
Tháng 5 /1853, Xmensicốp tuyên bô cắt đứt quan hệ ngoại giao, rút đoàn
ngoại giao Nga khỏi cỏngxtăngtiôpôn và ngay sau đó Nicôlai I ra tuyên bô vé
việc quân Nga chiếm các vương quốc Đunai. Trong vòng 1 tháng, 82 000 quân
Nga đã chiếm các vương quốc này. Cuối tháng 9, Thổ đòi Nga phải rút quân
trong vòng 18 ngày. Nhưng mới được một tuần lễ, Thổ đã cho quân tấn công ở
Cápcadơ.
Ngày 18/11, hạm đội gồm 8 tàu do Đô đốc p. Xnakhimốp chỉ huy tấn công
hạm đội Thổ ở Xinốp, tiêu diệt hầu hết tàu thuyển của Thổ và công phá các
pháo đài ven biển. Anh và Pháp vin vào cớ đó để can thiệp trực tiếp vào cuộc
xung đột Nga - Thổ. Tháng 1/1854, 7 vạn quân Anh - Phíìp đổ bộ lên thành phô
Vascan (thuộc Bungari). Tháng 3, Anh và Pháp gửi cho Nga tôi hậu thư đòi
quân Nga phải rút khỏi các vương quốc Đunai và không đợi trả lời đã tuyên
chiến với Nga. Áo điéu 30 vạn quân đến biên giới các vương quốc này đe doạ
sẽ chiến tranh với Nga. Nicôlai I buộc phải ra lệnh rút quân khỏi Mônđavi và
Valakhi. Đầu tháng 9/1854 quân liên minh đổ bộ lên Crinn, cuộc chiến đấu ở
Xêvátxtôpôn diễn ra ác liệt. Cuối cùng Xêvátxtôpôn thất thủ.
Ngày 18/3/1856, hoà ước được kí ờ Pari. Nga mất vùng nam Bétxarabi cửa
sồng Đunai nhưng được trả lại Xêvátxtôpôn và các ĩhành phố khác ở Crưm dê
đổi lấy việc trả lại cho Thổ những đất và thành phố của Thổ bị quân Nga chiếm.
Điéu khoản nặng nhất đối với Nga là hoà ước tuyên bố "trung lập hoá" Hắc Hải
mà thực chất là Nga và Thổ khòng được quyền có hạm đội cũng như pháo đài
và kho tàng quân sự ở Hắc Hải. Như vậy là khi có chiến tranh, bờ biển Hắc Hải
của Nga sẽ không được bảo vệ. Hoà ước Pari cho phép tàu các nước tự do thông
thương trên sông Đunai, mở rộng đường cho hàng hoá Anh, Áo, Pháp vào
Bancăng gây thiệt hại cho việc xuất khẩu của Nga. Nga cũng mất quyền bảo vệ
lợi ích cư dân theo đạo chính thống ở đế quốc Thổ, mất quyên bảo hộ đối với
Xécbi và các vương quốc Đunai, ảnh hưởng của Nga ờ Cận Đông bị suy yếu.
Thất bại trên đã phá hoại uy tín của Nga trên trường quốc tế. Sau chiến
tranh Crưrn, chính sách đối ngoại của Nga là bằng mọi giá xoá bò những điều
khoản của hoà ước năm 1856.

64
5. Quan hệ giữa nưức Nga và "Hệ thông Crưm” (1859 - 1871)
"Hệ thống Crirm" (Anh - Áo - Pháp) dược tạo ra sau chiến tranh Crưm là
nhầm cỏ lập Nga trên trườne quốc tế. Đẻ thoát khỏi tình trạng bị cô lập, ngoại
giao Nga đà lợi dụng tình hình quốc tế, lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Áo.
Do cuộc xung dột quân sự đã chín muồi vào cuối những năm 50 giữa Pháp
và Áo về vấn để Ý, Napôlêồng III tìm sự ủng hộ từ phía Nga. Nga sẵn sàng thân
thiện với Pháp đê kéo Pháp ra khỏi liên minh chống Nga. Đầu năm 1859, Pháp
và Nga kí một nghị định thư bí mật về hợp tác. Tháng 4/1959, chiến tranh Pháp -
Áo bùng nổ, mưu toan kéo Nga vào cuộc chiến tranh của Napỏlêông III không
thành đã làm cho quan hệ Nga - Pháp trở nên phức tạp.
Năm 1863 đã nổ ra khởi nghĩa ở Ba Lan. Napólêỏng III tuyên bô ủng hộ
nghĩa quân. Chính phú Anh cũng vậy. Người Ba Lan không nhận dược sự ùng
hộ thực tế của Pháp và Anh, nhưng lập trường của Pháp đà làm cho quan hệ
giữa Pháp và Nga trở nên căng thẳng. Trong khi đó, sự biến ở Ba Lan lại thúc
đẩy Nga với Áo và Phố xích lại gần nhau vì Áo và Phổ sợ "đám cháy" lan sang
đất Ba Lan của họ.
Sự ủng hộ của Phổ với Nga là hết sức quan trọng, vai trò của Phố trong
những năm 60 ở châu Âu đã được tăng cường. Bixmác không muốn Nga can
thiệp vào vấn đé thống nhất nước Đức, hứa ủng hộ Nga xoá bỏ những điều
khoản của hoà ước Pari năm 1856.
Năm 1870, khi chiến tranh Phấp - Phố nổ ra, Nga giữ lập trường trung lập
có lợi cho Phổ. Thất bại của Pháp đã loại Pháp ra khỏi khối chống Nga. Nga lợi
dụng cơ hội đó để đom phương tuyên hố từ bỏ việc thực hiện những điểu khoản
của hoà ước Pari. Anh, Áo, Thổ lên tiếng phản đối. Phổ không phản đối và đề
nghị triệu tập một hội nghị gồm các nước kí hoà ước (Nga, Pháp, Anh, Phố,
Xácđenha, Áo và Thổ). Tại Hội nghị Luân Đòn, Nga đòi xét lại những điều
kiện của hoà ước. Nga được sự ủng hộ của Phổ và vấn để xoá bỏ những điểu
khoản hạn chế của hoà ước được giải quyết có lợi cho Nga. Nga dược quyén
xây clựng công sự và có hạm đội ở Biển Đen. Đó là một thành công lớn về
ngoại giao của Nga. An ninh ở biên giới phía Nam cũng như ảnh hưởng của
Nga ở Bancăng được khôi phục.
Tinh hình quốc tế mới sau thất bại của Pháp trong chiến tranh Pháp - Phổ
( 1870 - 1X7 ỉ ) làm cho Đức, Áo Hung và Nga trở nên gần gũi nhau. Đó là do ba

65
thuẫn giữa ba nước với Anh, mặc dù Nga hết sức lo lắng sự lớn mạnh cùa nước
Đức thống nhất cũng như sự tâng cường vai trò của Áo ở Bancăng.
Mùa xuân năm 1873, Nga và Đức đã kí Hiệp ước tirơng trự vể quân sự
trong trường hợp bị một nước thứ ba tiến cồng. Tiếp đó, Nga cũng kí với Áo
một hiệp ước chính trị, khác với Hiệp ước Nga - Đức là không bị ràng buộc về
quân sự. Mùa thu năm đó, Đức cũng tham gia hiệp ước này. "Liên minh Tam
hoàng" Nga - Đức - Áo được thành lập. Do mâu thuẫn giữa ba nước, liên minh
này không vững chắc và lâu dài nhưng đóng một vai trò quan trọng trong quan
hệ quốc tế những năm 70. Nga chẳng những thoát khỏi thế bị cô lập mà còn
khôi phục được ảnh hưởng trong nền chính trị châu Au.

V. Q U A N HỆ QUỐC TẾ TRONG CAO T R À O CÁCH M ẠNG GIỮA


THẾ K Ỉ X IX
Trong vòng hai thập niên 50 - 60 thế kỉ X IX , cùng với những hệ quả kinh tê
và xã hội của cách mạng công nghiệp, tình hình chính trị châu Âu trở nên hết
sức sôi động. Giai cấp tư sản còng thương nghiệp tăng về sỏ lượng và tiềm lực
kinh tế đã ý thức rõ hơn về quyển lợi của mình nên tiến hành đấu tranh chống
các lực lượng bào thủ nhàm giành quyền thống trị nhà nước. Cao trào tư sản khi
dó diễn ra dưới 3 hình thái chính là cách mạng ở các nước tư bản phát triển
(Pháp), đấu tranh vì độc lập dân tộc trong đế quốc Áo (Hưnggari, Tiệp Khắc),
tiến hành thống nhất đất nước (Đức, Ý). Quan hệ quốc tế châu Âu vào thời gian
này xoay quanh các biến động lớn đó khá chằng chéo và phức tạp.

1. Chế độ cộng hoà và Đế ché thứ hai ở Pháp


Những thành tựu của cách mạng công nghiệp ở Phấp trong những năm 30 -
40 của thế kỉ X IX dã đưa nước này lên địa vị cường quốc còng nghiệp thứ hai
sau Anh. Quyền cai trị của giới tư sản ngân hàng dưới thời Quân chủ tháng Bày
(1X30) do Lui Philip đứng dầu không còn phù hợp trước đòi hỏi phát triển của
kinh tế công thương nghiệp. Tầng lớp tư sản công thương nghiệp đưa ra khẩu
hiệu đấu tranh vì nền cộng hoà được sự hưởng ứng của các lực lương tiến bộ,
nhất là giai cấp công nhân. Nhờ vậy, cuộc Cách Iĩiạng tháng Hai 1848 đã lật đổ
nền Quân chủ tháng Bảy, thiết lập nền Cộng hoà thứ hai của nước Pháp.
Mặc dầu là động lực chính của cuộc Cách mạng tháng Hai, giai cấp công
nhân không được hưởng quyền lợi chính đáng của mình nên cuối tháng 6/1848
họ nổi dậy tại Pari chống Chính phủ Cộng hoà, nhưng bị đàn áp. Đồng thời,
cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái tư sàn khiến cho phái Cộng hoà

66
không đạt được đa số phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống (12/1848). Ngưừi
trúng cứ là Lui Bônapactơ (Louis Bonaparte) thuộc phái Bão hoàng, cháu của
Napôlêông I. Đi theo con đường của ông hác, Lui Bỏnapactơ đã tiến hành cuộc
chính biến tháng 12/1851 dể chấm dứt chế độ cộng hoà, và dứng một năm sau -
tháng 12/1852 tuyên bồ thành lập Đê chê II (1852 - 1870), tự lên ngôi Hoàng
đế lấy danh hiệu là Napôlêông III.
Dưới thời Đế chế II, nước Pháp tham gia chiến tranh Crirm (1853 - 1856),
liên minh với Anh đê hạn chế ảnh hưởng của Nga ờ vùng Hắc Hải nhưng không
thành cồng. Nước Pháp lại ngăn cản phoim trào đâu tranh thống nhất ở Ý và ử
Đức. Cuộc chiến tranh Pháp - Đức (1870 - 1871) dẫn đến sự thất bại của
Napỏlêông III, làm sụp đổ Đế chê II. Cùng thời gian này, Pháp mờ rộng chiến
tranh xâm lược thuộc địa ờ Angiêri, Mêhicô, Trung Ọuốc, Việt Nam...

2. Phong trào cách mạng ở Á« và sự can thiệp cùa Nga


Đến giữa thê kỉ X IX , đế quốc quân chủ Áo vẫn ở trong tình trạng lạc hậu,
chưa diễn ra cách mạng tư sản. Ở đây chứa đựng 2 mâu thuẫn chủ yếu: mâu
thuẫn giai cấp trong chính bàn thân nước Áo, giữa lực lượng tư sản và nhân dân
với giai cấp phong kiến cẩm quyền, đứng đầu là triều đại Hapxbua; mâu thuẫn
giữa các dân tộc ờ Tiệp, Hung chống lại ách thống trị của nền quân chú Áo.
Tin tức về,cuộc Cách mạng tháng Hai ở Pa ri nhanh chóng châm ngòi cho
các phong tràơ đấu tranh trong đế quốc Áo quân chủ. Cuộc khữi nghĩa bùng lên
ở Viên ngày 13/3 nhàm lật đổ triều đại Hapxbua nhưng không thành công.
Trước đó, ngày 11/3 một cuộc mít tinh diễn ra tại Praha đòi quyển bình đẳng
cho người Tiệp, phát triển vãn hoá dân tộc Xlavơ. Đại hội Xlavơ ớ Tiệp gồm đại
biểu người Séc, Xlôvac, Ba Lan, Xécbi... biêu thị tinh thần đoàn kết chống ách
thống trị của vương triều Áo. Cuộc Khời nghĩa thárm Sáu ở Praha đã đưa phong
trào lên đến đính cao nhưng cuối cùng bị dạp tắt.
Ngciy 15/3, nhân cỉân Hunggari đà nổi dậy ở Buđapet dưới sự lãnh đạo của
nhà thư có khuynh hưởng dân chủ Sanđo Pêtôphi. Mặc dầu vấp phải sự đàn áp
của quân đội Áo, phong trào cách mạng vẫn phái triển. Hơn một năm sau, ngày
14/4/1849 Hunggari tuyên bố độc lập, một chính phủ dàn tộc được thành lập do
nhà cách mạng Kôsut đứng đầu. Nlunig Nga hoàng đã can thiệp, ra lệnh điều
14 vạn quân Nga tiến vào Hunggari cỉạp tắt cách mạng. Như vậy, sự câu kết
giữa hai nhà nước quân chú Áo và Nga dà đẩy lùi phong trào cách mạng cùa
các dân tộc trong đế quốc Áo.
3. Sự can thiệp của Pháp và Nga vào công cuộc thống nhát nước Ý
Cho đến giữa thế k i X IX , bán đâo Ý chưa phải là một quốc gia thống nhất
mà bị chia xẻ thành 7 tiểu quốc có thể chế khác nhau, một số chịu sự thống trị
của ngoại bang. Cụ thể là: Lômbácđia - Vênêdia đặt dưới quyển cai trị của đế
quốc quân chủ Áo; 4 tiểu vương quốc Pácma, Môđena, Tòxcana và Napôli nằm
trong tay bọn phong kiến quý tộc chịu ảnh hưởng của Áo; Ròmania (đất thuộc
Giáo hoàng) là trung tâm Thiên Chúa giáo có quân Pháp chiếm đóng; riêng
Piêmông có chế độ chính trị và kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng 1848 diễn ra khá sôi động và kéo dài khoảng 1 năm nhưng đều
kết thúc thất bại, chỉ có Piêmông giữ được bản Hiến pháp tiến bộ ban hành hồi
cách mạng. Cho nên nhiệm vụ đặt ra cho cuộc cách mạng tư sản ờ Ý màmục
tiêu hàng đẩu là thống nhất đất nước vẫn chưa giải quyết được.
Trong những năm 60 của thế kỉ X IX , công cuộc thống nhất nước Ý được tiến
hành đồng thời theo hai xu hướng. Một là "con đường từ trên xuống" đặt dưới sự
ỉãnh đạo của vương triều Xavoa (thuộc Piêmông) do nhà vua Vichto Emmanuyen
II và Thủ tướng Cavua đứng đầu. Hai là "con đường từ dưới lên" của những người
tư sản dân chủ đươc nhân dân ủnc hộ tlirứi sư lành đao của Ganbanđi.
t w • • •

Mở đầu là cuộc chiến tranh chống Áo diễn ra từ tháng 4/1859 đến


3/1860. Trước đó, Cavua đà bí mật kí kết liên minh với Napôlêông III (hiệp ước
Piỏngbierơ) cùng đuổi Áo ra khỏi vùng Lômbacđia - Vênêdia để sáp nhập vào
Piêmông. Đổi lại, Pháp được nhận vùng Xavoa và Nixư.
Nhưng khi cuộc chiến tranh do liên minh trên tiến hành thì phong trào nhân
nhân Ý phát triển mạnh mẽ, quần chúng nổi dậy đánh đuổi thế lực phong kiến ờ
các tiểu vương quốc Tôxcana, Pácma, Môđêna và Ròmania và giải phóng hàng
loạt thành thị ở Lômbacđia. Trước làn sóng mành liệt của quần chúng,
Napỏlêông III lo ngại liền bội ước Cavua, chuyển sang kí kết với Áo (hiệp ước
Vilaphrăngca) để duy trì tình trạng chia cắt nước Ý. Áo đành trả cho Cavua
(qua tay Pháp) vùng Lômbacđia nhưng vẫn giữ vùng Vênêxia. Hành động đó
không thê ngăn trở cuộc đấu tranh, lực lượng khởi nghĩa đà tuyên bô sáp nhập 4
tiểu vương quốc vào Piêmông. Như vậy, phần lớn lãnh thổ miền Bắc và miền
Trung nước Ý đà thống nhất dưới ngọn cờ của Piêmông.
Cùng thời gian trên, Ganbanđi phát động nhân dân nổi dậy ớ Napồli và dáo
X ix in , thủ tiêu chính quyền phorm kiến, chia ruộng đất cho nông dân. Tháng

68
10/1860 khu vực này sáp nhạp vào nước Y. Tháng 3/1861, nghị viện Y chính
thức tuyên bố nước Ý thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của nhà vua
Emmanuyen II và Thủ tướng Cavua.
— ■ ■ ■ — ■— —

THỤYSl QUỐC'

'XA VO \

PHÁP /
N ĐẾ QUÓC ■'
's ÓT-TÔ-MAN >.

Đường tiến quàn của


Bién giới quỗc ga đến nâm 1859
dổi quân “Ao đỏ"
Vung lânh thổ dén nàm 1861
Những vùng diẻn ra khởi nghĩa
đòi thóng nhất đát nước
Vung lãnh thố bén ngoâi
1870 Nàm thỗng nhát lảnh thổ vào
vương quốc l-ta-li-a
UL5i> Cuôc tiến cỏng của lièn quân
Pi-ẻ-mỏn-tè - Pháp chóng quàn Ảo Bien giới vương quóc l-ta-li-a
nâm 1870

Tiến trình thống nhất Italia

Tuy vậy vẫn còn hai vùng chưa thống nhất là Vênêxia nằm trong tay Áo và
Rômunia thuộc Giáo hoàng có quân Pháp chiếm đóng. Nước Ý liên minh với
Phổ trong cuộc chiến tranh Áo - Phổ, Phổ giành phần thắng nên Áo phải rời bỏ
Vênêxia. Cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871) đem lại thất bại cho Pháp,

69
Đê chế của Napôlêông III sụp đổ, Giáo hoàng mất chỗ dựa phái rút về
Vaticãng. Ngày 20/9/1870, Vênêxia và Rỏmania sáp nhập vào iurớc Ý. Đốn
đây, công cuộc thống nhất nước Ý đã hoàn thành, đồng thời loại trừ sự can
thiệp của hai nước bên ngoài là Áo và Pháp.
Toà thánh Vaticăng nằm trên một ngọn đổi ở Rôma, có nhiều công
trinh kiến trúc tôn giáo và cung điện Giáo hoàng tráng lệ, có tường thành
bao bọc. Từ giữa thế kỉ XV, đây là trụ sở các cơ quan của giáo hội Thiên
Chúa. Từ năm 1929, Toà thánh có quy chế như một nhà nước có chủ
quyền, nhỏ nhất thế giới (44 ha), có cờ và đội cận vệ riêng, đồng tiền
riêng và các cơ quan thông tin, báo chí riêng. Toà thánh Vaticăng là trung
tâm của đạo Thiên Chúa toàn thế giới.

4. Quan hệ đối ngoại cùa nước Đức trong còng cuộc thòng nhát
Nước Đức tiếp thu khá sớm và rất hiệu quả những thành tựu của cách mạng
công nghiệp, khiến cho nền kinh tế có nhiều chuyên biến sâu sắc. Tuy vậy, đến
giữa thế ki X IX , Đức vẫn chưa phải là một quốc gia thống nhất mà bị phân cát
thành 34 tiểu vương quốc và 4 thành phố tự do. Trong dó nổi lên vưưng triều
Phổ do vua Vinhem I và Thú urớng Bixmác đứng đầu là có đủ khả nâng giương
lên ngọn cờ ĩ hông nhất đất nước.
Vứi phương châm thống nhất nước Đức bằng "sát và máu", Bixmác đà lần
lượt tiến hành 3 cuộc chiến tranh chống các nước láng giềng là Đan Mạch, Áo
và Pháp.
Mờ đầu là chiến tranh Phổ - Đan Mạch (1864). Lấy cớ chính quyền Đan
Mạch phân biệt đối xử với người dân Đức ở vùng biên giới, Phổ liên minh với
Áo gây chiến. Các tiểu quốc phía bắc nước Đức đều đứng về phía Bixmác.
Giành được thắng lợi, Phổ chiếm vùng Slexvích và Áo chiếm vùng Hônxtanh.
Việc chia lãnh thổ như vậy đã tạo cớ để sau này Phổ đuổi quân Áo ra khỏi
Hônxtanh, khơi ngòi cho cuộc chiến tranh Áo - Phổ (1866). Bị thua, Áo phải
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Phố trong việc thống nhất đất nước. Tháng
4 /1867, Liên bang Bác Đức được thành lập gồm 18 tiểu quốc ở Bắc Đức và 3
thành phô tự do.
Còn lại vùng tây nam, Phổ gặp đối thủ là Pháp. Napòlêông III nuôi tham
vọng đánh chiếm nước Đức rồi từ đó chinh phục châu Âu. Cuộc chiến tranh
Pháp - Phổ (1870 - 1871) buộc Napôlêông III phái kéo cờ trắng. Đức nhanh
chóng tiến quân sang Pháp, chính quyển Pari phải kí hiệp định đẩu hàns.

70

Z*/£A BÁC

-------------- ãiè- 315. cở c c „ í c g o r in 186Í


Nước dết r i m 1ỹíA
‘/ /////ỵ \ Vxg dơ* sop r r ip và: ° r i ¿én rô n 18é£
Cóctcr 3 3 0 rr ap■C".Dc-griócOvJC
* ■ ' '' B4r. g ¿i uè~ trar.q ãác Cùc n âm òe 7
PHÁP Cuỏc tari c ir.g côa auỗP dí. Phổ
vào D or M cch. Áo.
Eiẻn giỏ dè’ quốc Đúc n õ r 1Ễ71
tx rc gc rhòc Liẻr boro sác OOc rí*T) 1873

Quá trình thống nhất Đức

Ngày 18/1/1871, lẻ thành lập


Đố chế Đức được tố chức tai
Vécxai dang bị quân Phố chiếm
đóng. Còng cuộc thống nhất
hoàn thành. Bixmác đã không
tiến hành thống nhất bằng cách
chinh phục các tiểu quốc Đức
mà đây màu thuẫn ra bên ngoài,
qua chiến tranh đà khơi dậy tình
thần dân tộc Đức. Từ đó, nước
Đức thống nhất birức nhanh trên
con đường phất triển CNTB,
hước vào hàng các cường quốc tư
bàn ờ châu Âu.

B i x m á c ( 1 8 5 1 - 1 8 9 8 )

7l
Lễ tuyên bố thống nhất Đức tại cung điện Vécxai (1871)

V I. Q U A N HỆ QUỐC TẾ TRONG PHONG TR À O CÔNG N H ẢN


1848 - 1871
1. Đổng minh những người cộng sản và Tuyên ngôn của Đ ấng Cộng sản
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của giai cấp còng
nhân. Những thành tựu của quá trình công nghiệp hoá đã làm thay đổi cách sán
xuất từ phương thức lao động bằng tay sang việc sử dụng máy móc. Vì vậy,
công nghiệp càng phát triển thì đội ngũ công nhân càng tăng thêm về sô lượng
và trưởng thành về ý thức giai cấp.
Do bị chủ nghĩa tư bản bóc lột thống qua giá trị thặng dư, mâu thuẫn giữa
vô sản với tư sản ngày càng trở nên sâu sắc. Còng nhân tiến hành đấu tranh đòi
quyền lợi kinh tế (tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống) và quyền lợi
chính trị (bầu cử, ứng cử và các quyền tự do dân chủ). Từ những cuộc đấu tranh
lẻ tẻ, tự phát, công nhân dần dần biết liên kết thành những nghiệp đoàn để đấu
tranh như những cuộc bãi công ở Liông (Pháp) năm 1831, ở Sơlêdin (Đức) năm
1844 và phong trào Hiến chương ở Anh kéo dài từ năm 1836 đến năm 1848.
Vượt qua khuôn khổ từng quốc gia, cống nhân một số nước châu Âu đà
bước đầu liên kết với nhau trong đấu tranh. Năm 1836, "Đồng minh những
người chính nghĩa" được thành lạp ở Pari, tập hợp đông đảo công nhân, thợ thủ
công các nước Pháp, Đức, Thuỵ Sĩ, Nga, Hunggari, Tiệp, Ý... Đến năm 1847,
với sự tham gia của Mác và Ảnghen, tổ chức này được đổi tên thành "Đồng
minh những người cộng sản" và hai ông được giao nhiệm vụ soạn tháo bán
Tnyên nqôn cho Đồng minh.

72
Tháng 2/1848, Tuyên nqôĩi của Đíhìg Cộng sản được xuất bản lần đầu
tiên tại Luân Đôn. Đây là bân cương lĩnh của phong trào công nhân quốc tế
khảng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, giải phóng loài người khỏi ách
áp bức bóc lột. Bản Tnyê/Ì nạôtì kết thúc bàng lời kêu gọi: "V ò sản tất cả các
nước đoàn kết lạ i!".
Từ dây, mối quan hệ quốc tế trong phong trào công nhân được thiết lập và
ngày càng mở rộng.

2. Sự thành lập và hoạt động của Quốc tế thứ nhất


Trong cuộc Cách mạng tháng 2/1848 ở
Pari, giai cấp công nhân Pháp đã tham gia tích
cực và có vai trò quan trọng trong việc thành
lộp nền Cộng hoà thứ hai (1848 - 1851). Nhưng
sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản
đã không thực hiện nlũmg lời hứa hẹn với công
nhân nên tháng 6/1848, ở Pari đã bùng lên cuộc
khởi nghĩa của đông đáo công nhủn. Những
người khởi nghĩa đòi ban hành một bản hiến
pháp mới "dân chủ, xã hội và nhân dân". Giai c. Mác (1818- 1883)
cấp tư sản Phấp đã trấn áp cuộc khởi nghĩa,
công nhân lập chiến luỹ đê chống trả. Cuộc
khởi nghĩa duy trì được 3 ngày thì bị dìm trong
biến máu.
Cuộc cách mạng 1848 ở Pháp có ảnh
hưởng mạnh mẽ sang Đức, Áo, Hung và nhiều
nước khác, tao nên một cao trào đấu tranh ờ
châu Âu. Giai cấp công nhân tham gia tích cực,
được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh.
Trong sự phát triển của phong trào công
nhân châu Âu, ngày 28/9/1864 Mác, Ảnghen Ph. Angghen (1820- 1895)
và nhiều nhà lãnh đạo giai cấp cồng nhân đã
thành lập H ội Liên hiệp lao động quốc tế (gội tắt là Qnôc té thứ nhất hay Qttốc
tê Ị) tại Luân Đôn. Mục đích của Quốc tê I là "đoàn kết toàn thế giai cấp công
nhân có tinh thần chiến đấu ừ châu Âu và châu M7 thành một đạo quân ío lớn
duy nhất".

73
Sau khi ra đời, Quốc tế I đã thành lập nhiểu chi bộ ở Anh, Pháp, Bỉ, Thuỵ
Sĩ, M ĩ... thu hút đông đào công nhân tham gia. Quốc tế I tiến hành tuyên
truyền, giáo dục công nhân theo tinh thần học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa
học của Mác và Ảnghen. Đồng thời, Ọuốc tế I cũng chỉ đạo phong trào đấu
tranh của công nhản, đặc biệt là phong trào đấu tranh của công nhân Pháp.

3. Quốc tế I và Công xã Pari (1871)


Thất bại trong cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871), Chính phủ Pháp
đà k í Hoà ước Phrăngphuốc (Franfurt) với Đức, chấp nhận nhiều điều kiện nặng
nề: cắt nhượng hai vùng Andát (Alsace) và Lôren (Lorraine) giàu nguyên liệu
cho Đức; bồi thường chiến tranh 5 tỉ phrăng; đê quân Đức chiếm đóng trên lành
thổ Pháp cho đến khi trả xong tiền bồi thường. Nhân dân Pháp không chấp
nhận bản hoà ước nhục nhã đó. Nhân dân và công nhân Pari xảy dựng chiến luỹ
để ngăn ngừa quân Đức tiến vào thành phố. Chính phủ phản động Pháp cho
quân đội đến phá các chiến luỹ của nhân dân, lộp tức gặp sự chống trả mãnh
liệt. Nhân dủn nổi dậy ngày 18/3/1871 đánh đuổi Chính phủ tư sản khỏi Pari,
Thủ đồ thuộc về những người khởi nghĩa. Một cuộc phổ thông đầu phiếu được
tiến hành, ngày 26/3/1871. Chính phủ mới - Hội đổng Còng xã được ĩhành lập.
Đây là nhà nước kiểu mới đầu tiên vì trong thành phần Công xã Pari có nhiều
đại biểu công nhân và các nhà trí thức yêu nước tiến bộ. Công xà Pari ban hành
nhiều chính sách mới nhằm củng cố chính quyền cùa giai cấp cóng nhân, bảo
vệ quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hưởng ửng lời kêu
gọi của Quốc tế I, đại biểu công nhân nhiều nước đã tham gia vào những hoạt
động của Công xã Pari như Tư lệnh lực lượng vũ trang Công xã là Đôm brốpxki
- người Ba Lan, Uỷ viên phụ trách tài chính, lao động và công thương nghiệp là
Phrăngken - người Hunggari, Uý viên phụ trách công tác phụ nữ là Đim ituêva -
người Nga... Nhiều đội quân tình nguyện người Bí, Ý, Ba Lan đà sang chiến
đấu bảo vộ Công xã Pari.
Sau 72 ngày đêm chiến đấu anh dũng, Công xã Pari bị trấn áp. Các chiến sĩ
Công xã cuối cùng đà hi sinh tại nghĩa địa Cha Lasedơ ngày 28/5/1871 - nơi mà
hàng năm, vào ngày này nhừng người cộng sản Pháp và quốc tế vãn đến đặt
những bông hoa tươi thám dưới chân bức tường "K i niệm các chiến sĩ Công xà".
Ngay từ đầu, Mác, Ảnghen và Quốc tế I đã theo dõi sát sao diễn biến của
Pari cách mạng, góp nhiều ý kiến cho các nhà lãnh dạo Công xà và kêu gọi giai
cấp côns nhân quốc tê hày ủng hộ Công xã. Một ngày sau khi Cònc xà thất bại.

74
Mác đà viết xong bán tống kết rút kinh nghiệm dưới nhan đề Nội chiến ờ Pháp
- một tác phẩm kinh điển trong kho tàng lí luận của học thuyết Mác - Lênin.
Phong trào công nhân Pháp và châu Âu đi vào giai đoạn thoái trào. Năm
1876, Ọuốc tế thứ nhất tuyên bố giải tán. Một sản phẩm tinh thần của Công xà
là bài thơ Quốc /¿'của ơgien Pôchiê (Eugene Pottier), về sau được phố nhạc hởi
nhạc sĩ công nhân người Áo Đơ Gâyte (De Gayter), trở thành bài Quốc tê ca,
được truyền bá khắp thế giới.
Từ sau năm 1871, lịch sử châu Âu và quan hệ quốc tế giữa các cường quốc
bước sang một giai đoạn mới.

75
Chương IV

QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG QUÁ TRÌNH XÂM Lược


VÀ TRANH GIÀNH THUỘC ĐỊA ■ •

CÙA CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY

I. N H U C Ầ U TH U Ộ C Đ ỊA C Ủ A CHỦ N G H ĨA Đ Ế Quốc
Châu Á, châu Phi và M ĩ latinh không những là khu vực đỏng dân, giàu có
về tài nguyên thiên nhiên mà còn có vị trí địa lí hết sức quan trọng trong chính
sách bành trướng của chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, quá trình xâm nhập của chủ
nghla thực dân phương Tây vào các châu lục được tiến hành từ rất sớm, bắt đầu
cùng với cuộc hành trình phát kiến địa lí cuối thế kỉ X V - đầu thế kỉ X V I. Ban
đầu, thông qua các hình thức trao đổi buôn bán, các nước phương Tây đã lập
dược nhiều thương điếm và cứ điểm trên con đường giao thương giữa châu Âu
với các châu lục khác. Đặt chân đến các khu vực này, cùng với thương nhân là
các đoàn truyền giáo, các nhà ngoại giao và cuối cùng là hạm đội và binh lính.
Trong quá trình tiến công xâm lược, bọn thực dân vấp phải sự kháng cự kiên
cường của nhân dân các nước bị xâm lược. Đồng thời lại diễn ra các cuộc tranh
giành quyển lợi giữa các nước đế quốc. Quá trình này trờ nên đặc biệt sồi động
vào nửa sau thế kí X IX . Đây là thời kì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền nên các nước đế quốc đều có nhu cầu
lớn về thuộc địa. Đ ối với chủ nghĩa đế quốc, thuộc địa là thị trường tiêu thụ
hàng hoá, nguồn nguyên liệu phục vụ nền cống nghiệp chính quốc, nguồn nhân
lực rẻ mạt trong các cơ sờ đầu tư tại chỗ và nguồn của cải vơ vét qua thuê khoá,
cướp bóc. Hơn nữa, thuộc địa còn là nơi cung cấp binh lính cho chính quốc khi
xảy ra chiến tranh, là cơ sở nâng cao vị thế đế quốc trên trường quốc tế. Do vậy,
các nước đế quốc ráo riết tiến hành chiến tranh xâm lược vỏ cùng tàn bạo và đặt
ách thống trị thực dân hết sức dã man. Đến cuối thế kỉ X IX , hầu hết các nước ờ
Á, Phi, MT latinh đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, thế giới không còn một vùng "đất trống” . Anh và Pháp là hai nước có
diện tích thuộc địa rộng lớn nhất. Cho đến năm 1900, diện tích đất đai thuộc
Anh lên tới 33 triộ u k n r với số dân là 370 triệu người, gấp 10 lần thuộc địa Nga
và 7 lần thuộc địa Pháp. Các đế quốc "trê" Đức, MT, Nhật đều vạch ra chiến
lược bành trướng của riêng mình. Cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa giữa
các đế quốc là điều không tránh khỏi.

77
Đế chế Anh đầu thế kỉ XX

II. cuộc ĐẤU TR A N H PHÂN C H IA PH ẠM V I Ả N H HUỞNG G IŨA


CÁC NUỔC Đ Ế QUỐC ĐỐI VỚI C H Â U Á
Trong suốt thế kỉ X V II - X V III Tây Ban Nha đã hoàn thành công cuộc xâm
lược và cai trị Philippin, Hà Lan đã thiết lạp chế độ thực dân ờ Inđônêxia và
Anh đã chinh phục Ân Độ. Đến thế kỉ X IX , các nước đế quốc ráo riết xâm
chiếm những phần lãnh thổ còn lại và tìm mọi cách để giành giật lẫn nhau.

1. Các nước đẻ quốc xàm lược và phàn chia khu vực ánh hưưng ử Đòng Á
Nhật Bàn
Từ thế kỉ X V II, nhiều người châu Âu đà đặt chân lên đảo Kiusiu để buồn
bán và truyén giáo. Dưới thời Mạc phủ Tokugaoa (1603 - 1867), hoạt động của
họ bị hạn chế, chi có thương nhân Hà Lan được mở thương điếm ở Nagasaki.
Năm 1853 hạm đội MT do Đồ đốc Perry chỉ huy đã thả neo tại cảng Êđô, để
nghị Nhật mở cửa buôn bán với phương Tây. Nhật Bán đã phải kí với MT hiệp
ước không bình đảng, mở các cửa biển cho nước ngoài vào buôn bán với những
điểu kiện ưu đài. Nhật cũng kí với các nước Anh, Pháp Nga... nhiẻu bản hiệp
ước tương tự. Nước Nhật cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược và nô dịch bởi
tư bản Âu MT như nhiều nước châu Á khác. Nhưng cuộc đấu tranh của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của các Sam lirai đã lật đổ dòim họ Tokusaoa, phục hồi
quyển lực của Thiên hoàng Mutsuhitô.

78
Mutsuhitô (1852 - 1912) lên ngôi Thiên hoàng năm 15 tuổi (1867),
hiệu Meiji Tennô (Minh Trị), lãnh đạo thành công cuộc Duy tân nước Nhật
thành một nước tư bản hùng cường.

Giới cầm quyền Nhật Bàn do nhà vua Minh Trị đứng đầu đà tiến hành công
cuộc cải cách trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, quân sự, văn hoá, giáo
dục... làm cho Nhật Bân trở thành một quốc gia tư bán chủ nghĩa duy nhất ở
phương Đông. Hiến pháp năm 1889 quy định Nhật Bản là một quốc gia theo
thể chê quân chủ lập hiến do Thiên hoàng đứng đầu, người điều hành Chính
phủ là thú tướng. Nước Nhật đà thoát khỏi nguy cơ bị nô dịch, dần dần bước
vào hàng ngũ các đế quốc rồi sau đó lại đi xâm lược các nước láng giềng, trước
hết là Trung Ọuốc và Triều Tiên.
Tniỉiq Quốc là một quốc gia rộng lớn, đông dân, giàu tài nguyên. Năm
1840, thực dân Anh tiến hành cuộc Chiến tranh Thuốc phiện, buộc triều đình
Mân Thanh phải kí Hiệp ước Nam Kinh ( ỉ 842).

Chiến tranh thuốc phiện ỏ Quảng Châu

Hiệp ước Nam Kinh 1842 quy định:

1. Trung Quốc phải mở 5 cửa khẩu thông thương Quảng Châu, Phúc
Châu, Hạ Môn, Ninh Ba, Thượng Hải, Thượng Hải; người Anh được cư trú
và lập lãnh sự quán tại những nơi đó.

2. Trung Quốc cắt Hồng Công nhượng cho Anh.


3. Trung Quốc bổi thường cho nước Anh 21 triệu bảng Anh, trả hết
trong 4 năm.

4. Hải quan Trung Quốc phải bàn bạc với Anh vế mức thuế xuất
nhập cảng.

5. Thương nhân Anh được tự do giao dịch tại các cửa khẩu thông
thương.

Đây là bản hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên buộc Trung Quốc phải mở cửa
5 hải cảng ở miền đông nam cho tàu nước ngoài đến buôn bán với mức thuế ưu
đãi, phải cắt nhượng Hồng Công và bồi thường chiến phí cho nước Anh. Năm
1844 nhà Thanh lại phải kí với M ĩ hiệp ước Vọng Hạ, với Pháp hiệp ước Hoàng
Phố với những điều kiện khắt khe về quyền tối huệ quốc, về mức thuế quan, vể
việc người phương Tây được quyền lãnh sự tài phán và tự do truyền đạo. Các
nirớc châu Âu khác như Bỉ, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Na Uy... cũng ép buộc
nhà Thanh phải kí nhừng hiệp ước tương tự. Từ đó, Trung Ọuốc trượt dài trên
quá trình bị các đế quốc phương Tây xâm lược và nô dịch.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong một phần tư
thế kỉ tiếp sau, quân Pháp vừa mở rộng sự xâm lược, vừa phải chống đỡ phong
trào kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Cuối cùng, triều đình nhà Nguyẻn đã
kí Hiệp ước năm 1883 và Hiệp ước năm 1884 chấp nhạn nền cai trị thực dân.
Theo Hiệp ước 1883 (Hiệp ước Hácmăng) và Hiệp ước 1884 (Hiệp
Ước Patơnốt), triều đinh Huế chính thức thừa nhận sự bảo hộ của nước
Pháp trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế; nước Pháp thay mặt Việt Nam
trong mọi việc giao thiệp với ngoại quốc và bảo hộ người Việt Nam ở
nước ngoài; đạt chức Khâm sứ tại Huế thay mặt Chính phủ Pháp có thể
gặp nhà vua bất kì lúc nào; Pháp đóng quân ở những nơi cấn thiết và
huấn luyện, kiểm soát việc bố phòng của quân lính triều Nguyễn...

Cuộc chiến tranh Trung - Pháp xảy ra trên vùng ven biển nam Trung Ọuốc
và ở Lạng Sơn (1884 - 1885). Cuối cùng hai bên đã kí Hiệp ước Thiên Tân, theo
đó nhà Thanh phải thừa nhạn quyển đỏ hộ của Pháp ở Việt Nam.
Ở Caììipiu ỉìia xảy ra sự tranh chấp quyền bảo hộ giữa thực dân Pháp và
Vương quốc Xiêm. Hiệp ước Pháp - Xiêm (1867) quy định Xièm thừa nhận
quyền bào hộ cùa Pháp ờ Campuchia; đổi lại, Pháp cắt nhượng một số đất đai
của Campuchia cho Xiêm. Đến năm 1884, Pliííp hoàn thành việc xâm chiếm đất
nước này.

SO
Cùng thời gian đó, mâu thuẫn Pháp - Xiêm về vân đề quyển bào hộ nước
Lào làm cho tình hình căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh. Nhưng Xiêm
không được sự ùng hộ của Anh nên phải lùi bưức, kí với Pháp hiệp ước năm
1S93 công nhận quyển cai trị của Pháp ờ Lào. Như vậy là Pháp đã hoàn thành
việc xâm lược ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào.
Năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm 3 kì của Việt Nam
và Campuchia, đến năm 1899 sáp nhập thêm Lào. Liên bang Đỏng Dương đặt
dưới quyền cai trị của viên Toàn quyền người Pháp.
Trong thế kỉ X IX , thực dân Anh đà tiến hành xâm lược Miến Điện qua 3
cuộc chiến tranh không liên tục trong 60 năm (1824 - 1826, 1852 - 1853,
1885). Năm 1886, Phó vương Anh ở Ấn Độ tuyên bố sáp nhập Miến Điện vào
Ân Đô như "m ột tính thuộc đia của thuộc địa".
• • • • • •

M ã Lai có vị trí đặc biệt quan trọng trên con đường hàng hải từ Tây sang
Đòrm và ngược lại. Thực dân Anh sớrn phát hiện vị trí chiến lược của eo biển
Malacca và đảo Xingapo, khi đó chỉ là một hòn đảo nhỏ hoang vu, nơi trú chân
của thuyển chài tránh bão và sào huyệt của bọn cướp biển. Đê xâm chiếm khu
vực này, một mặt Anh phải lôi kéo các xunĩan (Ọuốc vương Hồi giáo) trẽn bán
đáo Malacca; mặt khác, phái tìm cách đối phó với Hà Lan là nước đã xác lập
địa vị vững chắc trên quần đáo thuộc địa Inđônêxia. Kết quả là năm 1819,
Xuntan của Vương quốc Giòho đồng ý cho Anh được lập các thương điếm trên
lãnh thổ của vương quốc và độc quyển buôn bán ở Xingapo. Mặc cho Hà Lan
phan đối, Anh dùng vũ lực chiếm Xingapo rồi đánh bật Hà Lan ra khỏi
Malacca. Năm 1824, Hiệp ước Anh - Hà được kí kết, quy định cho Anh chiếm
những lãnh địa của Hà Lan ở Ân Độ và Malacca; đổi lại, Anh trao cho Hà Lan
các cứ điểm xây dựng trên đảo Xumatra. Tìr đó, Anh đẩy mạnh việc xâm chiếm
vùng lãnh thổ trên bán đảo, đến năm 1867, thành lập "Các thuộc địa eo biển"
gồm Xingapo, Malacca, Pênang, đặt dưới quyền quản lí trực tiếp của Bộ thuộc
địa Anh.
Giữa thế kỉ X IX , Viíơnq quốc Xiẻtìì (Thái Lan) cũng phải đối mặt với nguy
CƯ bị xâm lược. Trong những năm 50 của thế kỉ X IX , Xiêm phải kí nhiều hiệp
ước không bình đẳng với các nước tư bản, buộc phải mở cảng biến, chấp nhận
mức thuế xuất nhập khẩu thấp, các nước được hường quyền lãnh sự tài phán và
tối huệ quốc. Song vua Xiêm Chulalongcon (Rama V ) trị vì từ năm 1868 đến
năm 1910 đã tiến hành công cuộc cái cách nhằm phát triển đất nước theo con
đường tư bân chủ nghĩa.

81
Chulalongcon (Chulalongkorn, 1853 - 1910) vua nước Xiêm (Thái
Lan) hiệu Rama V, lên ngôi năm 1868. ô n g ban hành nhiều chính sách
cải cách: giải phóng nô lệ, khuyến khích phát triển công thương nghiệp,
xây dựng đường sắt và bến cảng, lập chế độ nghĩa vụ quân sự, tổ chức
hệ thống hành chính và giáo dục theo kiểu phương Tây, mở rộng quan hệ
ngoại giao với nhiều nước trên thế giới.
Về đối ngoại, Xiêm trở thành nơi ĩranh chấp giữa hai đế quốc Anh và Pháp.
Nàm ở vị trí "nước đệm" giữa hai thê lực, Xiêm có nguy cơ biến thành miếng
mồi cho hai đê quốc xâu xé. Song vì Anh và Pháp còn phải liên kết đê chống đỡ
sức ép của Đức ờ châu Âu nên hai nước kí thỏa ước Luân Đôn năm 1896, chủ
trương vẫn giữ nền độc Ịập của vương triều Băng Cốc nhưng chia khu vực ảnh
hưởng theo dòng sông Chao Phraya (sông Mê Nam): Anh được quyền khai
thác, đầu tư ở phía Tây, Pháp ở phía Đỏng. Đế giảm bớt nguy cơ phụ thuộc bên
ngoài, vua Rama V thi hành chính sách ngoại giao khôn khéo, giữ thế cân bằng
giữa hai cường quốc nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia. Năm 1904 và 1907, hai bán
hiệp ước Pháp - Xiêm được kí kết, theo đó, Xiêm cắt nhường cho Pháp một sô
vùng đất vốn thuộc lành thổ Campuchia và Lào để đổi lấy việc Pháp trả lại cho
Xiêm vùng Chantaburi, Đanxai và Krat. Năm 1909, Hiệp ước Anh - Xiêm được
kí, theo đó, Xiêm nhường cho Anh một số vùng đất phía nam vốn thuộc các
xuntan Mã Lai để đổi lấy việc Anh từ bỏ quyền lành sự tài phán và cho Xiêm
vay tiền xây dựng đường sắt xuyên bán đảo Malắcca. Cũng trong năm này, Anh
Pháp khắng định lại việc phân chia khu vực ảnh hưởng đối với Xiêm. Như vậy,
bằng công cuộc cải cách và chính sách ngoại giao khôn khéo, vương quốc
Xiêm vẫn giữ được nển độc lập tuy không trọn vẹn.

2. Các nước đê quốc xàm lược và phân chia khu vực ảnh hưửng ở Nam Á
Thực dân Anh bát đầu công cuộc chinh phục Ả/ì Dộ từ thế kỉ X V II. Sau khi
loại được Pháp ra khỏi cuộc tranh giành tiểu lục địa này (chiến tranh Bảy năm
1746 - 1763), quân Anh ngày càng mở rộng phạm vi chiếm đóng. Đến những
năm 50 của thế kỉ X IX , sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Xipay của nhân dân Ân
Độ, thực dân Anh về cơ bản đã áp đặt ách thống trị lên đất nước này. Ngày
1/7/1887, Nữ hoàng Anh Víchtoria chính thức lên ngôi Hoàng đế An Độ, coi
7

An Độ như một lãnh íhô trực thuộc nước Anh do một viên quan người Anh
đứng đầu gọi là Phó vương. Sự kiện đó đánh dấu bước hoàn thành cổng cuộc
chinh phục của thực dân Anh ờ Ân Độ.
Cùng với việc xâm chiếm Ấn Độ, thưc dân Anh còn thi hành chính sách
bành trướng ở ỉ ran, Ápqatii.xtun và nhiều vùng khác ở Tây Á. Iran và

82
Ápganixtan là hai nước vùng biên giáp Ân Độ nên Anh muốn thiết lập một
vành đai an toàn tại khu vực này. Nhims Anh đã vấp phải sự chống đối quyết
liệt của Nga vì Iran và Ápganixtan ỉà những nước gắn bó mật thiết về quyền lợi
và an ninh cùa Nga. Mâu thuẫn Nga - Anh vì thế trờ nên cãng tháng và có nguy
cơ dẫn đến chiến tranh. Cuối cùng, cả hai bên tìm lối thoát bằng sự thoá hiệp
năm 1885 cho phép Nga được hưởng quyền lợi ở vùng Tây Bắc Ápganixtan,
phần còn lại thuộc khu vực ảnh hưởng của Anh. Năm 1887, hai nước kí biên
bản phân định lại biên giới giữa Ápganixtan và Nga.
Trong thời gian đó, nhà vua Iran là Nátét Đin (1848 - 1896) chù trương mở
cửa với phương Tây, đã ba lần đi thăm các nước châu Au đê đặt quan hệ ngoại
giao và sử dụng nhiều cố vấn phương Tây trong bộ máy chính quyền. Các chức
vụ quan trọng ở miền Bác nằm trong tay người Nga, ở miền Nam trong tay
người Anh. Ngoài ra các chuyên gia người Đức, Bỉ, Pháp, Ý cũng chiếm nhiều
địa vị trong các cơ quan của Iran. Năm 1905 - ỉ 907, ở Iran nổ ra cao trào cách
mạng dân chủ, đòi nhà vua thi hành chế độ bầu cử, triệu tập quốc hội, ban hành
hiến pháp... Lợi dụng thời cơ, thực dân Anh tuyên bố ủng hộ phong trào dân
chủ nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của Nga ra khỏi đất nước này. Nga hoàng khi dó
đang phải đối phó với cao trào cách mạng trong nước, lại vừa thua trận trong
cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - ỉ 905) nên tìm cách giảng hoà. Hiệp định
Anh - Nga kí năm 1907 quy định việc phân chia khu vực ảnh hưởng ở Iran: Nga
ở phía bắc, Anh ở phía nam, vùng giữa là khu vực trung lập.

3. Sự tranh giành quvền lọi giữa các đè quốc ở Trung Quốc và Triều
Tiên. Chính sách mở cửa của M ĩ
Đến cuối thế kỉ X IX , Nhật Bân là đế quốc trẻ ở châu Á tìm cách bành
trướng thế lực ở Trung Ọuốc và Triều Tiên. Năm 1894 bùng nổ cuộc chiến
tranh Trung - Nhật (thường gọi là Chiến tranh Giáp Ngọ). Nhà Thanh không có
ý chí và không đủ sức mạnh chống lại Nhật, nãm 1895 phải kí bản Hiệp ước
Mã Ọuan (Simỏnôsêki) qua vai trò trung gian của MT. Theo đó, Trung Ọuổc
phải bồi thường 200 triệu lạng bạc, cắt nhượng cho Nhật đảo Đài Loan, bán đảo
Liêu Đỏng và quần đảo Bành Hồ, tuyên bố rứt bỏ quyền bảo hộ đối với Triều
Tiên, có nghĩa là đê cho Nhật được tự do xâm chiếm bán đảo này.
Việc Nhật Bân chiếm Liêu Đông và Triều Tiên không những trực tiếp uy
hiếp đến an ninh lãnh thố của Trung Ọuốc mà còn đe doạ cả miền Viễn Đỏng
của Nga. Được sự ủng hộ của Đức và Pháp, Nga yêu cầu Chính phù Nhật trả
lại cho Trung Ọuốc bán đáo Liêu Đông. Do không được sự ủng hộ của Anh,

83
M7 nên Nhạt chấp nhận yêu cầu trên với điều kiện Trung Ọuôc phái nộp cho
Nhật 30 triệu lạng bạc. Sau khi dược Nhật trao trả Liêu Đòng thì nhà Thanh
lại cho Nga thuê, làm cho sự tranh chấp giữa Nga và Nhật ò vùng Đông Bắc
Trung Ọưôc trở nên gay gắt. Năm 1896, Nga được phép xây dựng đường sắt
Mãn Châu, năm 1898 Nga lại yêu cầu thuê hai cảnc Đại Liên và Lữ Thuận.
Cùng với sự bành trướng của Nga, các nước tư bản khác cũng đẩy mạnh xâu
xé Trung Quốc.
Năm 1897, Đức được quyền thuê Giao Châu, đặt đường sắt, khai mỏ và
hưởng quyền iru tiên kinh doanh ờ bán đào Sơn Đồng. Năm 1898, Pháp được
quyền thuê Ọuảng Châu Loan, đầu tư xây dựng đường xe lửa ở Vân Nam và
khai mỏ ở ba tỉnh Ọuảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam. Riêng Anh là nước có
cơ sở từ trước nên giành được nhiều đặc quyền đặc lợi về buôn bán ở vùng hạ
lun sông Trường Giang, được quyền thuê Uy Hải Vệ, bán đảo Cửu Long, một
phần Vân Nam...
Trong khi các nước tư bản châu Âu và Nhật Bản phân chia phạm vi ánh
hưởng ở Trung Ọuốc thì MT chưa có khu vực nào trên lành thổ này. Để có thể
len chân vào thị trường Trung Ọuốc, tháng 9/1899 MT đưa ra "chính sách mở
cửa". Nội dung của chính sách mở cửa bao gồm ba điểm chính:
- Hàng hoá của các nước phải theo chế độ thuế quan của Trung Quốc và do
chính phủ Trung Quốc thu thuế.
- Không can thiệp vào lợi ích của các nước đà giành dược ở Trung Ọuốc,
phải tôn ĩrọng những điều ước đã kí kết.
- Trong mỏi khu vực ánh hưởng của từng đế quốc, không được thu thuế
cao đối với tàu bè và hàng hoá của các nước khác.
Thực chất của chính sách mở cửa do MT đề xướng là nhằm giữ Trung Quốc
trong nguyên trạng, không cho phép các nước tư bản châu Âu và Nhật bản mở
rộng thế lực, tạo cơ hội để MT có thể xâm nhập vào Trung Quốc. Như vậy, về
hình thức, triều đình Mãn Thanh vẫn tồn tại, nền độc lập vẫn được duy trì
nhưng trên thực tế, lãnh thổ Trung Quốc đà bị chia thành nhiều khu vực ảnh
hưởng, ở đó, các đế quốc có quyền buôn bán, xây dựng đường sắt, khai thác và
đầu tư. Trên một đất nước rộng lớn và trong sự tranh giành giữa các đế quốc,
không một nước nào có thê độc chiếm Trung Quốc nên đành chấp nhận chính
sách mở cửa của MT như một sự thỏa hiệp đê cùng nhau bóc lột đất nước này.
Đến cuối thế kí X IX , Trung Ọuốc đã thực sự biến thành một nước nửa thuộc
địa, nửa phong kiến.

84
THAI
TRUNG QUỐC

DƯƠNG

Những vùng thuộc vê Nhật Bản


^■1895 E S 11919 Y/ A ỊQ.T7
L—]1906 HIU]1933 ^^31941
Nhật Bản mỏ rộng thuộc địa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
• m • •

Từ sau chiến tranh Trung - Nhật, mâu thuẫn Nga - Nhật liên quan đến
quycn lợi của hai nước ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và Triều Tiên ngày càng
trở nên gay gắt. Đặc biệt trong thời kì liên quân 8 nước đàn áp phong trào
Nghĩa Hoà đoàn, từ tháng 8 đến tháng 9/1900 Nga lần lượt chiếm ba tỉnh phía
đông bao gồm Hắc Long Giang, Cát Lâm, Nhiệt Hà.
Được sự ủng hộ của Anh và MT, Nhật Bản quyết định tiến hành chiến tranh
với Nga để độc chiếm Đông Bắc Trung Ọuốc và Triều Tiên làm thuộc địa. Anh
và MT cũng muốn lợi dụng cuộc chiến tranh này đê mượn tay Nhật ngăn chặn
sự bành trướng của Nga ở Viễn Đỏng, làm cho cả Nga và Nhật suy yếu đê thu
lợi cho mình. Chiến tranh Nga - Nhật bùng nổ vào tháng 2/1904 và kết thúc
bang sự thắng lợi của Nhật Bán. Ngày 5/9/1905, Hiệp ước Nga - Nhật được kí
kết ở Pốtxmao, theo đó Nga thừa nhận Nhật Ban được quyền bâo hộ Triều Tiên
cùng với các quyền lợi về kinh tế và chính trị trên bán đảo. Trên thực tế, Triều
Tiên bị biến thành thuộc địa của Nhật (1912 - 1945). Ngoài ra, Nhật Bản được
quyền chiếm bán đảo Liêu Đòng cũng như chiếm con đường sắt Nam Mãn
Châu, chiếm phía nam đào Xakhalin và được quyén đánh cá ớ miền biên Viễn
Đỏng của Nga.
Với thắng lợi trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật, vị thế của Nhật không
những dược tăng cường ờ khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà Anh, M7 cũng
đạt được mục đích là làm suy yếu Nga ở khu vực Đông Á. Tuy nhiên, sự mờ
rộng ảnh hưởng của Nhật đã đe doạ đến quyển lợi của M ĩ nên M7 tìm cách liên
minh với Anh đê đối phó. Ngirợc lại, Nhật Bán cũng liên minh với Nga đê bảo
vệ quyền lợi về đường sắt tại khu vực này. Mâu thuẫn Nhạt - MT về quyền lợi ờ
Trung Ọuốc và Thái Bình Dương trở nên căng thẳng. Mặc dù hai nước đã đạt
được giải pháp giữ nguyên lực lượng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
tôn trọng quyển lợi lẫn nhau ở Trung Quốc nhưng mâu thuẫn vẫn không giải
quyết được. Tháng 10/1909, MT tuyên bô "quốc tế hoá" đường xe lửa ở Mãn
Châu đã đẩy Nga liên minh với Nhật Bản. Ngày 4/7/1910, Hiệp ước Nga - Nhật
được kí kết quy định duy trì nguyên trạng ở Mãn Châu và nếu Mãn Châu bị đe
doạ thì cả hai nước sẽ phối hợp hành động. Trong khi mâu thuẫn Nhật - MT
chưa giải quyết được thì mâu thuẫn Anh - Nhật lại nảy sinh. Trong cuộc chiến
tranh Nga - Nhật, Anh ùng hộ Nhạt Bân để ngăn cản sự bành trướng của Nga và
hai bên đã kí kết Hiệp định liên minh tương trợ về quàn sự. Nhưng sau chiến
tranh, Nhật tăng cường xâm nhập vào Trung Ọuốc đà đẩy Anh xích lại gần MT
và do đó Anh yêu cầu Nhật Bân sửa lại nội dung của Hiệp định, không phải
chịu sự ràng buộc như trước nữa, đặc biệt là những điều khoản liên quan đến
nghĩa vụ tương trợ quân sự.
Như vậy, đến đầu thế kỉ X X mặc dù các nước đế quốc đã phân chia xong
phạm vi ánh hường ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhưng do sự thay đổi
tương quan lực lượng nên cuộc đấu tranh đế phân chia lại vẫn tiếp tục và mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc vì thế càng trở nên sâu sắc hơn.

III. CÁC NUỔC Đ Ế QUỐC XÂM LUỢC VÀ PHÂN CHIA KHU v ự c


Ả N H HUỚNG Ở C H Â U PHI
1. Các nước đẻ quốc bành trướng và phân chia châu Phi
Từ đầu thế kỉ X V I, trong các cuộc hành trình tìm đường sang phươim Đông,
người Bồ Đào Nha đà xâm chiếm và đặt ấch thống trị thực dân ở một số nước ven
biên châu Phi như Ghinê Bitxao, Ảnggôla, Môdãmbích. Vào nửa cuối thê kí
X V II, người Hà Lan chiếm vùng đất phía nam clìâu Phi. Nhiều thế hệ di dân Hà

86
Lan sinh sông ở đây được gọi là người Bòơ (Boers), dần dần lập thành hai nước là
Tranxvan và Orangiơ. Đầu thế ki X IX , người Anh đến xâm chiếm mỏm đất cực
nam là Gíp - một vị trí chiến lược cực kì quan trọng để tiến dần vào đất lién phía
trong và án ngữ đường sang phương Đòng. Vào những năm 20, MT mua một
vùng đất ớ phía tây châu Phi để đưa một sô người nò lệ da đen đã mãn hạn trở về
chùu Phi, lập thành một quốc gia phụ thuộc MT tcn là Libéria.
Từ giữa thế ki X IX quá trình bành trướng thuộc địa của các nước tư bản
phương Tây mới được tăng cường, trong đó chủ yêïi là Anh và Pháp. Ngoài ra
còn có một số nước khác như Bí, Ý và Đức. Đến cuối thế kỉ X IX , cuộc đấu
tranh phân chia phạm vi ánh hưởng ở châu Phi giữa đế quốc Anh và Pháp vé cơ
bán đã hoàn thành.

BIẼMÍ>ES

00 Ufrdàyra
CHÂU Á
MẠ- R QcrT T irrriri- irriT Tx
00
, 1 : 1 f71 r: :.xb : 1= 1B
T T t T r r r r r~ r T I I o r

A » • •
• ^
• •
Y ^
> 1 W a N -g Iè -R
I 1 JL .1 =E=T ; .LZÈ- ir i- in T - I , : 1 -J*
• • • • ^ *

• • • • f 1 I
• • • • T

• • • • • # ]

• • • • • C ^ ' T f

IGAM-81-A z i
T
i±Etr!n5 I I I I

l rV
1±J±rV
T T Ĩ Ĩ T

13
r> T
1r T
~ T ~ r~ î

TÔ-GÔ (ĐỨC)

VỊ NHCHÌ SÊ 0ỎNG PHI (A)

c ỖNG- G6

I LU
h m IHI s til! m\
\ l l i i i l .
) = III! = Hii 3 I h:
/ s m m un2 mit
í IH S IIII mI!|I m lE
An ô - g ô l a -

Thuộc địa Bì

Thuồc địa Anh


TO-RAJi-XV,
Thuộc dịa Đức XOA-DI-LEN

Thuòc đia Pháp L.BNAM PHI

Thuộc dia l-ỉa-lỉ-a


Thuộc địa Bố Đào Nha
Thuòc dịaĩày Ban Nha

Thuộc địa các nưởc đế quốc ỏ châu Phi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Đôi với Pháp, hướng ưu tiên trong chính sách bành trướng ứ châu Phi là
nhằm vào vùng Bắc Phi vì nơi đày chi cách Pháp vùng biến Địa Trung Hải, lại
là cửa ngõ đế Pháp đi xuống phía nam. Từ năm 1830, thực dân Pháp bát dầu
xâm lược Angiêri, đến những năm 50 Angiêri bị biến thành thuộc địa. Năm
1881, Pháp chiếm Tuynidi tạo nên thế liên hoàn với A ngiêri. Việc Pháp chiếm
Tuynidi dã đụng chạm quyền lợi của Ý, đẩy Ý ngả về khôi Liên minh Đức - Áo
Hung. Sở dĩ như vậy là vì ngoài quyền lợi về kinh tế, Tuynidi còn chiếm giữ vị
trí chiến lược quan trọng ở Bắc Phi, cùng với đảo X ix ilia của Ý khống chè vùng
biển hẹp nhất của Địa Trung Hải. Năm 1885, Pháp chiếm Mađagaxca lập chế
độ bào hộ, đến tháng 10/1895 biến thành xứ thuộc địa. Cùng thời gian này, thực
dản Pháp đã chinh phục phần lớn Tây Phi bao gồm Xênêgan, Ghinê, một phần
Cônggô và nhiều vùng đất khác.
Riêng A i Cập từ lâu đă trờ thành nơi tranh chấp giữa Anh và Pháp. Giữa
những năm 70 của thế kỉ X IX , A i Cập bị lôi cuốn vào guồng máy kinh tế thế
giới. Tại đây, Anh và Pháp đã tiến hành các hoạt động buôn bán và có mưu đồ
biến A i Cập thành một nước nửa thuộc địa. Năm 1869, kênh đào Xuyê được
xây dựng nên việc chiếm A i Cập có tầm quan trọng quyết định đối với quyền
kiểm soát kênh đào. Điều dó đồng nghĩa với việc khống chế con đường giao
thông huyết mạch nối liền Đại Tây Dương - Địa Trung Hải - Ân Độ Dương -
Thái Bình Dương, ngắn hơn nhiều lần con đường đi vòng qua mỏm cực nam
châu Phi. Vì sự trung lập của A i Cập mà quan hộ Anh - Pháp tại đây trở nên
căng thẳng. Lợi dựng sự khó khăn về kinh tế cùa A i Cạp, Anh buộc A i Cập bán
cổ phần tham gia vào công ti kênh đào Xuyê cho Anh và đòi quyền kiểm soát
tài chính. Tháng 9/1882, lấy cớ bảo vệ kênh đào Xuyê, thực dân Anh đưa quân
chiếm đóng A i Cập, chiếm luôn kênh đào Xuyê tạo nên một sự liên hoàn với
các đảo Manta và Síp trên Địa Trung Hải. Do bận đối phó với khối Liên minh
Đức - Áo Hung - Ý, Pháp phải tập trung lực lượng ở châu Âu nên đành chấp
nhận đê cho Anh thôn tính A i Cập. Sau khi xâm chiếm A i Cộp, thực dân Anh
đánh chiếm Xuđăng. Tại đây đà diẻn ra sự tranh chấp hết sức căng thẳng giữa
Anh và Pháp kéo dài từ năm 1885 đến năm 1898. Cuối cùng, hai nước đạt được
sự thoả thuận trong việc phân chia Xuđăng. Theo đó, Pháp chiếm phần Tây
Xudãng và phần còn lại thuộc Anh. Đến đây biên giới Anh - Pháp ở Trung Phi
về cơ bản đã được điều chỉnh. Ngoài A i Cập, Xudăng, trong thời gian này Anh
cũng hoàn tất quá trình xâm chiếm Nigiêria, vùng Đỏns Phi gồm Xôm ali,
Kênia, Tandania, Uganda, Dandiba và hầu hết đất đai ờ miền Nam Phi chỉ trừ
hai nước Orangiơ và Tranxvan của người Bỏơ - những di dân Hà Lan đã đến
định cư lâu đời tại dây là chưa bị chiếm.

Ngoài Anh và Pháp, châu Phi còn là nơi tranh chấp của các nước
thức dân châu Âu khác. Đức tiến hành xâm chiếm thuỏc địa muôn hơn so
• • • •

với các nước khác nên tạm bằng lòng với những phần đất đã chiếm được
ở Đông và Tây Phi: năm 1884 thành lập thuộc địa "Tây Nam Phi thuộc
Đức", năm 1885, thành lập "Đông Phi thuộc Đức", đồng thời chiếm
Camơrun và Tôgô ở Trung Phi. BỈ chiếm được phần lớn đất đai ở Cônggô.

Đê dàn xếp sự tranh chấp giữa các nước đế quốc ờ châu Phi, một hội nghị
quốc tế được triệu tập ở Béclin năm 1884 - 1885 có 14 nước tham gia. Hội nghị
đạt được sự thoả thuận chung về tự do buôn bán, đi lại bằng đường thuỷ, quy
định các đường ranh giới ở Tây Phi và Cônggô, nêu những nguyên tắc chiếm
đóng có hiệu quả ở châu Phi. Nhưng cuộc dàn hoà ở Béclin không làm vừa lòng
các cường quốc phương Tây nên các nước đế quốc lại tiến hành Hội nghị
Brúcxcn (1889 - 1890). Trong Hội nghị này, các nước phương Táy thoả thuận
về việc phân định các vùng ảnh hưởng của mối nước, cam đoan thống nhất
hành động để đánh bại đối thủ kình địch là A Rập và nỏ dịch hoàn toàn các dân
tộc châu Phi. Thực ra, Hội nghị Briicxen 1889 chi thoả mãn quyền lợi của Anh,
Pháp mà không đáp ứng tham vọng của Đức nên mâu thuẫn giữa Anh, Pháp với
Đức ở châu Phi không những không giám mà ngày càng trớ nên căng thẳng.

2. Chiến tranh Anh - Bòơ (1899 - 1902)


Tham vọng của Anh là nối liền thuộc địa của Anh từ Nam Phi tới A i Cập
rồi vươn sang phía đông đến An Độ, Miến Điện; xây dựng đường sắt 3C từ
thành phố Cáp (Nam Phi) qua Cairô (A i Cập) đến Cancútta (Ấn Độ) nhằm ngăn
chặn kê hoạch của Pháp, Đức, Bồ Đào Nha cũng mong muôn nôi liền các thuộc
địa của họ ở Đông và Tây Phi. Lúc bấy giờ ở Nam Phi, hai nước cộng hoà
Tranxvan và Orangiơ còn giữ dược nền độc lập và nằm trên đường nối của kế
hoạch 3C nên thực dân Anh quyết tâm thôn tính. Tháng 10/1899, Anh phát
động cuộc chiến tranh Anh - Bòơ xâm lược hai nước cộng hoà này.

Bỏơ theo tiếng Hà Lan có nghĩa là nông dân, tên gọi những người
dân di thực từ Hà Lan đến xâm chiếm, khai thác và sinh sống ở miền
Nam châu Phi, thành lập 2 nước cộng hoà nhỏ bé là Orangiơ (Orange) và
Tranxvan (Transvaal) từ đầu thế kỉ XIX.

89
Trong vòng 3 năm từ 1899 - 1902, người Bôơ đà chiến đấu anh dũng, gây
cho thực dân Anh nhiều tổn thất nặng nề, thiệt hại đến 400 OCX) quân. Cuối
cùng, do tương quan lực lượng chênh lệch cùng với việc người Bóơ không dám
phát động cư dân bán địa người da đen đứng lên tiến hành cuộc chiến tranh
chốn£ thưc dân Anh nên họ đà thất bại.
C / • • •

Như vậy, đến những năm 90 của thế ki X IX , vé cơ bản các nước đê quốc đã
phân chia xong thị trường thế giới. Tuy nhiên, sự vươn lên của các đế quốc
"trẻ" có tiềm lực vé kinh tế nhưng không có nhiểuthuộc địa đòi hói phảicó sự
phân chia lại thế giới. Điều đó có thể thực hiện bằngviệc giành giật từ tay chủ
này sang chủ khác chứ không còn vùng đất nào chưa bị chiếm nữa. Nguy cơ
bùng nổ chiến tranh là điéu khó tránh khỏi.

IV. S ự B À N H TRƯỚNG CỦA NƯỚC MĨ Ở KHU v ự c MĨ LATINH


1. Sự hình thành các quốc gia độc lặp ở M ĩ latinh
Việc phát hiện lục địa châu M7 đã mở ra một miển "đất hứa" đôi với nhiều
người châu Âu. Từ đầu thế kí X V I, làn sóng người di cư từ Tây Ban Nha, Bỏ
Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan, Thuỵ Điển... vượt Đại Tây Dưưng sang sinh cơ
lập nghiệp trên vùng đất mới. Người Tây Ban Nha chiếm cứ nhiều lãnh thổ ờ
Trung Nam M ĩ, trừ Braxin là thuộc Bồ Đào Nha. Người Anh, người Pháp, người
Hà Lan chiếm được vùng Guyan nhỏ bé - nay là Guyana (Anh), Xurinam (Hà
Lan), Guyan (Pháp).
Những người châu Âu đã đẩy lùi người bán địa Inđiân vào các vùng núi
rừng hiểm trở đê chiếm đất làm thuộc địa di dân, lập đồn điển, đi tìm vàng và
khai thác mỏ. Trải qua vài thế hộ, những cộng đổng người gốc Âu cùng những
người bản địa và người gốc Phi (thường là thân phận nô lệ) hình thành những
cộng đồng mới, xa cách dần quê hương xuất xứ của cha ông họ. Họ có nhu cầu
thiết lập các quốc gia riêng biệt, không phụ thuộc vào các cường quốc châu Âu.
Cuộc chiến tranh chống thực dân Anh của nhân dân Bắc MT lập nèn một nhà
nước độc lập là Liên bang MT (1776) đã khích lệ tinh thần đấu tranh giành độc
lập trên toàn châu lục. Đến những năm 1 0 - 2 0 của thế kí X IX ở vùng Trung -
Nam MT (được gọi là MT latinh) đã ra đời nhiêu nhà nước độc lập.
Nhân dân các nước Mêhicô, Vênêxuêla, Bôliva, Áchentina, Côlômbia,
Chile, Braxin... phải trải qua cuộc đấu tranh đầy gian khổ chống ách thực
dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha lấn lượt tuyên bố độc lập. Tên tuối các nhà
lãnh đạo Misen Hiđangô, Miranda, Xan Máctin, Simôn Bôliva... gắn liền với

90
thành công của sự nghiệp giải phóng các nước Mĩ latinh. Chỉ còn Cuba và
Puéctồ Ricô vẫn nằm dưới ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha.

2. Sự ra đời học thuyết Mơnrò (Monroe)


Sau cuộc chiến tranh giành độc lặp, nước MT tìm mọi cách mở rộng lành
thổ và tìm kiếm thị trường. Từ 13 bang ban đầu đến giữa thê ki X IX , nước MT
đã phát triển vé phía tây lên thành 30 bang với diện tích khoáng 5 triộukm2.
So với các nước châu Âu thì MT có lợi thế vé vị trí địa lí khi toàn bô lue địa
• • • t • •

châu MT được bao bọc bởi 2 dại dương là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
Chính ưu thế đó đã cho phép giới cầm quyén MT vạch định chính sách đối ngoại
thích ứng với từng thòi kì lịch sử nhất định.
Hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của MT trong giai đoạn này là
nhầm tới khu vực MT latinh bởi vì nơi đây gắn liền với nền an ninh quốc phòng
và sự ổn định kinh tê của M7. Chính quyën MT thực hiện cái gọi là "chính sách
đối ngoại cách li" nhằm sử dụng lợi thế cách li với châu Âu dế gạt dần hoặc đẩy
xuống hàng thứ yếu ảnh hưởng của các nước tư bản châu Âu ở khu vực này.
Ngày 2/12/1823, Tổng thống MT Mơnrô chính thức tuyên bố chính sách của MT
đối với vùng MT latinh như sau: "Lục địa châu M7 đà chọn và duy trì được độc
lập, tương lai của nó không thế bị một cường quốc châu Âu nào đô hộ nữa".
Nội dung của Học thuyết Mơnrô được thể hiện trên 3 phương diện sau:
1. MT phái quan tâm đến các cuộc tranh chấp ở khu vực MT latinh.
2. Vì lí do an ninh của nước M ĩ, M ĩ sẽ có hành động can thiệp vào các cuộc
xung đột hoặc chiến tranh giữa các nước với nhau cũng như chiến tranh giữa họ
với các nước bên ngoài. MT cũng sẽ tham gia vào các cuộc tranh chấp kinh tế,
chính trị ỡ châu M ĩ.
3. M ĩ tự cho rằng phải có "trách nhiệm bảo vệ” an Iiinh của cả chàu lục
khỏi sự nhòm ngó từ bên ngoài.
Tuyên bố trên nêu khẩu hiệu nổi tiếng "Châu MT của người châu M ĩ" mà
thực chất nội dung của nó là muốn biến thành "Châu MT của người M ĩ". Học
thuyết Mơnrô là lá bùa hộ mệnh để cho MT giữ nguyên trạng tình hình ớ khu
vực này, chống lại m ọi sự can thiệp của bất kì quốc gia nào ngoài châu M7.
Đó chính là công cụ để M ĩ mở rộng ảnh hưởng ở MT latinh và sau này sẽ vươn
ra các khu vực khác trên thế giới. Nước M ĩ sẽ đóng vai trò "cảnh sát ở Tây
án càu .
' _ í I »
b

91
3. Sự thành lặp Liên minh toàn châu M ĩ và cuộc chiến tranh M ĩ - Tày
Ban Nha (1898)
Sau cuôc nội chiến 1861 - 1865, nén kinh tế MT có bước tiến vươt bâc, nirớc
• • ’ t • '

MT nhanh chóng trở thành một quốc gia công nông nghiệp phát triển. Nếu năm
1860, nước MT đứng hàng thứ tư vể sản lượns công nghiệp thế giới thì đến năm
1894 đã chiếm một nửa sản lượng công nghiệp các nước Tây Âu cộng lại và
gấp 2 lần nước Anh. Vì vậy, từ những năm 70 của thế kí X IX trở đi, cùng với sự
phát triển của nén công nghiệp và tham vọng của giới tư bản tài chính, hoạt
động xâm lược của M ĩ được đẩy mạnh. Đ ịa bàn chiến lược của MT lúc này vẫn
là vùng Trung Nam M ĩ. Mặc dù, đã giành được nhiểu quyển lợi ở Mêhicồ và
một số nước ờ Trung MT, MT vẫn không từ bỏ tham vọng áp đặt ách thống trị
lên toàn bộ khu vực M ĩ latinh.
Năm 1889, M ĩ triệu tập "H ội nghị toàn châu MT" đầu tiên ở Oasinhtơn. Kết
quả của Hội nghị đưa đến sự ra đời Cơ quan thương mại của các nước châu MT,
sau đổi thành Liên minh toàn châu M7. Dưới khẩu hiệu Hợp tác, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau", Liên minh đà ràng buộc các nước phụ thuộc vào MT cũng
như tuân thủ một cách tuyệt đối đường lối chính trị do MT vạch ra. Đồng thời
qua tố chức này, MT đấu tranh với Anh và các nước châu Âu để giành quyển bá
chủ ở MT latinh và nâng cao vị thế của MT trên trường quốc tế.
Năm 1898 M7 tuyên chiến với Tây Ban Nha nhằm chiếm thuộc địa của
nước này.
Đến cuối thế kỉ XIX, Tây Ban Nha còn một số thuộc địa ở vùng biển
Caribẽ và Thái Binh Dương, trong đó đáng chú ý là Cuba và Philippin.
Gây ra vụ chiến hạm Main của Mĩ bị nổ và chìm ở cảng La Habana trong
chuyến viếng thăm hữu nghị Cuba, Mĩ đổ riệt tội cho Tây Ban Nha rồi lấy
cớ đó để gây chiến tranh. Cuộc chiến tranh Mĩ - Tây Ban Nha chỉ kéo dài
trong 3 tháng. Tây Ban Nha bị đánh bại phải chấp nhận Hoà ước Pari
(12/1898), theo đó, Tây Ban Nha phải nhượng cho Mĩ các đảo Cuba,
Puéctô Rico, Haoai, Guam và Philippin. Đổi lại, Tây Ban Nha được nhận
món tiền "bồi thường" 20 triệu USD.

M7 chiếm hai mục tiêu chính là Cuba và Philippin tức là chiếm được hai
cứ điểm quan trọng để từ đó có thể tiến xuống M7 latinh và bước vào thị
trường Trung Quốc. Cùng với Puéctô Ricò, Cuba ỉà chiếc chìa khoá ở vùng
biến Ảngti và eo biển Panama, là cửa ngõ bước vào Trung - Nam MT. Bằns
việc làm đó, giới cầm quyển M ĩ đã thực hiện một khâu có tính chất bước

92
ngoặt đẩy các thế lực tư bản châu Âu ra khỏi Trung - Nam M ĩ, nơi mà học
thuyết Mơnrô coi là "sân sau" của nước M7. Các đảo Haoai, Xamoa, Guam và
quần đảo Philippin trở thành những chân cầu đê MT vươn sang Đòng Á mà
mục tiêu chính là Trung Ọuốc.
Như vạy, cuộc chiến tranh MT - Tây Ban Nha được coi là cuộc chiến tranh
đê quốc đầu tiên trong lịch sử, qua đó M ĩ giành giật lại các thuộc địa của Tây
Ban Nha và xác lập quyền bá chú ở MT latinh và mở đường đi sang Đông Á.
Chiến thắng của MT không những làm cho Đức, Áo từ bỏ mộng bành
trướng tại vùng Trung - Nam M7 mà các cường quốc tư bản khác như Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha và Ý cũng không dám tiếp tục mở rộng hoạt động ở dây.
4. Chính sách cái gậy lớn và ngoại giao đỏỉa của M ĩ
Tír những năm đầu thế k ỉ X X , với chính sách "cái gậy lớn" và "ngoại
giao đôla", chính phủ MT một mặt tiến hành các hoạt động quân sự xâm
lược, mặt khác dùng thủ đoạn mua chuộc đế can thiệp vào công việc nội bộ
các nước. Nãm 1902, Tổng thống Têôđo Rudơven (Theodore Roosevelt)
đã áp dụng chính sách trên đối với Vênêxuêla, năm 1905 đứng ra dàn xếp
xung đột tại nước Cộng hoà Đ ôm inica, đặc biệt là vụ tách Panama ra khỏi
C ôlôm bia năm 1903.

Giới cầm quyền Mĩ thấy rõ đào kénh Panama có ý nghĩa rất lớn về
mặt chiến lược và kinh tế. Vì vậy, Mĩ mua lại tất cả những cổ phần đã vỡ
nợ của công ti Pháp trong việc đào kênh. Đồng thời, Mĩ mua lại của
Côlômbia eo biển dự kiến mở kênh đào. Ngày 22/1/1903, Mĩ kí với Chính
phủ Côlồmbia một hiệp ƯỚC cho phép Mĩ được quyền xây dựng kênh đào
sau khi trả cho Côlồmbia một số tiền bồi thường. Tuy nhiên, hiệp ước đó
vấp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Colombia, quốc hội nước
này không phê chuẩn. Trước tinh hình đó, Mĩ liền tổ chức một cuộc đảo
chính, lập nèn nước Cộng hoà Panama tách khỏi lãnh thổ Côlômbia.

Ngay lạp tức, Chính phủ Panama do M ĩ dụng lên đã kí hiệp ước cho MT độc
quyén trong việc đào COI1 kênh nối liền Thái Bình Dương và Đại Tây Dương,
được xây dựng đường sắt và pháo đài dọc kcnh Panama. Năm 1914, MT hoàn
thành việc đào kênh Panama, cỏng trình này mở đường cho MT làm chủ toàn bộ
MT latinh. Việc thực thi đường lối trên được Tổng thống IVTĨ Têôđo Rudơven gọi
bằng thuật ngữ "Chính sách cái gậy lớn".
Bằng "Chính sách cái gậy lớn", M ĩ đà tự trao cho mình nhiệm vụ của "cánh
sát Tây bán cầu", đứng ra can thiệp vào công việc nội bộ của các nước Trung
M ĩ: Dominica (1904, 1916), Cuba (1906), Nicaragoa (1909, 1912), Haiti (1914
- 1915) và Mêhicồ (1914, 1916).
Cùng với những cuộc tiến công bằng quân sự, đế quốc MT còn tăng cường
xâm nhập các nước MT latinh bàng kinh tế, thực hiện " Chính sách ngoại giao
đôla". Thù đoạn mà MT thường dùng là thông qua hình thức đầu tư xây dựng
các xí nghiệp khai thác, Luyện kim , công nghiệp nhẹ và cho vay hoặc viện trợ
để khống chế đời sống chính trị các nước MT latinh. Chính phú nào không tuân
theo sự chỉ đao của MT sẽ lâp tức bị cắt viên trơ hoặc bị lât đố bane những cuộc
• • • 1 • • • • • • w W *

đao chính.
Tóm lại, từ "Chính sách ngoại giao cách li" đến chính sách "Cái gậy lớn và
đồng đôla", đế quốc MT ỏcì tìmg bước loại dần ánh hưởng của các nước tư bản
châu Âu ra khỏi khu vực MT latinh. MT đã xác lập được địa vị thống trị của
mình tại khu vực này cũng như tạo điều kiện thuận lợi để cho MT mở rộng ảnh
hường ra các khu vực khác trên thế giới.
Như vậy, cùng với sự ra dời và phát triển của CNTB, chủ nghĩa thực dân đà
mở rộng phạm vi bành trướng và cai trị ra các châu lục. Việc tranh chấp thuộc
địa trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ quốc tế. Đến
đầu thế kỉ X X , vấn dể giành giật thuộc địa giữa các dế quốc đã trở thành nguồn
gốc của cuộc chiến tranh thế giới.

94
Chương V

QUAN HỆ QUỐC TẾ
TỪ SAU CHIẾN TRANH PHÁP - PHổ
ĐẾN KẾT THÚC THẾ CHIẾN THỨ NHẤT (1871 - 1918)

I. S ự H ÌN H T H À N H C ÁC K ỉ l ố i LIÊN M IN H Q U ÀN s ự ở C H ÂU Â u
TRONG NHŨNG NĂM c u ố i THẾ KỈ XIX
1. Đế chế Đức vưưn lén địa vị cường quốc và màu thuản Pháp - Đức
Chiến tranh Pháp - Phổ kết thúc bàng việc kí hiệp ước đình chiến ở
Phrăngphuốc ngày 10/5/1871 đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử quan
hệ quốc tế ở châu Âu. Nước Đức từ một nước phân tán vể chính trị đà trờ thành
một quốc gia thống nhất đặt dưới sự thống trị cùa chủ nghĩa quân phiệt Phổ.
Nển kinh tế Đức có những bước phát triển vượt bậc. Sản lượng côns nghiệp của
Đức chiếm một vị trí đáng kê trong nền kinh tế thế giới, đến năm 1900, Đức
vươn lên hàng đầu ở châu  u và dứng thứ hai thế giới sau MT. Tuy nhiên, trên
bình diện chính trị, vị thế của Đức chưa lớn, lực lượng quân sự chưa mạnh trong
tirưng quan với Anh, Pháp và các nước khác ở châu Âu. Chính điều đó đã chi
phối chính sách đối ngoại của Đức í rong suốt 30 năm cuối thế kỉ X IX .
Trong ĩhời gian này, nước Pháp cũng đang tìm cách phục thù Đức.
Thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ, nước Pháp vừa phải
nhượng cho Đức 2 vùng đất giàu nguyên liệu là Andát và Loren, vừa phải
bồi thường cho Đức 5 tỉ phrăng chiến phí với điểu kiện để quân Đức
chiếm đóng cho đến khi trả hết nợ.

Thắng lợi của Đức và thất bại của Phiíp trong cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ
dã làm cho quan hệ giữa hai nước trong những năm 70 của thế kì X IX trở nên
căng thẳng. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh trở thành vấn để nóng bỏng luôn đe
dọa tình hình châu Âu. Hơn nữa, giới cầm quyển Đức hiếu rõ rằng sự tồn tại
của Đế chế Đức hùng mạnh là điều nguy hiếm đối với các quốc gia nằm sát
cạnh Đức cho nên các nước đó sẽ liên minh với nhau để chống lại Đức. Trong
đó, Pháp là nước sẵn sàng tham gia vào bất kì khối liên minh nào để chống
Đức. Một liên minh Pháp - Nga nếu hình thành sẽ là mối de doạ thường trực đối
với sự sống còn của Đế chế Đức. Đứng trước tình trạng nan giải đó, giới quân
phiệt Đức đà giao trọng trách cho TỈ1Ũ tướng Bixmác hoạch định chính sách đôi
ngoại thích ứng nhằm xác lập vị thế của nước Đức trên trường quốc tế.
Để làm điều đó, Bixmác đã lựa chọn giải pháp ngoại giao là giải pháp được
coi là "an toàn" nhất để một mặt tập hợp lực lượng, mặt khác làm suy yếu Pháp
- đối thủ chính của Đức. Thời gian từ sau nãm 1871 đến những năm 90 của thế
kỉ X IX được gọi là "Thời kì ngoại giao Bixmác", mâu thuẫn Pháp - Đức trở
thành mâu thuẫn chủ yếu và là trục chính chi phối quan hệ quốc tế ở châu Âu
trong suốt 30 năm cuối thế ki X IX .

2. Sự hình thành Liên m inh Ba Hoàng đế (Đức - Áo - Nga) năm 1873


Việc đầu tiên mà Bixmác cần làm là thiết lập một liên m inh quân sự, chính
trị dưới sự bảo trợ của Đức để chông Pháp; việc thứ hai là phải cô lạp và loại trừ
Pháp ra khỏi liên minh với Áo và Nga. Để triển khai, Bixmác giương cao ngọn
cờ thông nhất tư tưởng của các nước quân chù nhàm chống lại các nước có
chính thể cộng hoà. Bàng cách đó, Bixmác đã lôi kéo được Áo và Nga tham gia
vào Liên minh Ba Hoàng đế (gồm Vinhem I - Đức, Alếchxan II - Nga,
Phrăngxoa Giôdép - Áo Hung) vào năm 1873. Theo nội dung thoả thuận của ba
vị hoàng đế, nếu một trong ba nước bị Iiiột nước thứ ba tấn công thì ba nước sẽ
triệu tập một cuộc họp khẩn cấp đế bàn cách dôi phó. Như vậy, sự ra đời Liên
minh Ba Hoàng đế đã làm tăng vị thế của Đức trên chính trường châu Âu và ở
một mức độ nhất định đã tách được Áo, Nga ra khỏi môi liên hệ với Pháp. Tuy
nhiên, đây là một liên minh không vững chắc, mỗi khi bị đụng chạm quyển lợi
thì ngay trong nội bộ liên minh bộc lộ dấu hiệu của sự rạn nứt. Năm 1875, Đức
âm mưu phát động một cuộc chiến tranh nhằm đánh bại hoàn toàn nước Pháp
mà lịch sử gọi đó là cuộc "Báo động quân sự". Trước tình hình đó, Anh và Nga
can thiệp bằng cách lên tiếng bảo vệ Pháp làm cho âm nuru gây chiến của Đức
bị thất bại. Anh và Nga chủ trương duy trì sự cân hằng lực lượng ở châu Âu nên
ngăn cản ý đồ của Đức muốn trở thành cường quốc. Hơn nữa, vào thời điểm đó
Đức cũng chưa đủ lực lượng để có thể phát động chiến tranh.

2. Khủng hoảng Bancăng. Sự thành lập Liên minh Đức - Áo Hung - Ý


năm 1882
Trong khi quan hệ giữa các nước châu Âu căng thẳng thì ở khu vực
Bancăng lại xảy ra khủng hoảng. Năm 1875, các nước Bancăng tiến hành cuộc
đấu tranh chống lại ách thống trị của Thổ Nhĩ Kì. Bixmác lợi dụng cơ hội đó
làm nóng lên bầu không khí ờ Bancăng bằng cách thúc đẩy Nga tiến hành chiến
tranh với Thổ để cho Đức rảnh tay đối phó với Pháp. Đày là khu vực liên quan
đến quyển lợi thiết thực của các quốc gia Nga, Áo và Anh. Vì vậy, năm 1876
Nga và Áo đạt dược sự thoả thuận trong vấn đề phân chia quyén lợi ờ Bancãng.
Theo đó, Nga được phân chia quyển lợi đối với vùng đất Betxaria còn Áo được
Bỏxnia và Hécxêgôvina. Ngoài ra, cả hai bên thoả thuận không thành lập một
quốc gia Đại Xlavơ ờ Bancăng.
Chiến tranh Nga - Thổ bùng nổ vào thời gian 1877 - 1878 và kết thúc bàng
thắng lợi của Nga. Hiệp ước Nga - Thổ được kí kết đà đem lại cho Nga nhiều
quyển lợi ở khu vực Bancăng, phá vờ những cam kết mà hai nước này đã đạt
được trong thời gian trước đây. Sau chiến tranh, vị thế và uy tín của Nga không
ngừng được tăng cường ở khu vực này. Việc Nga mở rộng thế lực ờ Bancãng
làm cho Anh, Áo không hài lòng, đe doạ sẽ tiến hành chiến tranh với Nga.
Trong hoàn cảnh đó, Đức đứng ra triệu tập hội nghị ở Béclin năm 1878 với vai
trò trung gian hoà giải. Thê nhưng, trên thực tế Đức đã đứng vẻ phía Anh, Áo
bằng cách hạn chế quyền lợi của Nga ở Bancăng.
Chiến tranh Nga - Thổ và H ội nghị Béclin là bằng chứng cho thấy sự không
ổn định và thiếu vững chắc cúa Liên minh "Ba Hoàng đế". Trước hết, Áo là
nước đang trong thời kì bành trướng thế lực ở Bancãng nên tìm mọi cách gạt
Nga ra khỏi khu vực này. Còn Anh thì muốn ngăn cản sự có mặt của Nga ứ eo
biển Thố Nhĩ Kì và Đ ịa Trung Hải vì lo sợ Nga sẽ cùng Pháp uy hiếp con
đường giao thông huyết mạch của Anh sang Ân Độ. Dưới sự sắp đặt của Đức,
hội nghị Béclin kết thúc bằng việc quy định eo biển Thổ Nhĩ Kì không dược mở
cho Nga, còn Anh được đảo Síp, Áo được Bỏxnia và Hécxêgôvina.
Do kết quả của Hội nghị Béclin hạn chế đến quyền lợi của Nga ở khu vực
Bancăng nên mâu thuẫn Nga - Đức ngày càng trở nên sâu sắc. V ị thê của Đức
sau Hội nghị Bécỉin bị giảm sút trong khi vị thế của Pháp lại được tăng cường.
Đế đỏi phó với sự xích lại gần nhau giữa Nga và Pháp, Đức đà tăng cường củng
cô mối quan hệ với Áo Hung. Ngày 7/10/1879, đồng minh giữa Đức và Áo
Hung được thành lập với sự cam kết nếu một bên bị Nga tấn công thì bên kia
dốc toàn lực ra viện trợ. Tiếp theo, Đức tiến hành các hoạt động ngoại giao
nhằm đẩy Pháp vào thê hoàn toàn bị cô lập bằng cách thành lập Liên minh Tay
hư gồm Đức, Áo Hung và Ý (trong thời gian này, Áo Hung là một nhà nước).
Đối với nước Ý, sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước (1871),
Ý có điều kiện đê mở rộng ảnh hưởng của mình đối với các nước thuộc khu vực
Địa Trung Hải và châu Phi. Tại đây, Ý vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của
Pháp cho nên muốn liên minh với Đức đế chống Pháp. Tuy nhiên, Đức không
chấp nhận liên minh tay đôi với Ý mà phải liên minh với cả Áo Hung. BiXmác
đà tìm g tuyên bố: "Con đường từ Rôma đến Béclin phái đi qua Viên". Mãi đến
năm 1881 tức là khi Pháp tiến hành chiến tranh xâm chiếm Tuynidi là nơi mà Ý
đang thèm muôn thì lúc bấy giờ Ý mới đứng hán vé phía Liên minh. Nãttì
ỉ 882, Liên minh Đức - Ảo Hung - Ý chính thức được ỉln)nh lập. Đây là khối liên
minh quân sự đế quốc chủ nghĩa đầu tiên trên thê giới dược thành lập nhằm
phục vụ mưu đồ bành trướng của chủ nghĩa quân phiệt Đức.
Cùng với sự ra đời khối quân sự Đức - Áo Hung - Ý, hoạt động ngoại giao
của Bixmác trong thời kì này còn nhàm mục đích ngăn chặn quá trình hình
thành liên minh Nga - Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho Bixmác là bằng mọi
cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Nga.
Trong thời gian 1885 - 1886 quan hệ Nga - Áo đã đạt đến đỉnh diêm của sự
căng thẳng và hẹ quả của nó sẽ dẫn đến sự sụp đố của Liên minh Ba Hoàng dế.
Để cứu vãn tình thế, Đức để nghị kí với Nga một hiệp ước riêng rẽ vào năm 1887.
Theo nội dung của Hiệp ước Đức - Nga 1887, Nga sẽ đứng trung lập
nếu xảy ra cuộc chiến tranh Đức - Pháp và Đức sẽ ủng hộ Nga nếu chiến
tranh Nga - Anh bùng nổ. Với mật ước trên, Bixmác chỉ giành được thắng
lợi 50% vì Nga từ chối giúp đỡ quân sự cho Đức nếu xảy ra chiến tranh
Đức - Pháp.
Hiệp ước Đức - Nga 1887 có thể coi là sự nỏ lực cuối cùng trong cuộc đời
hoạt động ngoại giao của Bixmác nhàm lỏi kéo Nga ra khỏi Pháp nhưng không
thực hiện được. Cùng với việc kết thúc sự nghiệp chính trị của Bixmác năm
1890, hiệp ước Đức - Nga cũng không còn giá trị.
Năm 1888, Vinhem I qua đời; cháu nội lẽn ngôi Hoàng đế là Vinhem
II (trị vì cho đến năm 1918). Năm 1890, Vinhem II loại Bixmác khỏi chức
Thủ tướng, chủ trương tăng cường lực lượng hải quân để đối phó với nước
Anh, ráo riết chuẩn bị chiến tranh, khởi đấu giai đoạn "hoà bình có vũ
trang" ở châu Âu.

3. Quan hệ Nga - Pháp và chính sách "cỏ lập vẻ vang” của nước Anh
Do thất bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ, vị thế của Pháp trên trirờim
quốc tế bị giảm sút. Trong khi đó, nước Đức láng giềng không những mạnh lên
mà còn tìm mọi cách để cỏ lập Pháp, làm cho nước Phiíp luôn ớ trong tình trạng
căng thẳng. Đê đôi phó, Pháp đi tìm bạn đồng minh. Trong sỏ các cường quốc
châu Âu, chỉ có Nga là nước không có m ối thù sâu sắc với Pháp về những vấn
đề liên quan đến châu Âu và thuộc địa. Vì vậy, chính sách tìm bạn đồng minh

98
của Pháp trong thời điểm này là hướng vé Nga. Tuy nhiên, trong thời kì Bixmác
dang cầm quyên thì chính sách liên Nga cùa Pháp không thực hiện được. Ngoài
những vấn để liên quan đến quan hệ Đức - Nga thì mâu thuẫn giữa Nga - Anh ờ
vùng Trung Á cũng cản trở quan hệ Nga - Pháp. Đến những năm 90 của thế kí
X IX khi quan hệ Nga - Đức căng tháng và việc Nga lệ thuộc Pháp về tài chính
đã khiến cho quan hệ Nga - Pháp trở nên thân thiện hơn. Năm 1891, Nga - Pháp
đã đat được SƯ thoá thuân trong việc kí kết hiêp ước bí mật vé quàn sư. Đến
• • • • W • • 1 • 1 •

năm 1893, Hiệp ước Nga - Pháp chính thức được kí kết.
Hiệp ước Nga - Pháp 1893 nêu rõ: Nếu Pháp bị Đức tấn công hay Ý
tấn công với sự hỗ trợ của Đức thi Nga sẽ trợ giúp quân sự cho Pháp.
Pháp cũng sẽ hành động tương tự nếu Nga bị Đức hay Áo được Đức hỗ
trợ tấn công. Trong trường hợp Liên minh Đức - Áo Hung - Ý động viên
lực lượng thi Nga - Pháp cũng động viên lực lượng.

Đây ỉà một sự trả lời trực tiếp đối với liên minh tay ba Đức - Á o - Hung - Ỷ
làm cho tương quan lực lượng ở châu Âu có sự thay đổi rõ rệt.
Vào lúc châu Âu đang trên đường hình thành hai khối quân sự thì nước
Anh đứng ngoài và lợi dụng mâu thuẫn hai bên đế hường lợi. Việc Anh đứng
trung lập giữa hai khối và thực thi chính sách ngoại giao không liên kết được
lịch sử gọi là chính sách "cô lập vẻ vang". Nước A n il biết rất rõ âm mưu của
Bixmác lợi dụng sự hiềm khích giữa Anh và Nga đê đáy hai nước này vào cuộc
chiến. Đổng thời, Anh cũng thừa biết đối thủ của họ lúc này là Nga và Pháp,
cho nên bằng mọi cách làm cho cuộc chiến nếu có xảy ra thì cũng diễn ra giữa
hai khối Đức - Áo Hung - Ý với Nga - Pháp.
Trên thực tê trong 30 năm cuối thê kí X IX , nước Anh đã thực thi thành
công chính sách trung lập của mình. Thứ nhất, do mâu thuẫn giữa Anh với Nga
và Pháp nên giới cầm quyén Anh muốn mượn bàn lay của kẻ khác để bao vệ
quyén lợi của mình. Thứ hai, ưu thế vể công nghiệp và hải quân của Anh khôn"
những đủ sức báo vệ lãnh thổ nước Anh mà còn có khả năng đươne đầu với bất
kì quốc gia nào muốn gây chiến với Anh. Phương châm dối ngoại của Anh lúc
này là: "Không có đồng m inh lâu dài cũng như không có kẻ thù vĩnh cửu mà
chi có quyển lợi là thường xuyên và mãi m ai". Với phưưng châm đó, nước Anh
đã dược hưởng lợi từ các cuộc tranh chấp giữa các cường quốc tư bản châu Âu,
rảnh tay trong việc bành trướng thuộc địa và áp đặt ách thống trị lên các nước
Á, Phi và MT latinh.

99
II. Q UAN HẸ QUOC TE Đ A U THE K ỉ X X
1. Chính sách tiến về phương Đỏng của Đức và sự phá sản chính sách
Mcỏ lạp Vẻ vang” của Anh
Đến đầu thế kí X X , chính sách "cỏ lập vẻ vang" của Anh đã không còn
phát huy tác dụng. Sự tăng cường chạy đua vũ trang cùng với quá trình bành
trướng thuộc địa của Đức đã đe doạ trực tiếp đến quyền lợi của Anh trên trường
quốc tế. Đây là thời kì nền công nghiệp Đức có một bước phát triển vượt bậc.
Nhu cầu về nguyên liệu và thị trường xuất khẩu tư bàn trở thành nhu cầu bức
thiết đối với đế quốc Đức. Trong khi đó nguyên liệu cướp bóc từ các thuộc địa
châu Phi quá ít ỏi không đủ Cling cấp cho sự phát triển nhanh chóng của các
ngành công nghiệp trong nước. Đã đến lúc nước Đức công khai đòi chia lại thị
trường thế giới. Thủ tướng Đức Phồn Bulôp trắng trợn tuyên bố: "Đã qua rồi cái
thời mà các dân tộc chia nhau đất đai và biển cả, còn chúng ta - những người
Đức - tự hài lòng với bầu trời xanh và chí cần một chổ đứng dưới ánh mặt trời” .
Để thực hiện tham vọng bành trướng, đế quốc Đức chọn đối thủ của mình là
nước Anh tư bản chủ nghĩa làm mục tiêu đấu tranh để phân chia lại thị trường
thế giới. Mâu thuẫn Anh - Đức vì thế trở thành mâu thuẫn chủ yếu và là trục
chính trong quan hệ quốc tế đầu thế kỉ XX.
Hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Đức lúc này là bành trướng
sang khu vực Tiểu Á với khẩu hiệu "Tiến sang phương Đông". Năm 1898, lấy
cớ sang thăm đất thánh Palextin, Hoàng đế Vinhem II đã thoả thuận với
Xuntan Thổ Nhĩ Kì thiết lập một hệ thống đường sắt từ Bỏxpho qua Cận Đòng
đến cảng Cốoét thuộc vịnh Ba Tư. Đây là con dường có ý nghĩa chiến lược
quan trọng vì nó nối liền Bcclin với vịnh Ba Tư. Năm 1903, hiệp định trên
được kí kết đã đem lại m ối lợi rất lớn cho tư bán Đức. Tiếp theo, Đức triển
khai xây dựng cầu cảng trên sông Tisrơ và ơphrat, bắt đầu cho thăm dò và
nghiên cứu dầu ờ thềm lục địa. Sự can thiệp sâu cùa Đức vào Thổ làm cho
giới cầm quyền ở Anh lo ngại vì chính Anh cũng đang muốn xâm chiếm các
nước ở bán đảo A Rập. Ngoài ra, việc Đức tiến sát vịnh Ba Tư - cửa ngõ dể đi
sang An Độ - là sự đe doạ đến quyền lợi của Anh tại khu vực này. Để đối phó
lại, năm 1901 Anh chiếm cảng Côoét nhằm cát đứt con đường ra vịnh Ba Tư
của Đức. Xung đột Anh - Đức càng thúc đẩy Đức tăng cường xây dựng lực
lượng hái quân. Năm 1898, Quốc hội Đức thông qua Luật Xây dựng lực lượnc
hải quân và giao cho Đô đốc Tiêcpitdơ tiếp nhận xây dựng hạm đội hùng

100
mạnh trong vòng 20 năm. Ọuyén bá chủ của Anh trên mặt biến bị đe doạ
nghiêm trọng khi tại hài câng Đăngdích, Vinhem II tuyên bò "Tương lai của
nước Đức là trên mặt biển". Năm 1900, Đức tăng gấp đôi kinh phí xây dựng
mới hạm đội hải quân so với chương trình năm 1898.
Tất cả những việc làm của Đức trong những năm đầu the ki XX đã buộc
giới cầm quyển Anh thay đổi chính sách đối ngoại của mình. Từ chỏ thực hiện
t

chính sách "cô lạp vẻ vang" trong những năm cuối thế kỉ X IX đến chỏ di tìm
bạn đóng minh mới trong những năm đầu thế ki X X để phân chia thị trường thế
giới cho cuộc chiến tranh trong tương lai. Trên thực tế, chính sách "cô lạp vẻ
vang" của Anh đã phá sản vì Anh không những mất độc quyển trong công
nghiệp mà còn do Anh không đủ khả năng duy trì chính sách đó.

2. Sự hình thành khối Hiệp ước Anh - Pháp - Nga


Bên cạnh đôi thủ truyển thông của Anh là Nga và Pháp, đến đầu thê ki X X
nước Anh lại có thêm đôi thủ mới là Đức. Do tính chất phức tạp trong quan hệ
quốc tế và sự chằng chéo cùa nhiều môi quan hệ liên quan đến lợi ích cúa từng
nước nên đến đầu thế ki X X , sự thù địch giữa Anh và Pháp xoay quanh quyển
lợi ứ châu Phi được thay thế bằng tinh thần thân thiện ở Luân Đôn. Giới cầm
quyền Pháp hiểu rất rõ rằng người bạn đồng minh của mình là Nga còn đang
bận quan tâm đến vùng Viễn Đông và nguy cơ xảy ra xung đột với Nhật Bản là
điều không thể tránh khỏi nên nước Nga sẽ bị suy yếu.
Năm 1902, Hiệp ước Pháp - Ý được kí kết, trong đó quy định nếu một
trong hai nước bị tấn công thì nướe thứ ba sẽ đứng trung lập. Nhưng sự xích lại
gần nhau giữa Ý và Pháp không bù đáp được sự thiếu hụt sức mạnh quân sự của
Nga. Bởi vậy, mục tiêu của Pháp lúc này là hướng tất cả sự chú ý sang Anh và
ngược lại Anh cũng đang hướng mục tiêu sang Pháp. Sau các cuộc viếng thăm
của vua Anh sang Pari và Tổng thống Pháp sang Luân Đôn, cá hai bên đã đạt
được sự nhất trí trong việc kí kết hiệp ước tương trợ lẫn nhau. Ngày 8/4/1904,
Hiệp ước Anh - Pháp được kí kết, theo đó Pháp sẽ rút khỏi Xuđăng và A i Cập
còn Anh thừa nhận lãnh thố Maroc là thuộc Pháp.
Như vậy, Hiệp ước Luân Đôn 1904 trên thực tế là hiệp ước phân chia thuộc
địa giữa Anh và Pháp ờ châu Phi, làm cho quan hệ Anh - Pháp trờ nên gắn bó
hơn và là bước chuẩn bị cho hai nước đối phó với Đức trong giai đoạn sau.

101
Hai khối quân sự ỏ châu Âu đáu thế kỉ XX

Đối với nước Đức, thấy rằng xung đột với Anh là điểu không thể tránh
khói, giới ngoại giao Đức tìm mọi cách đê ngăn chặn mối đe doạ đang bao
quanh nó. Hoàng đế Đức Vinhem II nỗ lực hết sức mình dế làm tâng mâu thuẫn
Nga - Anh. Hai nhiệm vụ mà Hoàng đê Đức đật ra là ngăn chặn không cho thiết
lập liên minh Nga - Anh và nếu không phá vỡ được liên minh Nga - Pháp thì
cũng bằng mọi cách phải làm suy yếu nó. Đế thực hiện, Vinhem II dựa vào sự
đồns nhất vể nền quân chủ đê liên minh với Nga, đổng thời thôi thúc Nga tham
gia tích cực vào các công việc ờ Bíìtđa (Irắc) dể mở rộng ảnh hường của Nga tại
khu vực này. Những nổ lực của Vinhem II nhằm tách Nga ra khỏi liên minh với
Anh cuối cùng bị thất bại. Tnrớc tình hình dó, Vinhem II quay sang ủng hộ
chính sách thuộc địa của Nga ở Viễn Đòng. Nước Đức hiểu rằng xung đột Nga
- Nhật liên quan đến vùng Đông Bắc Trung Quốc và Triều Tiên sớm muộn
cũng xảy ra là một điều có lợi cho Đức. V ì, thứ nhất, cuộc chiến tranh dó sẽ

102
làm cho Nga không có thời gian đế quan tàm đến các công việc khác ờ châu
Âu; thứ hai, chiến tranh không những làm cho Nga suy yếu mà còn dẫn đến sự
xung đột trong quan hệ Nga - Anh.
Cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) đà kết thúc bằng sự thất bại
của Nga.
Ngày 9/2/1904, hải quân Nhật bất ngờ tấn công, phong toả cảng Lữ
Thuận, khống chế vùng biển và đổ bộ lẽn bán đảo Liêu Đông là những
khu vực ảnh hưởng của Nga tại Viễn Đồng. Hạm đội Bantích của Nga bị
đánh bại hoàn toàn. Trong tổng sô 38 tàu chiến của Hạm đội, 20 chiếc bị
đánh chìm, 6 chiếc bị bắt, chỉ có vài tàu chạy về đến Vlađivôxtốc. Ngày
5/9/1905, Nga và Nhặt kí Hoà ước Pồtxmao (Portsmouth) với vai trò trung
gian của Mĩ. Hoà ước quy định: Nga nhượng cho Nhật bán đảo Liêu Đỏng
cùng cảng Lữ Thuận, tuyến đường sắt Nam Mãn Châu (đoạn từ Lữ Thuận
đến Thẩm Dương), vùng nam đảo Xakhalin và từ bỏ mọi ý đổ đối với
Triều Tiên (có nghĩa là Nhật được tự do biến bán đảo này thành xứ bảo
hộ của minh).

Nhân cơ hội đó, Đức công kích sự trung lập của Pháp trong cuộc chiến
tranh Nga - Nhật để tách Nga ra khỏi Pháp và đề nghị Nga kí hiệp ước liên
minh với Đức. Năm ỉ 905, cuộc hội kiến giữa Vinhem II với Nicôlai II được
tiến hành ở Biôxcơ (Phần Lan). N ội dung của cuộc hội kiến nêu rõ trách nhiệm
của Nga và Đức trong việc giúp đỡ lẫn nhau bằng tất cả lực lượng ở trên bộ và
trên biển. Tuy nhiên, ý định nối lại liên minh Đức - Nga vào tháng 7/1907 đà
không thực hiện được do sự chống đối của lực lượng thân Pháp. Trong khi cô
gắng của Vinhem II nhằm thiết lập liên minh Đức - Nga bị thất bại thì nước
Anh lạitìm mọi cách để lôi kéo Nga tham gia vào liên minh chống Đức. Do
thắt bại trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật nên Nga cũng bắt đầu hướng về
nước Anh.
Cuộc hội đàm Nga - Anh diễn ra vào năm 1906 đã đem lại kết quả bước
đầu có lợi cho Nga khi Anh đồng ý cho Nga vay tiền để đối phó với phong trào
cách mạng trong nước và cứu Nga thoát khỏi sự phá sản về tài chính. Sự bành
trướng của Đức ở Cận Đỏng và của khối đồng minh Đức - Áo Hung ở Bancăng
khòng những làm cho mâu thuẫn Đức - Anh trở nên căng thắng mà mâu thuẫn
Nga - Đức cũng trở nên trầm trọng. Quan điểm của Anh lúc này ỉà " thà để cho
Nga chiếm cỏngxtãngtinốp hơn là phải chứng kiến các khc tàng quân sự cùa
Đức ở vịnh Ba Tư". Hơn nữa, cuộc Cách mạng N<za 1905 - 1907 đã tác động hết
• • • W • Km*
sức sâu sắc đến hệ thống thuộc địa của các nước dế quốc. Sau cách mạng Nga
là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuôc đia và phu thuộc, nhất là ở các nước châu Á. Môt loaĩ cuộc cách
9 • Ề • • • • •

mạng nổ ra ở Thổ Nhĩ Kì, Irắc và Trung Quốc đã de doạ trực tiếp đến lợi ích
của các nước đế quốc. Trong hoàn cảnh đó, nước Anh thấy cần phái liên minh
với Nga dê chống phá phong trào cách mạng và phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước phương Đòng nhằm duy trì hệ thống thuộc địa của
thực dân Anh. Ngày 31/8/1907, Hiệp ước Anh - Nga được kí kết.
Theo nội dung của Hiệp ước Anh - Nga 1907, Iran được chia ra thành
3 vùng ảnh hưởng: miền Bắc thuộc phạm vi ảnh hưởng của Nga, miền
Trung là vùng trung lập và miến Nam và Đông Nam thuộc phạm vi ảnh
hưởng của Anh. Rièng Ápganixtan thuộc quyền ảnh hưởng của Anh và
nếu Nga muốn quan hệ với Ápganixtan thì phải thông qua Chính phủ
Anh.

Như vậy là đến năm 1907 trên thế giới đã hình thành hai khối quân sự đối địch
nhau là khối Liên tììiììỉì (Đức - Áo Hung - Ý) và khối Hiệp ước (Nga - Anh - Pháp).

3. Những cuộc khủng hoảng đầu thế kỉ XX. Chàu Âu đứng trước nguy
CƯ chiến tranh
a) Khủng hoảng Marốc lần thứ nhát (1905 1906) -

Về phía Đức, do thất bại trong việc phá vỡ liên minh Nga - Pháp cũng như
trong việc ngăn cản quá trình hình thành liên minh Pháp - Anh nên đà công
khai đòi chia lại quyền lợi ở Marốc. Giới tư bản công nghiệp Đức rất thèm khát
vùng đất giàu có về tài nguyên và khoáng sản này nên đã xúi giục Chính phủ
Đức gây ra cuộc khủng hoảng ở Marốc lần thứ nhất vào năm 1905 - 1906.
Sau những dàn xếp với Anh, Ý và Tây Ban Nha, Pháp tính chuyện
mở rộng ảnh hưởng ở Marốc bằng cách đề nghi nhà vua nước này tiến
hành một số cải cách dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia Pháp: tổ chức
lực lượng cảnh sát, mở nhà ngân hàng... và dành cho Pháp một số vùng
nhượng địa. Nhưng Pháp gặp sự phản đối mạnh mẽ của Đức. Nhân
chuyến công du vào tháng 3 năm 1905 sang khu vực Địa Trung Hải,
Hoàng đế Đức Vinhem II đã ghé thăm cảng Tăngiê (Tanger - Marốc). Tại
đây, Vinhem II cồng khai tuyên bố là người bảo vệ chủ quyền cho nhân
dân Hồi giáo và nền độc lập của Marốc, đòi quyền tự do buôn bán và yèu
cấu triệu tập hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Marốc. Đây là sự thách

104
thức trực tiếp của Đức đối với Pháp. Vua Maroc tuyên bố chỉ chấp nhặn
cải cách sau khi có ý kiến của một hội nghị quốc tế. Vào thời điểm đó,
Pháp không thể một mình đương đấu với Đức vì Nga đã bị suy yếu sau
chiến tranh, nước Anh hứa giúp đỡ Pháp về quân sự nhưng không bù đắp
được sự yếu kém của Nga. Vì thế, Pháp đành chấp nhận triệu tập hội
nghị theo yêu cấu của Đức.

Hội nghị quốc tế về vấn đề Maroc được tố chức tại Angiêsirát (Algesiras -
Tây Ban Nha) từ tháng 1 đến tháng 4/1906 với sự tham gia của Anh, Pháp,
Tây Ban Nha, Áo và Đức. Hội nghị đã thông qua nghị quyết hoàn toàn bất lợi
cho Đức.
Hiệp định Angiẽsirát năm 1906 thừa nhận sự toàn vẹn lãnh thổ của
Maroc nhưng theo quy chế bảo hộ của Pháp, sĩ quan Pháp và Tây Ban
Nha chỉ huy lực lượng cảnh sát Maroc, thuế quan và ngân hàng đạt dưới
sự kiểm soát quốc tế. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để Pháp có thể
can thiệp và chiếm đóng Maroc bất cứ lúc nào. Đây là một quyết định trái
với mong muốn của Đức và là thất bại của Đức trên trường quốc tế.

b) Khủng hoảng Maróc lán thứ hai (1911)


Ngày 20/4/1911, đã xảy ra một cuộc bạo động ở Thủ đô Maroc. Pháp lấy
cớ lập lại trật tự và bảo vệ kiều dân, cho quân đội vào chiếm đóng Phet (Fès).
Nhân cơ hội đó, Đức phái chiến hạm ' Con báo" với sự hố trợ của tuần dương
hạm "B erlin" tới cảng Agadia với lí do "bảo vệ kiểu dân Đức" để đòi Pháp phân
chia một phần đất đai Maroc hoặc phải có một sự đền bìi xứng đáng cho Đức để
đổi lấy sự thống trị của Pháp ở Marôc. Quan hệ Đức - Pháp trở nên cãng thẳng,
nguy cơ của một cuộc chiến tranh đang đến gần. Cuối cùng, Pháp phải nhượng
bộ đồng ý giao Cônggô thuộc Pháp cho Đức. Thấy Pháp nhượng bộ, Đức càng
lấn tới, yêu cầu Pháp thực hiện chính sách "mở cửa" Maroc cho Đức quản ỉ í hệ
thống đường sắt 70% ở vùng Tây Nam và 30% ở các vùng còn lại. Nhưng Anh
ủng hộ Pháp đã buộc Đức rút lui yêu sách trên và chỉ được nhận phần Cônggô
như đã thoả thuận.
c) Cuộc x u n g đột Ý Thổ Nhĩ Kì ở Bắc Phi (1911)
-

Nước Ý coi cuộc khủng hoảng Maroc lần thứ hai là thời cơ thuận lợi nhất
để thực thi hiệp ước đã kí với Pháp trước đây, trong đó Ý thừa nhận đê Pháp
chiếm Maroc còn Pháp đê cho Ý được tự do hành dộng ở Xirênaica (Sirenaica)
và Tripôlitani (T ripolitani) lúc bấy giờ đang là thuộc địa của Tliổ Nhĩ Kì (sau
này là L ib i). Ngày 28/9/1911, cuộc chiến tranh giữa Ý với Thổ Nhĩ Kì bùng nổ.
Quân Ý giành được thắng lợi ban đầu, nhưng do sự kháng cự kiên cường của
nhân dân A Rập nên cuộc chiến tranh kéo dài. Trong khi đỏ tình hình Bancăng
lại trở nên căng thẳng, các nước trong khu vực này nhân cơ hội chiến tranh Ý -
Thổ đã vội vã chuẩn bị chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kì. Nghe theo lời khuyên
của Đức và Áo Hung, Thổ Nhĩ Kì đành chấp nhận giao cho Ý vùng đất Libi đê
còn đối phó với các nước Bancăng.
Hiệp ước Uxi (Ouchi - Thuỵ Sì)) kí ngày 15/10/1912 quy định Thổ
nhượng cho Ý hai vùng Xirênaica và Tripôlitani, đổi lại Ý rút quân khỏi
biển Êgiê. Cuộc chiến tranh Ý - Thổ chấm dứt nhưng không làm giảm sự
căng thẳng ở vùng Bancăng.

d) Cuộc khủng hoảng Bancáng (1912 1913) -

Chiến tranh Ý - Thổ đã làm cho lực lượng của Thổ Nhĩ Kì bị suy yếu
nghiêm trọng, tạo điều kiện để các quốc gia ở khu vực Bancăng xích lại gần
nhau. Hai nước lớn trong khu vực là Xécbi và Bungari gạt bỏ mối thâm thù
trước đây để hợp lực cùng nhau tiến hành chiến tranh chống Thổ. Tháng
5/1912, Liên minh Bíiiìcủììg bao gồm các nước Xécbi, Bungari, Mồntênêgrô và
Hi Lạp được thành lập.
Nga ủng hộ liên minh này và coi nó như là một công cụ để phát huy ảnh
hưởng của Nga ở Bancăng. Tháng 10/1912, chiến tranh bùng nổ và kết thúc
bằng sự thất bại của Thổ Nhĩ Kì. Theo hoà ước được kí kết ở Luân Đôn vào
tháng 5/1913 thì Thố Nhĩ Kì mất toàn bộ lãnh thổ ở châu Âu mà họ đà cướp
được từ 5 thế kỉ trước ngoại trừ thành phố Côngxtăngtinồp và vùng ngoại vi.
Thất bại của Thổ Nhĩ Kì và thắng lợi của các nước Bancãng đà tăng cường
ảnh hưởng của Nga tại khu vực này, làm cho Đức và Áo Hung lo ngại. Lợi
dụng các nước Bancãng tranh giành nhau phần hơn trong việc phân chia quyền
lợi sau chiến tranh, các nước Đức và Áo Hung tìm cách chia rẽ liên minh
Bancăng bằng cách khoét sâu mối bất hoà giữa các nước Xécbi, Bungari và Hi
Lạp. Mâu thuẫn trong nội bộ các nước Bancăng nảy sinh đã dẫn đến cuộc chiến
tranh Bancăng lần thứ hai vào tháng 6/1913 giữa một bên là Bungari với một
bên là liên minh các nước Xécbi, Hi Lạp. Kết quả, Bungari bị thất bại, buộc
phải kí hiệp định đinh chiến vào ngày 10/8/1913. Sự thất bại của Bungari đã
làm cho cả hai khối Đức - Áo Hung và Nga - Anh - Pháp không hài lòng. Nga -
Anh - Pháp, trong đó chủ yếu là Nga bất bình vì sự tan rã của liên minh
Bancâng còn Đức - Áo Hung không bằng lòng vể sự lớn mạnh của Xécbi.

106
Thất bại của Bungari trong cuộc chiến tranh Bancăng lần thứ hai chính là
thất bại của khối Đồng m inh Đức - Áo Hung cho nên Đức - Áo Hung đã tìm
mọi cách đế tấn công Xéchi nhằm bảo vệ quyển lợi của khối Liên minh tại khu
vực Bancăng. Tại đây, Á o Hung đã lợi dụng cuộc cách mạng ở Thổ NhT Kì
(7/10/1908) tuyên bô sáp nhập Bôxnia với Hécxêgôvina nhằm ngăn cản hai xứ
này cùng với Xccbi lập thành một một quốc gia "Đại Xécbi" thống nhất. Nga
ùng hộ Xécbi chống lại cuộc sáp nhập đó và để nghị tổ chức một hội nghị quốc
tê để bàn về các vấn đề liên quan đến khu vực Bancăng. Đức phàn đỏi và đe doạ
sẽ ủng hộ Áo Hung tiến hành chiến tranh với Xécbi nếu Nga không đê cho Áo
Hung thực hiện việc sáp nhập trên. Vì không nhận được sự ủng hộ của Anh và
Pháp nên Nga đành phải nhượng bộ đê cho Áo Hung thôn tính Bôxnia và
Hécxêgỏvina. Tuy nhiên, đến năm 1913 việc Xécbi giành được thắng lợi trong
cuộc chiến tranh Bancăng lần thứ hai đã làm cho Đức và Áo Hung lo ngại, tìm
mọi cách đê tiêu diệt Xécbi. Vì vậy, Xécbi đã trở thành ngòi nổ trực tiếp của
cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (Thế chiến I).

III. Q U AN HỆ QUỐC T Ế TRONG PHONG TRÀO CỒNG NHÂN TỪ


CUỐI T H Ế K Ỉ X IX ĐẾN TRUỚC K H I BÙNG N ổ THE CHIÊN I (1871 - 1914)
1. Sự thành lặp chính đảng công nhân Ư nhiều nước châu Âu và M ĩ
Sự thất bại của Công xã Pari năm 1871 đã đưa phong trào công nhân châu
Âu đi vào giai đoạn thoái trào. Nhiều tổ chức công nhân bị tan rã, Quốc tế I
tuyên bố giải tán (1876).
Tuy vậy, chí vài năm sau, phong trào dần dần dược hồi phục. Trước đây,
chỉ có Đáng Xã hội dân chủ Đức thành lập năm 1869 thì đến cuối những năm
70 đà có nhiều chính đảng công nhân ra đời ờ Hà Lan, Đan Mạch, Pháp, Tây
Ban Nha; trong những năm 80 ở Anh, Bi, Áo, Na U y, Thuỵ Điển, Thuỵ Sì...
Năm 1883, ở Nga xuất hiện Nhóm Giải phóng lao động - tổ chức truyền bá học
thuyết m ácxit đầu tiên của nước này. Năm 1895, V .I. Lênin (1870 - 1924) tổ
chức Hội Liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, năm 1898 thành
lạp Đảng Còng nhân Xã hội dân chủ Nga. Nhưng phải đến năm 1903, đảng này
mới chính thức hoạt động. Còn ở MT, năm 1876 ra đời Đảng Công nhân Xã hội
MT, đến năm 1897 thành lập Đảng Xã hội MT theo mô hình các đảng xã hội dân
chủ ở châu Au.
Sự thành lập các chính đảng công nhân đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào đấu tranh chống ách áp bức tư bản. Nổi bật là cuộc biểu tình,

107
tổng bãi công ngày 1/5/1886 của 40 vạn công nhân thành phô Chicagò (M ĩ)
đòi ngày làm 8 giờ, tăng lương, cải thiện đời sống. Mặc dù bị trấn áp dừ dội,
công nhân vẫn kiên trì đấu tranh buộc chính quyển phải ban hành dạo luật
ngày làm 8 giờ. Đó là thắng lợi bước đầu của công nhân MT, được giai cấp
cồng nhàn thế giới hưởng ứng. Sau này, ngày 1 tháng 5 được coi là ngày hội
đoàn kết quốc tế của giai cấp còng nhân thế giới, đi vào lịch sử với tên gọi là
ngày Quốc tế Lao động.
Ngày 14/3/1883, Các Mác - người sáng lập Học thuyết Chủ nghĩa xã hội
khoa học, vị lãnh tụ của phong trào công nhân quốc tế - qua đời. Từ đây, trách
nhiệm lành đạo phong trào công nhân được đặt lên vai Phriđrích Ảnghen -
người bạn, người đồng chí của Mác.

2. Sự thành lập Quốc tẻ thứ I I và tình trạng phân hơá trong phơng
trào công nhân
Sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu khách quan là phái
tập hợp các chính đảng vào một tổ chức quốc tế. Ngày 14/7/1889, nhân dịp kỉ
niệm 100 năm ngày Cách mạng Pháp (1789 - 1889), tại Pari đã tiến hành đại
hội thành lập Quốc tế thứ II do Ph. Ảnghen chũ trì. Cùng với Ảnghen là các nhà
lãnh đạo kiên cường của phong trào công nhân Đức (Bêben, Các Lípnếch),
phong trào công nhân Pháp (Ghexđơ, Laphácgơ)...
Nhưng phong trào công nhân quốc tế dán dần trở nên phức tạp, dẫn tới sự
phân hoá thành hai phái có quan điểm khác nhau trong việc nhận định về bân
chất chủ nghĩa đế quốc và vể sách lược đấu tranh của giai cấp công nhân. Phái
mácxit do Ảnghen đứng đầu trung thành với những nguyên lí cơ bản của học
thuyết Mac, khảng định tính chất bóc lột và phản động của chủ nghĩa đế quốc,
chủ trương trong khi tranh thủ các khả năng đấu tranh bằng biện pháp hoà
bình thì vẫn phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản để lột đổ ách thông trị của
giai cấp tư sản và thiết lập chuyên chính vỏ sản, xác lập vai trò lãnh đạo của
giai cấp vô sản. Phái đối lập do Cauxki, Bécxtainơ đứng đầu cho rằng bước
sang thời kì đế quốc chủ nghĩa, năng lực sản xuất tăng nhanh nên đời sống
công nhân được cải thiộn, mâu thuẫn tư sản - vò sản đi vào xu hướng hoà dịu
nên có thể áp dụng sách lược đấu tranh nghị trường, từng bước chuyển dần
sang chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua thời kì cách mạng vô sản và
chuyên chính vô sản. Bécxtainơ cho rằng, đối với cuộc đấu ĩranh của công
nhân thì "mục đích cuối cùng không là gì, phong trào là tất cả” . Điều đó bộc
lộ tính chất cơ hội, xa rời mục tiêu đấu tranh giành quyén lãnh đạo của giai

108
cấp vồ sản mà chí nhàm vào một số yêu sách cụ thể về cài thiện đời sống và
giành chiếm sô ghế trong nghị viện. Phái này tuyên bô vẫn đi theo chủ nghĩa
Mác nhưng nội dung các luận thuyết của Mác không còn phù hợp với tình
hình mới nên cần phải xem xét lại học thuyết Mác. Vì vậy, phái này đi vào
lịch sử với tên gọi là "chù nghĩa cơ hội - xét lạ i", về thực chất là một trào lưu
tư tưởng mang danh của Mác nhưng chông lại Mác.
Sự phân hoá tư tưởng đà tác động mạnh mẽ đến phong trào công nhân. Hầu
hết các đảng công nhân các nước đều bị phân hoá thành 2 phái đối lập nhau.
Ngay bên cạnh Ọuốc tế II cũng xuất hiện một tổ chức Ọuốc tế khác được thành
lập cùng ngày (14/7/1889) tại Pari, tập hợp đông đảo những người theo chủ
nghĩa cơ hội và xét lại. Tinh trạng này bị giai cấp tư sản lợi dụng dể khoét sâu
mâu thuẫn và làm giảm thiểu sức đấu tranh của phong trào công nhân. Năm
1895, Ph. Ảnghen qua đời, phong trào công nhân châu Âu rơi vào tình trạng bị
phân liệt dữ dội.
Sau này, Lênin phân tích nguồn gốc gây nên tình trạng phân liệt trong
phong trào công nhân. Đó là: 1- Sô lượng những người thất nghiệp và phá sản
rơi vào hàng ngũ vò sản ngày càng đông, họ mang theo tàn dư tư tưởng của các
giai cấp cũ khiến cho nhận thức và tinh thần của giai cấp này trở nên phức tạp,
dễ mất phương hướng; 2 - Sự tiến bộ kĩ thuật đã đào tạo một bộ phận công nhàn
có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao, được hường nhiều đặc lợi, hình thành
"tầng lớp công nhân quý tộc", tách khỏi lợi ích chung của giai cấp vô sản. Họ
không muốn tiến hành những cuộc cách mạng triệt để chống CNTB vì điều đó
sẽ làm tổn hại đến những lợi ích của họ được giới chủ ưu đãi. Chính vì thế, họ
trở thành người bảo vệ cho CNTB, dễ dàng quay lưng lại với quyển lợi của
đông đảo công nhàn; 3 - Chính phủ tư sản thi hành những chính sách khác nhau
trong tìmg nước và giữa các nước để khơi sâu sự khác biệt quyền lợi trong công
nhân, mua chuộc bộ phận "công nhân quý tộc" chống lại đa số công nhản. Do
vậy, trong những người lãnh đạo phong trào công nhân có sự đánh giá khác
nhau về giai cấp tư sản, từ đó một bộ phận trông chờ sự thỏa hiệp và ban ơn của
giới cầm quyền hơn là tiến hành đấu tranh đến cùng đê giải phóng các giai cấp
cần lao. Những nguồn gốc đó tiềm ẩn trong phong trào công nhân từng nước và
phong trào cồng nhân quốc tế. Cần phải tiến hành tuyên truyền giác ngộ giai
cấp công nhân đê họ nhận thức đầy đủ về bản chất chủ nghĩa đế quốc và định
hướng đấu tranh đúng đắn. Nhiệm vụ lịch sử nặng nề đó chuyển sang tay Lên in
và giai cấp vô sản Nga vào những năm đầu thế kí XX.

109
3. Cách mạng Nga 1905 - 1907 và ánh hưởng quốc tế
Đầu thế kỉ X X , nước Nga là một quốc gia quân chủ, chưa tiến hành cách
mạng tư sán. Nhưng do có nhiều nguồn tài nguyên phong phú, cuộc Cải cách
Nông nô năm 1861 tuy kết quả rất hạn chế nhưng đà phần nào tạo điều kiện
cho kinh tế tư bản, đồng thời du nhập kĩ thuật mới của quá trình công nghiệp
hoá ở châu Âu nên nước Nga đã có bước tiến triển đáng kế trên con đường
TBCN và bước vào hàng ngũ các nước đế quốc. Chính phủ Nga hoàng đóng vai
trò quan trọng trong các mối liên hệ quốc tế ớ châu Âu, thường đứng về phe
bào thủ và phàn động chống lại mọi trào 1tru cách mạng. Trong khi đó, tình
hình nội bộ nước Nga rất phức tạp, chầng chéo nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn
giữa đỏng dáo nhân dân Nga với chế độ phong kiến, mâu thuẫn giữa một bộ
phận tư sản với nền quân chủ Nga hoàng, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhàn
với giai cấp tư sản và mâu thuẫn giữa đế quốc Nga với một số đế quốc khác. Từ
năm 1903, Đảng Công nhân Xã hội dân chú Nga bước lên vũ đài chính trị đấu
tranh vì quyển lợi của giai cấp vô sản và nhân dàn lao động. Lênin chú trương
tiến hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp vỏ sản lãnh đạo
để lật đổ chế độ phong kiến quân chủ Nga hoàng, sau đó chuyển ngay sang
cách mạng XHCN, thiết lập quyền thống trị nhà nước của giai cấp vồ sản.
Sự thất bại của nước Nga trong cuộc Chiến tranh Nga - Nhật (1904 - 1905)
đã bộc lộ sự yếu kém của chế độ Nga hoàng, khơi sâu lòng căm phẫn của các
tầng lớp nhân dân đối với chính quyền đưưng thời. Tháng 1/1905, cách mạng
bùng nổ ở Pêtécbua, nhanh chóng lan rộng ra nhiều thành phố trong nước.
Đông dáo công nhân, nông dân, binh lính tham gia khởi nghĩa vũ trang, chống
lại sự tàn sát đẫm máu của chính quyền Nga hoàng. Nhiều nơi thành lập Xò
viết - hình thức mới của chính quyền cách mạng với sự tham gia của đại biểu
công nhân, nông dân và binh lính giác ngộ.
Cuộc đấu tranh chống chế độ Nga hoàng kéo dài 2 năm trên quy mô rộng
lớn. Song sự chênh lệch về tương quan lực lượng khiến cho phong trào ở nhiều
nơi bị dập tắt. Một nguyên nhân quan trọng khác là tình trạng thiếu nhất trí
trong sự lãnh đạo của Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga. Cũng như tình
hình ở nhiều nước châu Âu, phong trào công nhân Nga bị phân hoá thành hai
phái, gồm phái Đa số (Bônsêvích) do Lênin lãnh đạo đi theo con đường học
thuyết Mác và phái Thiểu số (Mensêvích) đi theo chủ nghĩa cơ hội.
Vlađimia llích Unianốp, bí danh là Lênin (1870 - 1924), nhà hoạt động
chính trị nước Nga. ô n g tham gia nhóm mácxit từ năm 1888, là 1 trong 9

110
người sáng lập Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga. Sau 3 năm bị đi đày
ở Xibia, năm 1900. ông cho xuất bản báo Tia lửa. Năm 1903, trong sự
phản hoá tại Đại hội II của Đảng CNXHDC Nga, Lẻnin đứng đáu phái Đa
số (Bônsêvích) chống lại phái Thiểu sô (Mensẻvích), bảo vệ nguyên lí học
thuyết Mác. Qua Cách mạng 1905 ở Nga, Lênin đề ra sách lược tiến hành
cách mạng dân chủ tư sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp vỏ sản, sau khi
thắng lợi sẽ chuyển ngay sang cách mạng XHCN (lí luận về "cách mạng
không ngừng"). Cách mạng 1905 được coi như sự diễn tập cho cuộc Cách
mạng tháng Mười 1917 dưới sự chỉ đạo của Lènin.

Cuộc Cấch mạng 1905 ở Nga đánh dấu một bước phát triển mới của phong
trào công nhân kê từ sau Công xã Pari 1871. Đồng thời, nó có ảnh hưởng rộng
lớn đôi với các nước châu Á đang tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc,
giành độc lập dân tộc. M ột làn sóng đấu tranh mạnh mẽ đã lan sang nhiều nước
phương Đông như Ân Độ, Indỏnêxia, Trung Ọuốc mà Lênin gọi là "sự thức tỉnh
của châu Á ".

4. Phong trào công nhàn chàu Âu trước nguy CƯ chiến tranh thê giới
Những cuộc khủng hoảng ở Bắc Phi và ở Bancăng báo hiệu nguy cơ chiến
tranh ngày càng đến gần. Trước tình hình đó, phong trào công nhân càng thêm
phân hoá. Tại Đại hội Ọuốc tế II ở Xtútga (1907) và Đại hội Côpenhagen
(1910) đã bộc lộ những quan điểm chính như sau:
- Chủ trương giai cấp công nhân sẽ đứng lên "bảo vệ đất nước bị tấn công".
Như vậy thái độ của công nhân tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, khi bị tấn công thì có
quyền tự vệ mà khỏng chú ý đến tính chất của chiến tranh, bên nào ỉà chính
nghĩa, bên nào là phi nghĩa.
- Cho rằng chiến tranh là sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa đế quốc nên
muốn chống chiến tranh thì phải tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc. Do vậy, không
đưa ra được những sách lược ứng phó kịp thời khi chiến tranh xảy ra vì chống
chủ nghĩa đế quốc là một quá trình đấu tranh lâu dài.
- Dưới khẩu hiệu "bảo vệ Tổ quốc", công nhân các nước sẽ tham gia chiến
tranh để bảo vệ đất nước. Thực chất là đẩy công nhân các nước vào cuộc chém
giết lẫn nhau vì lợi ích của giai cấp tư sản nước mình.
Đến Đại hội Balơ (1912), Ọuốc tế II ra lời kêu gọi công nhân các nước
cùng nhau chông chiến tranh, đoàn kêì tạo nên sức mạnh chống chú nghĩa đế
quốc. Nhưng khi chiến tranh bùng nổ thì hầu hết những người lãnh đạo phong

111
trào công nhân các nước đều tán thành ngân sách chiến tranh, kêu gọi công
nhân nước mình úng hộ vỏ điều kiện chính quyền tư sản đê giành thắng lợi.
Chính thái độ đó đà thúc đẩy công nhân các nước rơi vào tình thế dối địch với
nhau, làm cho tổ chức Quốc tê II bị tan rã, không thể hoạt động được nữa.
Trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh mà hai bên tham chiến đểu phi nchĩa (trừ
Xécbi), Đảng Bônsêvích Nga do Lênin đứng đầu chủ trương "Biến chiến tranh đế
quốc thành nội chiến cách mạng", phát động nhân dân nổi dậy tiến hành Cách
mạng tháng Hai 1917, đánh đổ chế độ Nga hoàng rồi sau đó tiến hành Cách
mạng tháng Mười, đánh đổ chính quyển tư sản, thiết lập chế độ Xô viết.

IV. Q UAN HỆ QUỐC TE TRONG THỜI KÌ TH Ế CHIÊN I (1914- 1918)


1. Chiến tranh bùng nổ. Sự tính toán của các nước tham chiến
và tính chất của chiến tranh
Những cuộc khủng hoáng đầu thế kỉ X X làm cho tình hình châu Âu ngày càng
trở nên căng thẳng và khu vực Bancăng được ví như "một thùng thuốc súng".
Ngày 28/6/1914, Thái tử nước Áo Phranxơ Phécđinan đến dự cuộc tập trận
của quân đội Áo Hung tại Xaragiêvô thì bị những người yêu nước Xécbi thuộc
tổ chức "Bàn tay đen" ám sát. Nhận được tin đó, Hoàng đê Đức Vinhem II liền
xúi giục Áo Hung trừng phạt Xécbi và nhân cơ hội này bành trướng ra toàn bộ
khu vực Bancăng. Vinhem II coi đây là cơ hội hiếm có, tuyên bỏ ngắn gọn:
"Chí có bây giờ hoặc là không bao giờ” và đề nghị Áo Hung ra điều kiện hết
sức ngặt nghèo để Xécbi không thê chấp nhận, từ dó lấy cớ gây chiến tranh.
Nghe theo Đức, ngày 23/7/1914 Chính phủ Áo Hung gửi tối hậu thư cho
Xécbi, yêu cầu phải trả lời trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Theo lời khuyên của
Nga, Xécbi chấp nhận háu hết những yêu sách do Áo Hung đưa ra (như để cho
Áo Hung trừng phạt những ai có tư tưởng bài xích Áo Hung cũng như khống
được tuyên truyền chống lại Áo Hung). Riêng vấn đề cho phép quan chức Áo
Hung sang Xécbi điểu tra vụ ám sát thì khước từ và yêu cầu đưa vấn đề ra hội
nghị quốc tế.
Mặc dù Xécbi tìm mọi cách đê giải quyết xung đột bằng con đường hoà
bình nhưng Áo Hung không chấp nhận, liền cắt đứt quan hệ ngoại giao và
tuyên chiến với Xécbi ngày 28/7/1914. Tiếp theo, ngày 1/8 Đức tuyên chiến với
Nga, ngày 3/8 tuyên chiến với Pháp. Ngày 4/8, Anh tuyên chiến với Đức với lí
do Đức vi phạm nền trung lập của Bỉ. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng
nổ ĩrong tình hình như vậy.

112
Vợ chổng Thái tử Ao ngay trước khi bị ám sát

Tham gia khối Hiệp ước lúc đầu có ba nước Nga - Anh - Pháp, về sau thêm
Nhạt Bản (8/1914), Ý (5/1915), Rumani (8/1916) và MT (4/1917). Nước Ý rời
bỏ phe Liên minh để sang phe Hiệp ước. v ể phía Đức - Áo Hung có thêm Thổ
Nhi Kì (10/1914) và Bungari (10/1915).
Thực ra, vụ ám sát Thái tử Áo chỉ là nguyên cớ trực tiếp làm bùng nổ cuộc
chiến tranh. Nguyên nhân sâu xa của nó là mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa
hai khối quân sự đã hình thành là phe Liên minh và phe Hiệp ước. Những biến
động trong quan hệ quốc tế cũng như vụ khủng hoảng Bancăng vào những năm
đầu thế kỉ X X chính là sự dọn đường cho cuộc chiến tranh này. M ỏi nước khi
tham chiến đều mang theo những tính toán vì lợi ích riêng của mình.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong việc phân chia thị trường thế giới,
chủ yếu là mâu thuẫn giữa hai cường quốc Đức và Anh, đã đưa đến cuộc Chiến
tranh thế giới thứ nhất. Mục đích của Đức là muốn làm bá chủ thế giới, áp đặt
ách thống trị lên phần lớn các nước châu Âu và Trung Cận Đông, chiếm đoạt
thuộc địa của Anh và Pháp. Giới cầm quyền Áo Hung tham gia Liên minh là đê
thực hiện tham vọng làm bá chủ vùng Bancăng. Trong khi đó, Anh nhằm mục
đích làm suy yếu địch thủ cạnh tranh là Đức và mở rộng phạm vi thuộc địa rộng
lớn của mình. Pháp là nước vốn có môi thù từ làu với Đức nên muốn nhàn cơ

1 13
hội này lấy lại vùng Andát, Loren và chiếm đoạt thêm vùng Xarơ giàu có của
Đức. Còn Nga không ngoài mục đích gạt ảnh hưởng của Đức và Áo Hung ra
khỏi Bancăng và Thổ N hĩ K ì, qua đó nâng cao vị thế của nước Nga đối với khu
vực và kiểm soát con đường ra Địa Trung Hải thông qua các eo biển của Thổ
Nhĩ Kì. Các nước Ý và Rumani tham gia phe Hiệp ước là vì lợi ích thương mại,
lại được hứa hẹn nhiều quyền lợi sau chiến tranh. Còn Bungari và Thổ Nhĩ Kì
tham gia khối Liên m inh là để khôi phục đất đai đà bị mất trong cuộc chiến
tranh Bancăng lần thứ hai.
Riêng Nhật Bản tham gia khối Hiệp ước có tham vọng phân chia phạm vi
ảnh hưởng và xác lập vị thế của mình trên trường quốc tế. M ục đích của Nhật
khi đứng về phía Nga - Anh - Pháp là muốn thôn tính các lãnh địa của Đức ở
Trung Ọuốc (Giao Châu) và ở châu Á - Thái Bình Dương (các đảo Mácsan,
Carolina, Marianna). Nhân cơ hội các nước bận chiến tranh ở châu Âu, Nhật sẽ
mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Trung Quốc và Viền Đông.
Trong khi đó, MT sử dụng lợi thế là nước nằm cách biệt với châu Âu nên lợi
dụng cuộc chiến tranh giữa hai khối đê làm giàu. Trong thâm tâm, M ĩ muốn
chiến tranh sẽ làm cho cả hai phía đều bị suy yếu và đó là cơ hội tốt đế M ĩ vươn
lên địa vị bá chủ thế giới. Với toan tính đó, trong giai đoạn I của cuộc chiến
tranh (1914 - 1917), MT đứng ngoài cuộc chiến và tiến hành buôn bán vũ khí
với cả hai bên tham chiến. Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ ờ châu Âu, ngày
5/8/1914 MT tuyên bố lập trường trung lập. Tuy nhiên, do bị hải quân Đức
phong toả nên MT buôn bán chủ yếu với Anh và Pháp, VI thế quyền lợi của MT
gắn chặt với hai nước này.
Từ thực tế trên có thể thấy rằng Chiến tranh thế giới thứ nhất mang tính
chất đế quốc chủ nghĩa, 99% số nước tham chiến là phi nghĩa. Chỉ trừ Xécbi là
nước đấu tranh để giải phóng dân tộc, còn tất cả các nước tham chiến khác đều
nhằm mục đích chiếm đoạt đất đai và thu về quyền lợi cho riêng mình, chà đạp
lên lợi ích của các dân tộc khác.

2. Quá trình diễn biến chiến tranh


Thế chiến I bùng nổ từ tháng 8/1914, kết thúc vào tháng 11/1918, chia làm
hai giai đoạn: từ 1914 đến 1917 và từ 1917 đến 1918.
- G iai đoạn I (1914 - 1917) khởi đầu với ưu thế thuộc về phe Đức và Áo
Huns. Bộ chỉ huy Đức dùng chiến thuật đánh chớp nhoáng hòng nhanh chóng
tiêu diệt Pháp ở phía Tây đê quay sang mật trận phía Đôim tấn công Nga.

114
Nhưng sự tham chiến của Anh ngay từ những ngày đầu tiên làm cho Đức bị bất
ngờ vì Đức tường rằng với chính sách truyền thống "đợi và xem" của Anh, nước
này sẽ đứng ngoài cuộc một thời gian. Do vậy, chiến tranh vùng biên giới Đức -
Pháp rơi vào thế giàng co, quân lính hai bên đào các tuyến đường hào chạy dài
dê chiến đấu, lịch sử gọi là "chiến tranh hầm hào". Hai bên tham chiến sử dụng
những phương tiện chiến tranh mới phát m inh như xe tăng, pháo hạng nặng,
thậm chí cả hơi độc. Máy bay được thử nghiệm đưa vào cuộc chiến.
Năm 1915, mặt trận chính chuyển sang phía đòng. Đức cho rằng nước Nga
Sa hoàng là khâu yếu nhất trong phe Hiệp ước, có thể dễ đè bẹp. Nga bị thiệt
hại khá nặng nề nhưng cuộc chiến lại rơi vào thế cầm cự.
Năm 1916, mặt trận chính lúc thì ở phía đông, khi thì ở phía tây. Đức tập
trung binh lực mở chiến dịch tấn công Vécđoong (Verdun) hòng tiêu diệt chủ
lực của Pháp. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt ờ Vécđoong - một căn cứ
phòng thủ kiên cố của quân Pháp - trong suốt 10 tháng trời, từ tháng 2 đến
tháng 12 năm 1916, cuối cùng quân Đức phải rút lui. Chiến thắng Vécđoong là
niềm kiêu hành của người Pháp. Cùng thời gian đó, quân Nga đánh tan quân
Áo Hung nhưng cũng không tiến thêm được để giải thoát Ý khỏi sự chiếm đóng
của Áo Hung.
Trong 2 năm 1915 - 1916, chiến sự còn diễn ra ác liệt trên mặt biển. Hạm
đội Anh phong toả nước Đức, hải quân Đức phản công quyết liệt. Ngoài các
hạm đội có sức tiến công mạnh, trang bị vũ khí tối tân, cả hai bên đều sử dụng
một phương tiện chiến tranh mới của kĩ thuật quân sự, đó là tàu ngầm.
Đến cuối năm 1916, chiến tranh ngày càng ác liệt nhưng cả hai bên đều
không giành được thắng lợi quyết định mặc dù lợi thế nghiêng về phe Hiệp ước.
Trong khi đó, chiến tranh đã gây ra nhiều thiệt hại nặng nề về người và của.
Nền kinh tế của các nước tham chiến đều rơi vào tình trạng kiệt quệ. Quần
chúng nhân dân vô cùng bất mãn. Tinh thế cách mạng bắt đầu xuất hiện ở một
số nước châu Âu, sẽ tác động đến tiến trình của cuộc chiến.
Lịch sử nước Nga đầu năm 1917 được đánh dấu bằng cuộc Cách mạng
tháng Hai. Đây là cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã lạt đổ chế độ Nga hoàng,
thành lập Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản do Kêrenxki đứng đầu. Chính
phủ Kêrenxki tiếp tục theo đuổi chiến tranh trong hoàn cảnh đất nước kiệt quệ,
binh sĩ hoang mang, dàn tình đói khổ.
Khi do, giới cầm quyén M ĩ cho ràng với sự phát triển của phong trào cách
mạng ở Nga, phe Hiệp ước có nguy CƯ bị thất bại. Nếu xảy ra như vậy, M ĩ
không những mất hết quyền lợi trong quan hệ buôn bán với Anh, Pháp mà còn
tan vỡ cả ý đồ thiết lập địa vị thống trị châu Âu. Nếu Đức thắng thì Đức sẽ liên
minh với Nhật Bản để tranh giành quyền lợi với M7 ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Là một cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới, MT không chịu
đứng ngoài cuộc để nhìn các nước tư bản khác tự do phân chia lại thế giới. Cho
nên MT vin cớ tàu ngầm của Đức đà tấn công các chuyến tàu hàng của M7 để
cắt đứt quan hộ ngoại giao và ngày 6/4/1917 chính thức tuyên chiến với Đức.
- G iai đoạn II (1917 - 1918) được đánh dấu bằng sự tham chiến của MT
với ưu thế nghiêng về phe Hiệp ước. Trong khi chiến tranh đang tiếp diễn thì
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và giành được thắng lợi (7/11/1917).

Sau Cách mạng tháng Hai, ngày 17/4/1917 Lênin đã trình bày tại Hội
nghị Đại biểu các Xô viết cồng nhân và binh lính toàn Nga bản Nhiệm vụ
của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay (sau đi vào lịch sử với
tên gọi "Luận cương tháng T ư ’), vạch ra kế hoạch đấu tranh từ cách
mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, đề ra khẩu hiệu
"Toàn bộ chính quyền về tay x ỏ viết” . Từ đó đã diễn ra nhiều cuộc biểu
tình quẩn chúng phản đối chiến tranh, đòi Chính phủ lâm thời trao quyền
cho các xô viết. Đỉnh điểm của cuộc đấu tranh diễn ra vào ngày 6 và
7/11/1917 (ngày 25 và 26 tháng 10 lịch Nga) khi hàng trăm nghìn người
dân Pêtrôgrát nổi dậy, tuần dương hạm Rạng Đông nổ súng vào Cung
điện Mùa Đông và một số nơi khác trong thành phố. Chính phủ lâm thời
sụp đổ, Kêrenxki bỏ trốn, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Pêtrôgrát hoàn toàn
thắng lợi. Chính quyền Xô viết được thành lập do v .l. Lênin đứng đầu.
Cách mạng tháng Mười Nga đã khai sinh nhà nước XHCN đầu tiên trên
thế giới, mở ra một thời kì mới cho cuộc đấu tranh giải phóng các giai cấp
và các dân tộc bị áp bức.
Ngay trong đêm 8/11, vào lúc 23 giờ, phiên họp thứ hai Đại hội II các x ỏ
viết toàn Nga đã thông qua sắc Ìệtìỉì ruộììg đất và sắc lệnh hoe) bình. Nhà nước
X ô viết tuyên bố với thế giới chính sách đối ngoại hoà bình trên CƯ sờ bình
đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ giữa các quốc gia. Bán
tuyên bố lên án "Chiến tranh đế quốc ỉà tội ác lổm nhất chống lại loài người" và
"đề nghị nhân dân tất cả các nước tham chiến và các chính phũ của họ tiến hành
ngay những cuộc đàm phán về một hoà ước dân chủ và công bằng mà íuyột đại
đa số quần chúng công nhân, các giai cấp cần lao bị chiến tranh làm cho kiệt

116
quệ, khốn đốn và vô cùng
đau khổ trong các nước
tham chiến, đang khao
khát,,(lỉ. Đồng thời, trong
công hàm gửi tới đại sứ của
các nước đồng minh ờ Nga
ngày 8/11/1917, Chính phủ
Xô viết "một lần nữa khẳng
định về để nghị ngừng bắn
và kí kết một hoà ước dân
chủ, không có thôn tính và
bồi thường trên cơ sở quyền
I Lênin năm 1917
tự quyết của các dân tộc .
Tuy nhiên, các chính phủ Anh, Phấp, M7 đà bác bỏ đề nghị hoà bình và quyết
định không quan hệ với chính quyền Xò viết. Mong muốn tiến hành các cuộc
thương lượng chưng và kí một hoà ước chung không được thực hiện, ngày
20/11/1917 phái đoàn hoà bình của Chính phù x ỏ viết đà kí kết Hiệp định đình
chiến với đoàn đại biểu khối Đức, thoá thuận ngừng bắn trong 10 ngày.
Ngay sau đó, Bộ Dân uỷ ngoại giao Xô viết đã gửi lời kêu gọi tới các
nước đồng minh và Mĩ nèu rõ cuộc ngừng bắn sẽ tạo cơ hội cuối cùng
cho các nước đổng minh tham gia các cuộc đàm phán và do đó tránh
được mọi hậu quả của một hoà ước riêng rẽ giữa nước Nga với các nước
đối địch. Tuy nhiên, lời kêu gọi đó không được đáp ứng.

Trong tình hình đó, Lênin chủ trương phải kí ngay hoà ước với Đức
nhưng Trốtxki, trưởng phái đoàn đàm phán của Nga tại Brét - Litốp (Brest -
Litovsk), không tán thành. Cuộc đàm phán tan vỡ và quân Đức tiếp tục
tấn công quân sự, đặt nước Nga vào tình thế cực kì khó khăn.

Sau những diễn biến căng thẳng và phức tạp của tình hình chiến sự, ngày
3/3/1918 Hoà ước Brét - Litốp được kí kết với những điều kiện hết sức nặng nề
đối với nước Nga.

(1) A. Nênarôcốp, Lịch SỪ cách mạnỊị XHCN tháng Mưìri vĩ dại, N X B Tiên bộ. M., 19X7,
ir. 257-259.
(2) A. Nênarôcóp, Sđd, tr 2X5.

1 17
Theo Hoà ước Brét - Litốp, nước Nga phải cắt đi một bộ phận lãnh
thổ rộng lớn (diện tích 750 OOOkm với hơn 50 triệu dân, bao gồm Ba Lan,
2

Latvia, Lítva, Extônia, Bêlarút, Ucraina, Phần Lan) và phải trả khoản tiền
bổi thường 6 tỉ mác cho Đức.

Lênin gọi đây là "một


hoà ước bất hạnh", nhưng
nhờ đó mà nước Nga đã rút
ra khỏi cuộc chiến tranh đế
quốc để chuẩn bị đương đầu
với những thử thách ác liệt
nhằm bảo vệ chính quyền
Xò viết non trẻ. Có thể nói
rằng việc kí hoà ước Brét -
Litốp là một sách lược đúng M * 1 •+ 4 * *

đắn của Lênin. Nó cho phép


Một phiên họp của Hoà đàm Brét-Litốp
nước Nga tranh thủ điều
kiện hoà bình để củng cố nhà nước Xô viết và xây dựng lực lượng cách mạng
đủ sức chống lại sự can thiệp của 14 nước đế quốc trong những năm sau. v é
phía Đức, việc kí hoà ước Brét - Litốp đã tạo điều kiện cho Đức rânh tay ở mặt
trận phía Đông và dồn toàn bộ lực lượng sang mặt trận phía Tây. Chính vào thời
điếm quyết định đó, MT thay Anh dứng đáu phe Hiệp ước.
Việc MT tham gia phe Hiệp ước đã làm thay đổi cục diện của cuộc chiến
tranh. Từ tháng 1/1918, Tổns thống M7 Uynxơn (Woodrow W ilson) đưa ra
"Cương lĩnh hoà bình 14 điểm", đề cập vấn đề giải quyết tình hình sau chiến
tranh và đặt ra những điều kiện tiên quyết đối với phe Liên minh. Mục đích của
Cương lĩnh là nhằm nâng cao vị thế của MT trên trường quốc tế.
Cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn cuối cùng. Quân đội của phe Liên
minh bị thất bại liên tiếp, phải lần lượt đầu hàng: ngày 29/9/1918, Bungari đầu
hàng, tiếp theo là các nước Thổ Nhĩ Kì (30/10), Áo Hung (3/11 ).
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, làn sóng đấu tranh
lan đến Áo Hung, ngày 1/2/1918, hơn 6000 thuỷ thủ trên 40 tàu chiến ở
vùng biển Ađriatích khởi nghĩa yêu cầu chính phủ khẩn trương đàm phán
hoà bình, đòi quyến tự quyết cho các dân tộc trong đế quốc Áo Hung, đòi
thành lập chính phủ dân chủ ở Áo và ở Hunggari. Trước áp lực của phong

I 18
trào quần chúng, cùng với những thất bại trên chiến trường, Áo Hung
buộc phải kí hiệp ước đầu hàng.

Như vậy, phe Liên minh chỉ còn có Đức tham chiến. Nhưng phong trào
công nhân ở Đức phát triển rất mạnh mẽ. Đặc biệt là cuộc Cách mạng tháng
11/1918 đã làm sụp đổ Đ ế chế Đức.
Bị thất bại trẽn chiến trường, nền chính trị ở Đức rơi vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng. Các lực lượng dân chủ đã tiến hành nhiều
cuộc đấu tranh ngay từ đầu năm 1918 đưa ra yêu sách kết thúc chiến
tranh. Ngày 3/11/1918, thuỷ thủ ở Kien nổi dậy khởi nghĩa vũ trang, làm
chủ thành phố. Làn sóng đấu tranh lan ra cả nước, nhiều nơi thành lập Xô
viết đại biểu công nhân và binh lính.

Trước đó, từ tháng 10, sau nhiểu cuộc tiến công thất bại, Bộ chỉ huy Đức
tìm cách đàm phán với phe Hiệp ước. Hoàng đế Đức Vinhem II gửi đến Tổng
thống M ĩ Ưynxơn để nghị kí kết hiệp ước trên cơ sở chấp nhận "K ế hoạch 14
điểm". Nhưng M7 đòi hòi phía Đức trước hết phải thành lập một chính phủ đại
nghị thay thế chính quyền Đế chế. Vinhem II giao cho Hoàng tử (Max de Bade)
thành lập một chính phủ gồm đại diện các đảng phái, kê cả những người xã hội
dân chủ bấy lâu bị cấm hoạt động.
Ngày 7/11 trên một chiếc xe ô tô kéo cờ trắng, phái đoàn Đức do
Ecxbegơ (Ersberger) dẫn đầu tới đại bản doanh của liên quân Anh - Pháp
- Ba Lan do Thống chế Phôc (Ferdinand Foch) chỉ huy xin đấu hàng.
Thống chế Phôc ra điều kiện trong vòng 15 ngày, quân Đức phải rút khỏi
những vùng lãnh thổ đã chiếm đóng (Bỉ, Pháp, Lúcxàmbua, Rumani, Áo
Hung và Thổ); nộp cho khối Hiệp ước 5000 pháo, 30 000 súng đại liên,
2000 máy bay, 5000 đầu máy xe lửa, 5000 ô tô; quân đội Hiệp ước sẽ
đóng ỏ tả ngạn sông Ranh; Đức phải từ bỏ Hiệp ước Brét - Litốp; quản
Đức ở Đông Phi phải đầu hàng, phải thả tất cả tù binh bị Đức bắt giữ,
nhưng ngược lại, các tù binh người Đức vẫn bị phe Hiệp ước giam cầm.
Thời hạn để trả lời là 72 giờ.

Nhưng ngày 9/11, công nhân và nhân dân Bécỉin tiến hành tống bãi công
rồi nhanh chóng chuyên sang khởi nghĩa vũ trang, lật đổ Chính phủ Đ ế chế,
Vinhem II bỏ chạy sang Hà Lan. Chính thê Cộng hoà ra đời. Ngày 10/11, Hội
nghị toàn thể các Xô viết cử ra Chính phủ lâm thời do Êbe (Ebert) - thủ lĩnh
Đ an" Xã hôi Dàn chủ - làm thủ tướng.
Ngày 11/11/1918, Chính phủ mới đã tiến hành kí Hiệp định đình chiến ớ
Rơtông (Rethonde). Đúng 11 giờ ngày hôm dó, 101 phát đại bác nổ vang báo
hiệu kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ngày 13/11, chính phủ X ô viết tuyên bố xoá bỏ Hiệp ước Brét - Litốp.

3. Hậu quả của chiến tranh


Cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc hằng sự thất bại hoàn toàn cùa
phe Liên minh Đức, Áo Hung, Thổ và sự thảng lợi của phe Hiệp ước Anh,
Pháp, MT. Đây là cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử loài người tính đến đầu
thế kỉ X X , đã lô i cuốn 38 quốc gia tham chiến, động viên vào quân đội 74 triệu
người và chi phí quân sự trực tiếp lên đến 208 ti USD. Chiến tranh đã làm cho
nhiều thành phố, bến cảng, làng mạc. nhà máy, khu công nghiệp trở thành tro
bụi. Có khoảng 8 triệu người chết, 7 triệu người bị tàn phế lâu dài, 15 triệu
người bị thương nặng. Ngoài ra còn hàng triệu người chịu hậu quả của chiến
tranh: đói rét, bệnh tật, không nơi nương tựa.
Có tài liệu ghi Chiến tranh thế giới thứ nhất đã cướp đi sinh mạng của
hơn 1 0 triệu người, làm bị thương 2 0 triệu người.

Trong thời kì chiến tranh, dưới chiêu bài bảo vệ "mẫu quốc", thực dân
Pháp đã đưa sang chiến trường châu Âu 97 903 thanh niên Đỏng Dương,
số đông là người Việt Nam để làm "bia đỡ đạn". Đến tháng 7/1919 theo
tài liệu của Pháp, chỉ còn 11518 người trở về từ châu  u .'1'

Cuộc chiến tranh cũng tác động mạnh mẽ vào phong trào công nhân thế
giới, đặc biệt là đối với Quốc tế II. Nhiều người lãnh đạo các đảng xã hội dân
chủ ở một số nước châu Âu sa lầy trons chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi (chủ nghĩa
sồvanh), đứng về phía tư bản kêu gọi công nhân ủng hộ chính phủ tư sản nước
mình đánh thắng đối phương. Trên thực tế, giai cấp công nhân các nước bị xô
đẩy vào cuộc chiến, chém giết lẫn nhau vì lợi ích của chủ nghĩa đế quốc. Do
vậy, phong trào công nhân bị chia rẽ sâu sắc, Ọuốc tế thứ hai không thê tiếp tục
hoạt động được nữa.
Trong tình hình đó, Lênin cùng các nhà lãnh đạo phong trào công nhân ở
Nga và ờ một số nước kiên trì đường lối cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết
quốc tế của giai cấp vô sản. Hệ quả là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga và sự bùng phát một cao trào cách mạng ờ Đức, Áo, Hung... Sự thành lập

(1 ) Dẫn theo Lc Trung Dũng (Chú hiên), Tlié ỳ ới - nhữns» sự kiện lịch sử thè' kì XX
(1901-1945). N X B Giáo dục, H , 2CX)l7tr. 119.
nhà nước Nga Xô viết báo hiệu một hệ thống chính trị - kinh tế mới ra dời đối
lập với chú nghĩa tư bản.
Từ đây, quan hệ quốc tế chuyển sang một giai đoạn mới giải quyết các mối
mâu thuẫn mới nảy sinh giữa hai hệ thòng X H C N và TBCN, giữa phong trào
công nhân với giai cấp tư sản, giữa phong trào giải phóng dân tộc với chú nghĩa
đế quốc. Sự tranh chấp giữa các nước đế quốc cũng không kém phđn quyết liệt.
Tất cả những mối mâu thuẫn phức tạp và quan hệ chằng chéo đó chi phối quá
trình hình thành và tan rã của Trật tự thế giới Vécxai - Oasinhtơn trong 20 năm
giữa hai cuộc đại chiến 1919 - 1939.

121
Chương VI

QUAN HỆ QUỐC TÊ
GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1919 - 1939)

I. S ự H ÌN H T H À N H TRẬT T ự T H Ế GIỚI MỚI SAU TH Ế CHIÊN I


( I 9 1 9 - 1929)
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mờ ra một thời kì mới trong quan
hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới
đặc biệt là đối với châu Âu. Chiến trường chính diễn ra ờ châu Âu, vì thế các
cưừng quốc châu Âu đểu bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy
chiến thắng nhưng kinh tế bị kiệt quệ và trờ thành con nợ của M7. Nước Ý, một
đổng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt
trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ờ châu Âu là Nga,
Đức, Áo Hung lần lượt sụp đổ. Thắng lợi của hai cuộc cách mạng ớ Nga năm
19 17 đã dẫn tới sự tan rã hoàn toàn của đê quốc Nga. Đế quốc Đức và Áo Hung
bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đây các nước
này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Trong khi đó, cấc cường quốc ờ
ngoài châu Âu như MT và Nhật Bản, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đà vươn
lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản châu Âu. Tương quan lực lượng
giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu
Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bân chủ nghĩa trước đây. Đồng
thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một
chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại
như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự ra đời và phát triển của
nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã trở thành một thách thức to lớn đôi với
các nước tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đé do chiến tranh đặt ra, các
hội nghị hoà bình được triệu tập. Hệ tlìông hoủ ước Vécxưi (Versailles) và sau
đó là Hệ thôn? hiệp ước Oasinỉìtơìì (Washington) đã được kí kết nhầm tổ chức
lại thế giới sau chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.

1. Hệ thống hoà ước Vécxai (1919 - 1920)


Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18/1/1919 các nước thắng
trận đà họp Hội nghị hoà bình tại Vécxai (ngoại ồ Pari của Pháp). Tham dự
Hội nghị có dại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điểu

123
khiển hội nghị là MT, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bân, nhưng thực sự nắm quyển
quyết định Hội nghị là Tổng thống MT Uynxơn (W ilson), Thủ tướng Anh Lôi
Gioóc (L lo yd George) và Thủ tướng Pháp Clêmăngxồ (Clémenceau). Đại biểu
của các nước bại trận cũng có mật để kí vào các hoà ước do các nước thắng
trận quyết định.

Nước Nga Xô viết không được mời tham dự Hội nghị, vấn đề Nga
không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng trên thực tế đã trở thành
nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ trước khi bắt đầu Hội nghị,
các nước đế quốc đã thảo luận về vấn để Nga và đi đến thống nhất về
nguyên tắc là sẽ tăng cường can thiệp vũ trang, đổng thời ủng hộ các lực
lượng phản cách mạng để tiêu diệt chính quyền Xồ viết.

Hội nghị Vécxai kéo dài gần 2 nãm, diễn ra hết sức gay go vì các cường
quốc thắng trận đều có tham vọng riêng trong việc phàn chia quyền lợi và thiết
lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai Hội nghị, Pháp mong
muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm báo
an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là M7
lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong
trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và ngăn chặn âm mưu bá chủ
châu Âu của Pháp. Đó là chính sách "cân bàng lực lượng” ớ châu Âu mà MT rất
ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống M ĩ
Uynxơn đã đưa ra Chương trình ¡4 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại
thế giới sau chiến tranh.

Chương trình 14 điểm của Uynxơn gổm:

1. Các hiệp ước được kí kết cồng khai.

2. Hoàn toàn tự do đi lại trên biển trong thời bình cũng nhưthời chiến.

3. Xoá bỏ tất cả các hàng rào kinh tế, thiết lập các điều kiện mậu
dịch bình đẳng.

4. Giảm lực lượng vũ trang các nước đến mức tối thiểu.
5. Xem xét yêu cầu của các nước thuộc địa dựa trèn quyền lợi của
nhân dân các nước đó.

6 . Rút quân khỏi lãnh thổ Nga.

7. Rút quân và phục hổi chủ quyền của nước Bỉ.

124
8 . Rút quân khỏi Pháp và hoàn trả cho Pháp vùng Andát và Loren.

9. Điều chỉnh biên giới nước Ý theo nguyên tắc dân tộc.

10. Đảm bảo cơ hội cho các dân tộc ở Áo Hung xây dựng quyển tự trị

11. Rút quân và khỏi phục các nước Rumani, Xécbi, Môngtènêgrô.

12. Trao quyển tự trị cho các dân tộc dưới quyền thống trị của Thổ,
quốc tế hoá quyền tự do đi lại qua eo biển Đácđanen.

13. Phục hưng nước Ba Lan độc lập, có đường ra biển.


14. Thành lặp một tổ chức liên hiệp các quốc gia để bảo vệ độc lặp
và thống nhất cho các nước thành viên.

Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương
trình 14 điểm thể hiện miai đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của M ĩ, làm suy
yếu các đối thù cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật, tạo cơ hội đê MT vượt khỏi tình
trạng biệt lập, vươn ra bên ngoài chủu MT bằng sức mạnh kinh tê và ánh hưởng
chính trị chứ không phải báng con đường bành trướng lành thổ như các cường
quốc khác. Chương trình 14 điểm của Uynxơn được các nước coi là nguyên tắc
dê thào luận tại Hội nghị Vécxai.
Các nước Ý, Nhật cũng đưa ra những yêu sách riêng của họ. Nhật Bàn đòi
thay thế Đức chiếm bán đảo Sơn Đông của Trung Ọuốc, dự định chiếm vùng
Viễn Đỏng của nước Nga Xò viết, mở rộng ánh hường ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương. Nước Ý muốn mở rộng lãnh thổ ra vùng Đ ịa Trung Hải và
vùng Bancăng. Các nưóc nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng đòi mở rộng lãnh
thổ của mình.
Trong Hội nghị Vécxai có ba loại phiên họp với những quyền hạn
khác nhau. Thứ nhất là Hội nghị tối cao có quyền quyết định và phủ quyết
các vấn đề quan trọng nhất, bao gồm đại diện của 5 cường quốc thắng
trận là Mĩ, Anh, Pháp, Ý và Nhật. Tuy nhiên, những người đứng đầu ba
nước Mĩ, Anh, Pháp trèn thực tế đã quyết định những vấn đề trọng đại
của thế giới trong Hội nghị tối cao. Thứ hai là phiên họp của các u ỷ ban
chuyên môn, bao gồm đại biểu các nước liên quan, chịu trách nhiệm thảo
luận các vấn đề đã được Hội nghị tối cao quyết định. Thứ ba là Hội nghị
toàn thể, bao gồm đại biểu của các nước tham dự Hội nghị. Trên thực tế,
Hội nghị toàn thể không có quyền hạn gì ngoài việc biểu quyết thông qua
các quyết định của Hội nghị tối cao.

125
Sau gần nửa năm
tranh cài với 3 lần có
nguy cơ tan vỡ vì bất
đồng gay gắt, cuối
cùng các văn kiện của
Hội nghị Vécxai được
kí kết với 15 phần,
gồm 432 điều. Phần I
gồm 26 điều nói về
Hội Quốc liên, các
phần còn lại gồm 406
điều nói về hoà ước kí
với Đức và các nước Lễ kí Hoà ước Vécxai
chiến bai khác.
a) Sự thành lập Hội Quốc liên (League of Nations)
Một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên được các nước tham dự Hội nghị
Vécxai nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên. Công ước thành lập Hội Quốc
liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó,
mục đích của Hội Quốc liên là "khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền
hoà bình và an ninh thế giới". Để thực hiện mục đích đó, người ta đề ra một số
nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ
quốc tế phải minh bạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế...
Ngày 10/1/1920, Hội Ọuốc liên chính thức thành lập, có 44 nước kí vào
Công ước sáng lập (sau này bao gồm 63 nước thành viên). Hội Quốc liên có 3
tổ chức chính: Đụi hội đồnẹ (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một
lần vào tháng 9); H ội dồnạ thường trực (5 uỷ viên gồm Anh, Phấp, MI, Nhật, Ý
- sau đó còn lại 4 vì MT không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn), họp mỗi
năm ba lần; Batì thư kí thirờỉìíỊ trực như một vãn phòng hành chính làm việc
thường xuyên.
Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế
(trụ sở thường trực ở La Hay - Hà Lan) và các tổ chức khác như: Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Y tế (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR)...
Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quàn
bị, tôn trọng và bâo vệ sự toàn vẹn lành thổ và độc lập chính trị, giải quyết các
tranh chấp quốc tế, thực hiện "chế độ uỷ trị" đối với một số lãnh thổ "chưa đủ

ỉ 26
điều kiện tự quản"... Nước nào vi phạm Công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là
gây chiến với toàn thê hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện
pháp kinh tế và tài chính (tất cà các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và
bằng biện pháp quân sự.
Sự ra đời của Hội Quốc liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tê đầu
tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỉ X X .
Về danh nghĩa, Hội Ọuốc liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế
mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vộ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên
thực tế, những hoạt động cùa Hội Quốc liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới
do các cường quốc chiến tháng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị",
Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc
Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trìmg phạt chỉ mang ý
nghĩa hình thức vì Hội Ọuốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các
quyết định của mình. Đê Hội Ọuôc liên có thể trở thành một công cụ có hiệu
quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần
thiết. Những sự kiện diễn ra sau này cho thấy sự bất lực của Hội Ọuốc liên
trong việc giải quyết các vấn để quốc tế.
Hội Quốc liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống MT Uynxơn
nhưng M ĩ lại không tham gia vì Hoà ước Vécxai không được Quốc hội M ĩ phê
chuấn. Lúc này, chủ trương thực hiện chủ nghĩa biệt lập trong chính sách đối
ngoại vẫn chiếm ưu thế trong Quốc hội MT. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh
hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này. Sau này, Đức gia nhập Hội
Quốc liên năm 1926 và Liên X ô năm 1934.
b) Hoà ước Vécxai với Đức
Hoà ước Vécxai với Đức kí ngày 28/6/1919 là văn kiện quan trọng nhất của
hệ thống hoà ước Vécxai, đà quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng
định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về "tội ác gây chiến tranh", phải
trả lại những vùng đất đã chiếm đóng:
Đức phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andát và Loren (Alsace, Lorraine);
nhượng cho Bỉ khu ơpen Manmơđi (Eupen Malmedy) và Mồrẽxnet
(Moresnet); cắt cho Ba Lan vùng Pômẽrani (Pomerania) và một "hành
lang chạy ra biển"; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sơlexvít (Slesvig)...
Thành phố cảng Đăngdích (Dantzig nay là Gơđanxcơ, Ba Lan) và đảo
Hengôlan sẽ do Hội Quốc liên quản trị. Hạt Xarơ (Sarre) của Đức cũng
giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây
thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết
định hạt Xarơ sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935,
hạt Xarơ đã thuộc về nước Đức).

Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của
Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí.

ĐAN
MACH

Schleswig

BA LAN

Rhineland
Nước Oức nàm 1914
Vung dát tách ra từ nước Đức
Vùng đât dưỡi sư báo trơ
Saarland cùa Hổi Q uốc liôn
Vung phi Quân sư

Nước Đức sau Thế chiến I

Vấn đề phân chia những thuộc địa của Đức là một điểm nóng trong
các cuộc tranh luận ở Hội nghị Vécxai. Anh và Pháp âm muu kí kết một
hiệp ước để chia xẻ những vùng đất thuộc địa của Đức. Do vậy, họ chủ
trương sáp nhập thuộc địa của Đức vào hệ thống thuộc địa của minh. Tuy
nhiên, Mĩ phản đối ý đồ đó và chủ trương thực hiện chế độ uỷ trị ở các
thuộc địa của Đức. Sau những cuộc thảo luận gay gắt, cuối cùng ba nước
Anh, Pháp, Mĩ đi đến quyết định không sáp nhập các thuộc địa của Đức
và Thổ Nhĩ Kì vào bất cứ một nước nào, thực hiện chế độ uỷ trị của Hội
Quốc liên đối với hệ thống thuộc địa này.

Hội Quốc liên tiến hành phàn định các thuộc địa thành ba loại lãnh
• V • • • •

thổ uỷ trị:

+ Loại A: gồm các lãnh thổ Aráp thuộc đế quốc ốttôm an trước đây
được coi là lãnh thổ uỷ trị tạm thời.

128
+ Loại B: gồm các thuộc địa của Đức ở Trung Phi, là lãnh thổ uỷ trị
lâu dài.

+ Loại C: gồm khu vực Tây Nam Phi và một số thuộc địa ở châu Á -
Thái Bình Dương.

Chế độ uỷ trị là một hình thức cai trị mới của chủ nghĩa thực dàn nhằm
đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, nhưng về cơ bản
nó không hề làm thay đổi chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân.

Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại
100 000 lính bộ binh với vũ khí thông thường, không được phép có không
quân, hạm đội tàu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên
giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh dóng trong
vòng 15 năm và sẽ rút dần nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông
Ranh với chiều rộng 50km trờ thành khu phi quân sự.
Nước Đức phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận. Hội nghị
Luân Đòn tháng 4/1921 quy định số tiền bồi thường là 132 tỉ mác vàng, trong
đó trả cho Pháp 52%, Anh 22%, Ý 10%, Bỉ 8%...
Như vậy, với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3
mỏ sắt, gần 1/3 mò than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gđn 1/7
diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của lioà ước Vécxai đè lên vai nhân dân
Đức. Tuy thế, hoà ưức Vécxai không thú tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh
của Đức. Sau này, với sự trự giúp của MT và Anh, chỉ trong một thời gian ngắn,
nước Đức đã khôi phục và trờ thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ờ
châu Âu trong thập niên 30.
c) Các hoà ước khác
Cùng với hoà ước Vécxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt
được kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920.
Theo Hoủ ước Xanh GiéctììUỉììi (Saint Germain) kí với Áo ngày 10/9/1919
và Hoc) ước Trianông (Trianon) kí với Hunggari ngày 4/6/1920, đế quốc Áo
Hung bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích
84 OOOknr; Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ, chì còn lại 92 OOOkrrr với 8 triệu
dân(,). M ỗi nước chỉ được quyền có khoàng 30 000 quàn và phải bồi thường
chiến phí.

(1) Durdselle J. B, Lịch sử ngoại ỹ a o ( 19/ 9 (ích nay). Học viện Quan hệ quốc tế, l i , 1994, tr. 15. 16.
Trên lãnh thổ của đế quốc Áo Hung cũ, ngoài 2 quốc gia là Áo và
Hunggari, đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số
nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc Áo Hung:
Rumani được thêm vùng Bucôvina (Bukovina) và Tranxinvania
(Transylvania), Ý được thêm vùng Trentin và Ixtria, Ba Lan được thành
lập với vùng Galixia thuộc Áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga.

ở bán đảo Bancãng, sô phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc
Ôttôman cũng được quyết định.
Theo Hoủ ước Nơiy (Neuilly) kí với Bungari ngày 27/1/1919, lãnh thổ Bungari
bị thu hẹp lại so với trước kia, phải tó i thường chiến phí là 2,25 tỉ phrãng, dồng
thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20 (XX) người.
Bungari phải cắt một số đất đai ở biên giới phía tây cho Nam Tư, cắt
vùng Thơraxơ (Thrace) cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Đèđêaghát và lối
ra biển Ểgiè), phải cắt tỉnh Đồbrútgia (Dobroudja) cho Rumani. Ngoài ra,
Bungari phải nộp cho các nước láng giềng trong phe chiến thắng (Nam
Tư, Hi Lạp, Rumani) 37 000 gia súc lớn, 33 000 gia súc nhỏ,

Hoà ước Xevrơ (Sevres) với Thố Nhĩ Kì kí ngày 11/8/1920 đã chính thức
xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ottoman. Các vùng X iri, Libăng, Palextin và Irắc
tách khỏi Thổ Nhĩ Kì, đặt dưới quyền "bảo hộ" của Anh và Phấp. A i Cập chịu
sự "bảo hộ" của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc "phạm vi thế lực" của
Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Ixtambun và
vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiêm soát của
một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Ý, Nhật.
Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Vécxai. Đây
là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa
đế quốc. Trật tự thế giới mới được thiết lập đem lại lợi ích cho các cường quốc
thắng trận, nhất là Anh. Anh mở rộng hộ thống thuộc địa đồng thời giữ vững
quyền bá chủ mạt biển. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi.
Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Vécxai đối với
các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đà không thể thực
hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lí phục thù của các nước này. Trên đống
gạch vụn của đế quốc Đức, đế quốc Áo Hung đã xuất hiện một số quốc gia
độc lập mới nhưng sự tranh chấp về vân đề dân tộc, vấn đề biên giới tồn tại
giữa các nước không được giải quyết sẽ là nguyên nhân dẫn tới những cuộc
khủng hoảng chính trị sau này. Những mẫu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ

130
thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của
giới cầm quyển MT cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế, các nước đế quốc
phải tiếp tực giãi quyết những bất đồng về quyển lợi tại một hội nghị tiếp theo
ở Oasinhtơn.

2. Hệ thông Hiệp ước Oasinhtưn (1921 - 1922)


Hệ thống Vécxai trên thực tế mới chỉ giải quyết nhĩmg vấn đề ở châu Au,
Trung Đông và châu Phi sau chiến tranh. Vấn để phân chia quyền lực và phạm
vi ảnh hưởng ở khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dương có liên quan trực tiếp
đến M7 còn chưa được đề cập. Hội nghị Vécxai kết thúc, những mâu thuẫn mới
lại nảy sinh giữa MT với các cường quốc thắng trận, đặc biệt là mâu thuần trong
quan hệ Anh - MT và M I - Nhật. Ọuốc hội MT đã không phê chuẩn Hoà ước
Vécxai vì những quyền lợi của MT không được thoả màn.
Gần hai năm sau, ngày 25/8/1921, MT đã kí hoà ước riêng rẽ với Đức. Đồng
thời, MT đề xuất việc triệu tạp một hội nghị quốc tế ờ Oasinhtơn đê giải quyết
những vấn đề trong quan hệ quốc tế ở khu vực Viễn Đông - Thái Bình Dương,
nhằm ngăn chặn phong trào độc lập dân tộc đang lên cao và củng cố nền thông
trị thực dân ờ khu vực này.
Ngày 12/11/1921, Hội nghị Oasinhtơn khai mạc với sự tham gia của 9
nước: Anh, Pháp, MT, Ý, Nhật, Bí, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Nước
Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực Viển Đông không được mời tham dự hội
nghị. Ọuyển lãnh đạo hội nghị nằm trong tay 4 nước: Anh, Pháp, MT, Nhật,
nhưng quyền quyết định thuộc về MT. Những nghị quyết quan trọng nhất của
Hội nghị Oasinhtơn được thê hiện trong ba bản hiệp ước sau đây:
- Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp, MT, Nhật) được gọi là "Hiệp ước không
xâm lược ở Thái Bình Dương" kí ngày 13/12/1921, có giá trị trong 10 năm. Các
bên thoả thuận "tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở Thái Bình Dương", thực
ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ờ khu vực rộng lớn này. Cũng nhân dịp
này MT gây áp lực để liên minh Anh - Nhật (được kí kết từ năm 1902) không
còn hiệu lực nữa (điều 4). Như vậy, với Hiệp ước này, M ĩ không chi thủ tiêu
dược liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong
bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương.
- Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, MT, Nhạt, Ý, Bi, Hà Lan, Bồ Đào Nha,
Trung Quốc) kí ngày 6/2/1922 công nhận nguyên tắc "hoàn chỉnh về lành thổ
và tôn trọng chủ quyền của Trung Ọuốc" đồng thời nêu nguyên tắc "mở cửa" và

131
"cơ hội đồng đều" cho các nước trong hoạt động thương mại và còng nghiệp
trên toàn lành thổ Trung Quốc. Với hiệp irớc này, Trung Quốc đà trở thành một
thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là MT
đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc, điểu mà M ĩ khồng
thực hiện được ở Hội nghị Vécxai.
• • • • C / •

- Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, MT, Nhật, Ý ) kí kết cùng ngày 6/2/1922,
được gọi là "Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân" nhằm quy định trọng tải
tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: M ĩ và Anh bằng
nhau - 525 000 tấn, Nhật - 315 000 tấn, Pháp và Ý bằng nhau - 175 000 tấn.
Đồng thời, các nước này cũng quy định tỉ lệ vể hai loại tàu chở máy bay và tuần
dương hạm.
Như vậy, Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho M ĩ, trong khi nước Anh
phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc "sức mạnh quân sự gấp đỏi" đà có
từ năm 1914, theo đó hải quân Anh có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế
giới cộng lại, dồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhạt. Từ đây, hải quân M ĩ
ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. MT còn thực hiện được việc xâm nhập
vào thị trường Viễn Đông và Trung Quốc thống qua chính sách "mở cửa". Nhật
Bản cũng bị suy giảm sức mạnh trên biên đồng thời phải chấp nhận nhượng bộ
trong vấn để Trung Quốc.
Với hộ thống Hiệp ước Oasinhtơn, MT đà giài quyết quyền lợi của mình
bàng cách thiết lập một khuôn khố trật tự mới ở châu Á - Thái Bình Dương do
MT chi phôi. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Vécxai, các hiệp ước của Hội nghị
Oasinhtơn đà tạo nên Hệ thống Vécxaị - Oưsinhtơìì. Đó là trật tự thế giới mới
mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, MT giành
được nhiều ưu thế nhất và "7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch"
(Lênin). Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả màn và
những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc
xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài
4 năm (1914 - 1918) với những tổn thất nặng nề đối với toàn nhân loại, hoà
bình đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.

3. Trật tự thẻ giới mớỉ trong thập niên 20 cúa thế kỉ X X


a) Các hội nghị quốc tẻ vé hoà bình an ninh tập thể và giấi trừ quán bị
,

Bước vào thập niên 20, nhìn chung các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn
định và đạt được sự phát triển nhanh chóng vể kinh tế. Sự ổn định kinh tế và

132
chính trị của CNTB đã tác động khòng nhỏ đến chiểu hướng phát triển của quan
hệ quốc tế. Sau Hội nghị Vécxai và Oasinhtơn, hàng loạt hội nghị quốc tê vể
các vấn đề hoà bình, an ninh tập thể, giải trừ quân bị... đã diẻn ra trong khuôn
khổ hệ thống Vécxai - Oasinhtơn.
- Hội nghị Giênôva (Ý) diễn ra từ 10/4 đến 19/5/1922 với sự tham gia của
đại biểu 29 nước trên thế giới (MT chi cử quan sát viên). Đay là một trong
những hội nghị quốc tế lớn nhất kê từ sau Thế chiến I đến lúc bấy giờ. Nước
Nga Xô viết lần đầu tiên được mời tham dự chính thức. Hội nghị bàn vể những
vấn đề kinh tế - tài chính của tất cả các nước châu Âu sau chiến tranh, trong đó
"vấn để Nga" là vấn để gây tranh cãi nhiều nhất. Do những bất đồng vể việc
giải quyết những khoản nợ của Nga hoàng và Chính phủ lâm thời tư sản Nga,
cùng với vấn đề bổi thường chiến tranh cho nước Nga Xô viết, Hội nghị
Giênôva hầu như không đạt được kết quả đáng kể nào.
Trong khi đó, bên lề hội nghị Giênôva, hai nước Đức và Nga đà kí kết Hiệp
ước Rapanlô (Rapallo) ngày 16/4/1922 nhầm khôi phục quan hệ ngoại giao,
cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh, đồng thời áp dụng chính
sách tối huệ quốc trong quan hộ kinh tế - thương mại giữa hai nước.
- H ội nghị Lôcỉatì (Lausanne - Thuỵ Sĩ): Cuối năm 1922, trước những
chuyên biến quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì,
các nước tư bản phương Tây triệu tập hội nghị ở Lỏdan đê bàn việc kí kết một
hiệp ước hoà bình mới với Thổ và những vấn đề khác liên quan đến các eo biển
ở vùng Hắc Hải. Hội nghị khai mạc ngày 20/11/1922 với sự tham dự của các
quốc gia có liên quan.
Các nước Anh, Pháp, Ý, Nhật, Rumani, Hi Lạp, Nam Tư kí hiệp ước Lôdan
với Thổ đà xác định lành thổ cùa nước này bao gồm vùng Tiểu Á và vùng Đông
Têsaly (Thessaly) ở phán châu Âu. Là một cường quốc ở vùng Hắc Hải, nước
Nga Xô viết kiên quyết đấu tranh đòi tham gia vào việc giải quyết vần đề eo
biển ở khu vực này cùng với các nước kê trên và các nước Ưcraina, Grudia,
Bungari. Dưới sự chi phối của Anh, Pháp, Ý, Hiệp ước vé eo biển Đácđanen và
Bòxpho (Dardanelles và Bosphore) ở vùng biển Hắc Hái đã được kí kết, theo đó
vùng eo hiển sẽ được phi quân sự hoá, các loại tàu thuyền được tự do qua lại.
Hiệp ước này trên thực tế đã ánh hưởng đến an ninh của các nước vùng biển
Hắc Hải nói chung và nước Nga Xô viết nói riêng. Chính vì vậy Chính phủ Xô
viết không phê chuẩn hiệp ước này.

133
Hội nghị Lôcácnô

- H ộ i nghị Lôcúcnô (Locamo - Thuỵ Sĩ) từ ngày 5 đến 16/10/1925. Để xây


dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ hệ thống Vécxai -
Oasinhtơn, một hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Au đà được triệu tập.
Hội nghị đà kí kết hệ thống Hiệp ước Lôcủcnô, bao gồm: Hiệp ước đảm bảo
chung giữa Anh, Pháp, Đức, Ý và Bi, các Hiệp ước Pháp - Đức, Đức - Bi, Đức -
Tiệp, Đức - Ba Lan về trọng tài và các hiệp ước đảm bảo Pháp - Ba Lan và Phiíp -
Tiệp. Các hiệp ước nói trên là sự cam kết đảm bảo dường biên giới giữa các nước
có liên quan theo những điều khoán của Hệ thống Vécxai. Đồng thời, cũng tại
Hội nghị này, các nước đà đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc liên (nhưng
phải đến tháng 9/1926 Đức mới trở thành viên chính thức). Với việc kí kết hệ
thống Hiệp ước Lôcácnô và việc nước Đức tham gia Hội Ọuốc liên, mâu thuẫn
giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và người ta đã nói tới việc mở
đầu "một kỉ nguyên xích lại gần nhau trên thế giới"0).
Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao, theo sáng kiến
của Pháp và MT, ngày 27/8/1928 tại Pari đã diễn ra lễ kí kết Hiệp ước Briủỉìg -
K e n ỉô 'tỹơ {Briand - Ngoại trưởng Pháp, Kellogg - Ngoại trưửns MT) với nội dung
cam kết từ bỏ chiến tranh nói chung. Hiệp ước này được nhiều nước hưởng ứng,
có tới 57 quốc gia tham gia, trong đó có Liên Xô. Liên Xô là một trong những
quốc gia đầu tiên phê chuẩn và mong muốn Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Mặc
dù Hiệp ước Briăng - Kenlốĩgiơ được đánh giá là "đinh cao của làn sóng hoà bình

( I ) Durosellc J. B, Scld. tr 70.

134
trong thập niên 20", nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào hiệp ước này là
"một ảo tưởng nguy hiểm" bởi lẽ chỉ vài ngày sau, Anh và Pháp đã kí ngay một
thoả hiệp riêng rẽ về vấn đề vũ khí. Những diễn biến tiếp theo trong quan hệ quốc
tế thập niên 30 của thế kỉ X X sẽ minh chứng điều đó.
b) Vấn đế thực hiện Hoà ước Vécxai k í với Đức
Việc thưc hiện các điều khoản của Hoà ước Vécxai kí với Đức chiếm một
• • • •

vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20 của thế kỉ X X .
Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30/4/1921 đã
quy định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả
từ mùa hè năm 1921. Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính
trầm trọng ở Đức đã khiến cho nước này không có khả năng thực tế để trả món
nợ đó. Sau việc liên quân Pháp - Bỉ chiếm đóng vùng Rua, nơi sản xuất 90%
sản lượng than và 70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả
trong vấn để bồi thường của Đức, một hội nghị quốc tê đà được triệu tập ở Luân
Đôn để xem xét lại vấn đề này. Hội nghị Luân Đồn khai mạc ngày 16/7/1924
với sự tham gia của các đại diện Anh, Pháp, Ý, Nhật, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hi Lạp,
Rumani, và MT (về danh nghĩa MT chỉ tham gia với một số quyền hạn chế
nhưng trên ĩhực tế MT có ảnh hưởng lớn trong Hội nghị). Hội nghị Luân Đòn đà
thông qua k ế hoạch Đủiiét (Dawes) có giá trị trong vòng 5 năm với nội dung
chủ yếu là M ĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và phát triển kinh tế -
tài chính để nước này có khả năng trá được các khoản bồi thường chiến tranh
theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp M7, Ý quy định như sau: năm thứ
nhất trả 1 tỉ mác vàng, năm thứ hai - 1,22 tỉ, năm thứ 3 - 1 , 2 tí, năm thứ tư -
1,75 tỉ; từ năm thứ năm, mỗi năm 2,5 tỉ.
Với kế hoạch Đâuét, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng đối với
Đức: Pháp phải rút khòi vùng Rua (năm 1925), trong khi M ĩ và Anh có điều kiện
mở rộng ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Đâuét đã góp
phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Qua kế hoạch này,
những trận "mưa đôla" từ M I và Anh đã tạo điều kiện trang bị kĩ thuật hiện đại và
nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Năm 1929, tổng sản lượng công
nghiệp Đức đạt 113% mức trước chiến tranh, vượt qua Anh, Pháp.
Cling trong năm 1929, kế hoạch Đâuét lại được diều chỉnh theo hướng
giảm bót gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức. Sau một thời gian dài
thảo luận, tháng 8/1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư bản họp ờ La Hay
đà chính thức thông qua k ế hoạch Yơỉiẹ (Young). Theo đó, số tiền bồi thường

135
của Đức giám xuống còn 113,9 tí mác vàng và được trả trong thời hạn kéo dài
60 năm, đồng thời quân đội chiếm đóng của Pháp, Bí sẽ phải rút khỏi vùng
Rênani trước ngày 30/6/1930. Đến đây, Uỷ ban bồi thường đà chấm dứt hoạt
động, thay vào đó là Ngân hàng thanh toán quốc tế sẽ chịu trách nhiệm theo
dõi việc trả tiền bồi thường chiến tranh của Đức. Như vậy, nhờ sự giúp đỡ của
Anh và MT với ý đồ sử dụng Đức như một con đập ngăn làn sóng cách mạng
có khả năng tràn sang phía ĩây từ Liên x ỏ , chỉ trong một thời gian ngắn, nước
Đức chẳng những đã phục hồi nhanh chóng mà còn tăng cường tiềm lực kinh
tế - quân sự của mình. Từng bước một, nước Đức chiến bại đã tìm cách thoát
ra khỏi những ràng buộc của hộ thống Vécxai, khôi phục chủ quyền kinh tế -
tài chính và ngoại giao. Những thành công của nước Đức trong chính sách đối
ngoại gắn liền với tên tuổi của vị Ngoại trưởng G. X trixm en (G.Streseman)
trong những năm 1923 - 1929.
G. Xtrixmen (1878 - 1929) là nhà ngoại giao Đức, ủng hộ chính sách
xâm lược của đế quốc Đức trong Thế chiến I. Xtrixmen đã nhanh chóng
thay đổi đường lối đối ngoại để đưa nước Đức chiến bại thoát ra khỏi tinh
trạng khó khăn nhất sau chiến tranh, ô n g chủ trương kết hợp việc thi
hành những điều khoản của Hoà ước Vécxai với việc từng bước dùng áp
lực ngoại giao để sửa đổi những điều khoản này một cách có lợi nhất cho
nước Đức. Xtrixmen triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước thắng trận
với Liên Xô, mâu thuẫn giữa các nước thắng trận với nhau để khôi phục
địa vị của nước Đức. Trong thời gian làm ngoại trưởng Đức (1923 - 1929),
Xtrixmen đã triển khai hàng loạt hoạt động đối ngoại nhằm điều chỉnh
quan hệ với nước Pháp, đệ đơn xin gia nhập Hội Quốc liên (1924), kí Hệ
thống hiệp ước Lôcácnô (1925), kí Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (1926),
kí Hiệp ước từ bỏ chiến tranh Briăng - Kelốtgiơ (1928), tiếp nhận kế hoạch
Yơng (1929)... Nhờ đó, nước Đức dần dần khôi phục vi thế ở châu Âu.
Xtrixmen được nhận giải thưởng Nôben về hoà bình năm 1926 cùng với
Ngoại trưởng Pháp A. Briăng.

II - Q U A N HỆ QUỐC T Ế C Ủ A NƯỚC N G A X Ô V IÊ T / LIÊN XÔ


V À PHONG TR ÀO CỘNG SẢN TRONG NHŨNG N Ă M 20 C Ủ A TH Ế KỈ X X

1. Nước Nga Xỏ viết trong cuộc đáu tranh chông thù trong giặc ngoài
và khôi phục đất nước
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, các nước đế quốc tập hợp lực lượng,
phối hợp hành động với mưu đồ tiêu diệt nước Nga x ỏ viết. Cuối tháng
1 1/1917 đại diện của các nước đế quốc, trong đó bốn nước M7, Anh, Pháp, Nhật
4

giữ vai trò chủ yếu, đà họp tại Pari dê bàn biện pháp thực hiện mưu đồ đó. M ột
tháng sau, ngày 22/12/1917 cũng lại diễn ra một hội nghị tương tự tại Pari. Đại
diện các nước tư bán thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết,
thoả thuận việc ủng hộ các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước
Nga thành các khu vực ảnh hưởng của từng nước. Theo đó, Anh sẽ nắm quyền
kiểm soát vùng Cápcadơ, Ácmênia, Grudia và vùng sông Đông; Pháp chiếm
Bátxarabia, Crirm và Ucraina; M ĩ và Nhật nắm khu vực X ibia và Viễn Đông...
Tháng 12/1917, quân Rumani (được Pháp hỗ trợ) đã chiếm
Bátxarabia. Đầu năm 1918, quân Anh, Pháp, Mĩ đổ bộ lèn hải cảng
Muốcmanxcơ; quân Nhật, sau đó là Mĩ chiếm Vlađivồxtốc; quân Anh kéo
đến Tuốcmênixtan và Ngoại Cápcadơ... Bộ chỉ huy tối cao các nước Hiệp
Ước còn sử dụng 60 000 binh lính của Quân đoàn Tiệp Khắc để chống
phá nước Nga Xô viết. Tháng 5/1918, quân đoàn Tiệp Khắc cùng với các
thế lực phản cách mạng nổi loạn, chiếm được toàn bộ vùng Xibia rộng lớn
và nhiều thành phố dọc sông Vồnga nhưXamara, Ximbiếc, Cadan... Tình
hình lại càng khó khăn hơn do việc quân Đức chiếm đóng vùng lãnh thổ
rộng lớn, tập trung tới hơn 90% sản lượng than, 70% sản lượng sắt và 1/3
chiều dài đường sắt của cả nước (theo các điều khoản của Hoà ước Brét -
Litốp). Với việc cung cấp vũ khí cho các đội quân Bạch vệ, quân Đức đã
cùng các nước đế quốc tham gia chống phá nước Nga.

Từ năm 1919, sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các nước đế quốc tăng
cường can thiệp và giúp đỡ các lực lượng phản cách mạng ở Nga. Tính đến
tháng 2/1919 quân đội can thiệp có mật ở Nga đã lên đến 300 000 (trong đó ờ
miền Nam: 130 000, Viền Đông: 150 000, miền Bắc: 20 000).
Trải qua 3 năm chiến đấu cực kì gian khổ, Hồng quân và nhân dân Xô viết
đã lẩn lượt đánh bại các lực lượng thù trong, giặc ngoài, giữ vững nền độc lập,
tự chủ của đất nước. Cũng trong thời gian này, trung thành với những nguyên
tắc của Tuyên ngôn vê Quyền của cúc íìíhì tộc à Nga (công bố ngày
15/11/1917), Nhà nước Xô viết đã công nhận quyền tách ra của Ucraina, công
nhận độc lập của Phần Lan, Ba Lan; xoá bỏ các hiệp ước bất bình đẳng của
Chính phù Nga hoàng trước đây đã kí với Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì, Iran và
nhiều nước khác.
Sau khi chiến thắng các lực lượng đế quốc can thiệp và các tập đoàn phản
động trong nước, nhân dân Nga tiến hành công cuộc khôi phục và xây dựng
đất nước. Chính sách Kinh tế mới (NEP) của Lênin đã đem lại những kết quả
bước đầu. Ngày 21/1/1924, V. I. Lênin - lãnh tụ Đảng Cộng sản và Nhà nước
Liên Xô từ trần. Người kế tục cương vị lãnh đạo đất nước trong 30 năm tiếp
theo là Stalin.
Giôdép stalin (1879 - 1953): Nguyên soái, nhà hoạt động chính trị ở
nước Nga / Liên Xô; tham gia phong trào Công nhân Xã hội Dân chủ Nga
từ năm 1898, đi theo quan điểm của Lênin. Sau Cách mạng tháng Mười,
ông là uỷ viên nhân dân (Bộ trưởng) phụ trách các vấn đề dân tộc; năm
1922, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1924 kế tục Lênin là
người đứng đầu Đảng và Nhà nước Liên Xô. ông đã lãnh đạo cuộc Chiến
tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xồ, cùng Anh và Mĩ thiết lập Mặt trận Đồng
minh chống phát xít. stalin tham gia Hội nghị Thượng đỉnh với các nguyên
thủ Mĩ và Anh ở Têhêran (1943), lanta (2/1945) và Pốtxđam (7/1945).

2. Đáu tranh cho hoà bình và ỉhiết lập quan hệ ngoại giao của chính
quyền xỏ viết trong những nãm 20 của thế kỉ XX
Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Xô viết phàn đối gay gắt tính chất nô
dịch của các hoà ước, nhất là Hoà ước Vécxai. Lênin cho rằng: "Đấy không
phải là hoà ước, đấy là những điểu kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn
nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận"(l). Trong lúc các cường quốc phương
Tây thi hành chính sách thù địch, bác bỏ sự tham dự của nước Nga Xô viết tại
Hội nghị Vécxai và Hội nghị Oasinhtơn, ngày 28/11/1921, Chính phủ Xô viết
đã gửi cồng hàm tới các chính phủ Anh, Pháp, MT, Ý, Nhật nêu rõ những
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình của nước Nga với phần còn lại của thế giới.
Năm 1922 lần đầu tiên được mời chính thức tham dự Hội nghị quốc tế Giênôva,
đoàn đại biểu Xô viết đã đưa ra đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao
và kinh tế, thực hiện chung sống hoà bình và tiến hành giải trừ quân bị. Nước
Nga sẵn sàng bình thường hoá quan hộ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng,
tồn trọng chủ quyền và toàn vẹn lành thổ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng
tồn tại hoà bình. Hội nghị Giênôva thất bại, tuy vậy việc Nga và Đức kí kết
Hiệp ước Rapanlô đà giáng một đòn vào âm mưu bao vây, cô lập nước Nga của
các cường quốc phương Tây, đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao quan
trọng của Nhà nước Xô viết. Đức trở thành nước phương Tây đầu tiên thiết lập
quan hệ ngoại giao với nước Nga.

( I ) Lè nin. Toàn tập, T.31, N X B Sự thạt, Hà Nội. 1996, tr. 396.

138
Những năm tiếp theo, nước Nga Xô viết (từ tháng 12/1922 là Liên Xô) đã
từng bước phá vỡ chính sách cô lập của các nước phương Tây và khẳng định vị
trí quốc tế của mình. Sau Đức, Anh là nước tư bán thứ hai ở châu Âu thiết lập
quan hộ ngoại giao chính thức với Liên Xô ngày 2/2/1924. 5 ngày sau, Ý tuyên
bố công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên x ỏ . Tháng
10/1924, sau khi vượt qua không ít những bất đồng trong nội bộ, Chính phủ
Pháp đà chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
Cũng trong năm 1924, nhiều nước khác đã công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Liên Xô: Na Uy (13/2), Áo (25/2), Hi Lạp (8/3),
Đan Mạch (18/6), Anbani (6/7), Hunggari (5/9)...

Ở châu Á, ngày 31/5/1924, đại diện Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Bắc
Kinh đã chính thức k í kết Hiệp ước Xô - Trung, theo đó Trung Quốc cồng nhận
và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đồng thời, Liên Xô cũng tuyên bố
từ bỏ tất cả những đặc quyền mà Chính phủ Nga hoàng trước đây đà buộc
Trung Quốc phải kí kết. Sau đó, ngày 25/1/1925, Nhật Bản - một cường quốc ở
châu Á - dà bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
Như vậy, trải qua hơn 7 năm tồn tại và kháng định vị thế của mình, Liên Xô
đà được hơn 20 quốc gia trên thế giới, trong đó có các cường quốc Anh, Pháp,
Ý, Nhật chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Mặc dù mối
quan hệ này còn phái trải qua nhiều bước thăng trầm đầy khó khăn, căng thảng
nhung thực tế đã khẳng định vai trò, uy tín ngày càng cao của Liên Xô và
những thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết.

3. Quan hệ quốc tê trong phong trào cộng sản và công nhàn những
năm 20 của thế kỉ X X . Sự ỉhành lập Quốc tẻ Cộng sản
Cuộc Thế chiến I đã thúc đẩy nhanh quá trình phân hoá của phong trào
công nhân châu Âu khi đó khi đó đã trở nên hết sức nghiêm trọng. Chủ trương
của nhiều nhà lãnh đạo Đảng Xã hội Dân chủ các nước kêu gọi công nhân và
nhân dân nước mình "chiến đấu bảo vệ Tổ quốc" khiến cho giai cấp công
nhân các nước lâm vào cuộc chiến "huynh đệ tương tàn". Do vậy, Quốc tế II
không thê hoạt động được nữa, trên thực tế đã bị tan rã. Chỉ có một số ít người
theo quan điểm của Lênin, kiên trì đấu tranh chống chiến tranh đế quốc chủ
nghĩa, kêu gọi công nhân hãy bảo vệ hoà bình, biến chiến tranh đế quốc thành
nội chiến cách mạng, làm cho chính phủ tư sản thất bại và tiến hành cách
mạng vỏ sản. Tại Đại hội Quốc tế II ờ Dimmécvan lẩn thứ nhất (1915) và lán
thứ hai (1916), những người cách mạng chân chính đà tập hợp lại, được gọi là

139
"phái tả Dimmecvan", sau này trở thành nòng cốt của việc thành lập Ọuốc tế
Cộng sản (1919).
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã tác động mạnh mẽ
đến phong trào đấu tranh của công nhân nhiều nước ờ châu Âu. Trong những
năm 1918 - 1923, cách mạng bùng lên ở Đức, Áo, Hunggari... Nhiều nơi thành
lập chính quyển Xô viết như Cộng hoà Xô viết Hunggari
(3/1919), Cộng hoà Xô viết Bavie (Đức, 4/1919). Nhimg sau đó cao trào cách
mạng bị đàn áp dữ dội, các nển Cộng hoà Xô viết đều thất bại. Đứng trước yêu
cầu tập hợp lực lượng cồng nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đê
quốc, ngày 4/3/1919 một tổ chức mới đã ra đời dưới sự lãnh đạo của V I. Lênin
mang tên Quốc tế Cộng sản, thường gọi là Quốc tế thứ ba (Quốc tế III)
Đại hội thành lặp Quốc tế Cộng sản tiến hành ở Mátxcơva từ ngày 2
đến 6/3/1919, có đại biểu của các chính đảng công nhân nhiều nước
châu Âu như Nga, Đức, Áo, Hunggari, Pháp, Bungari, Ba Lan, Phần
Lan... Đại biểu Mĩ cũng tham dự đại hội. Lấn đầu tiên, Đại hội có mặt đại
• W • • • 9 • • • •

biểu một số nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên... Như vậy, Quốc tế
III đã mở rộng phạm vi hoạt động sang cả phong trào giải phóng dân tộc.
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh và Tuyên ngôn gửi những người vô sản
toàn thế giới.

Trong những năm 20, Ọuốc tế III đà tiến hành 5 kì đại hội, từng bước xác
định chiến lược và sách lược đấu tranh của phong trào công nhân và cộng sản
quốc tế. Nhiều đảng cộng sản được thành lạp ở châu Âu, châu MT và châu Á.
Năm 1921 có 48 đảng, đến năm 1928 đă có 55 đảng cử đại biểu tham gia đại
hội. Trong đó, một số đảng cộng sàn đã được thành lập ở châu Á như Inđônêxia
(1920), Trung Quốc (1921), Triều Tiên (1925), Việt Nam (1930)... Cùng thời
gian trên, Quốc tế III thành lập các tổ chức quần chúng như Quốc tế Thanh niên
(1919), Ọuốc tế Phụ nữ (1920), Ọuốc tế Công đoàn đỏ (1921), Quốc tế Nông
dân (1923)... Nhờ vậy, lực lượng quần chúng hưởng ứng đường lối và hoạt động
của Quốc tế III ngày càng đồng đào và lan rộng khắp nơi. Cùng với việc chỉ đạo
phong trào cộng sản và công nhân các nước Âu MT, Ọuốc tế III rất quan tâm
đến vấn đề đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống chế độ thực dân.

Đại hội 2 của Quốc tế III (1920) đã thảo luận văn kiện của Lẽnin "Sơ
thảo đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa", chỉ ra những nét
chiến lược cơ bản của các dân tộc bị áp bức và nhiệm vụ của giai cấp
công nhân châu Âu đối với phong trào này. Năm 1921 thành lập Trường

140
Đại học Phương Đồng nhằm đào tạo và bổi dưỡng lí luận cho cán bộ các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội 6 (1928) đã thông qua đề cương
về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Trong khi phong trào cộng sản ngày càng lan rộng ở các nước tư bản, các
nước thuộc địa và phụ thuộc thì những phần tử theo chủ nghĩa cơ hội trong
Quốc tế II vẫn cố gắng gây dựng lại phong trào.

Năm 1921, họ thành lập một tổ chức quốc tế mới, gọi là Quốc tế hai
rưỡi. Đến năm 1923, thành lập Quốc tế công nhân XHCN tập hợp những
người xã hội dân chủ của Quốc tế thứ hai và thứ hai rưỡi, tiếp tục đi theo
đường lối cơ hội ủng hộ chính quyền tư sản, gây chia rẽ trong phong trào
công nhân.

III. SƯ RA ĐỜI C Ủ A CHÚ N G H ĨA PHÁT X ÍT V À SÁCH LUƠC ĐAU


TRANH CUA QƯOC TE CỌNG SAN
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt
thời kì ổn định của chù nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỉ nguyên hoà
bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước MT ngày 2 4 /10 /1929, đã
nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, đê
lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm triệu
người (còng nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào tình trạng đói khổ.
Hàng nghìn cuộc biêu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân tham gia. ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc bùng lên
mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trờ nên cực kì gay gắt.
Trong bối cảnh đó đà hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc
tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước TBCN. Các nước khòng có hoặc
có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo
con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố
công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các
nước Ý, Đức, Nhạt Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929
- 1936, giới cầm quyển các nước nói trên đà từng bước phá vỡ những điều
khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc
chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước MT, Anh, Pháp...
tìm cách thoát ra khỏi khủng hoân<z bàng những cải cách kinh tê - xã hội, duy
trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chù trương duy trì nguyên trạng hệ
thống Vécxai - Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên
30 chuyên biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là
khối phát xít Đức, Ý , Nhật với một bên là khối các nước tư bản dân chủ vn,
Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khôi đã phá vỡ hệ thống thoả
hiệp Vécxai - Oasinhtơn, dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu
nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.

1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới


a) Lò lửa chiến tranh ở Nhật
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vécxai -
Oasinhtơn bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaca đà
vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức
bản "Tấu thỉnh'", trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những
"bất công mà Nhạt phải chấp nhận" trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 -
1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược
toàn thế giới.
Tanaca Giichi (1864 - 1929): Thủ tướng Nhật trong những năm 1927
- 1929. Là sĩ quan chỉ huy quân đội trong chiến tranh Nga - Nhật (1904 -
1905), Tanaca giữ chức Bộ trưởng Chiến tranh (1918 - 1921 và 1923 -
1925), tháng 4/1927, trở thành Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao,
theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng công khai. Trong bản Tấu
thỉnh trình lên Nhật hoàng năm 1927, Tanaca vạch ra kế hoạch đầy tham
vọng nhằm chinh phục Trung Quốc, Mồng cổ , Ấn Độ, châu Á và toàn thế
giới. Tanaca hai lấn cho quân xâm lược Sơn Đông (Trung Quốc) vào
tháng 5/1927 và tháng 5/1929, nhưng đều thất bại. Do không giải quyết
được những khó khăn của nước Nhật cả về đối nội và đối ngoại, tháng
7/1929, Tanaca buộc phải từ chức nhưng ý đồ bành trướng vẫn được các
chính phủ kế nhiệm tiếp tục theo đuổi.

Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc),
ngày 18/9/1931 Nhật Bản tạo ra "Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu" đê lấy
cớ đánh chiếm vùng Đỏng Bắc Trung Ọuốc, nơi tập trung 77% tống sô vốn
đầu tư của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược
đại quy mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là
"Nhà nirớc Mãn Châu độc lập" với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi (vua cuối
cùng của triều đại Màn Thanh đà từ ngôi nãm 1911) đứng đầu. Nhật biến

142
vùng Đông Bắc Trung Ọuốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu
lưu quân sự mới.
Việc Nhật Bàn xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đà động chạm đến quyền
lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là M7. Tuy nhiên, MT cũng như Anh,
Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính
toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành
chiến tranh xâm lược Liên Xô.
Điều đó làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra
Líttơn (Lytton) do Hội Quốc liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24/2/1933 Hội
Quốc liên đã thông qua Báo cáo cồng nhận chủ quyền của Trung Quốc ở
Mãn Châu, không công nhận "nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật
dựng lên, nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì "những quyền lợi đặc biệt
của Nhật" ở Trung Quốc.

Quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Bắc Trung Quốc

Như vậy, Hội Quốc liên đà không công khai tuyên bô "hành động của Nhật
là xâm lược nhưng không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức
mạnh quân sự, Hội Ọuốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó
không đem lại kết quả nào"(l). Nhật Bán tiếp tục mở rộng xâm lược Trung
Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Đê có thê tự do hành động,
ngày 24/3/1933 Nhật Bản tuyên bô rút khỏi Hội Quốc liên. Hành dộng cùa
Nhạt đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 quy
định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hộ thống Vécxai - Oasinhtơn. Không
dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ
Trung Ọuốc.
b) Lò lửa chiến tranh ở Đức
Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở Châu Âu
với việc Hitle lên cầm quyền ờ Đức tháng 1/1933. Có thể nói, lực lượng quàn
phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp
nhận hoà ước Vécxai. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ cùa Chính phủ Muylơ
(M uler) - Chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Vaima (W eimar) - và việc
Bruyninh (Bruning) lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì
chuyên biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu
hướng thành lập một chính quyền "mạnh", một nền chuyên chính dân tộc chủ
nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đủng
Quốc gia Xã hội Đức (gọi tắt là Quốc xà hoặc Nazi) được coi là lực lượng thực
tế có thê đáp ứng được nhu cầu đó và Hítle được coi là "người hùng" có thê
ngăn chặn được "tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bônsêvích". Ngày 30/1/1933,
Tổng thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hítle, lãnh tụ của Đảng Quốc gia
xã hội làm thủ tướng, mở đầu một thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức.
A. Hítỉe (Adolphe Hitler, 1889 - 1945): Thủ tướng rồi làm quốc trưởng
nước Đức (1933 - 1945), thủ lĩnh Đảng Quốc xã. Hítle tham gia quân đội
Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), sau chiến tranh gia
nhập Đảng Quốc xã và trở thành thủ lĩnh của Đảng này. Hítle tiến hành
cải tổ Đảng Quốc xã, đề ra cương lĩnh 25 điều nhằm cổ xuý cho việc khôi
phục đế quốc Đại Đức và mở rộng ảnh hưởng trong nước. Năm 1923,
Hítle tổ chức vụ đảo chính ở Muyních (thường gọi là "vụ phiến loạn tiệm
bia") nhưng thất bại và bị kết án 5 năm tù. Trong thời gian ngồi tù hơn một
năm, Hítle viết cuốn "Đời chiến đấu của tôi" (Mein Kampt) trình bày những
vấn đề lí luận cơ bản của chủ nghĩa Quốc xã Đức. Sau khi được ra tù
trước thời hạn, Hítle tận dụng mọi cơ hội và thủ đoạn để tuyên truyền tư
tưởng phát xít, kích động tâm lí phục thù cho nước Đức. Cuộc khủng

( l ) Durosell J. B, Sđd, tr. 125.

144
hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã dẫn tới những thay đổi chính trị hoàn toàn
có lợi cho Hítle. Sau khi lên cầm quyền, Hítle thiết lâp chế độ phát xít
khủng bố công khai, biến nước Đức thành một trại lính khổng lồ và tích
cực chuẩn bị kế hoạch tiến hành chiên tranh với mưu đồ bá chủ thế giới.
Hítle là tên tội phạm chiến tranh hàng đầu, là kẻ chủ mưu sát hại tù binh,
dân thường tại các khu vực phát xít Đức chiếm đóng. Hítle tự sát ngày
30/4/1945, khi quân đội Liên Xô tiến vào giải phóng Béclin.

Việc H ítle lên cầm quyền không chí là một sự kiện thuần tuý của nước
Đức, mà còn "đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc
tê". Bởi lẽ, "đối mặt với Hítle, chủ nghĩa "xoa dịu" của Anh, sự trì trệ của
Pháp và chủ nghĩa trung lập của MT là những hiện tượng tiêu biểu nhất của
thòi kì tiếp th e o'"n. Từ đây, Hítle thực hiện dần từng bước việc thanh toán hệ
thông Véc-xai và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới nhằm thiết lập quyền
thống trị thế giới.
Bước đầu tiên trong kế hoạch của Hítle là chinh phục châu Âu, trong đó
chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lành thổ ớ phía Đông châu Âu, trước hết là Nga
và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hítle không loại trừ một cuộc chiến tranh
với phương Tây để xâm chiếm lành thổ phía Tây mà trong đó nước Pháp vẫn bị
coi là "kẻ thù truyền thống". Hítle còn đề ra kế hoạch Âu - Á (Eurasia) và Âu -
Phi (Euraírica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Á, châu Phi.
Việc làm đầu tiên của Hítle sau khi lẽn nắm quyển là tái vũ trang nước Đức
và thoát khỏi sự ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược.
Tháng 10/1933 đại biểu Chính phủ Đức Quốc xã đà rời bỏ Hội nghị giải trừ
quân bị ờ Giơnevơ và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16/3/1935,
Hítle công khai vi phạm Hoà ước Vécxai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng
quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 SƯđoàn). Ba tháng sau,
ngày 18/6/1935 Đức k í với Anh Hiệp định về hải quân, theo đó Đức được phép
xây dựng hạm đội tàu nổi bàng 35% và hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh
hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hoà ước Vécxai và tăng
cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hítle tìm cách bí mật thú
tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ
tướng Rumani Đuca, Ngoại trưởng Pháp Báctu, nhà vua Nam Tư Alếchxanđrơ
và Thủ tướng Áo Đỏnphút.

(1) Durosell J. B, Sđcl, tr. 129.

145
Không dừng lại ở đó, ngày 7/3/1936 Hítle ra lệnh tái chiếm vùng Rênani,
công khai xé bỏ Hoà ước Vécxai, Hiệp ước Lòcácnô và tiến sát biên giới nước
Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đà xuất hiện ở châu Âu.
c) Lò lửa chiến tranh ở Ý
Mặc dù ỉà nước thắng trận nhưng Ý không thoả mân với việc phân chia thế
giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mớ rộng ảnh
hưởng ở vùng Bancăng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chú vùng
biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 -
1933 và xem xét lại Hộ thống Vécxai - Oasinhtơn có lợi cho mình, giới cầm
quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua
vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài.
B. Mútxôlini (Benito Mussolini, 1883 - 1945) thủ lĩnh Đảng phát xít Ý.
Sau khi thành lập Đảng phát xít (11/1921) dựa trên cơ sở những "Nhóm
vũ trang chiến đấu" (Fascio di Combattimento), Mútxôlini ráo riết tiến
hành các hoạt động để tập hợp lực lượng, đưa ra "cương lĩnh xã hội" mị
dân, kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi trong quần chúng. Với chiêu bài
"cứu nước Ý khỏi sự khủng bố của chủ nghĩa cộng sản", Mútxôlini tăng
cường hoạt động chống phá phong trào công nhân, bành trướng thế lực
trong cả nước. Mùa thu năm 1922, lực lượng phát xít đã nắm được Hội
đổng Hành chính ở những thành phố lớn như Bôlỏnhô, Milanô... Ngày
29/10/1922, dưới sức ép của
thế lực phát xít, Vua Víchto
Emmanuen III buộc phải bổ
nhiệm Mútxôlini làm thủ tướng.
Ngay hôm sau, 4 vạn tên phát
xít có vũ trang đã tổ chức "cuộc
tiến quân vào Rôma", cướp
chính quyền một cách dễ dàng.

Sau khi nắm chính quyền,


Mútxôlini thiết lập chế độ độc
tài phát xít, xây dựng "Nhà nước
nghiệp đoàn", liên kết với Hítle
thành khối Trục Rôma - Béclin
để thưc hiện chính sách bành
trướng xâm lược và chuẩn bị Hitle và Mủtxôlini

146
chiến tranh phân chia lại thế giới. Do những thất bại trẽn chiến trường
Bancăng và Bắc Phi, Mútxôlini bị vua Víchto Emmanuen III triệu hồi rồi ra
lệnh bắt giam (7/1943), hai tháng sau được một đơn vị đặc nhiệm của
Hítle giải thoát.

Khi chế độ Hítle sụp đổ, Mútxôlini bỏ trốn trong bộ quân phục của
lính Đức nhưng bị một đơn vị du kích bắt, sau đó bị xử treo cổ ngày
28/4/1945.

Thất bại trong việc kí kết Hiệp ước Tay tư (Ý - Anh - Đức - Pháp tháng
6/1933) nhằm xem xét lại đường biên giới đã quy định ờ châu Âu trong khuôn
khổ Hệ thống hoà ước Vécxai, từ năm 1934 M ú tx ô lin i ráo riết chuẩn bị kế
hoạch xâm lược, ban hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này, quan hệ
giữa Ý với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Bancăng.
Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3/1935), Ý đã kí với Anh, Pháp
bản Hiệp ước Xtrêxa (Stresa) tháng 4/1935 nhàm thiết lập liên minh chống
Đức. Nhưng liên minh này nhanh chóng tan vỡ vì Anh kí với Đức một hiệp ước
riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6/1935) và sự kiện Ý chính thức xâm
lược Êtiôpia ngày 3/10/1935. Bốn ngày sau, ngày 7/10/1935 Hội Quốc liên ra
tuyên bố lên án Ý và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp
kinh tế - tài chính. Tuy nhiên, "lệnh trừng phạt chỉ làm Ý bực mình chứ không
thực sự ngăn cán họ tiếp tục các chiến d ịch "(l).
d) Sự hình thành khôi Trục phát xít Đ ứ c - Ý Nhật (11/1937)
-

Những sự kiện trên đây đã khiến M ú tx ô lin i rời bỏ liên minh Anh - Pháp,
xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Ọuốc
liên cùng với thái độ thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, MT đã khuyến khích
hành động xâm lược của phát xít Ý. Sau khi chiếm được Êtiôpia, Ý đà kí với
Đức bản Nghị định thư tháng 10/1936, đánh dấu sự hình thành trục Béclin -
Rỏma. Bắt đầu từ đây, Đức và Ý tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong
cuộc đối đầu với Liên X ô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước
đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xít Phrancô
trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).
Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò
lửa chiến tranh ờ Viễn Đông. Ngày 25/11/1936, Đức và Nhật kí Hiệp ước
chống Ọuốc tế cộng sản, cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và

(1) Duroselle J. B, Stld. tr. 154.


các biện pháp cần thiết để chống Liên Xò và Quốc tế Cộng sản, đồng thời còn
nhằm chống cả Anh, Pháp và MT. Ý tham gia Hiệp ước này ngày 6/11/1937. Sự
kiện đó đánh dấu Trục phút xít Bécỉiìi - Rôma - Tôkyô chính thức hình thành.
Việc Ý rút khỏi Hội Ọuốc liên ngày 3/12/1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị
để các nước khối Trục dược tự do hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến
tranh bành trướng lãnh thổ của mình.

Trục phát xit Béclin - Rôma - Tôkyô

2. Quốc tẻ Cộng sản và sách lược đấu tranh chỏng chủ nghĩa phát xít
Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh báo hiệu nguy cơ một cuộc chiến
tranh thế giới mới đã xuất hiện. Các lực lượng Phát xít Ý, Quốc xã Đức và
Quân phiệt Nhật (gọi chung là chủ nghĩa phát xít) ráo riết thực hiện kế hoạch
chuẩn bị chiến tranh. Các đảng cộng sản và công nhân thế giới đứng trước
một vấn đề rất hệ trọng là xác định sách lược đối phó với nguy cơ chiến tranh
phát xít như thế nào. Kinh nghiêm của cuộc Thế chiến I cho thấy sự chia rẽ
dãn tới phân liệt trong phong trào công nhân quốc tế là một nhân tố thuận lợi
cho các nước đế quốc thực hiện tham vọng của họ và gây nhiều tổn thất cho
các lực lượng cách mạng.
Trong tình hình đó, Ọuốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ V II tại
Mátxcơva (25/7 - 25/8/1935), có đại biểu của các đảng cộng sản 65 nước tham
dự. Đại hội đà nghe bản báo cáo quan trọng của G. Đim itrốp, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Quốc tế III.

148
Ghêoócghi Đimitrốp (1882 - 1949), nhà lãnh đạo phong trào cộng
sản và công nhân Bungari và Quốc tế Cộng sản. Tháng 3/1923, ông là
một trong những người chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Bungari, bị thất bại phải
ra nước ngoài làm việc ở Văn phòng Quốc tế III. Năm 1933, ông bị chính
quyền phát xít Hítle vu cáo tội đốt cháy nhà Quốc hội Đức, bị đưa ra xét
xử tại toà án Laixích (Leipzig). Trước toà, Đimitrốp dũng cảm tự bào chữa,
vạch trần tội ác của nền chuyên chế phát xít buộc toà án phải tuyên bố
trắng án.

Ông sang Liên Xô, được bầu làm tổng bí thư Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản (1935 - 1943). Năm 1943, ông sáng lập Mặt trận Tổ quốc
Bungari, đoàn kết nhân dân đấu tranh chống bọn phát xít Đức chiếm
đóng. Tháng 9/1944, ông lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ở Bungari, đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội đổng Bộ trưởng
(1946) và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Bungari (1949).

Trong báo cáo, Đ im itrốp đã vạch rõ bản chất của chủ nghĩa phát xít là
"nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất,
sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bán tài chính” . Nó thay thế chế
độ dân chủ đại nghị tư sản bằng nền thống trị độc tài tàn bạo nhất của các tập
đoàn dại tư sản. Nó hoàn toàn không phải là sự vùng dậy của giai cấp tiểu tư
sản như các đàng này tuyên truyển hòng lôi kco đông đáo thanh niên, học
sinh, sinh viên tham gia và bị biến thành lực lượng xung kích của chúng. Do
vậy, chủ nghĩa phát xít không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà còn đối
lập với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hoà bình và dân chủ, chống chiến
tranh đế quốc. Trong tình hình như vậy, Quốc tế III chủ trương thành lập Mặt
trận Nhân dân, trước hết là thống nhất các lực lượng trong giai cấp còng nhân
từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế, rồi mở rộng sự đoàn kết với các tầng
lớp nhân dân, với tất cả các lực lượng chống chủ nghĩa phát xít.
Sách ỉưực đúng đắn của Đại hội V II Quốc tế Cộng sản đã động viên đông
đảo nhân dân tham gia Mặt trận Nhân dân chống phát xít. Cuộc chiến tranh
chống chủ nghĩa phát xít Tây Ban Nha, sự thành lập chính phú của Mặt trận
Nhân dân Pháp (1936 - 1938), Mặt trận nhân dân ở nhiều nước thuộc địa và phụ
thuộc dã thu hút các lực lượn« xã hội không phân biệt đáng phái, xu hưởng
chính trị vào cuộc đấu tranh chông chủ nghĩa phát xít trẽn thế giới.

149
3. Quan hệ quốc tẽ của Liên Xò trong thập niên 30 của thè kĩ XX
Bước vào Ihập niên 30 của thế kí X X , Liên Xô tiếp tục cuộc đấu tranh trong
quan hệ quốc tế nhằm củng cố vị trí quốc tế của mình, đồng thời kiên trì lập
trường thiết lạp nền an ninh tập thể ở châu Âu và báo vộ hoà bình thế giới.
Trorm những năm 1929 - 1932, các nước tư bản phương Tây phát động một
chiến dịch chống Liên Xô.
Âm mưu đánh bom vào Cơ quan Tổng đại diện Liên Xô tại Vácsava
(1930), chiến dịch chống Liên Xô ở Phần Lan (1931), kế hoạch mưu sát
Đại sứ Nhật Bản tại Mátxcơva (1931), tên bạch vệ Goócnulốp mưu sát
Tổng thống Pháp pỏn Đume (1932)... Tháng 2/1930, Giáo hoàng Pie XI
kêu gọi tổ chức một cuộc "thập tự chinh" chống chủ nghĩa cộng sản, tập
hợp các tín đồ trên thế giới "hành động tập thể" chống Liên Xô. Đồng thời,
các nước tư bản phương Tây khởi xướng việc bao vây kinh tế chống Liên
Xồ. Đặc biệt là dự án thành lập Liên bang châu Âu do Ngoại trưởng Pháp
Briăng (Briand) đề xướng (5/1930) bao gồm tất cả các quốc gia châu Âu
thành viên của Hội Quốc liên, loại trừ Liên Xồ...

Những hành động đó đểu nhầm tạo ra khống khí căng thảng dẫn tới việc
các nước cát đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
Liên Xò kiên trì đâu tranh để vượt qua tình trạng phức tạp trong quan hệ
quốc tế. Trong thời gian này, Liên Xô thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1928 - 1933), tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng của đất
nước; đồng thời, làm phá sản âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Liên
Xô kí hiệp ước không xâm lược với nhiều nước láng giềng và một sô nước tư
bản châu Âu như Phần Lan, Latvia, Extônia, Ba Lan (1932), Ý (1933); đồng
thời đạt được thoả thuận gia hạn các Hiệp ước không xâm lược đà kí với Thổ
Nhĩ Kì, Đức, Iran, Lítva, Ápganixtan.
Tham gia Hội nghị giải trừ quân bị ở Giênồva khai mạc ngày 2/2/1932 (với
sự có mặt của đại diện 63 quốc gia), Liên x ỏ đã đưa ra chương trình giải trừ
quân bị và nêu rõ quan điểm của mình vẻ định nghĩa khái niệm xâm lược trong
quan hệ quốc tế. Hội nghị Giênồva không đi đến kết quả đáng kê nào do mâu
thuẫn giữa các cường quốc tư bân phirưng Tây, đồng thời những đề nghị của
Liên Xô cũng không được thòng qua. Tuy vậy, năm 1933, Liên Xô đà tiến hành
đàm phán và kí kết công ước vẻ xác định khái niệm xâm lược với các nước
Extônia, Latvia, Ba Lan, Rumani, Thố Nhĩ Kì, Iran, Ápganixtan, Rumani, Tiệp
Khắc, Nam Tư và Lít va.
Tháng 9/1934 Liên Xô tham gia H ội Quốc liên và trờ thành Uỷ viên thường
trực Hội đồng Hội Ọuốc liên. Điều đó cho thấy vị thế ngày càng được khẳng
định của Liên Xô trong các vấn để quốc tế. Tuy nhiên khi gia nhập tổ chức này,
Liên Xô nêu rõ quan điếm cùa mình trong việc khòng đồng ý với những quyết
định trước đây cũng như một sỏ điểu khoản của Hội Quốc liên vi phạm chủ
quyền các dân tộc. Đồng thời, Liên Xồ tranh thủ điều kiện đê đấu tranh cho hoà
bình và an ninh tập thể, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới.
Tháng 5/1935, Hiệp ước Tương trợ song phương Xô - Pháp và
Xô - Tiệp được kí kết đã thể hiện những cố gắng quan trọng của Liên Xô trong
việc xây dựng nền an ninh tập thê ở châu Âu. Ở khu vực châu Á, Liên Xô kí
Hiệp ước Tương trợ lẫn nhau với Mông c ổ (1936) và Hiệp ước Không xâm
lược với Trung Quốc (1937) nhằm tạo dựng m ối quan hộ cùng tồn tại hoà bình
giữa các quốc gia, đảm bào an ninh cho vùng V iễn Đông. K hi Nhật mờ rộng
chiến tranh ra toàn lãnh thổ Trung Ọuốc (1937), Liên Xô đứng vể phía Đảng
Cộng sản và nhân dân Trung Ọuốc, giííp đỡ về tinh thần và vật chất cho Trung
Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật.
Liên Xô cho Trung Quốc vay 100 triệu USD năm 1938, 150 triệu
USD năm 1939; nhiều phi công Liên Xô tình nguyện tham gia chiến đấu
chống Nhật ở Trung Quốc.

Trong thập niên 30 của thế kỉ X X , Liên X ô cũng đạt dược việc bình thường
hoá quan hệ với MT. Sau khi thiết lập quan hệ với hầu hết các nước tư bản chủ
yếu, tháng 11/1933 Liên Xô và MT đà thoả thuận về việc chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

IV. Q U A N HỆ QUỐC T Ế TRUÓC K H I C H IÊ N T R A N H BỪNG N ố


Vào cuối những năm 30 của thế k ỉ X X , quan hộ quốc tế trở nên vô cùng
phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc TBCN
đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một lủ, khối Trục phát
xít do Đức, Ý, Nhật cầm đầu; hai lí), khối đế quốc do Anh, Pháp, M ĩ cầm đầu.
Trong khi khối Trục ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiến tranh ngay từ đầu nhừng
năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, MT mới bắt đầu quá trình này vào những
năm cuối của thập niên 30. Mặc dù hai khối nước TBCN này mâu thuẫn gay gắt
với nhau về vấn đề thị trường và quyển lợi nhưng đều thống nhất trong mục
đích chống Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước X H C N đầu tiên trên thế giới. Điều đó
được thê hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản

151
với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng
thế giới. Như vậy, trong quan hệ quốc tế đà diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng
căng thảng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xồ, khối Đức, Ý, Nhật và
khối Anh, Pháp, MT. Các cuộc chiến tranh cục hộ đã lan tràn khắp từ Âu sang
Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó
tránh khỏi.

1. Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha (1936 - 1938)


Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17/7/1936, vé hình thức là
cuộc nội chiến giữa Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít do
Phrancò đứng đầu, nhưng vể thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính
quốc tế. Vấn đé không chỉ giới hạn trong nội bộ nển chính trị Tây Ban Nha.
Đức và Ý đà trực tiếp can thiệp, đứng vé phía phát xít Phrancô chống lại Chính
phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho
kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi và Đại Tây Dương.
Phrancô (Franco Bahamonde Francisco, 1892 - 1975) nhà hoạt
động quân sự, chính trị Tày Ban Nha; năm 1925 được phong cấp tướng,
năm 1933, tổng tham mưu trưởng quân đội Tây Ban Nha. Tháng 7/1936,
Phrancô cầm đấu cuộc đảo chính chống Chính phủ Cộng hoà, tiến hành
nội chiến, năm 1938 trở thành Thủ lĩnh tối cao (Codillo) được sự ủng hộ
của Hítle và Mútxỏlini, thiết lập chế độ độc tài, năm 1939 kí Hiệp định
chống chủ nghĩa cộng sản" nhưng tuyên bố "trung lập" trong Thế chiến II.
Sau chiến tranh, Phrancô tim cách phá vỡ tình trạng cô lập của Tây Ban
Nha, được Mĩ ủng hộ. Năm 1947, Phrancô ban hành đạo luật kế vị, tự
phong là Nhiếp chính vương nhưng vẫn nắm quyền; năm 1969, Phrancô
chỉ định Hoan Cáclốt (Juan Carlos) làm người kế ngôi.

Trong chiến tranh Tây Ban Nha, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành
chính sách "không can thiệp", tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến
tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9/9/1936, "U ỷ ban về Vấn đé không can thiệp"
được thành lập. M ĩ không chính thức tham gia Uỷ ban này nhưng trên thực tế
cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp
dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức
và Ý ở Tây Ban Nha, chính sách "không can thiệp" của Anh, Pháp, M ĩ vé thực
chất là hành động thoá hiệp với các lực lượng phát xít chống lại nước Cộng hoà
Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyển của Anh, Pháp, M7 vẫn tiếp tục
có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít Phancô. Cuối cùng,

152
các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ Phrancồ, khi đó đã chiếm ưu thế
rõ rẹt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.
Ngày 10/2/1939, hải quân Anh hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm
đảo Minoca (Minorca) nằm trong quần đảo Balêaríc (Balearic). Ngay sau
đó, Chính phủ Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Cộng hoà Tây Ban
Nha với yêu cầu giao nộp Mađrít và các vùng lãnh thổ khác cho lực lượng
Phrancô. Ngày 27/2/1939, Anh và Pháp đổng thời cắt đứt quan hệ ngoại
giao với Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha và tuyên bố công nhận chính
quyền Phrancồ.

Liên Xô đứng về phía Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha trong cuộc đấu
tranh chống phát xít. Mặc dù lúc dầu Liên Xô đã tham gia Uỷ ban về các vấn
đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Ý khiến Liên Xồ
phải hành động. Nhân dân Xô viết tham gia phong trào ủng hộ Cộng hoà Tây
Ban Nha, số tiền quyên góp lên tới 47 triệu rúp. Đồng thời, nhiều người tham
gia lực lượng tình nguyên quốc tế chiến đấu bảo vộ nước Cộng hoà đến từ
53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so sánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến
tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày
28/3/1939, lực ỉượng Phrancô với sự hỗ trợ của quân đội Ý đã chiếm Thủ đô
Mađrít. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với
nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng.

2. Hội nghị Muyních (9/1938)


Đến năm 1938, nước Đức Quốc xã về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị
chiến tranh. Lúc này, nước Đức không chi phục hồi mà đã trờ thành một nước
công nghiệp đứng đầu châu Âu, một cường quốc quân sự. Tháng
3/1938, Đức tiến hành thôn tính Áo và thông qua đạo luật sáp nhập Áo vào
Đức, vi phạm tráng trợn Hệ thống Hoà ước Vécxai. Hành động ngang ngược
của Hítle đã không gặp phải trở ngại nào đáng kê từ phía các cường quốc tư bản
phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị không được khuyến khích Áo kháng cự,
trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt.
Sau khi chiếm Áo, nước Đức chuẩn bị thôn tính Tiộp Khắc, một vị trí đặc
biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị trên lục địa châu Âu. Để
thôn tính Tiệp Khắc, Hítle đưa ra "vấn đề người Đức ở vùng Xuyđét" (Sudete) -
vùng đất Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những
diễn biến phức tạp và căng thắng, Hítle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng
Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lành ihổ

153
của Đức ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản
phương Tây dà gây áp lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của
Hítle. Điều này đã gây nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả
ở Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xồ. Liên Xô nhiều lần khẳng định sẵn sàng
giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch
giữa các bộ tổng tham mun của Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đổng thời, Liên
Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn
sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc liên thảo luận những biện pháp
đê bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những để nghị đó đều bị các chính phủ Anh,
Pháp gạt bỏ.
Ngày 29/9/1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và
Ý đã tham dự Hội nghị Muyních (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc.
Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến đê nghe
kết quả. Hiệp ước Muyních quy định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Xuyđét
(trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng
lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của
Anh và Pháp, Chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Muyních, theo đó,
Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thố với nhiều công trình quân sự
quan trọng. Đê đổi lại, Hítle đà kí với Anh bản Tuyên bô Không xâm lược lẫn
nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6/12/1938, Hiệp định Khỏng xâm lược
Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Như vậy, Hiệp ước M uyních là đỉnh cao
nhất cùa chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bán phương Tây thi hành
trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và
chĩa mũi nhọn chiến tranh vể phía Liên Xồ.
"G iính sách Muyních" đã dãn đến những hậu quả rất nặng nề đối với bản
thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp của các nước này càng làm cho nước
Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày
15/3/1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních, chiếm đóng toàn bộ lãnh
thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21/3 Hítle đưa ra yêu sách đòi Ba Lan
phải trao thành phố cảng Đãngdích cho Đức. M ột ngày sau quân đội Đức tràn
vào chiếm vùng lành thổ Mêmen của Lítva. Đồng thời, kế hoạch xâm lược Ba
Lan cũng được chuẩn bị ráo riết.
Trong lúc này, phát xít Ý cũng tăng cường hành động. Tháng 4/1939
M útxỏlini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Ý được mở
rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Ý (thường được gọi là

154
Hiệp ước Thép). Theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước hoặc một
nhóm nước khác thì bén kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng các lực
lượng hái, lục và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới chí còn
trong gang tấc, tuy nhiên các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách để
hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô.

3. Hiệp ước Xò - Đức không xâm lược nhau (8/1939)


Sau khi Hítle xé bỏ Hiệp ước M uyních, thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc, Liên
Xô để nghị triệu tập một hội nghị để bàn về vấn để bảo vệ an ninh chàu Âu,
ngăn chặn chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Trước áp ỉực mạnh
mẽ của dơ luận trong và ngoài nước, chính phù Anh, Pháp đã bắt đầu các cuộc
đàm phán với Liên X ô từ giữa tháng 4/1939 tại Mátxcơva. Do thái độ thiếu
thiện chí và chủ trương "bắt cá hai tay" của Anh và Pháp, cuộc đàm phán
không đạt được kết quả và hoàn toàn bế tắc. Trong khi đó, từ tháng 6/1939,
cuôc đàm phán bí mật Anh - Đức được tiến hành ở Luân Đôn để thảo luận về
• 1 • • •

việc hợp tác giữa hai nước cùng chống Liên Xô, Trung Ọuốc và phàn chia khu
vực ảnh hưởng ở đây.
Lúc này ở Viển Đông, sau khi gây ra cuộc xung đột quân sự chống Liên Xô
ở khu vực hồ Khaxan bị thất bại, ngày 12/5/1939 phát xít Nhật mở cuộc tấn
công vào khu vực sòng Khankhin - Gôn (Khalkhin - Gol) thuộc địa phận Mông
Cổ, nhằm uy hiếp con dường huyết mạch của Liên Xô ờ Viễn Đông và chuẩn bị
cho việc mở rộng cuộc chiến chống Liên Xô sau này. Mặc dù kê hoạch của
Nhật ờ Khankhin - Gỏn thất bại nhưng toàn bộ những sự kiện diễn ra ở Viễn
Đòng làm cho giới cầm quyển Anh và Pháp hi vọng về một cuộc chiến tranh
chống Liên Xò từ phía Nhật. Chính trong lúc này, Đại sứ Anh ờ Tôkiô Craigi
(Craigie) đã kí với Ngoại trưởng Nhạt A rita một hiệp ước (7/1939), theo đó
Anh thừa nhận cuộc chiến tranh của Nhật ở Trung Quốc và tuyên bố không can
thiệp vào công việc của Nhật ở đây.
Tinh hình phức tạp nói trên ở cả phương Tây và phương Đỏng khiến cho
mọi cố gắng của Liên Xô nhằm đạt tới một thoả thuận với Anh và Pháp trong
cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít đều thất bại. Trong
bối cảnh đó, Liên Xò buộc phâi có những giải pháp kiên quyết để tự bảo vệ nền
an ninh quốc gia. Ngay từ tháng 5/1939 với ý đồ kéo dài thời gian để xâm lược
châu Âu trước, chính quyền Đức đã thăm dò Liên Xô về khả năng kí kết một
hiệp ƯỚC không xâm lược nhau x ỏ - Đức. Lúc đầu, Liên Xồ đà bác bỏ đẩ nghị
đó, nhưng sự tan vờ không thê cứu vãn nổi của cuộc đàm phán Xô - Anh - Pháp
đã khiến Liên x ỏ thay đổi ý định và tiếp nhạn để nghị của Đức. Ngày
23/8/1939, Hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức được kí kết, theo đó Liên
Xỏ và Đức cam kết không tấn công nhau, không gia nhập một liên minh nào
thù địch với một trong hai nước kí hiệp ước, khồng giúp đỡ một nước thứ ba
nào chống lại nước kia... Sau đó một ngày, Liên X ô và Đức còn kí thêm một
Nghị định thư bí mật phân chia phạm vi ảnh hưửng ở Đông Âu.
Nghị định thư bí mật kèm theo Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược
nhau: “Nhân dịp kí hiệp ước không xâm lược nhau giữa Đế chế Đức và
Liên bang CHXHCN Xô viết, các đại diện toàn quyền của hai bên trong
quá trình thương lượng tuyệt mật đã đạt được sự phân chia khu vực ảnh
hưởng ở Đông Âu, các cuộc thương lượng đã dẫn đến những kết quả sau:

+ Trong trường hợp xảy ra sự thay đổi về lãnh thổ và chính trị ở các
nước Bantích (Phần Lan, Extồnia, Látvia và Lítva), biên giới phía Bắc của
Lítva đồng thời sẽ là biên giới các vùng ảnh hưởng của Đức và Liên Xô.
+ Trong trường hợp xảy ra sự thay đổi về lãnh thổ và chính trị ở các
vùng thuộc Ba Lan, biên giới các khu vực ảnh hưởng của Đức và Liên Xồ
sẽ là một đường dọc theo các sông Pitsa Nareps, Vixla và San. vấ n đề
xác định xem sự duy trì một nước Ba Lan độc lập có phù hợp với lợi ích
của hai nước không và nó sẽ được định ranh giới thế nào, sẽ chỉ được
quyết định dưới ánh sáng của sự phát triển chính trị tương lai. Trong mọi
trường hợp, quyết định này sẽ xuất phát từ hiệp định hữu nghị được kí kết
giữa hai chính phủ.

+ Về những gì liên quan đến Nam Âu, phía Liên Xô nhấn mạnh lợi ích
mà họ quan tâm ở Bétxarabia. Phía Đức tuyên bố hoàn toàn không quan
tâm đến số phận của vùng này.
Biên bản này phải được hai bên giữ bí mật hoàn toàn.M1,)

Việc kí kết Hiệp ước x ỏ - Đức không xâm lược nhau đã làm thất bại chính
sách hai mặt của các nước phương Tây, phá tan âm mưu thành lập mặt trận
thống nhất chống Liên X ô do các nước đế quốc dựng lên ở Muyních. Đồng
thời, sự kiện này cũng phá vỡ âm mưu của Nhật muốn dựa vào sự ủng hộ của
Đức đế xảm lược Liên x ỏ .
Một tuần sau đó, đêm 30 rạng sáng 31/8/1939, Đức gửi tới Ba Lan một bản
tối hậu thư vể vấn đé Đăngdích và hành lang Ba Lan. Chính phú Ba Lan bác bỏ

( ! ) Theo Tạp chí Thời tniri, Liên xỏ, số 24 năm 19X9, tr. 35 (Nguyễn Thi Thư dịch).

156
những yêu sách của Đức. Rạng sáng 1/9/1939, phất xít Đức tấn công Ba Lan.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Như vậy, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu
thuẫn về quyền lợi, về lành Ihổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau.
Sự phân chia thế giới theo Hệ thốns Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mâu
thuẫn không thể dung hoà được giữa các nước đế quốc. Cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới 1929 - 1933 càng làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa
đế quốc, dẫn tới việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức, Ý và Nhật
Bản. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế
giới thứ hai. Tuy nhiên, chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đà
tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến. Do vậy, khác với Thế chiến I, cuộc
Thế chiến II còn gắn liền với mâu thuẫn giữa CNĐQ với C N X H và âm mun tiêu
diệt nhà nước X H C N đầu tiên trên thế giới. K hối các nước đế quốc mặc dù có
mâu thuẫn với khối phát xít nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu
chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới. Chiến tranh được bắt đđu từ
cuộc chiến giữa hai khối đế quốc, nhưng từ tháng 6/1941, khi phát xít Đức tập
trung lực lượng tấn công Liên Xô thì tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi
căn bản. Đồng minh chống phát xít được hình thành. Cuộc chiến tranh giữ nước
vĩ đại của Liên Xô cùng sự tham gia đấu tranh cấc nước tư bản dân chủ và các
dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm mục tiêu chủ yếu là tiêu diệt
chủ nghĩa phát xít, giải phóng nhân loại khỏi những thảm hoạ của chế độ phát
xít man rơ.

157
Chương VII

QUAN HỆ QUỐC TẾ
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 - 1945)

Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) là cuộc chiến tranh có quy mô
lcVn nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh lan rộng khắp toàn cầu, diễn ra
trên nhiều mật trận: mặt trận Tây Âu (mặt trận phía Tây), măt trận Xô - Đức
(mặt trận phía Đòng), mặt trận Bác Phi, mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và
một mặt trận rộng lớn là cuộc chiến đấu bí mật trong lòng địch của nhân dân
các nước bị phất xít chiếm đóng. Trong 6 năm chiến tranh (1939 - 1945), trải
qua các giai đoạn diễn biến gay go quyết liệt, quan hộ quốc tế chuyên hoá rất
phức tạp, Đổng minh chống phát xít hình thành đã dẫn đến thắng lợi cuối cùng
vào năm 1945.
Có thể phân chia cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai làm 4 giai đoạn
sau đây:

- Giai đoạn thứ nhất (từ 9/1939 đến 6/1941): Phe phát xít xâm chiếm
châu Âu, mở rộng chiến tranh ở Đông Nam Á và Bắc Phi.

- Giai đoạn thứ hai (từ 6/1941 đến 11/1942): Chiến tranh lan rộng
toàn thế giới và sự hình thành Đồng minh chống phát xít.

- Giai đoạn thứ ba (từ 11/1942 đến 12/1943): Bước ngoặt của chiến
tranh, quân Đồng minh chuyển sang phản công. Hội nghị Têhẻran

- Giai đoạn thứ tư (từ 12/1943 đến 8/1945): Quân Đồng minh tổng
phản công tiêu diệt phát xít Đức, quân phiệt Nhật. Hội nghị lanta và
pỏxtđam. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

I. G IA I Đ O Ạ N T H Ứ N H Ấ T (9/1939 - 6/1941): PHE PHÁT X ÍT X Ầ M


C H IẾM C H Â U Â U , MỞ RỘNG C H IẾN t r a n h ở đông nam á
V À BẮC PHI
1. Phát xít Đúc tán còng Ba Lan, xâm chiếm các nước Bác Âu và Tày Âu
Ngày 1/9/1939, phát xít Đức bất ngờ tấn công Ba Lan với một lực lượng
quân sự hùng hậu, được chuẩn bị kĩ càng: 70 sư đoàn gồm khoảng
1,5 triệu quân (trong đó có 7 sư đoàn xe tàng, 6 sư đoàn cơ giới), trên 3000 máy
bay chiến đấu. Ngày 3/9, chính phủ Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Cuộc
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.

159
Vơi ưu thế tuyệt đối vể quân sự và trang bị, quân Đức thực hiên chiến lược
"chiến tranh chớp nhoáng", dùng xe tăng, máy bay oanh tạc, phá vỡ phòng
tuyến và tiến sâu vào lãnh thổ Ba Lan với tốc độ 50 - 60km một ngày. Chính
phủ Ba Lan không círu vãn được tình thế, phải lưu vong sang Anh, trong lúc
quân dân Ba Lan chiến đấu ngoan cường chống trả quân Đức. Ngày 28/9, sau
gần mòt tháng tấn cồng, quân Đức chiếm được Ba Lan.
Trên thực tế, Ba Lan đã phải đơn độc chiến đấu chống trả quàn Đức, không
nhận dược sự hỗ trợ từ bên ngoài. Với tư cách là đồng minh của Ba Lan, hai
nước Anh, Pháp lúc bấy giờ có tới 110 sư đoàn dàn trận ở phía Bắc nước Pháp,
dọc theo biên giới Đức. Nhưng quân Anh, Pháp không tấn công Đức và cũng
không có bất kì một hành động quân sự nào hỗ trợ cho Ba Lan. Tinh trạng đó
kéo dài suốt 8 tháng (từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1940) và được dư luận gọi
bằng các tên như "cuộc chiến tranh kì quặc", "chiến tranh ngồi", "chiến tranh
nực cuời"...
Sỏ đĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn nuôi ảo tưởng
về một sự thoả hiệp với Hítle, tiếp tục chính sách Muyních với hi vọng quân
Đức sẽ chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. Đồng thòi hiện tượng này
còn được lí giải bàng việc Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp
Gamơlanh đã quyết định áp dụng chiến lược phòng ngự, dựa vào phòng tuyến
Maginô kiên cố để đánh trả quân Đức.

Phòng tuyến Maginô được xây dựng ở phía tây bắc nước Pháp từ
1927 đến 1936 theo sáng kiến của Bộ trưởng Quốc phòng Pháp hổi đó là
Ăngđrê Maginô (André Maginot).

Lơi dụng tình hình đó, sau khi chiếm được Ba Lan và tăng gấp đối lực
lượng quân sự, phát xít Đức tập trung quân ở phía Tây để tấn công Na Uy.
Ngày 9/4/1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Đan Mạch đầu hàng, không
kháng cự. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ vào Na Uy. Na Uy được quân viễn chinh
Anh, Pháp hỗ trợ, sau hai tháng chiến đấu mới chịu khuất phục.
Không cần chờ đợi chiến dịch Na Uy kết thúc, ngày 10/5/1940 quân Đức
tràn vao Bi, Hà Lan, Líícxembua và Pháp. Mặt trận phía Tây chính thức bắt
đầu. Với chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng", quân Đức tập trung đánh vào
cánh trái của liên quân Anh, Pháp (phòng tuyến Maginô ở cánh phải). Quân
Đức tràn vào Hà Lan và Bi. Ngày 15/5, quân đội Hà Lan đầu hàng, Chính phủ
Hà Lan bò chạy sang Luân Đôn. Ngày 27/5, Bỉ đầu hàng. Tàn quân Anh, Pháp

160
gồm 34 vạn người bị dồn đuổi đến cảng Đoongkéc (Dunkerque) ở phía bắc
nước Pháp, phái xuống tàu, tháo chạy về Anh. Mặt trận Pháp bị đập tan, quân
Đức tiến về Pari như vũ bão. Chính phủ Pháp bò Pari, chạy về Boócđô và đưa
Thống chế Pêtanh lên cầm quyển để xin đình chiến với Đức. Nước Pháp đà đầu
hàng sau 6 tuần chiến đấu.

Theo Hiệp định đình chiến Đức - Pháp kí ngày 22/6/1940, quân Đức
chiếm đóng 2/3 lãnh thổ Pháp, trong đó có Pari và các trung tâm còng
nghiệp (nơi sản xuất 98% sản lượng gang và thép của Pháp), vùng Andát
và Loren bị sáp nhập vào Đức, nước Pháp phải giải giáp vũ khí và nuôi
quân đội chiếm đóng. Chính phủ bù nhìn Pháp do Pẽtanh làm Quốc
trưởng đóng tại thị trấn Visi ở phía nam nước Pháp.

Sau tấn ĩhảm kịch của Pháp, nước Anh đơn độc chống lại kế hoạch đổ bò
"Sư tử biển" của quân Đức, bắt đầu từ tháng 7 /1940. Sau đó, Hítle thay đổi kế
hoạch và quyết định tiến hành chiến dịch "Tia điện không trung" đánh nước
Anh bằng không quân, đã tàn phá nặng nề các thành phố lớn của Anh như Luân
Đòn, cỏventơry, Livơpun... Chi trong vòng 3 tháng đầu, quân Đức đà giội
10 000 tấn bom xuống lãnh thố của Anh. Nước Anh chiến đấu chống trả, đâ
giành dược ưu thế trong các trận kliòng chiến và hải chiến. Từ tháng 9/1940, M ì
hắt đầu viện trợ cho Anh. Những "cuộc chiến chớp nhoáng trên không" của
Đức suy yếu dần. Từ giữa tháng 10/1940, quân Đức rút dần khỏi khu vực này.
Kế hoạch đó bộ và chiếm đóng nước Anh đà khòng thực hiện dược.

2. Phe Trục củng cỏ liên minh, IĨ1 Ư rộng xàm lưực Ư Đòng Nam Âu,
Đỏng Á và Bác Phỉ (9/1940 - 6/1941)
Ngày 27/9/1940, Đức, Ý và Nhật kí kết hiệp ước đồng minh quân sự và
chính trị ở Bcclin, được gọi là Hiệp ước Tay ba. Hiệp ước thừa nhận sự thống trị
của Đức, Ý ờ châu Âu và của Nhật ở khu vực Viễn Đỏng. Hiệp ước quy định,
nếu một trong ba nước bị kẻ thù mới tấn công thì hai nước kia phải lập tức ĩrợ
giúp về mọi mặt. Khối liên minh phát xít đã được củng cố và xiết chặt thông
qua hiệp ước này.

161
Lễ ki Hiệp ước Tay ba

Nội dung chính của Hiệp ước Tay ba (Đức - Ý - Nhật) kí ngày
27/9/1940:
"Điều 1 - Nhật Bản thừa nhận và tôn trọng sự thống trị của Đức và Ý
trong việc thành lập một trật tự mới ở châu Âu.

Điều 2 - Đức và Ý thừa nhận và tỏn trọng sự lãnh đạo của Nhặt Bản
• • W • • •

trong việc lập trật tự mới ở Đại Đông Á.

Điều 3 - Đức, Ý, Nhật Bản đồng ý hợp tác với nhau trên cơ sở đã nêu
ở trên. Họ có trách nhiệm ủng hộ nhau bằng tất cả các phương tiện quân
sự, kinh tế, chính trị trong trường hợp một trong ba bên thoả thuận bị tấn
công từ cường quốc nào mà hiện giờ chưa tham gia chiến tranh châu Âu
và xung đột Trung - Nhật.

Điều 4 - Để thực hiện hiệp ước này, cần nhanh chóng lập ra các uỷ
ban kĩ thuật chung mà các thành viên của nó sẽ do các chính phủ Đức, Ý,
Nhật ấn định.

Điều 5 - Đức, Ý, Nhật Bản tuyên bố rằng thoả thuận này không hề
gây trở ngại cho quy chế chính trị hiện đang tồn tại giữa một trong các
bên tham gia với Liên Xô.

162
Điều 6 - Hiệp ước này có hiệu lực ngay sau khi kí kết và kéo dài trong
vòng 1 0 năm kể từ ngày có hiệu lực"*0.

ti Ấ t tỉÃ s o
AI-XC VEN

: * • '
• • *

Nước trung lảp Những vung bi phát xít Đức chiếm


I Lảnh thò Đức, l-ta-li-a va đóng minh trước khi nổ ra chiến tranh
Hương tán còng cùa quân Đức

Quân Đức đánh chiếm châu Ảu (1939 - 1941)

Từ cuối năm 1940, đê xây dựng bàn đạp chiến lược ở Đông Nam Âu -
chuẩn bị cho kế hoạch tấn công Liên Xô, Hítle dùng thủ đoạn chính trị kết hợp
với sức ép quân sự để lôi kéo Rumani, Hunggari và Bungari gia nhập Hiệp ước
Tay ba, đồng thời đưa quân tiến vào ba nước này.

( I ) Theo Vàn tnvên



In h

sử thê t
1ỊÌói
*
lìiện (í(li
• •
1917-1945, N XB Giáo dục,

H., 1965,
ir. IKI-IX2.

163
Tháng 10/1940, Y tấn công Hi Lạp và dự định chiếm nước này một cách
nhanh chóng. Nhưng quân xâm lược đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của Hi
Lạp. Được Anh trợ giúp, Hi Lạp phản công, quét sạch quân Ý và chiếm luôn
Anbani (thuộc Ý). Trước tình hình khó khăn của Ý , tháng 4/1941, quủn Đức tấn
còng Nam Tư và Hi Lạp. Chính phủ Nam Tư bỏ chạy ra nước ngoài. Quân đội
Anh đang tham chiến ở Hi Lạp cũng bị đánh bại. Nam Tư và Hi Lạp bị chiếm
đóng. Quân Đức thiết lập chính quyền bù nhìn và cắt một phần lành thổ của hai
nước này chia cho Ý, Hunggari và Bungari.
Như vậy, tới mùa hè năm 1941, hầu như tất cả các nước châu Âu đều bị
chiếm đóng hoặc lệ thuộc vào phát xít Đức và Ý. Trên thực tế chỉ còn nước Anh
chưa bị chiếm đóng nhưng đang nằm trong sự phong toả của quân Đức. Ngoài
ra, ba quốc gia khác còn nằm ngoài vòng cương toả của chủ nghĩa phát xít là
Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Ailen. Chỉ trong vòng chưa dầy hai năm kể từ khi châm
ngòi lửa chiến tranh, nước Đức phát xít đã hoàn tất những chiến lược quân sự
quan trọng và chuẩn bị đầy đủ điều kiện để tấn công Liên Xô.
Ở Đônạ Á, khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, Nhật Bản đà tiếp tục mở
rộng cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc và Viễn Đông. Tháng 6/1940,
Chính phủ Nhật công bố chính sách xây dựng "Khu vực thịnh vượng chung Đại
Đông Á ", thê hiện rõ tham vọng bành trướng. Tháng 9/1940, Nhật gửi tối hậu
thư cho Chính phủ thực dân Pháp ở Đông Dương, yêu cầu phải cho Nhật đóng
quân và xây dựng các căn cứ quân sự ở Bắc Kì (V iệt Nam) đế phục vụ cho Nhật
tiến còng vào phía nam Trung Quốc. Chính phủ Pháp buộc phải chấp nhận yêu
sách này, quân Nhạt vào Bắc Kì, coi đó như một chiếc cầu nối dê chuẩn bị xâm
lược khu vực Đỏng Nam A.
Ỏ Bắc Phi, tháng 9/1940, quân Ý từ L ib i (thuộc Ý ) tấn cồng A i Cập (thuộc
Anh). Cuối năm 1940, quân Anh phàn công tiến vào L ib i. Quân Đức phải đưa
"Quân đoàn châu Phi" sang cứu viện cho Ý. Liên quân Đức - Ý phản công, đẩy
lùi quân Anh về biên giới A i Cập.
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, với ưu thế áp đảo về
quân sự, phe phát xít giành được quyền chủ động tấn công trên mặt trận Tây
Âu, Bắc Phi và áp đật sự thống trị của mình ờ khu vực Tây và Trung Âu. Chưa
đầy hai năm kể từ khi chiến tranh bùng nổ, sô phận của châu Âu đã hoàn toàn
thay đổi. Trật tự của chủ nghĩa phát xít đã dược thiết lập trên phần lớn lãnh thố
châu Au.

164
3. Quan hệ giưa Liên xỏ với một sỏ nước Đỏng Âu (1939 - 1940)
Thắng lợi nhanh chóng của quân Đức trên chiến trường châu Âu đã đặt
Liên Xô đứng trước một tình thế ngày càng nghiêm trọng: phải đối mặt với phát
xít Đức ở phía tây và phát xít Nhật ở phía đông. Trong bối cảnh dó, việc tảng
cường lực lượng quốc phòng và đảm bảo an ninh quốc gia là vấn đề hết sức cấp
bách và phải thực hiện bằng bất cứ giá nào. Đó là nguyên nhân lí giải việc Liên
Xô tiến quân vào miền Đòng Ba Lan ngày 17/9/1939 thu hồi vùng lành thổ Tây
Ucraina và Tây Bêlarút nhằm củng cố biên giới phía Tây của mình. Điều này
cũng phù hợp với những thoả thuận trong Nghị định thư bí mật kí kèm với Hiệp
ước không xâm lược Xô - Đức (23/8/1939). Sau đó, ngày 28/9/1939 tại
Mátxcơva, Liên Xô và Đức đà kí kết Hiệp ước "Hữu nghị và biên giới" kèm
Nghị định thư bí mật, theo đó Lítva sẽ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô,
còn khu vực L iu b lin và một phần Vácsava thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức(l).
Hai tháng sau, tháng 11/1939 vùng Tây Ucraina được sáp nhập vào nước Cộng
hoà Xô viết Ucraina và vùng Bêlarííỉ sáp nhập vào nước Cộng hoà Xô viết
Bêlarút thuộc Liên x ỏ .
Đ ối với các nước ven biển Bantích, Liên Xò cũng thực hiện hàng loạt biện
pháp để tăng cường phòng thủ an ninh quốc gia trong bối cảnh chiến tranh đang
lan rộng ử châu Âu. Trải qua những cuộc thương lượng căng thảng, ba nước
Bantích đã lần lượt kí Hiệp ước Tương trợ với Liên x ỏ : Extônia (28/9/1939),
Látvia (5/10), Lítva (10/10). Trước những diển biến nhanh chóng của tình hình
chiến sự ờ châu Âu, tháng 6/1940, dưới áp lực quàn sự của Liên Xô, các chính
phủ ở ba nước Bantích đều phải từ chức, nhường chỗ cho các chính phù mới
thành lập. Trong tháng 7/1940 đã diễn ra các cuộc bầu cử Ọuốc hội ở các mrớc
này. Quốc hội ba nước đìí thông qua đề nghị gia nhập Liên Xô. Tháng 8/1940,
Xỏ viết Tối cao đà chấp nhận và thông qua đạo luật về việc ba nước vùng
Bantích gia nhập Liên Xô. Các chính phủ Anh, MT đà quyết định khống công
nhạn và thi hành chính sách thù địch với chính quyển mới, trons khi đó vẫn tiếp
tục duy trì quan hệ với các chính phủ cũ đà bị lật đố ở các nước này.
Nhằm mục đích phòng thủ biên giới phía tây bắc, tháng 10/1939, Liên x ỏ
đã tiến hành đàm phán với Chính phủ Phần Lan về việc kí kết Hiệp ước tương
trợ Iihưng Phần Lan không chấp nhạn để nghị của Liên Xô. Sau những diễn

(1) Cho đến nay, giới sử học Nga và thê giới còn có nhiều ý kiến khác nhau về chính sách dổi ngoại cùa
Lién Xỏ đỏi với Ba Lan và các nước vùng Bantích trong thời kì này.
biến căng thẳng trong quan hệ song phương, Liên Xổ cắt dứt quan hệ ngoại
giao với Phần Lan. Tháng 11/1939, chiến tranh x ỏ - Phần bùng nổ và tiép diển
từ tháng 11/1939 đến tháng 3/1940 với thất bại quân sự của Phán Lan Ngày
12/3/1940, Hoà ước Xô - Phần được kí kết, Phần Lan phải nhượng cho Lên Xô
eo đất Carêli, phần lãnh thổ phía tây bắc hồ Lađôga và một số đào troru vịnh
Phần Lan. Theo đó, biên giới Liên Xô được lùi xa thêm 150km về phu Phần
Lan. Đổng thời, Liên Xổ còn được quyền thuê cảng Hancô và một số đio phụ
cận trong vòng 30 năm với số tiền 8 triệu mác Phần Lan. Các cường qiốc tư
bản phương Tây đà phàn đối hành động của Liên Xô trong cuộc chiến traih Xô
- Phần. Ngày 14/12/1939, Hội Ọuốc liên thông qua nghị quyết khai trừ Lèn Xô
ra khỏi tổ chức này. Các nước Anh, Pháp đà giúp đỡ về quân sự cho chíih phủ
Phần Lan trong thời gian diễn ra cuộc chiến.
Cũng trong mùa hè năm 1940, Liên Xô giải quyết xong việc sáp nhậí vùng
Bétxarabia và Bắc Bucôvina, vốn vẫn ở trong tình trạng tranh chấp lâu dìi giữa
Nga với Rumani, vào lãnh thổ Liên Xô.
Chính sách đối ngoại của Liên Xò đối với một số quốc gia ở Đôig Âu
trong thời kì này đã tạo điều kiện tăng cường khả năng phòng thủ quốc gia ở
biên giới phía Tây, mở rộng thêm lành thổ và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Trong bối cânh quốc tế cực kì căng thẳng lúc bấy giờ, đối với Liên Xô chính
sách đó có thể xem như một giải pháp tình thế đê đối phó với nguy cơ xàn lược
của chủ nghĩa phát xít. Mặt khác, đối với các nước vùng Bantích, việc gií nhâp
Liên bang cộng hoà XHCN Xô viết cũng tạo ra cho họ một chồ dựa tronz tình
hình số phận của cả châu  u đang đặt trong "T rậ t tự m ớ i" của chủ nghTi phát
xít. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại mà Liên Xô thực hiện đối với một scnước
Đông Âu trong thời kì này cũng để lại những vấn đề phức tạp trong quin hệ
quốc tế sau này.

II. G IA I ĐO ẠN THỨ H AI (6/1941 - 11/1942): CHIÊN TRANH LA N


RỘNG TO ÀN TH Ế GIỚI V À s ự H ÌN H T H À N H Đ ồN G M IN H O ố N G
PHÁT X ÍT
1. Phát xít Đức tán công Liên Xô
Sau khi hoàn thành việc đánh chiếm châu Âu, phát xít Đức đà chuẩn lị đầy
đũ điều kiện đê tấn cỏng Liên Xô. Ngay từ tháng 8/1940, kế hoạch tấn công

lí>6
Liên Xô đà bắt đầu dược soạn thảo. Tháng 12/1940, Hítle phê chuẩn kế hoạch
tấn công Liên Xô, mang mật danh "K ế hoạch Bácbarốtxa"(l).
Rạng sáng 22/6/1941, không hề tuyên chiến và không nêu bất cứ lí do nào,
phát xít Đức bất ngờ tấn còng Liên Xô.
Với một lực lượng quân sự khổng lồ: 5,5 triệu quân, gồm 190 SƯ đoàn
(153 SƯ đoàn Đức và các SƯ đoàn của Ý, Rumani, Phấn Lan, Hunggari...)
trong đó có 17 SƯ đoàn xe tăng (hơn 4000 chiếc) và trên 5000 máy bay,
quân Đức áp dụng chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" nhằm "đánh quỵ
nước Nga" trong vòng từ một tháng rưỡi đến hai tháng.

Ba đạo quân Đức đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Thống chế Phôn Braosít
đồng loạt tấn công, phá vỡ các tuyến phòng thủ biên giới, tiến sâu vào lãnh thổ
Liên Xô làm cho quân đội Xô viết bị thiệt hại nặng.
Cuối tháng 9/1940, đạo quân phía bắc (do Thống chế Phỏn Lép cầm
đầu) bao vây Lẽningrát, đạo quân Trung tâm (do Thống chế Phôn Bốc
chỉ đạo) tiến sát Thủ đô Mátxcơva và đạo quân phía nam (do Thống chế
Phôn Runxtét chỉ huy) đã chiếm Kiép và phần lớn Ucraina.

Khi chiến tuyến ngày càng mở rộng thì quân Đức càng gặp khó khăn và bị
tổn thất hơn rất nhiều lần so với các mặt trận khác. Tháng 10/1941, quân Đức
tập trung lực lượng mờ cuộc tấn công mãnh liệt vào Mátxcơva với hi vọng
tháng lợi ở đây sẽ quyết định kết cục của chiến tranh.
Với 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng 1
triệu quân), gần 1000 máy bay, chiếm ưu thế áp đảo với Hồng quân Liên
Xô, quân đội phát xít ào ạt mở hai đợt tấn cồng đại quy mô vào Mátxcơva
trong tháng 10 và tháng 11/1941.

Tronu giờ phút nguy kịch đó, Hồng quân và nhân dân Liên Xô kiên quyết
chiến đấu đến cùng bảo vệ Mátxcơva. Sáng ngày 7/11, lễ kí niệm lần thứ 24
Cách mạng tháng Mười đã diễn ra một cuộc duyệt binh đặc biệt. Các đơn vị
Hổng quân được trang bị đầy đủ vũ khí, đạn dược diễu binh qua Hồng trường
đà tiến thẳng ra mặt trận chiến đấu chống quân thù.
Ngày 6/12/1941, Hồng quân chuyển sang phản công ở Mátxcơva và sau hai
tháng chiến đấu đã đẩy lùi quân Đức ra khỏi Thủ đô, có nơi đến 400km. Kế
hoạch đánh chiếm Mátxcơva của Hítle sụp đổ tan tành.

(1) Bácbarốtxa có nghĩa là Râu hung, biệt hiệu của Hoàng đế Phêđcrích cúa Đức ihời irung cổ.

167
Đạo quân Trung tâm của Đức bị tiêu diệt tổng cộng hơn 500 000
quân, 1300 xe tăng, 2500 đại bác và nhiều phương tiện kĩ thuật khác.

Chiến thắng Mátxcơva đã làm phá sản hoàn toàn "chiến lược chiến tranh
chớp nhoáng" của đội quân "trước đây được coi là không thể đánh bại". Đây là
thắng lợi lớn đầu tiên của Liên Xò và thất bại lớn đầu tiên của Đức kể từ khi
Thế chiến II bùng nổ. Thắng lợi này đà cổ vũ niềm tin vào chiến thắng của
nhân dân thế giới đối với chữ nghĩa phát xít và thúc đẩy sự ra đời của Mặt trận
Đồng minh chông phát xít trên toàn thế giới.
Sau thất bại ờ Mátxcơva, mùa hè năm 1942 quân Đức lại một lần nữa dốc
toàn lực lượng vào mật trận Xô - Đức, chuyển trọng tâm tấn công xuống phía
Nam, nhằm đánh chiếm vùng dầu lửa chiến lược, vựa lúa mì lớn nhất của Liên
Xô ở lưu vực sòng Vonga và Cápcadơ, để rồi sau đó sẽ tiến lên đánh chiếm
Mấtxcơva. Mục tiêu chủ yếu của cuộc tấn công là chiếm bằng được Xtalingrát
(nay là Xarítxưn).
Nhờ ưu thế hơn hẳn về lực lượng, lúc đầu là 240 SƯ đoàn, sau tăng
lên 260 SƯ đoàn, đến giữa tháng 8/1942, quân Đức đã tiến vào khu vực
thành phố xtalingrát. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra ngay trong thành
phố. xtalingrát lúc này đã trở thành vấn đề cốt tử của Liên Xô.

Với quyết tâm "không lùi một bước", "thề chết bảo vệ thành phố" các chiến
sĩ Hồng quân kiên quyết chiến đấu bằng cứ giá nào, đẩy lùi từng đợt tấn công
của địch. Mỗi ngày đêm, Hổng quân đã chống trá từ 12 đến 15 đựt tấn công của
quân Đức.
Trải qua 4 tháng chiến đấu, Xtalingrát vẫn đứng vững, đồng thời Hồng
quân còn tiêu diệt đươc một bô phận lớn sinh lưc đich và chuẩn bi điều kiện
1 • • • 1 1 • • • • 9

cho bước ngoặt phản công ở thành phố này.


Nhìn chung, ờ mặt trận Xô - Đức đến cuối năm 1942, quàn Đức đà chiếm
dược khoảng 2 triệukm2 lãnh thổ Liên Xô (bao gồm 47% diện tích đất trồng
trọt, 33% sản lượng công nghiệp, 45% dân số cả nước). Tuy nhiên, quân Đức
đà vấp phải những thất bại đáu tiên, không chiếm được Mátxcơva và kế hoạch
chiến tranh chớp nhoáng" bị phá vỡ.

2. Chiến tranh Thái Bình Dưưng bùng nổ


Troii£ lúc chiến tranh diễn ra ác liệt ở châu Âu, Nhật Bân tìm cách thực
w • • •

hiện kế hoạch xâm chiếm và bành trướng lành thổ ờ châu Á. Nhưng kế hoạch
của Nhật đã vấp phải sự phán đối của MT, quan hệ Nhạt - M7 trỡ nên cãng

:68
tháng. Tháng 9/1940, khi Nhật đổ hộ vào miền Bắc Việt Nam, MT hắt dầu viện
trự cho Trung Quốc chống Nhật, đồng thời thực hiện chính sách cấm vận dầu
lửa, sắt, thép cho phe Trục phát xít. Tháng 7/1941, chính quyển Nhật buộc Pháp
cho Nhật đóng quân ở miền Nam Đỏng Dưưng. Pháp phái chấp nhận, nhưng M7
kiên quyết phán đồi âm mưu bành trướng của Nhật ở Đông Nam Á. Tống thống
Vfi Rudơven ra lệnh phong toả tài sản của Nhật ờ M7, đồng thời yêu cầu Nhật
rút quân khỏi Đông Dương. Sau những cuộc đàm phán kéo dài không có kết
quá, mâu thuẫn M7 - Nhật đã lên đến đỉnh cao và Thủ tướng Nhật Tỏgiô quyết
đinh tiến hành chiến tranh với ỈVTĨ.
Ngày 7/12/1941, vào lúc 7 giờ 55 phút giờ địa phương, không quân và hài
quân Nhật, dưới sự chí huy của Đô đốc Yamamôtô đã mờ cuộc tấn công bất
ngờ vào Hạm đội Thái Bình Dương của MT ở Trân Châu Cảng (đảo Haoai).
Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Cuộc tập kích bất ngờ và dữ dội của
quân đội Nhật đà gây cho hạm đội M7 những tốn thất nặng nề chưa từng có
trong lịch sử hải quân MT: 18 hạm tàu và trên 3(X) máy bay bị phá huỷ, hưn
3000 binh lính và sĩ quan MT thiệt mạng. Cùng lúc đó, quân Nhật đố bộ vào
miền Bác Mã Lai (thuộc Anh). Trận Trân Châu Cảng đã khiến M7 tuyên chiến
với Nhật ngày 8/12. Ba ngày sau, ngày 11/12, Đức và Ý tuyên chiến với MT.
Như vạy, chiến tranh lan rộng trên toàn thế giới đà cuốn hút các nước lớn tham
chiến trên các mặt trận ờ châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương.
Từ cuối năm 1941 đến tháng 5/1942, Nhật Bàn phát động cuộc tấn cồng
toàn diện ớ Đỏng Nam Á và Thái Bình Dirưng, đánh chiếm các thuộc địa của
M7, Anh, Pháp, Hà Lan... ờ khu vực này.
Đạo quân phương Nam của Nguyên soái Têrauchi đật Bộ tư lệnh ờ Sài Gòn
đê chi huy chiến dịch đánh chiếm Đông Nam Á. Ngày 8/12, quân Nhật chiếm
Thái Lan, kí kết Liên minh Nhật - Thái. Thái Lan trở thành đồng minh của
Nhạt và tuyên chiến với MT - Anh ngày 24/12. Quân đội Nhật lần lượt đánh
chiếm các thuộc địa của Anh như Mã Lai (1/1942), Xingapo (2/1942) và Miến
Điện (5/1942). Hải quân Nhật đánh tan hạm đội của liên quân Hà Lan - Anh -
MT - Ô xtrâylia troní’ trận hải chiến trên biển Giava (27/2/1942) và chiếm toàn
bộ Inđônêxia (3/1942). Đồng thời với cuộc đổ bộ vào Mã Lai, Nhật cũng tiến
hành đánh chiếm quần đáo Philíppin. Cuộc chiến ác liệt diễn ra giữa quân Nhật
và quân M ĩ kéo dài đến tháng 5/1942 thì Nhạt dà chiếm dược toàn bộ Philíppin.
Đổng thời với việc đánh chiếm Đông Nam Á, quân Nhạt mơ rộng xâm lược
ờ Thái Bình Dương, chiếm các đảo Guam, Uâycơ của M7. Tháng 4/1941, Nhật
chiếm phần lớn đảo Tân Ghinẻ, trực tiếp uy hiếp Oxtrâylia. Ọuân MT đà nsân
chặn Jược quân Nhật trong trận hải chiến ở vùng biến Sanhô (Corail) tháng
5/1942. Tiếp đó, tại vùng biển quần đảo Mítuây, hái quân Nhật gặp phải một
thất bại lớn trong trận hải chiến với liên quân Mì - Anh tháng 6/1942. Tháng
7/1942, Nhật tiến công quần đảo Salômông nhưng bị quân MT chặn đánh cỊiiyết
liệt tai Guađanacan.

Hạm đội Mi bị tấn công ỏ Tràn Châu cảng

Như vậy, chỉ trong vòng nửa năm sau khi chiến tranh Thái Bình Dương
bùng nổ, quân Nhật đã chiếm được toàn bộ khu vực Đông Nam Á, nhiều dào ở
Nam Thái Bình Dương... tổng cộng vào khoảng gần 4 triệukm2 với sô dân 150
triệu người. Nếu tính cả phần lãnh thổ đã chiếm của Trung Quốc, Nhật đã làm
chủ một vùng đất rộng 7 triệukm2 với 500 triệu dân. Tuy nhiên, cũng từ mùa hè
năm 1942, quân Nhạt đã mát dần ưu thế quân sự ban đầu và không còn khả
năng phân công được nữa. Thất hại của hạm đội Nhật ư vùng San hô và quần
đảo Mítuây đã làm cho các mũi tấn công của Nhật chững lại. Mặc dù vậy, liên
quân Anh - MT cũng chưa tiến hành cuộc phản công thực sự để đánh bại quân
Nhật ơ Thái Bình Dương.

170
MÔNG CÔ

Tò-Iu-Ỏ

l-v&-gMna

\S ^ ỵ ù ỏ n Q Còng Trân Chêu cảng • 5;


Q u ín đ io H *-oềl °c>
ơ Hải Nam X _
M ề -n -ã n Uềy<o
I^Sai-oan

o .đ Mác

O uán đảo Ca rô* »In


Cỏ^m-bô M i N p A - N

; ] CHÚ GIÀI
/ / 1* ^1 04 qưổc Nh$i irvôc nam 1937
p . đ . Xa*W-fTìông Nhậl lấn còng

• Ptian VI t*nh truórg ứ i i cùa Nh|t rtfm 19<Ỉ

£ ^ t> Dổng rrlnn phàn oỏng (1*42 • 1945)


------► Dỏng rn rn Oârn t*c (1944 • 1945)

ir ì Uề« Xô tln công (B. 1945)


)jặ T i^ n đ A n t (ón

® Thânn phố w nếm borr nọuyén lù

Lược đổ chiến trường châu Á - Thái Binh Dương (1941 - 7945)

3. Sự hình ỉhành M ặt trận Đổng minh chống phát xít


Sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xò và chiến tranh Thái Bình Dương
bùng nổ, hầu hết các nước trên thế giới đà bị lỏi cuốn vào vòng chiến. Việc
thành lập một liên minh quốc tế chỏng phát xít dã trờ thành đòi hỏi bức thiết
của các lực lượng dân chủ và yêu chuồng hoà bình trên thế giới. Cuộc chiến
tranh vệ quốc cứa nhân dân Liên x ỏ đã làm thay đổi cục diện chính trị và quân
sự của chiến tranh. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa không chỉ nhằm bão vệ
Liên Xỏ mà còn nhầm chống lại cuộc chiến tranh tàn khốc của chủ nghĩa phát
xít ở châu Âu. Điều đó đã thúc đẩy nhân dân MT, Anh đấu tranh dòi các chính
phủ của họ phải thay đổi thái độ và liên minh với Liên Xô trong cuộc chiến
tranh chống phát xít.
Ngày 12 /7 /19 4 1, Hiệp ước Xô - Anh về hành động chung trong cuộc chiến
tranh chống Đức đã được kí kết tại Mátxcơva. Hiệp ước quy định hia bên sẽ
giúp đỡ, chi viện cho nhau trong chiến tranh chống Đức và cam kết không kí
hiệp ước đình chiến riêng rẽ nếu không có sự đồng ý của bên kia. Đồng thời
Liên Xô cũng kí kết hiệp định cùng hành động chung với các chính phủ lưu

171
vong của Ba Lan, Tiệp Khác ờ Luân Đôn. Tháng 8/1941, Liên Xô và Anh ã kí
kết Hiệp ưức trao đổi thương mại tín dụng, thanh toán hai chiểu. Nước Anlcam
kết cho Liên Xô vay 10 triệu bảng Anh.
Từ ngày 9 đến 14/8/1941, Tổng thống MT Rudơven và Thủ tướng Anh
Sớcsin gặp nhau trên một chiến hạm MT đậu ở vịnh Phần Lan, thuộc khi vực
Bắc Đại Tây Dương, đà thông qua Tuyên bò chung, thường dược gọi là liến
chươtig Đ ụi Tủy Dương.
Ph. Rudơven (Franklin Delano Roosevelt, 1882 - 1945): nhàrioạt
động chính trị Hoa Kì, đẳng viên Đảng Dân chủ, Thống đốc bang NiiOóc
(1929 - 1933), trúng cử Tổng thống năm 1933 rồi liên tiếp tái cử và các
năm 1936, 1940, 1944, thi hành chính sách Kinh tế mới (New De;) và
tham gia Thế chiến II, ông trở thành một trong những nhân vật chichốt
trong lực lượng Đồng minh chống phát xit.

u. Sớcsin (Winston Leonard Spencer Churchill, 1874 - 1965) nhà


hoạt động chính trị Anh, hạ nghị sĩ thuộc Đảng Bảo thủ, Thủ tướng hình
phủ Anh 1940 - 1945 và 1951 - 1955. Ông là nhà lãnh đạo nướíAnh
trong cuộc chiến tranh chống phát xít, một trong những nhân vật chichốt
của Đồng minh chống phát xít.

Hiến chương Đại Tây Dương gồm 8 điều, nêu rõ cam kết của hai nưc về
việc không có ý đồ bành trướng lành thổ, tôn trọng độc lập và quyền tự ayết
của các dân tộc, mong muôn hoà bình và hợp tác quốc tế... Mặc dù có mt sô
điều khoản trong Hiến chương còn thể hiện mâu thuẫn vể quyền lợi giữa M và
Anh, và trên thực tế cả hai chính phủ đểu khòng thực hiện đúng những diu họ
cam kết, nhưng Hiến chương Đại Tây Dương đã thúc đẩy sự hình thànhliên
minh chống phát xít trên toàn thế giới.
Ngày 24/9/19 4 1, Liên Xô tuyên bô tham gia trên cơ sở những nguyê tắc
cơ bản của Hiến chương này, nhưng nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đản và
quyền tự quyết của các dân tộc, xác định rõ mục đích và hành động tậịthể
trong cuộc chiến tranh chống xâm lược.
Việc kí kết Hiệp ước x ỏ - Anh vé hành dộng chung trong cuộc chiến nnh
chống Đức ( 12/7/1941), sự ra đời của bản Tuyên bố chung giữa MT và Ah -
Hiến chương Đại Tây Dương (14/8/1941) và việc Liên Xô tham gia liến
chương này (24/9/1941) đã tạo ra những điểu kiện cần thiết để thành lậpnột
Mặt trận Đồng minh chống phát xít. Tháng 10/1941, Nghị định thư Xô - /ih -
MT đã được kí kết tại Mátxcơva, theo đó MT và Anh sẽ viện trơ vũ khí cho,iên
• • w % %

172
Xô. Liên Xô cam kết sẽ dổi lại bằng nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp
quân sự. Cuối năm 1941, việc thành một Mặt trận Đồng minh chỏng phát xít
ngày càng trở nên cáp thiết và những điều kiện để thành lập mặt trận đã đầy đủ.
Sự xích lại gần nhau giữa ba cường quốc x ỏ - Anh - M7 đã tạo nền tảng quan
trọng cho sự hình thành Mặt trận này.
Ngày 1/1/1942 tại Oasinhtơn, đại diện cho 26 nước, đứng đầu là Liên Xô,
Mì, Anh đã kí vào ban Tuyên bô Liên lìỢỊ) quốc "cam kết dốc toàn bộ sức mạnh
quân sự và kinh tẽ của đất nước vào cuộc chiến tranh chống phát xít và tay sai
của chúng", đồng thời hợp tác chặt chẽ với nhau, không kí kết hiệp định đình
chiến hay hoà ước riêng rẽ với các nước thù địch. Tuyên bô Liên họ]) quốc đánh
ílâu sự hình thành M ặt trận Đồng minh (hỏ/iẹ phút xít trên pliạm vi toàn thê
ỹứ i. Mặc dù mục đích cua các bên tham gia có nhiều điểm khác nhau, nhưng
sự hình thành lần đầu tiên trong lịch sử thế giới một mặt trận bao gồm các quốc
gia có chế độ xã hội khác nhau cùng phối hợp chiến đấu chống kẻ thù chung là
một nhân tố quan trọng đảm báo thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít
và tạo cơ sở cho việc hình thành tổ chức Liên hợp quốc sau này.

4. Phong trào kháng chiến của nhân dàn các nước bị phát xít chiếm dỏng
Cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức, Ý và Nhật Bán đà đẩy nhân
dàn các nước bị chiếm đóng vào một thời kì đen tôi. Phát xít Đức thiết lập chê
độ thống trị bàng bạo lực, khủng bỏ và xây dựng cái gọi là "Trật tự mới" ờ châu
Âu. Chính quyén phát xít ra sức vơ vét nhân lực, cùa cải của châu Âu đế phục
vụ cho bộ máy chiến tranh khống lồ của chúng.
Hơn 7 triệu người dân các nước châu Âu đã bị đưa sang Đức làm lao
động khổ sai. Những đoàn tàu đêm ngày chuyên chở nguyên vật liệu, của
cải của châu Âu về Đức để phục vụ chiến tranh, sản lượng công nghiệp
quân sự của Đức năm 1944 tăng gấp 5 lần so với năm 1939.

Chính quyền n ft le còn thi hành chính sách phân biệt chủng tộc cực kì dã
man, tàn bạo đối với người Do Thái, người Nga, người Ba Lan...
Tính đến năm 1945, hơn 5 triệu người Do Thái (chiếm 70% sô người
Do Thái ở châu Âu và 40% số người Do Thái trên toàn thế giới) đã bị tàn
sát. Các trại tập trung, lò thiêu người, giá treo cổ... là hình ảnh tiêu biểu
cho "Trật tự mới" của phát xít Đức ở châu Âu. Trong số hơn 7 triệu người
bị giam giữ trong các trai tập truno,
• w w W ^ 9
6 triệu người đã bị giết hai hoăc bi
• \* J • W • • %

chết vì suy kiệt.

173
Ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa phát xít đã làm bùng 110 phong tno
kháng chiến chông phát xít của nhân dân các nước bị chiếm đóng.
Ở chân Ân, những đội du kích đầu tiên được thành lạp ờ Ba Lan từ nem
1939. Tháng 1/1942, Đảng Cộng sản Ba Lan đà tổ chức lực lượng ’’Quân đội 'ũ
trang nhân dân". Lực lượng trung thành với chính phủ lưu vong cũng lập ra
"Quân đội trong nước" đê tổ chức các hoạt động chống phát xít Đức.
Tại Pháp, Đàng Cộng sản và các lực lượng yêu nước đã giương cao ngọn :ờ
kháng chiến, íổ chức các hoạt động du kích chống Đức. Tướng Đừ Gòn (De
Gaulle) sang Luân Đôn tố chức lực lượng vũ trang hải ngoại đấu tranh chốig
phát xít. Tháng 3/1941, các lực lượng "Nước Pháp tự do" tiến hành các hcạt
động ở chống phát xít đà thống nhất lực lượng, phát triển đội ngũ để phối horp
với quân Đồng minh.
Ở các nước châu Âu khác như Nam Tư, Hi Lạp, Anbani, Italia... phoag
trào chống phát xít phát triển mạnh mẽ, các Đáng Cộng sản đà tổ chức líc
lượng vũ trang phối hợp với các tố chức yêu nước khác, tiến hành các hcạt
động du kích, kiên cường chiến đấu trong lòng địch. Đặc biệt là tại các vùng
bị chiếm đóng ở Liên Xồ, chiến tranh du kích diễn ra trons suốt những năm
chiến tranh, góp phẩn quan trọng vào thắng lợi của Hồng quân Liên x ỏ í ren
các mặt trận.
Ớ châu Á, Nhật Bán tuyên bố giúp đỡ "những người anh em da vàng" đáih
đổ ách thống trị của "thực dân da trắng" để xây dựng "Khu vực thịnh vượng
chung Đại Đông Á ". Nhưng trên thực tế, quân Nhật đã thiết lập ách thống rị
tàn bạo, vơ vét lúa gạo đến mức cao nhất dể nuôi sống guồng máy chiến tranh
với đội quân khổng lồ hàng triệu người. Các công ti Nhật có mặt ở khắp rrọi
nơi đê khai thác tài nguyên, vơ vét bóc lột thậm tệ các nước bị chiếm đóng. Niiì
đói diễn ra ở nhiều nước Đòng Á trong thời gian chiến tranh (riêng ờ Việt Nan
đã có hơn 2 triệu người chết đói năm 1945). Đồng thời, Nhật còn lập ra cíc
chính phủ bù nhìn bản xứ để phục vụ chính sách thống trị của mình như Chhh
phủ Uông Tinh Vệ ở Trung Quốc (1940), Chính phủ Trần Trọng Kim ơ V ệt
Nam (1945), Chính phủ tự trị ở Miến Điện và Philíppin (1943)...
Ở khu vực Đòng Á, cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc là một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chống phát xít của nhin
dân thê giới. Đáng Cộng sản do Mao Trạch Đỏng lãnh đạo và Đảng Ọuốc chII
do Tưởng Giới Thạch đứng đầu đã tiến hành hợp tác để động viên và tổ chíc
toàn dân tham gia kháng chiến. Nhân dân Trung Ọuốc đã bển bí, kiên cường

174
chiến đàu chông trá những mũi tiến công của quân phiệt Nhật, góp phần tiêu
hao sinh lực địch, kiềm chế trên 1 triệu quân Nhật trên đất Trung Ọuốc.
Tại Đỏng Nam Á, các đảng cộng sản đã lãnh dạo phong trào kháng Nhạt,
tập hợp các lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất như Mặt trận
Việt M inh, Liên hiệp Nhân dân Mã Lai chông phát xít, Đồng minh dân chủ
Philíppin, Liên minh Nhân dân Tự do chống phát xít ở Miến Điện... Cuộc đấu
tranh giai phóng dân tộc ở Đòng Nam Á gắn liền với cuộc đấu tranh chống phát
xít của nhân dàn thế giới.
Tại Ấn Độ, phong trào đấu tranh giành độc lập sớm bùng phát dưới sự lành
đạo của Đáng Quốc đại, đứng đầu là các lãnh tụ M. Ganđi, G. Nêru... Mặc dù
dứng về phía Đồng minh chống phát xít, Đảng Quốc Đại cũng đòi nhà cầm
quyền Anh trao trả quyền tự trị để thành lạp một Chính phủ Quốc gia An Độ.
Những cuộc đấu tranh trên tạo nên tiền đề cho phong trào quần chúng
mạnh mẽ đê sau khi Thế chiến kết thúc, thực dân Anh phái lần lưựt trao trả độc
lập cho Ân Độ (1947), Miến Điện (1948)...

III. G IA I Đ O Ạ N TH Ứ BA (11/1942 - 12/1943): BUỚC NG O ẶT CỦA


C H IẾ N T R A N H , Q U Â N Đ ồ N G M IN H C H U Y Ế N s a n g p h ả n c ồ n g
1. Chiến tháng Xtalingrát và bước ngoặt của chiến tranh
Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, Hồng quân Liên Xô
quyết định chuyển sang phán công, thực hiện, chiến dịch "Sao Thiên Vương",
tiêu diệt quân chủ lực của phát xít Đức ở Xtalingrát. Ngày 19/11/1942, phương
diện quân Tây Nam và phương diện quân Sông Đỏng mở cuộc tấn công như vũ
bão tại phía Bác Xtalingrát, tiến về phía Đỏng Nam. Hổng quân nhanh chóng
phá vỡ phòng tuyến của quân địch, tạo thế tân công gọng kìm. Các phương điện
quân ở phía Nam và phía Bắc cũng đồng loạt tấn công. Hồng quân nhanh chóng
khcp kín vòng vây 33 vạn quân tinh nhuệ của Đức ở Xtalingrát.

Cuộc chiến đấu ác liệt diẻn ra suốt từ ngày 23/11 đến cuối tháng
12/1942. Đạo quân tiếp viện của Thống chế Manxtẽn do Hítle cử đến bị
đánh bật ra khỏi xtalingrát và chịu tổn thất nặng nề. Từ ngày 1/1/1943,
Hồng quân mở đợt tấn cồng mới, tiêu diệt lực lượng quân Đức trong vòng
vảy: 2/3 đạo quân tinh nhuệ bị tiêu diệt, 1/3 bi bắt sống, trong đó có TƯ
lệnh Paolút và 24 viên tướng.
Chiên dịch phân công kéo dài gần 3 tháng (1 1/1942 đến 2/1943) đà đi vào
lịch sư như một trạn đánh lớn và tiêu biểu về nghệ thuật quân sự cũng như ý
nghĩa chiến lược của nó trong Thế chiến II. Chiến thắng Xtaỉingrát đã tạo ncn
bước ngoặt xoay chuyển tình thế của cục diện chiến tranh thế giứi: phe Đồng
minh chuyển sang phản công, phe phát xít khòng thể phục hồi lực lượng, phải
chuyển từ tấn công sang phòng ngự.

XTA-UN-GRẢT

17-7

Quàn Đức tấn công 0ạ o Liên Xô (với


q U â n

Mật trận ngày 20-11-1942 tướng chỉ huy) phản công

vj ^ u r 0ạOquân Đức >_r T_ t_T Mặt trận ngày 30-11-1942

với tướng chỉ huy Thành phố

Trân phản công Xtalingrát

Sau thất hại ử Xtalingrát, nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường Xô
- Đức, quân Đức mở rộng cuộc tấn công đại quy mô vào mùa hò năm 1943.
Trận đánh bắt đầu với cuộc tấn công của 50 SƯ đoàn Đức (trong đó
có 16 SƯ đoàn xe tăng và cơ giới) vào khu vực "vòng cung Cuỏcxcơ", với
ý đồ tiêu diệt phương diện quân chủ lực của Hổng quân ở đây. Hồng
quân đã nhanh chóng bẻ gãy cuộc tấn cồng của địch, chuyển sang phản
công, đánh tan 30 SƯ đoàn (trong đó có 7 SƯ đoàn xe tăng), loại khỏi
vòng chiến 50 vạn quân Đức.

176
Chiến thắng Cuôcxcơ đã đập tan ý đồ giành lại thế chủ động của quân Đức.
Từ đây, Hồng quân Liên Xò liên tục tấn công trên một mặt trận rộng lớn từ
Lêningrát đến biến Adốp, giải phóng 1/2 lành thổ bị chiếm đóng, trong đó có
các thành phố lớn như Kháccôp, Bengôrốt, Vôrôxilốpgrát, Kiép...

2. Quàn Đỏng minh phãn công trên các mặt trận ở Bác Phi, Ý và Thái
Bình Dương
Ớ Bác Phi, ngày 23/10/1942 quân Anh bắt đầu tấn công liên quân Đức - Ý
ở En Alamcn, tiêu diệt và bát sống 55 000 quân địch. Thắng lợi này tạo ra khả
nâng phản công cho quân Anh trên chiến trường Bác Phi. Lợi ciụng lúc quân
Đức đan« bị sa lầy ở Xtalingrát và bị thua ở En Alamen, quân M7 đổ bộ lên Bắc
Phi ngày 8/11/1942. Ọuân Anh từ phía đông phối hợp với quân MT từ phía tây
dồn đuổi địch chạy về Tưynidi. Trong tình thế tuyệt vọng, ngày 12/5/1943, toàn
hộ liên quân Đức - Ý phải đầu hàng. Chiến sự ở Bắc Phi chấm dứt với thắng lợi
của quân Đồng minh.
Sau đó, ngày 10/7/1943, quân Đồng minh từ Bắc Phi tấn công vào Ý, mở
dầu bang cuộc đổ bộ đánh chiếm dào X ixilia . Tinh thần chiến đấu của quân đội
Ý rất bạc nhược, chi còn một bộ phận quân Đức rút chạy về phía Nam Ý.
X ix ilia hoàn toàn thất thủ. Chính quyển phát xít tan rà, M íitxô lin i bị tống giam.
Thống chế Bađôgơliò lập chính phú mới, kí hiệp ước đầu hàng Đồng minh ngày
8/9/1943 và tuyên chiến với Đức. Quân đội Đồng minh tiến vào khu vực phía
Nam Italia. Lợi dụng sự tiến quân chậm chạp của quán Đồng minh, Hít le cho
quân chiếm đóng miền Bắc Ý, giải thoát cho M íítxôlini. Được quân Đức hỗ trợ,
M íítx ồ lin i thành lập Chính phủ phát xít ở miền Bác. Như vậy, nước Ý bị chia
làm hai miền: miền Bắc do quân đội Đức chiếm đóng với chính phủ M útxôlini,
miền Nam thuộc chính phủ Bađôgưỉiô do Anh - M7 hão trợ. Quân Đức còn tiếp
tục cán ì cự ớ Ý cho tới khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu, tháng 5/1945.
Ở Thái Bình Dương, từ tháng 8/1942 quân MT bắt đầu phàn cỏng quân Nhật
ở đảo Guađanacan và giành dược thắng lợi vào tháng 1/1943. Sau chiến thắng ở
Guađanacan, quân đội MT đã giành được quyền chủ động, chuyển sang phán
công trên toàn chiến trường Thái Bình Dương.
3. Hội nghị I hưựng đính Têhẻran (11/1943)
Năm 1943, trước những diễn biến chiến lược mang tính bước ngoặt trên các
mặt trận, các vị nguyên thủ ba nước Liên Xô, MT, Anh đà quyết định tổ chức
một cuộc hội nghị để đẩy nhanh quá trình kết thúc chiến tranh và giải quyết các

177
vấn đé sau chiến tranh. Từ ngày 19/10 đến 3/1 1/1943 đà tiến hành Hội ishị
N<zoai trướng ha nước Liên x ỏ - M ĩ - Anh tai Míítcơva. Các imoai trưởng đí đi
dến những ìhoả thuận quan trọng vể quân sự, chính trị và việc phôi hợp hình
động chung trong và sau khi chiến tranh kết thúc.
Trước khi đến Téhéran, ngày 20/11/1943 Tổng thống Mĩ và rhủ
tướng Anh đã gặp Tổng thống Trung Hoa Dân quốc Tưởng Giới Thạci tại
Cairô (Ai Cập) để bàn kế hoạch tiêu diệt phát xit Nhặt tại châu Á - 'hái
Bình Dương. Hội nghị ra Tuyên bố Cairô quyết tâm không từ một nclực
nào để buộc phát xít Nhật phải đấu hàng không điều kiện; giải pbng
toàn bộ lãnh thổ, hải đảo bị Nhật chiếm đóng từ Thế chiến I; trả lại Tung
Quốc vùng Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ...; thủ tiêu ách thống trị :ủa
Nhật tại Triều Tiên, sau một thời gian theo chế độ uỷ trị sẽ trao trả ìộc
lập, tự do cho nhân dản Triều Tiên.

Từ ngày 28 /11 đến 1/12/1943, Hội nghị Thượng đính x ỏ - MT - Anh đrợc
lổ chức tại Téhéran (Iran), với sự tham gia của các nguycn thủ Xtalin, Rudcven
và Sớcsin. Hội nghị đã thảo luận nhiều vấn dể quan trọng về việc phối hợp hmh
động chống Đức cho đến thắng lợi cuối cùng, về tương lai nước Đức sau cliến
tranh, đặc biệt là vấn đề mở Mặt trận thứ hai ử Tây Âu - vấn để quan trọng ihất
của Hòi nghi.

Ba nhà lành đạo Xô, Mỉ, Anh tại Hội nghị Téhéran

178
Ngay từ tháng 7/1941 Liên x ỏ đà đưa ra đé nghị vé việc mờ Mặt trận thứ
hai ơ Tây Âu đế có thê đánh bại kẻ thù nguy hiếm nhất là phát xít Đức. Tuy
nhiên, MT và Anh tìm mọi cách để trì hoàn viêc thưc hiện nghía vu ílồn<ỉ minh
• • • • W • C -

cua mình trong vân đề mò Mặt trận thứ hai Ư Tây Au, đổng thời không thực
hiên đún<z những cam kết vé chi viên cho Liên x ỏ . Thái đò trì hoãn có tính toán
cùa Anh, MT hì âm mưu làm Liên x ỏ suy yếu, kiệt quệ trong chiến tranh và ý
đồ khônç
Km* muốn có một
• CL1Ô
• C chiến thưc
• sư
• với quân
Ễ chủ lưc
• Đức CÒI1 đaii£
W suim

sức ơ châu A li. Dư luận tiến bô trên thế giới, đãc biệt là ở Lièn Xô và M7 đã lên
án gay gảt chính sách hai mặt này. Sau nhiẻu lần trì hoàn, Tlui tướnc Anh
Sócsin đưa ra kế hoạch mở Măt tràn thứ hai bằii£ việc đổ bỏ quân ờ khu vưc
• • • O • • I •

lòng chào Địa Trung Hải, nhưng cả Liên Xò và MT đều không tán đồng.
Cuối cùng, Hội nghi Téhéran đã đat đươc thoà thuân vé việc Anh - MT sè
W • W • • • • •

mở M ặt trận thứ hai bằng cuộc đố bộ lên đất Pháp trong tháng 5/1944. Những
người đứng đầu ba nước Xò - MT - Anh cũng thoả thuận vé sự hợp tác sau chiến
tranh giữa các nước Đồng minh vì một ncn hoà bình lâu dài, khẳng định quyết
tâm thành lập tổ chức Liên hiệp quốc để gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế.
Hộn nghị quyết định thành lập Hội đồng tư vấn châu Au đế giái quyết vấn đé
Đức sau chiến tranh, thông qua tuyên bô xác nhận chủ quyển, toàn vẹn lãnh thổ
của Iran, xác nhặn biên giới phía đòng và phía tây của Ba Lan... Hội nghị công
bò Tuyên Iiạôn Têliêmn, khảng định quyết tâm hợp tác, đẩy nhanh tiến trình kết
tỉuíc thắng lợi cuộc chiên tranh chông phát xít.
H ội nghị Téhéran đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc củng cố, phát
trien Mặt trận Đồng minh chống phát xít. Đày là lần đầu tiên những người đứng
đầu ba nước trụ cột trong Mặt trận Đổng minh chống phát xít trực tiếp gặp gờ
và d i đến những thoà thuận vé tiến trình kết thúc chiến tranh. Những quyết định
của H ội nghị có ý nghĩa quốc tế to lớn, thúc đẩy sự liựp tác giữa ba cường quốc
trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Am mưu của các nước phát xít kí kết hoà
ước riêng rõ với các nước Mĩ, Anh để tránh phải đầu hàng đã thất hại hoàn toàn.

IV . G IA I Đ O Ạ N TH Ứ TƯ (12/1943 - 8/1945): Q U ÂN Đ ồ N G M IN H
T Ổ N G PHẢN CÔNG TIÊU D IỆT PHÁT X ÍT ĐỨC V À Q UÂN PHIỆT
N IỈẢ T . C H IẾN T R A N H T H Ế GIỚI T H Ứ H A I K ET t h ú c
1. Liên Xô tổng phãn công giãi phóng hoàn toàn đát nước và giãi
p h ó n g Đông Au
Từ ngày 2 4 /i 2/1943, Liên Xô bát đầu cuộc tổng tân công đồng loạt trên
các mặt trận từ Lêningrát đến Cnrni.

179
Ớ mặt trận phía bắc, tháng ỉ/1944, Hồng quân mở cuộc tấn công giái
phóng Lêningrát, thành phố anh hùng đã ngoan cường chiến đấu suốt 900 ngày
đêm với quân Đức trong những điều kiện vỏ cùng gian khổ, khắc nghiệt. Sau
chiến thắng Lêningrát, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Bantích,
đuổi quân Phần Lan ra khỏi biên giới x ỏ - Phần.
Ở mặt trận Ucraina, Hồng quân mở 10 đợt tấn công tiêu diệt quân Đức
trong năm 1944. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt vì phán 1ỨI1 lực lượng
quân Đức tập trung ở đây. Sau khi đánh tan 66 sư đoàn Đức, Hồng quân giải
phóng hoàn toàn Ucraina.
Từ tháng 3 đến tháng 5/1944, quân đội Xô viết giải phóng Ôđétxa và Crưm.
Chiến dịch giải phóng Bêlarút bắt đầu tháng 6/1944 đã đánh tan đạo quân
Trung tâm mạnh nhất của Đức, tiêu diệt 77 sư đoàn địch. Quân đội Liên Xô
tiến vào giải phóng ba nước vùng Ban tích (tháng 9, 10/1944), hoàn thành việc
giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên Xô.
Sau khi quét sạch quân Đức ra khỏi Liên Xô, Hồng quân tiến vào giải
phóng các nước ở Trung và Đông Âu. Hồng quân tiến vào Ba Lan (7/1944),
giải phóng Rumani (8/1944), Bungari (9/1944), Xlôvakia (9/1944), phối hợp
với quân của Titô giải phóng Nam Tư (10/1944), giải phóng phần lớn Hunggari
và giao tranh quyết liệt với địch ở thủ đô Buđapét.
Titô (Tito Josip Broz, 1892 - 1980): Nguyên soái, nhà hoạt động
chính trị Nam Tư. Từ năm 1936, ông là tổng bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Nam Tư, người tổ chức và chỉ huy cuộc
chiến tranh nhân dân chống phát xít Đức. Sau khi giải phóng đất nước,
ông trở thành Thủ tướng (1945), sau là Tổng thống nước Cộng hoà Liên
bang Nam Tư (1953).

Cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô đà tiêu diệt 138 sư đoàn địch,
gồm khoảng 1,6 triệu quân, 6700 xe tăng, 28 000 đại bác và súng cối, 12 000
máy bay, giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Liên Xô và các nước Trung, Đông Âu.
Hồng quân tiến quân như vũ bão đến biên giới nước Đức.

2. M ĩ - Anh mở M ật trận thứ hai ở Tây Âu


• • *

Sau Hội nghị Têhêran, MT - Anh quyết định cử tướng M7 Aixenhao làm
Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh ở châu Âu của Đổng minh đê thực thi kế
hoach mở Mặt trận thứ hai. Sau một thời gian chuấn bi và nhiều lần trì hoàn,
• • • • c •

cuối cùng Mạt trận thứ hai được mở bằng cuộc đổ hộ tại Noócmãngđi (Bác

180
Pháp) ngày 6/6/1944. Cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thê giới với
trên hai triệu quân diẻn ra thành công và hoàn toàn bất ngờ khiến quân Đức
khòng kịp trớ tay.
Hơn 4000 hạm tàu, 13 000 máy bay yểm trợ cho quân Đồng minh đổ
bộ tại khu vực dài 80km, rộng từ 13 đến 19km. Cuộc đổ bộ của quản
Đổng minh đã làm cho quân Đức hết sức bất ngờ. Trên thực tế, quân Đức
đã xây dựng một phòng tuyến kiên cố chạy dài từ miền Bắc nước Pháp
đến vùng duyên hải Tây Ban Nha, được gọi là chiến luỹ Đại Tây Dương,
để đối phó với cuộc đổ bộ của Đổng minh mà Hítle đã dự đoán sai lấm về
địa điểm là Cale. Nhưng tướng Aixenhao đã chọn Noócmăngđi chứ không
phải Cale mặc dù tại Noócmăngđi điều kiện đổ bộ khó khăn hơn. Chính
phán đoán sai lấm của Hítle đã góp phần làm cho cuộc đổ bộ của quân
Đồng minh thành công.

Sự chuẩn bị đầy đủ và ưu thế tuyệt đối về quân sự, việc lựa chọn địa điểm
đổ bộ chính xác của quân Đồng minh cùng với sự phối hợp tấn công quân Đức
của Hồng quân Liên Xô ở mặt trận phía đông, đã dẫn tới thắng lợi của chiến
dịch Noócmăngđi. Từ Noócmăngđi, quân Đồng minh chia làm hai mũi, mũi
phía bắc đánh vào nước Đức, mũi phía tây - nam đánh vào nước Pháp. Với việc
mở Mặt trận thứ hai, lần đầu tiên kể từ ngày bắt đầu chiến tranh, nước Đức phát
xít bị làm vào tình thế phải đối phó cùng một lúc với hai mặt trận đông - tây
(phía đông chống Liên Xô, phía tây chống Anh - MT).
Quân đổ bộ tiến vào giải phóng nước Pháp. Phong trào khởi nghĩa vũ trang
do Đáng Cộng sản Pháp lãnh đạo lan rộng khắp trong nước. Quần chúng nhân
dân đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn trước khi quân Đồng minh đến. Ngày
19/8/1944, khởi nghĩa vũ trang bùng nố ở Pari, nhân dân làm chủ thành phố.
Ngày 25/8, quân đội Đồng minh tiến vào Pari. Chính phú lâm thời của nước
Pháp do Đờ Gòn đứng đầu, được thành lập.
s. Đờ Gốn (Charles de Gaulle, 1890 - 1970) - nhà quân sự, nhà hoạt
động quân sự và chính trị Pháp, tốt nghiệp trường quân sự Xanh Xia,
tham gia Thế chiến I, viết nhiều tác phẩm nghiên cứu lịch sử chính trị và
chiến lược quân sự. Tháng 6/1940, ông làm thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Sau khi phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp, ông bỏ sang Luân Đôn, ra
"Lời kêu gọi ngày 18/6" động viên nhân dân Pháp cùng với nước Anh tiếp
tục cuộc chiến tranh chống Đức. Tháng 10/1940, õng thành lập Uỷ ban
bảo vệ Đế quốc Pháp, phối hợp với phong trào kháng chiến trong nước

181
(do Đảng Công sản lãnh đao); ngày 3/6/1943 thành láp ở Angièri uỷ ban
giải phóng dán tộc Pháp, đóng vai trò như một chính phú lâm thời của
Nước Pháp tự do. Sau cuộc đổ bộ Noócmăngđi của liên quân Anh - Mĩ,
tướng Lơclec dẫn quàn tiên vào giải phóng Thủ đỏ Pari. Tướng Đờ Gôn
củng cố chính quyền Trung ương, trở thành Thủ tướng Chính phủ làm thời
(11/1945 - 1/1946). Tháng 1/1958, Đờ Gòn được bẩu làm tổng thống nền
Cộng hoà thứ năm của nước Pháp, từ chức năm 1969 sau thát bại trong
một cuộc trưng cấu dân ỷ.

Sau khi nước Pháp dược giải phóng, quân Đồng minh tiếp tục giâi phóng
các niróc Tây Âu khác như Bi, Hà Lan, Lúcxembua, Ý và chuán bị tân công
nước Đức phát xít. Quân đội iVTĩ - Anh gặp Hóng quân Liên x ỏ tại Toócgâu
trên b í sông Enbư ngày 26/4/1945.

3. Hôi nghị Thượng đĩnh Ianta (2/1945) và sự kết thúc chiến tranh
ở chài Âu
Đìu năm 1945, Hồng
quân Liên x ỏ và quân
Đồng minh từ hai hướng
Đỏim. Tây cùng tiến về
nước Đức. Trong hối cành
sự tlìcí hại của chù nghĩa
phát xít đang đến gần, Hội
nghị thượng đính Ianta
(Yalta - Liên x ỏ ) được tổ
chức v/ới SƯ tham dư CÍK1
• •

những người đứng đầu ha


nước Liên Xồ, Anh, M ì là
Xtalin, Sức si II và
Rudơven, từ ngày 4 đến T- - LIA- «. - I
Tai Hội ngh lanta
.

12/2/1945. Hội nghị đà


đat đuợc những thoả thuận
• • W •

quan rong vé vấn đề phối hợp hành động đê chổng khối Trục phát xít tron 2
giai cbạn kết thúc chiến tranh, vé việc tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít
Đức V I xây dựng những bảo đảm thật sự đế nước Đức không còn khá nâng gây
chiến [ranh một lần nữa. Hội nghị quyết định sau khi nước Đức đầu hàng, Liên
Xô sẽ chiếm đóng vùng Đòng Đức, Anh chiếm đóng vùng Tây Bắc, M7 chiếm

182
đ ó n g vùng Tây Nam, Pháp cũng dược chiếm đóng một phần ở khu vực Tây
Đức.. Thủ đò Béclin sẽ do 4 nước Liên Xò - MT - Anh - Pháp chia thành các khu
vực ichicm đóng. Một uý ban quán chế của các nước Đồng minh được thành lập,
đám nhiệm chức năng của chính quyền tối cao ở Đức. Hội nghị cũng quyết
dịnhi việc giải giáp vũ trang nước Đức, tiêu huỷ toàn bộ trang bị quân sự cũng
như nền công nghiệp chiến tranh của Đức, giải tán Đáng phát xít N A Z I, trừng
trị t(ội phạm chiến tranh... vé vân đề bổi thường chiến tranh, Hội nghị thoả
thuậm về việc thành lập Uý ban bồi thường với sự tham gia cứa đại biểu ba nước
Liêm Xô, M ĩ, Anh đê giải quyết những nội dung cụ thê xung quanh vấn đề này.
Vc các vân đề có liên quan đến châu Âu, Hội nghị thòng qua "Tuyên ngôn
giải phóng châu  u", nêu rõ những chính sách và hành động chung nhăm giải
quyêèt những ván đề chính trị, kinh tê của châu Âu sau chiến tranh phù hợp với
nhữmg nguyên tác dân chú. Riêng đối với vấn để Ba Lan, Hội nghị đã dạt được
sự thioả thuận về nguyên tắc việc tố chức một chính phù mở rộng ờ Ba Lan và
đườrng biên giới của nước này. Các nước lớn tham gia hội nghị đà thoả thuận
với mhau việc phân chia phạm vi ảnh hường ở châu Âu. Theo đó, châu Âu dược
chia thành hai phần ờ phía đông và phía tây. Các nước Trung và Đỏng Âu ĩhuộc
phạrm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước Tây và Nam Âu thuộc phạm vi ánh
hưởmg của MT, Anh và Pháp.
Về vấn đề Viển Đông, các nước đã bí mật thoả thuận việc Liên Xò sẽ tham
gia (CUỘC chiến tranh Thái Bình Dương từ hai đến ba tháng sau khi Đức đáu
hàng và chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Hội nghị chấp nhận những điều kiện để
đáp lứng việc Liên x ỏ tham gia chiến tranh chống Nhật như:
Bảo vệ nguyên trạng và công nhận nền độc lập ở Mông cổ , trả lại
cho Liên Xô một số quyền lợi bị mất sau chiến tranh Nga - Nhật (1904 -
1905) như: trả lại miền Nam đảo Xakhalin và các đảo phụ cặn, cùng với 4
đảo thuộc quấn đảo Curin, quốc tế hoá cảng Đại Liên (Trung Quốc), cho
Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận, Liên Xô được cùng khai thác các tuyến
đường sắt Hoa Đông và Nam Mãn Châu - Đại Liên, trả lại cho Liên Xô
tuyến đường sắt Xibia - Trường Xuân...
IBa cường quốc cũng thoả thuận về việc quân đội MT chiếm dóng Nhật Bán.
Triềm Tiên sẽ trở thành một quốc gia độc lập và thống nhất sau khi giải phóng
nhưmg Liên Xô sẽ vào giải giáp quân Nhật ờ Bắc vĩ tuyến 38, còn MT ở phía
Nairn, v ề vấn đề Trung Ọuốc, Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản sẽ tiến hành
hiệp) thương để thành lập Chính phủ liên hiệp thống nhất. Liên Xồ, MT và các

183
nước khác đều có quyền lợi ờ Trung Quốc. Các khu vực còn lại của châu Ả
(Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á...) vẫn thuộc phạm vi ảnh hường của các nước đế
quốc phương Tây nhơ trước.
Hội nghị còn kháng định việc thành lạp tổ chức Liên Hợp Quốc trên
nguyên tắc cơ bàn là sự nhất trí hoàn toàn giữa 5 nước lớn: Liên Xò, MT, Anh,
Pháp và Trung Ọuốc.
Những quyết định của Hội nghị Ianta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
sự phối hợp hành động, củng cô sự hợp tác giữa các nước Đổng minh đế đi đến
kết thúc cuộc chiến tranh chống phát xít. Những quyết định của Hội nghị dà tạo
nên nền tâng cho việc thiết lập một Trật tự thế giới mới sau chiến tranh, thường
được gọi là Trât tư hai cưc Ianta.
• w • • • •

Trong khi đang tiến hành Hội nghị Ianta, chiến cuộc ở châu Âu diễn biến
rất nhanh chóng, ưu thế nghiêng về phía Đồng minh. Mùa xuân năm 1945,
nước Đức phát xít đã bị kẹp giữa hai gọng kìm: phía dông là 5 dạo quân của
Liên Xô, phía tây là 3 đạo quân của MT - Anh và các nước Đồng minh. Trong
bước đường cùng, Hítle dốc toàn lực quyết tâm phòng thủ Béclin bằng mọi giá.
Ngày 16/4/ỉ 945, Liên Xô bắt đầu tấn công vào Béclin, sào huyệt cuối cùng
của nước Đức Ọuốc xã.

Trên đường vào Béclin, Hítle bố trí hơn 90 sư đoàn (trong đó có 14 sư


đoàn xe tăng và cơ giới) gồm trên 1 triệu quân, 1 0 0 0 0 pháo và súng cối,
1500 xe tăng và pháo tự hành, 3000 máy bay chiến đấu, cùng với đội dân
quân phòng vệ 2 0 vạn người.

Hồng quân Liên Xô huy động lực lượng của hai phương diện quán
gồm 2,5 triệu người, 6250 xe tăng, 7500 máy bay, 42 000 đại bác và
pháo, hoàn toàn chiếm Ưu thế để tiêu diệt kẻ thù.

Từ ngày 16/4, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ở ngoại ô Béclin. Bắt đầu từ
ngày 23/4, cuộc chiến đấu lan vào trong thành phố. Vòng vây của quân đội
Liên Xô ngày càng khép chạt. Ngày 30/4, Hồng quân chiếm được nhà Quốc hội
Đức, Hítle tự sát dưới hầm chi huy. Ngày 2/5, Hồng quân chiếm đirợc toàn bộ
Thủ đô Béclin, quân Đức (còn lại khoang hom 7 vạn người) đầu hàng vô điều
kiện. Ngày 9/5/1945, Tổng tư lệnh quân đội Đức, Thống chế Câyten đã kí vào
văn bán đầu hàng. Cuộc chiến tranh khốc liệt ở châu Âu đã kết thúc với thất bại
của phát xít Đức.

184
4. Hội nghị Thượng đỉnh Pốtxđam (7,8/1945) và sự kết thúc Thê chiến II
Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, quân đội MT đà lần lượt chiếm lại
cấc đào trên Thái Bình Dương.
Trong những năm 1943 - 1944, Mĩ đã chiếm lại đảo Salômông
(từ tháng 1 đến tháng 11/1943), quấn đảo Ginbe (11/1943), quấn đảo
Mácsan (2/1944), quấn đảo Marian (6/1944), Niu Ghinẽ (7/1944)...

Tại Đông Nam Á, cuộc chiến giành lại quần đáo Philíppin diẻn ra rất quyết
liệt. Tháng 10 /1944, quân MT đổ hộ vào đảo Lâytơ (miền Trung Philíppin) đánh
bại hái quân Nhật và chiếm lại hòn đáo này vào tháng 12/1944. Tháng 1/1945,
sau những trận chiến đấu ác liệt, MT giành được đảo Ludông. Đến tháng
3/1945, quân MT chiếm lại toàn bộ Philíppin.
ơ Miến Điện, liên quân Anh - Ân và M7 - Trung Ọuốc bắt đầu triển khai
những đợt tấn công từ tháng 10/1944. Cuối năm 1944, liên quân giành được
miền Bắc Miến Điện. Đầu năm 1945, liên quân tiến vào miền Nam, giành lại
thủ đô Rangun (5/1945). Lực lượng vũ trang yêu nước dưới sự lãnh đạo của
Liên minh tự do nhân dân chống phát xít đà phối hợp với quân Đồng minh giải
phóng đất nước.
Những trận đánh cuối cùng của MT ở Thái Bình Dương là trận đánh chiếm
đảo Ivôgima (tháng 2 đến tháng 3/1945) và đảo Ôkinaoa (3/1945) nằm ở cửa
ngõ đi vào Nhật Bản. Qua 3 tháng chiến đấu ác liệt, đến tháng 6/1945, quân M7
inới chiếm được hai hòn đào này.
Đồng thời, từ mùa thu năm 1944, máy bay MT tiến hành giội bom xuống 70
thành phố ở Nhật. Các thành phố Ồsaka, Nagôgu, Yôkôhama... và nhất là thủ
dô Tôkiỏ bị tàn phá nặng nề.
Trong tình hình chiến tranh ở châu Âu đã chấm dứt, chiến tranh ở châu Á -
Thái Bình Dương đang đi vào hồi kết, nguyên thủ của ba cường quốc Liên Xô,
Anh, M ĩ là Xtalin, Sớcsin (sau là A tli thay) và Truman đã gặp nhau tại Pốtxđam
(Potsdam - Đức) từ ngày 17/7 đến 2/8/1945.
c . Átli (Clement Attlee, 1883 - 1967): nhà hoạt động chính trị của
nước Anh. Thủ lĩnh Công đảng, giữ chức Thủ tướng từ 1945 đến 1951.

H. Truman (Harry s. Truman, 1884 - 1972): nhà hoạt động chính trị
Mĩ. Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ, Phó Tổng thống. Sau khi Rudơven
qua đời, ông giữ chức Tổng thống (1945 - 1953). Sau Thế chiến II, ông
chủ trương tiến hành Chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước XHCN.

185
Ngay trước thềm Hội nghị, ngày 16/7, M7 đã thử thành công bom nmiyên
tử và muôn qua sự kiện này gây áp lực với Liên Xò.
Hòi nghị Pốtxđam tập trung giải quyết vấn đề Đức trên cơ sờ những thoá
thuận của Hội nghị Ianta, nhàm tiêu diệt tận gốc chú nghĩa quân phiệt, chủ
nghĩa phát xít Đức, thực hiện giải giáp quân đội, biến nước Đức thành một nước
dân chủ, hoà bình và không thế một lần nữa trở thành mối de doạ đối với an
ninh toàn thế giới. Hội nghị quyết định thủ tiêu tất cả những tổ chức quân sự,
nửa quân sự, cũng như các ngành cóng nghiệp quân sự và xoá bỏ các tập đoàn
tư bản lũng đoạn Đức - lực lượng chủ đạo của chủ nghĩa quốc xã Đức. Đổng
thời, nước Đức phải trả những khoản bồi thường chiến tranh cho các nước Đổrm
minh. Hội nghị đă thành lập "Hội đồng ngoại trưởng” gồm đại biếu 5 nước Liên
Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc có nhiệm vụ chuấn bị những hoà ước kí với
Đức và các nước bại trận trong phe Đức (Ý, Rumani, Hunggari, Phần Lan). Hội
nghị xác định đường biên giới mới giữa Ba Lan và Đức theo tuyến Ôđe - Nâydơ
(Oder - Neisse), khu vực Kônixbớc (Königsberg) chuyên giao cho Liên xỏ .
Đỏi với việc tiêu diệt phát xít Nhạt ở Viễn Đông, Liên Xô bí mật cam kết
sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật. Ngày 26/7/1945, Anh, MT và Trung Ọuốc
đã thông qua và gửi cho Nhật "Tuyên cáo Pốt.xdam", yêu cầu Nhạt đầu hàng vô
điều kiện.

Tuyên cáo Pốtxđam nêu rõ: Quân đội Đồng minh sẽ chiếm đóng
lãnh thổ Nhật, chủ quyền của Nhật được giới hạn trong 4 đảo chính
(Hônsư, Hôccaiđô, Kiusiu và Sicỏcư). Nước Nhật chỉ được phát triển công
nghiệp dân sự, thực hiện giải giáp vũ trang, tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa
quân phiệt, tiến hành xét xử, trừng trị tội phạm chiến tranh... Tuyên cáo
nêu rõ, sau khi giải quyết các vấn đề Nhật bản trên cơ sở dân chủ và hoà
bình, quân đội chiếm đóng của Đồng minh sẽ rút khỏi Nhật.

Nhir vậy, Hội nghị Pốtxđam đã cụ thể hoá việc giải quyết vấn đề Đức, vấn
đề Nhật, vấn để kí hoà ước với các nước phát xít chiến bại... nhằm bổ sung và
hoàn chỉnh những nghị quyết của Hội nghị Ianta về những vấn đề chủ chốt của
thế giới sau chiến tranh. Đây là hội nghị cấp cao cuối cùng của ba nước Liên
Xô - MT - Anh trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nước Nhật đã kiệt quệ nhưng lực lượng quân phiệt vẫn quyết chiến đến
cùng, ngoan cố bác bỏ Tuyên cáo Pốtxđam. Tổng thống M7 Truman quyết định
thả bom nguyên tử xuống đất Nhật. Ngày 6/8, quả bom nguyên tử đầu tiên ném

186
xuống thành phố Hirôsima làm 14 vạn người dân thiệt mạng, tàn phá nhà cửa
trên một phạm vi rộng lởn.
Ngày 8/8, Liên Xô tuyên chiến với
Nhật. Ngày 9/8, với 1,5 triệu quân (3
phương diện quân), 5 500 xe tâng, 3 900
máy bay, 2 600 pháo và hạm đội Thái Bình
Dương, Hổng quân tấn còng như vũ bào,
tiêu diệt đạo quân Ọuan Đòng (gồm 70 vạn
quân Nhật và 30 vạn quân nguỵ ở Mãn
Chàu).
Ngày 9/8, MT thả quả bom nguyên tử
thứ hai xuống thành phố Nagadaki của
Nhật, giết hại 7 vạn người.
Ngày 10/8, Chính phủ Nhạt chấp nhận
"Tuyên cáo Pốtxđam" và ngày 15/8 Nhật
hoàng í uyên bô đầu hàng vô điều kiện. Lễ kí văn kiện đầu hàng
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tuy của Nhật Bản

nhiên, Hồng quân Liên Xô vẫn phải tiếp tục


chiến đấu đến cuối tháng 8/1945 đê đánh bại hoàn toàn đạo quân Ọuan Đông
của Nhật.
Ngày 2/9/1945, Nhật Bản chính thức kí văn bản đầu hàng vô điều kiện trên
chiến ham M ítxuri của MT ở vinh Tôkiô.
• •

5. Kết cục của Thê chiến II


Tlìế chiến 11 kết thúc với thất bại hoàn toàn của phát xít Đức, Ý và Nhật
Bản. Trong thời gian đầu của chiến tranh (từ 9/1939 đến 11/1942), phe phát xít
tạm thời chiếm thế chủ động trên chiến trường. Nhưng trong thời gian sau (từ
11/1942 đến 8/1945), phe Đồng minh phản công trên các mặt trận, tiến tới tiêu
diệt hoàn toàn các thế lực phát xít.
Thế chiến II là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề
nhất trong lịch sử nhân loại. Khác với Thế chiến I chủ yếu diễn ra ở châu Au,
cuộc Thế chiến II diền ra ờ cả châu Âu, châu Á, châu Phi, Thái Bình Dương và
các vùng biển khác.

187
Những tổn thất do chiến tranh gây ra là vô cùng thảm khốc: 76 nước
bị lôi cuốn vào vòng chiến, 60 triệu người chết, khoảng 90 triệu người bị
tàn phế, thiệt hại vế vật chất ước tính khoảng 4000 tỉ USD (tính theo giá
đương thời). Nền văn minh vật chất và tinh thán của nhân loại bị tàn phá
nặng nề.

Thắng lợi của chiến tranh thuộc về các Iìước Đồng minh và nhân dân các
nước trên thế giới đã kiên cường chiến đấu chống trả các thế lực phát xít. Chiến
trường Xô - Đức là một trong những chiến trường chính, Liên Xô là lực lượng
chủ lực trong việc tiêu diệt phất xít Đức ở châu Au.
Để giành được chiến thắng, 26 550 000 người Xô viết đã thiệt mạng,
trong đó có 8 600 000 chiến sĩ Hồng quân. Thiệt hại về vật chất mà Liên
Xô phải gánh chịu là 679 tỉ rúp (tính theo thời giá năm 1941), chiếm 41%
tổng số thiệt hại của các nước tham chiến.

Vfi, Anh là hai thành viên chủ chốt trong khôi Đồng minh chông phát xít và
có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của chiến tranh.

Trong thời gian chiến tranh, Mĩ đã viện trợ và cho thuê - mượn (theo
Đạo luật thuê - mượn "Lend - lease", thực hiện từ tháng 3/1941) đối với 38
quốc gia tham chiến trong phe Đồng minh, với tổng trị giá hơn 50 tỉ USD.
Số quân nhân Mĩ tử trận là 298 000 người. Riêng nước Anh, tổng số người
chết trong chiến tranh là 395 000 người, trong đó có 245 000 quân nhân.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
tạo nên chuyển hiến căn bản của tình hình thế giới sau chiến tranh. Các nước
XHCN ra đời ở Đông Âu và châu Á, Liên Xô ngày càng lớn mạnh và trở thành
siêu cường dứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh đà làm thay đổi
tương quan lực lượng giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước phát xít bị tiêu
diệt, Anh và Pháp đều suy yếu. Riêng nước MT ngày càng vượt trội về mọi mặt
và đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa. Chiến tranh đã tạo điều kiện thuận lợi
cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hai quốc gia Đông Nam Á đáu
tiên tuyên bố độc lập ngay sau khi phát xít Nhật đầu hàng là Inđônêxia
( 17/8/Ỉ945) và Việt Nam (2/9/1945) đã mở đầu quá trình sụp dổ hệ thống thuộc
địa cửa chủ nghĩa đế quốc, giải phóng hành trăm triệu người bị áp bức, ra đời
nhiều quốc gia độc lập.

188
Đến đây đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng thẳng, phức tạp trong quan
hệ quốc tế và cái giá phải trá là cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề
nhất trong lịch sử nhân loại. Thời kì 1918 - 1945 đã chứng kiến cuộc đấu tranh
gay gắt giữa các cường quốc tư bản phưưiìg Tây nhám tranh giành thế lực,
phạm vi ảnh hưởng và thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình. Nhưng
bao trùm lên tất cả là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là Liên x ỏ xã hội
chú nghĩa, các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước và toàn thể loài
người tiến bộ với một bên là chủ nghĩa đế quốc, chù nghĩa thực dàn, chú nghĩa
phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thế lực phán dộng khác nhằm xây đựng
một thê giới hoà bình và dân chủ, công bằng và bình đảng giữa các quốc gia,
các dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế cụ thê của cuộc Thế chiến II, đà hình thành
sự phối hựp giữa Liên Xô XHCN với các nước tư bản dân chư trong Mặt trận
Đổng m inh để tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết ĩhúc đà mở ra một thời kì mới trong lịch sử
thế giới, một chuyên biến quan trọng trong quan hệ quốc tế.

Bảng thống kê
số người chết trong Thế chiến thứ hai
ỏ các nưởc tham chiến chủ yếu

Quân nhản Dân thường Tông sô TỈ lệ người chết /


Nước
(người) (người) (người) dân sô năm 1939

Anh 245 000 150 000 395 000 1 %

Ba Lan 320 000 5 500 000 5 820 000 14%

Đức 3 850 000 3 810 000 7660 000 9%

Ý 230 000 150 000 380 000 1 %

Liên Xỏ 8 600 0 0 0 17 950 000 26 550 000 16%

Mĩ 298 000 -

298 000 0 , %
2

Nam Tư 410 000 1 400 000 1 810 0 0 0 1 0 %

Nhát Bản

1 520 000 700 000 2 2 2 0 0 0 0 3%

Pháp 2 1 1 0 0 0 330 000 541 000 1,5%

Trung Quốc 3 500 000 1 0 0 0 0 0 0 0 13 500 000 2 , %


2

189
Bảng thống ké các số liệu
của hai cuộc chiến tranh thế giởi

Thê chiến I Thế chiến II


Danh muc

(1914-1918) (1939- 1945)

1 . Số nước tham chiến 38 76

2 . Số người gia nhập quân đội (triệu người) 74 1 1 0

3.Số người chết vì chiến tranh (triệu người) 13,6 60

4. Số người bị tàn phế (triệu người) 20 90

5. Thiệt hại về vật chất (tỉ USD) 338 4000

Trong đó chi phí quân sự trực tiếp 208 1384

Nguồn: Tổng hợp từ Britannicu 1999 và A History o f the World in XX century


1900 - 1945, Havard University, 1997.

19(0
TAI LIẸU
m THAM KHAO
André Fontaine, Histoire île la qiierre froide. Totììe I: De lu Révolution d'
Octobre à la Guerre de Corée 1917 - 1950, Ed. Fayard, Paris 1984.
Arthur M. Schlesinger Jr, Niêtì qiúni lịch sứ Hoa Kì, NXB Khoa học xà hội
H., 2004.
A. Nênarồcốp, Lịch sứ Cách mạng XHCN tỉiáìiq Mười N ìịu 1917, NXB
Tiến bộ, Mátxcơva (tiếng Nga).
Dll rose lie J.B, Lịch sử ìiạoụi ẹiao (từ 1919 đến nay), Học viện Quan hệ
quốc tế, H., 1994.
Đỗ Thanh Bình, Con đườ/iạ cứu nước troiì% đấu tranh giải phóng (lún tộc à
ìììột sô nước châu /4, N XB Đại học Quốc gia Hà Nội. H., 1999.
E. Taclê, Napỗlêônẹ Bônupac, NXB Quân đội nhân dân, H., 1993.
Geđdes & Grosset, World history, David Dal House, New Larark, Scotland.
Georges Duby, Histoire de la Fram e de 1852 Cl nos jo u rs, Ed. Larousse,
Paris 1987.
Howard Cincotta, Klìúi íịiiủt vé lịch sử nước M ĩ, NXB Chính trị Quốc gia,
H., 1999.
J.A.S. Grenville, A History o f the World in XX century, Vol. I: 1900 - 1945,
The Belknap Press - Havard University Press, 1997.
Lê Trung Dũng (Chủ biên), Thế giới - nhữỉiq sự kiện lịch sử tlìê ki XX ( 190 Ị
- 1945), N X B Giáo dục, H., 2001.
Lê Văn Quang, Lich sử quan hệ quốc tế từ ỉ 917 đến 1945, NXB Giáo dục,
H., 2001.
Maurice Vaisse, Les relations internationales, Armand Colin, Paris 1996.
Michel Beau, Lịch sử cỉìủ ìiqhĩa tir bản từ 1500 đến 2000, NXB Thế giới,
H., 2002.
Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sửrhê qiới hiện d ạ i, NXB Giáo dục, H.,
2001.
Nguyễn Gia Phu - Nguyễn Văn Ánh - Đỗ Đình Hãng - Trần Vãn La, Lịch
sử thế giới trung đại, NXB Giáo dục, H., 1998.

191
Nguyễn Gia Plui - Nguyẻn Huy Quý, Lịch sửTrnnq Quốc, NXB Giáodục,
H., 2001.
Nguyẻn Quốc Hùng - Nguyẻn Thị Thư, Lược sử Liên ba/iq Nạa I (I7 -
799/, NXB Giáo dục, H , 2002
Paul Kennedy, Hmiq thịnh vù suy von Ị* CHU cúc cườ/iíỊ quốc, N X B Tiỏng
tin ỉí luận, H. 1992.
Paul R. V io tti - Mark V. Kauppi, L í luận qiuiìì liệ quốc tế, NXB Lao cộng,
H., 2003.
Philipp Jenninger, Interrogeons r Histoire de /' Allemagne (de Ui fin cu 18
ème siècle ủ nos jours), Berlin 1984.
Serge Berstein - Pierre Milza, Histoire du Vingtième siècle, Tome l : 1*00 -
J939. Un monde désưbiỉisẻ, Ed. Hatier 1987.
Serge Berstein - Pierre M ilza, Histoire de r Europe contemporaine. Li XIX
è siècle - (le ỊH Ỉ5 ủ 1919, Ed. Hatier, Paris 1992.
Serge Berstein - Pierre M ilza, Histoire cỉe V Europe contemporaine. LeXXè
siècle - de 1819 cl nos jo u rs , Ed. Hatier, Paris 1992.
Trương Quảng T rí (Chủ biên), Ỉ0 nhí) ìììủìtì hiểm lớn thê qiới, NXBVăn
hoá Thông tin, H., 2002.
Võ Anh Tuấn, Hệ tììốtìg Liên Họ]) Quốc, N XB Chính trị Quốc gia,
H., 2004
Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử tì ìế ẹiới cận dại, NXB Giáo
dục, H., 1998.
Vũ Dưomg Ninh (Chủ biên), Lịch sử văn tììiììh ỉliê qiới, N XB Giáo dục H.,
1998.

192
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC sư PHẠM
• • •

Địa chỉ: 136 Xuân Thuỷ, cầu Giấy, Hà Nội


Điện
• thoại:
• 04.37547735 VI Fax: 04.37547911
Email: hanhchinh@nxbdhsp.edu.vn I VVebsite: www.nxbdhsp.edu.vn

LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ


(Từđẩu thời cận đại đến kết thúc Thê chiến thứhai)
v ũ DƯƠNG NINH

Chịu trách nhiệm xuất bàn:


Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập ĐINH VÁN VANG

Biên tập nội dung:


LÊ NGỌC BlCH

K ỉ thuật vi tính:
NGUYỄN NĂNG HƯNG

Trình bày bia:


PHAM VIÊT QUANG

Mã số: 02.02.696/1181 -ĐH 2012


In 1.000 cuốn, khổ 17x24cm, tại cỏng ti cổ phấn KOV. •
Đảng kí KHXB sò: 78-2012/CXB/696-43/DHSP ngay 13/1/2012.
In xong và nộp lưu chiểu thảng 11 nảm 2012.

193

You might also like