You are on page 1of 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN


MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỚP: L15
NHÓM: 17
HỌC KỲ 212, NĂM HỌC 2021-2022

ĐỀ TÀI 4:
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930-1945)

GVGD: ThS. Phan Thị Thanh Hương

SVTH: Nguyễn Hữu Tín MSSV: 1915516

Lê Khánh Toàn 1915541

Trần Văn Tính 1915529

Trần Nguyễn Hữu Thọ 1915347

Ngô Hoàng Thịnh 1912125

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1 NĂM 2022

1
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1........................................................................................................................ 6
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930-1931,........................6
KHÔI PHỤC PHONG TRÀO 1932-1935........................................................................6
1.1. Bối cảnh lịch sử........................................................................................................6
1.1.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 và những tác động của nó đối
với xã hội Việt Nam......................................................................................................6
1.1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và nhiệm vụ của Việt Nam.......................................7
1.2. Phong trào cách mạng 1930 – 1931, Luận cương chính trị tháng 10/1930..........7
1.2.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931....................................................................7
1.2.2. Luận cương chính trị tháng 10/1930...................................................................9
1.3. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng lần
thứ I (3/1935)................................................................................................................12
1.3.1. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng............................12
1.3.2. Đại hội Đảng lần thứ I (3/1935)........................................................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...............................................................................................14
CHƯƠNG 2...................................................................................................................... 16
PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939........................................................................16
2.1. Điều kiện lịch sử, chủ trương mới của Đảng.......................................................16
2.1.1. Điều kiện lịch sử...............................................................................................16
2.1.2. Chủ trương của Đảng........................................................................................17
2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình..............................18
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...............................................................................................20
CHƯƠNG 3...................................................................................................................... 21
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939-1945.................................................21
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng..................................21
3.1.1. Bối cảnh lịch sử.................................................................................................21
3.1.2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng...............................................................23
3.2. Phong trào chống Pháp – Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vụ trang............................................................................................................... 29
2
3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước............................................................................31
3.4. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.....................................................................32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3...............................................................................................35
CHƯƠNG 4...................................................................................................................... 36
TÍNH CHẤT, Ý NGHĨA, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG.............36
THÁNG TÁM 1945.........................................................................................................36
4.1. Tính chất của cách mạng tháng tám 1945...........................................................36
4.2. Ý nghĩa của cách mạng tháng tám 1945..............................................................37
4.3. Bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng tám 1945.........................................38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4...............................................................................................39
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................42

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son
chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thắng lợi này gắn liền với sự lãnh đạo tài tình,
sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.
Bên cạnh đó, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám. Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn
nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa
Việt Nam. Do đó, trong quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai
đoạn 1930 - 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường, quyết
liệt. Từ đó Đảng đã có những sách lược, đường lối đúng đắn để từ đó là kim chỉ nam cho
cuộc đấu tranh giành độc lập.

Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là
việc làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, duy trì nền
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thấy được ý nghĩa đó nên nhóm
chúng em đã quyết định chọn đề tài Quá trình Đảng lãnh đạo hình thành và phát triển
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930 - 1945). Do còn hạn chế về trình độ, bài
tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót, nhóm chúng em rất mong nhận được ý kiến
nhận xét, đóng góp từ thầy cô để hoàn thiện hơn bài tiểu luận.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Việc nghiên cứu về quá trình hình thành và hình thành đường lối cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng giai đoạn 1930 – 1945 để tiến tới Cách mạng Tháng Tám giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Đồng thời việc phân tích tính
chất, ý nghĩa của quá trình này giúp ta rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá cho
công cuộc xây dựng Đảng ta phát triển vững mạnh, duy trì sự ổn định và phát triển bền
vững chế độ chính trị ở Việt Nam.

3. Những nhiệm vụ cần giải quyết

4
Tiểu luận phân tích, làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn 1930-
1931, 1932-1935, 1936-1939 và 1939-1945. Với mỗi giai đoạn, tiểu luận tập trung phân
tích về bối cảnh lịch sử, những chủ trương, chính sách, văn kiện, các phong trào đấu tranh
của Đảng trong giai đoạn đó. Đặc biệt là phân tích quá trình tiến tới Cách mạng Tháng
Tám 1945 thực hiện Tổng khởi khĩa giành chính quyền, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa từ đó rút ra ý nghĩa, bài học kinh nghiệm cho thế hệ hiện tại.

5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930-1931,

KHÔI PHỤC PHONG TRÀO 1932-1935


1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 và những tác động của nó
đối với xã hội Việt Nam
Trong giai đoạn 1929 – 1933, các nước tư bản chủ nghĩa nói chung và đế quốc Pháp
nói riêng lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nặng nề. Cuộc khủng hoảng đã tác động
trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam:

- Thực dân Pháp rút vốn đầu tư ở Đông Dương về các ngân hàng Pháp và dùng
ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho tư bản Pháp => Sản xuất công nghiệp ở Việt Nam bị
thiếu vốn dẫn đến đình trệ.

- Lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá làm cho lúa gạo Việt Nam không
xuất khẩu được => Ruộng đất bị bỏ hoang.

Hậu quả là nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng;
Ruộng đất bỏ hoang, công nghiệp suy sụp, xuất khẩu đình đốn…, làm cho đời sống của
đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khốn cùng:

- Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số người có việc làm thì tiền lương bị
giảm từ 30 đến 50%.

- Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn.

- Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa
thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.

- Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó khăn do không thể buôn bán
và sản xuất.

6
1.1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và nhiệm vụ của Việt Nam
Để chống đỡ với tai họa của cuộc khủng hoảng, thực dân Pháp tăng cường bóc lột,
cướp bóc tài sản của nhân dân Việt Nam, chúng đặt thêm nhiều thứ thuế mới và tăng mức
các thứ thuế đã có, đặc biệt là thuế thân. Một suất sưu năm 1929 bằng 50kg gạo thì năm
1932 là 100 kg và năm 1933 là 300 kg.

Quan lại cường hào áp bức hà khắc, địa chủ bóc lột tô tức nặng và chính sách khủng
bố trắng tràn lan sau khởi nghĩa Yên Bái.

Nhiều công nhân bị sa thải, đồng lương ít ỏi; nông dân phải chịu thuế cao, vay nợ
nặng lãi, nông phẩm làm ra phải bán giá hạ, ruộng đất bị địa chủ thâu tóm, bị bần cùng
hóa.

Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, các nghề thủ công cũng bị phá sản, bị sa thải, thất
nghiệp, tư sản dân tộc gặp khó khăn trong kinh doanh, nhà buôn nhỏ đóng cửa.

=> Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản là dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
(cơ bản) và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến.

=> Những sự kiện dồn dập ấy đã tác động làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta với
thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai phát triển đến mức gay gắt. Trong hoàn cảnh khó
khăn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo thống nhất trong cả nước, cũng như ở
từng địa phương đã làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, lôi kéo nhiều tầng
lớp tham gia.

1.2. Phong trào cách mạng 1930 – 1931, Luận cương chính trị tháng 10/1930
1.2.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội, phong trào cách mạng lên cao. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nông trong cả
nước.

Từ tháng 1 đến tháng 4-1930 là bước khởi đầu của phong trào. Nhiều cuộc bãi công
của công nhân đã nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài
Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà
máy cưa Bến Thủy... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương

7
như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng
sản xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và một số địa phương khác. Những cuộc đấu
tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động chống đế quốc và phong
kiến tay sai, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò tiên phong, là màn đầu của một cao
trào cách mạng mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.

Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, lần đầu tiên
nhân dân ta kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Từ thành phố đến nông thôn ở cả ba miền
đất nước xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm, mít tinh, bãi công, biểu tình, tuần
hành, v.v.. Đấu tranh của công nhân nổ ra trong các xí nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh, Bến Thủy, Sài Gòn, Chợ Lớn, v.v.. Đấu tranh của nông
dân cũng nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Kiến An, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một,
Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh.… Sau ngày 1-5, làn sóng đấu tranh tiếp tục dâng cao.
Riêng trong tháng 5-1930, trong cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu
tranh của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và dân nghèo thành thị.

Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh trong đó có 22 cuộc của
công nhân, 95 cuộc của nông dân. Nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của toàn thể công
nhân khu công nghiệp Bến Thủy - Vinh (8-1930), “đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ đấu
tranh kịch liệt đã đến”1.

Đến tháng 9/1930, phong trào dâng cao ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Nông dân biểu tình
có vũ trang tự vệ với hàng nghìn người kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm thuế ở các huyện
Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn (Nghệ An), Kỳ Anh (Hà Tĩnh)… phong
trào được công nhân Vinh - Bến Thủy hưởng ứng.

Ngày 12/ 9/1930, 8000 nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An) biểu tình, với khẩu hiệu:
“Đả đảo chủ nghĩa đế quốc!”. Chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều
huyện, xã. Nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân dân tự quản lý đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương, gọi là chính quyền Xô viết.

1
Báo Người lao khổ, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung kỳ, số 13 ngày 18-9-1930.
8
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 09/1930, tại các huyện Thanh Chương, Nam
Đàn, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở
Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê … thực hiện quyền làm chủ, điều hành mọi mặt đời
sống xã hội.

- Về chính trị: ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; quần chúng được tự
do hội họp, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, xóa bỏ các luật lệ bất công và vô lý của
đế quốc và tay sai, thực hiện chuyên chính với bọn tay sai phản động, giữ vững trật tự trị
an, chống địch khủng bố, v.v..

- Về kinh tế: chia lại ruộng đất công một cách hợp lý, thực hiện giảm tô, xóa nợ,
tịch thu quỹ công đem chia cho dân nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế
chợ, thuế đò, thuế muối; tổ chức đắp đê phòng lụt, tu sửa cầu cống, giúp đỡ nhau trong sản
xuất, v.v..

- Về văn hóa, xã hội: bài trừ mê tín dị đoan như bói toán, ma chay, xóa bỏ các tệ
nạn cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, tổ chức học chữ quốc ngữ, đọc sách báo cách mạng; phát
huy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn trong đời sống, trong đấu tranh
cách mạng, v.v..

Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào 1930 – 1931, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ
nhân dân. Phong trào bị thực dân Pháp khủng bố dã man, cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ
sở quần chúng bị phá vỡ, cán bộ, đảng viên bị bắt, bị tù đày …. đến giữa năm 1931,
phong trào lắng xuống.

1.2.2. Luận cương chính trị tháng 10/1930


Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng
sản ở Mátxcơva (Liên Xô), Trần Phú về nước hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ
sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng Ban
Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữa lúc đó
một số uỷ viên Trung ương lâm thời của Đảng bị địch bắt. Một số uỷ viên mới được bổ
sung.

9
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì đã quyết định đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội nghị
hợp nhất thông qua đã "chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu",
Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để
hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng mà chỉnh đốn nội bộ. Hội nghị
đã thảo luận Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương
xác định:

Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một
bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản
và đế quốc chủ nghĩa”2.

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách
mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền", "có tính chất thổ
địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng".
Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn
mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các
di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa
cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập". Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: "có đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng
lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa". Luận
cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai
động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực
chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là
2
Các đoạn trích Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) đều theo
Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 1998, t.2, tr. 88 - 103.
10
một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông
như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo
đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư
sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc
gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các
phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất
nghiệp mới đi theo cách mạng.

Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường chánh trị
đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin
làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông
Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối
cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".

Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản
của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công
nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Vì vậy,
lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần ít", "phải lấy những sự chủ
yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách
mạng". Đến lúc có tình thế cách mạng "Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ
chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông". Võ trang bạo động để
giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".

Cuối cùng, Luận cương chánh trị của Đảng chỉ rõ: cách mạng Đông Dương là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải
mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm
mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương.

Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý
luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song,
Luận cương còn một số mặt hạn chế, không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn
11
giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp, từ đó không nêu được nhiệm vụ chống đế quốc
thực dân lên hàng đầu. Do vậy, chưa phát huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận
thức được đầy đủ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực
lượng yêu nước. Luận cương chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư
sản, tinh thần yêu nước của tư bản dân tộc và một bộ phận địa chủ nhỏ.

1.3. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng lần
thứ I (3/1935)
1.3.1. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng
Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được
một phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp và
tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở Đảng
tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong trào đấu
tranh lắng xuống.

Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể xoá
bỏ được là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp
vô sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông trong đấu tranh
cách mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng.

Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì: Hà Nội,
Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm lại cơ sở để
lập lại tổ chức.

Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa
chọn những thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung
Quốc) thành lập Ban chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm thời
(thay cho Ban Chấp hành cũ đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí
Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng Phong đứng đầu đã công bố Chương trình
hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 6-1932).

Cuộc đấu tranh đòi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông
Dương đã ký lệnh ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân
xá tù chính trị.

12
Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng
sản, đến cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào
quần chúng dần được nhen nhóm lại. Sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong
trào cách mạng quần chúng là cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ I của Đảng.

1.3.2. Đại hội Đảng lần thứ I (3/1935)


Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại từ
cơ sở đến Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại
hội đầu tiên này có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng trong nước và ngoài nước.

Đại hội nhận định tình hình trong nước và quốc tế, khẳng định thắng lợi của cuộc đấu
tranh để khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Tuy vậy, lực lượng
Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng tập trung công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng
còn ít, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ của Đảng
chưa chặt chẽ, v.v..

Đại hội đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:

(1) Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng ở các xí
nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng. Đồng thời, phải đưa
nông dân lao động và trí thức cách mạng đã qua rèn luyện thử thách vào Đảng, Đảng phải
chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo
của Đảng. Để bảo đảm cho Đảng luôn thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ
cần thường xuyên phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt, chống "tả" khuynh
và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng

(2) Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc thiểu số, phụ
nữ, binh lính... củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên cộng
sản, Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ; lập Mặt trận thống nhất phản đế. Đại hội chỉ rõ:
"Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... muốn đưa
cao trào cách mạng mới lên tới trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế
quốc phong kiến, lập nên chính quyền Xôviết, thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại

13
quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp
của Đảng hiện thời..."3.

(3) Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành
trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.…

Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động
công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc ít người, về công tác mặt
trận phản đế, đội tự vệ, và cứu tế đỏ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 9 uỷ viên chính thức và
4 uỷ viên dự khuyết, trong đó có Lê Hồng Phong, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Nguyễn
ái Quốc, Ngô Tuân, Hoàng Đình Giong..., do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng
và phong trào cách mạng quần chúng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Chấp hành
Trung ương, chuẩn bị điều kiện để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới. Song "chính
sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước
lúc bấy giờ"4, chưa thấy được nguy cơ của chủ nghĩa phát-xít trên thế giới và khả năng
mới của cuộc đấu tranh chống phát-xít và chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo, hòa bình, nên đã không đề ra được một chủ trương chính sách phù hợp với tình
hình mới. Thiếu sót này được nhanh chóng khắc phục tại các hội nghị về sau của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


Các phong trào cách mạng 1930 – 1931 diễn ra sôi nổi, quyết liệt và rộng khắp, thể
hiện tinh thần cách mạng, nghị lực phi thường của cha ông ta, là bàn đạp cho các phong
trào đấu tranh sau này. Đây thực sự là một cuộc diễn tập đầu tiên, chuẩn bị cho thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến
lược cách mạng. Song còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Sau này trong quá trình

3
Sđd, 2002, t.5, tr. 26.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 155.
14
lãnh đạo cách mạng, nhờ khắc phục được những hạn chế đó Đảng đã đưa cách mạng đi
đến thành công.

Nhờ sự nỗ lực, cố gắng phi thường của Đảng, sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đến
cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng đã
được khôi phục, cơ sở tiến tới đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng.

15
CHƯƠNG 2

PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939


2.1. Điều kiện lịch sử, chủ trương mới của Đảng
2.1.1. Điều kiện lịch sử
Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít cầm quyền ở một số nước
như Đức, Italia, Nhật Bản ráo riết chạy đua vũ trang tạo nên trục Berlin – Roma – Tokyo,
nguy cơ xuất hiện một cuộc chiến tranh thế giới.

Trước tình hình đó, tháng 7 – 1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII
tại Moskva, Liên Xô với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội. Đại hội vạch rõ kẻ thù trước
mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc
nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân mà Đại
hội đề ra là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hòa
bình, bảo vệ Liên Xô (thành trì của cách mạng thế giới). Đại hội chủ trương Đảng Cộng
sản các nước phải thống nhất lực lượng giai cấp công nhân và lập mặt trận nhân dân rộng
rãi để thống nhất hành động chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa phát xít. Các
Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Tây Ban Nha, Đảng Cộng sản Trung Quốc làm
nòng cốt trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng
chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ, tự do.

Tháng 6 – 1936, Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ
mới đã cho thi hành một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa. Đối với Đông Dương, Pháp cử
phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới, ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự
do báo chí,… tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.

Lúc này, ở Việt Nam, nhiều đảng phái chính trị hoạt động, trong đó có đảng cách
mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động,... Các đảng tận dụng cơ hội đẩy
mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy nhiên, chỉ có Đảng Cộng
sản Đông Dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và có chủ trương rõ ràng.

16
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), thực dân Pháp ở Đông Dương
tập trung đầu tư khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế "chính quốc". Tình
hình chính trị - xã hội - kinh tế ở Đông Dương rất rối loạn, đời sống nhân dân rất khó
khăn. Công nhân bị thất nghiệp, đồng lương ít ỏi. Nông dân không đủ ruộng cày, chịu mức
địa tô cao và bóc lột của địa chủ. Tư sản dân tộc ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn
ép. Tiểu tư sản trí thức bị thất nghiệp, lương thấp. Đời sống của đa số nhân dân khó khăn,
cực khổ, chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ, đời sống cùng cực. Chính vì thế họ
hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương.

2.1.2. Chủ trương của Đảng


Tháng 7 – 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương,
do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị dựa trên Nghị
quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam
để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội nghị xác định nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và chống phong kiến. Bên
cạnh đó, nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa hình. Để
tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng chủ trương
thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.

Ngày 30-10-1936, Đảng xuất bản tài liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới để giải
thích cho đảng viên và quần chúng hiểu rõ hơn về sách lược mới của Đảng. Trong lời nói
đầu, Đảng giải thích về “chiến lược” và “chiến sách" của Quốc tế Cộng sản và của Đảng
Cộng sản Đông Dương trong tình hình mới. Chiến lược của Quốc tế Cộng sản là đánh đổ
chế độ tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản đi tới xã hội cộng sản. Chiến lược không bao
giờ thay đổi. Còn chiến sách thì tuỳ tình hình và lực lượng giai cấp mà có thể thay đổi.
Tuy nhiên, tuỳ theo trình độ kinh tế, chính trị và xã hội ở từng nước mà đề ra chiến lược
cách mạng. Trước tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều thay đổi, chiến sách của
Đảng Cộng sản Đông Dương có sửa đổi như vấn đề lập Mặt trận Nhân dân phản đế, vấn
đề đối với Chính phủ phái tả ở Pháp, cách tổ chức quần chúng,... Về sách lược trong giai
đoạn này, chiến sách của Đảng là lập Mặt trận Nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các

17
giai cấp, đảng phái, đoàn thể chính trị, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Với chiến sách mới,
Đảng có thể tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân đấu tranh chống đế quốc.

Ngày 13 và 14-3-1937, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định vấn đề thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế, thay đổi và kiện toàn
các tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng cho phù hợp với tình hình mới của cách mạng
Việt Nam. Tiếp đến từ ngày 3 đến ngày 5-9-1937, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng nhận định Đảng đã khôi phục lại hệ thống từ Bắc, Trung, Nam, một tổ
chức thống nhất về chính trị và tổ chức. Ảnh hưởng của Đảng phát triển nhanh chóng và
chính sách của Đảng thích hợp với các điều nhu yếu của các tầng lớp nhân dân. Hội nghị
nhắc lại cho toàn thể đảng viên về giai đoạn hiện tại, ta mới chỉ đang ở vào thời kỳ tranh
đấu đòi các điều cải cách và đòi những điều tự do dân chủ cho toàn thể nhân dân. Vì vậy,
Đảng phải lãnh đạo quần chúng tranh đấu bằng hình thức thích hợp, tránh những hành
động bạo động có thể khiêu khích quân thù khủng bố vô ích.

Ngày 29 và 30-3-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định thực hiện
Mặt trận thống nhất dân chủ, coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn
hiện tại. Tại hội nghị này, Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế đổi thành Mặt trận
Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Về tổ chức,
Đảng phải củng cố những cơ sở đã có, lập thêm cơ sở mới, chú trọng phát triển cơ sở
Đảng ở các châu thành, các đồn điền, các vùng kỹ nghệ tập trung. Các cơ sở tổ chức dù
hoạt động công khai hay bí mật đều phải phục tùng cơ quan chỉ huy của Đảng ở các cấp.
Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương thay cho Hà Huy
Tập.

2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), một số người theo xu hướng
tơ-rốt-xkít chủ yếu từ Pháp về mưu đồ lập một đảng riêng để chống lại đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản. Nhóm tơ-rốt-xkít đó chống lại chủ trương của Đảng Cộng sản
Đông Dương, đồng thời đưa ra những khẩu hiệu “tả” để lừa bịp, lôi kéo quần chúng, làm
nhân dân lầm tưởng họ là những người cách mạng. Kịp thời phê phán và chống lại sự phá
hoại của nhóm tơ-rốt-xkít ở Việt Nam, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã viết tác phẩm “Tờ-rốt-
xky và phản cách mạng” với bút danh Thanh Hương, được Tiền Phong thư xã xuất bản tại
18
Sài Gòn năm 1937. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư Hà Huy Tập đã trình bày hệ thống
những quan điểm phản động của Tờ-rốt-xky và sự nguy hại của lý thuyết đó đối với phong
trào cách mạng vô sản thế giới, đối với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ của các
nước thuộc địa. Cuốn sách cũng công khai phê phán những nhân vật trong nhóm tơ-rốt-
xkít ở Đông Dương đang phá hoại phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo và việc họ đang ra sức lừa bịp, lôi kéo quần chúng. Qua đó, cuốn sách kiên quyết
bảo vệ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối chiến lược, sách lược của Quốc tế
Cộng sản, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Vào những năm 1937-1938, Mặt trận dân chủ Đông Dương đã giành được thắng lợi
trong các cuộc bầu cử Hội đồng dân biểu ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Nhưng trong cuộc bầu
cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ tháng 4-1939, Mặt trận dân chủ đã không thu được thắng
lợi như mong muốn. Tình hình đó khiến cho một số cán bộ, đảng viên có những nhận xét
không đúng về đường lối của Đảng, thậm chí còn công kích đường lối của Đảng. Với bút
danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết cuốn “Tự chỉ trích” được Ban chấp
hành Trung ương Đảng thông qua, in và phát hành vào ngày 20-7-1939. Tác phẩm nêu rõ
mục đích, nội dung, phương pháp tự phê bình, phê bình của người đảng viên, qua đó đấu
tranh chống lại những tư tưởng, nhận thức sai trái nhằm giữ vững và phát huy đoàn kết,
thống nhất trong Đảng. Đây là một tài liệu giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên, góp phần uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ những năm 1936-1939 là
sự đóng góp có giá trị vào kho tàng lý luận chính trị của Đảng ta. “Tự chỉ trích” cũng là
bài học sâu sắc nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, có ý nghĩa to lớn thúc đẩy
sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, nhất là vấn đề nhận thức của đảng viên về tự phê
bình và phê bình ở các chi bộ đảng.

Cuộc vận động dân chủ của Đảng trong những năm 1936-1939 diễn ra sôi nổi, rộng
lớn đã minh chứng chủ trương chuyển hướng mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
là đúng, hợp với ý nguyện của dân chúng và phù hợp với tình hình đất nước. Mở đầu là
phong trào Đại hội Đông Dương, từ một sáng kiến ở Sài Gòn đã được nhân rộng khắp
toàn quốc, tổ chức đấu tranh công khai, hợp pháp nêu lên nguyện vọng về tự do, dân chủ
và cải thiện đời sống. Năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương thảo ra bản "nguyện vọng"
gửi tới phái đoàn chính phủ Pháp, đấu tranh đòi tự do, dân chủ. Các ủy ban hành động
thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân sinh. Năm
19
1937, lợi dụng sự kiện Toàn quyền mới sang Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương
tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương lực lượng và đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ.
Những năm sau đó nhiều cuộc mít tinh, xuống đường, biểu tình đòi quyền sống tiếp tục
diễn ra. Nhân ngày Quốc tế Lao động 01/05/1938, lần đầu tiên nhiều cuộc mít tinh tổ chức
công khai ở Hà Nội, Sài Gòn, có đông đảo quần chúng tham gia.

Qua các phong trào đấu tranh này, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đoàn kết đấu
tranh đòi quyền sống. Các tầng lớp nhân dân được huy động ra tranh đấu dưới những hình
thức và mức độ khác nhau là những cuộc tập dượt đấu tranh trực diện với địch. Mỗi cuộc
vận động đấu tranh đều hướng vào mục tiêu thiết thực, các khẩu hiệu đấu tranh đều nhằm
vào các yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng. Kết quả là quyền lợi của nhân dân
được thực hiện một phần, có những cải cách dân chủ được duy trì cho đến ngày bùng nổ
Cách mạng tháng Tám. Đó là cơ sở để nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng, tạo
niềm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản
Đông Dương đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng mặt trận
dân tộc thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp
pháp... Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn
đề dân tộc, ... Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc tập dượt, chuẩn
bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2


Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Với lực lượng kẻ thù là thực dân Pháp
bè lũ phản động, tay sai, phát xít, Đảng thực hiện các mục tiêu đề ra là chống phát xít,
thực dân, phản động, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Mặt trận đấu tranh chính là
Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương sau đổi là Mặt trận Dân chủ Đông Dương với
hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai và nửa công khai. Lực lượng đấu tranh thời
kỳ này không còn chỉ là công nhân, nông dân mà là đông đảo nhân dân, không phân biệt
thành phần, giai cấp, tạo nên đội quân chính trị hùng hậu. Chủ trương của Đảng trong thời
kỳ 1936-1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng rất kịp thời và phù hợp với tình hình mới,
tạo ra cao trào đấu tranh sôi nổi. Qua đó chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành, có khả năng
đối phó với mọi tình huống, đưa cách mạng tiến lên không ngừng.

20
CHƯƠNG 3

PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939-1945


3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Tình hình thế giới: Từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt
diễn ra. Cuộc chiến gồm nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận
Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch (của nhân dân
các nước bị phát xít chiếm đóng). Trong đó, ngoài mặt trận chủ yếu, quyết định đối với
toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động đến số
phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu
Á-Thái Bình Dương. Cũng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1943, QTCS-tổ chức
lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
của các Đảng Cộng sản trên thế giới.

Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu: Ngày 10-5-1940, quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà
Lan và Lúc-xăm-bua. Chỉ trong thời gian ngắn, Đức vượt qua phòng tuyến của Pháp và
đầu tháng 6 đến thủ đô Pari. Ngày 10-6, Chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ
Chính phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng.
Ngày 17-6, Pê tanh (Pétain) lên cầm đầu chính phủ đầu hàng phát xít Đức, Ý. Nền Cộng
hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn
(DeGaulle) thành lập “Chính phủ Pháp tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải
phóng đất nước. Mỹ và Anh vẫn chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt
trận. Khi thấy thất bại của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai, đổ bộ lên
miền Bắc Pháp vào ngày 6-6-1944. Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh tiến vào Pari.
Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Pháp, do Đờ Gôn đứng đầu, được thành lập ở Pari.
Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít Đức.

Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương: Ở châu Á, Nhật Bản sớm có dã tâm bành
trướng. Tháng 9-1931, Nhật xâm lược miền Đông Bắc Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu
vực chiếm đóng. Tháng 11-1937, Đức, Ý và Nhật ký Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-
1940, với sự giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân
đội vào Đông Dương. Ngày 27-9-1940, ba nước phát xít lại ký hiệp ước đồng minh quân
21
sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này nhằm chống Liên Xô, và cả Anh, Mỹ. Hiệp ước đề
ra việc phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông. Ngày 7-12-1941, máy
bay Nhật oanh tạc dữ dội các tàu chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân Châu (Hawaii), gây tổn
thất nặng cho Mỹ. Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Từ cuối năm
1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn Nhật Bản thắng lớn. Anh - Mỹ bị đánh bật ra khỏi
Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-
12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái Lan. Ngày 31-12-1941, quân Nhật tấn
công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm
được toàn bộ lãnh thổ Philíppin. Đầu năm 1943, Mỹ chuyển sang phản công trên toàn
chiến trường, chiếm lại các quần đảo và đảo ở Thái Bình Dương.

Quốc tế Cộng sản - tổ chức cách mạng quốc tế lớn chỉ đạo phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa - tự giải thể tự giải
tán Trong năm 1943. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng đã
cản trở hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Sự khó khăn trong duy trì liên lạc với nhau cũng
như đa dạng trong tình hình mỗi nước khiến việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ
một trung tâm duy nhất không còn thích hợp nữa.

Ở Đông Dương: Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên
truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các
hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và cấm tụ họp đông người...

Thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”.
Tháng 6/1940, Đô đốc G. Đờcu được cử làm Toàn quyền, thực hiện một loạt các chính
sách nhằm vơ vét sức người, sức của để dốc vào cuộc chiến tranh. Tháng 9/1940, Nhật
vượt biên giới Việt – Trung vào miền Bắc Việt Nam, Pháp nhanh chóng đầu hàng và cấu
kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông
Dương phải chịu hai tầng áp bức. Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để vơ vét
kinh tế, phục vụ cho chiến tranh, đàn áp cách mạng.

Tình hình trong nước: Về chính trị, đến năm 1940, Việt nam đặt dưới ách thống trị
của Nhật - Pháp. Nhật và tay sai ra sức tuyên truyền văn minh Nhật Bản, thuyết Đại Đông
Á, dọn đường cho việc hất cẳng Pháp sau này. Tháng 3 - 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhân
dân Việt Nam sôi sục khí thế cách mạng, sẵn sàng khởi nghĩa.
22
Về kinh tế, Đầu tháng 9-1939, Pháp thi hành chính sách Kinh tế chỉ huy: tăng thuế
cũ, đặt thêm thuế mới, sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm,... kiểm
soát gắt gao sản xuất, phân phối, ấn định giá cả. Phát xít Nhật ra sức cướp bóc ruộng đất
của nông dân. Các công ty Nhật đầu tư vào các những ngành phục vụ cho quân sự.

Về xã hội, Chính sách bóc lột của Pháp – Nhật đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực.
(Cuối năm 1944 – 1945 có tới 2 triệu đồng bào chết đói). Các giai cấp, tầng lớp ở nước ta,
trừ tay sai đế quốc, đại địa chủ và tư sản mại bản đều bị ảnh hưởng bởi các chính sách bóc
lột của Pháp – Nhật.

Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai phát
triển vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.

3.1.2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng


 Nội dung Hội nghị lần thứ sáu BCHTƯ Đảng (11-1939)

Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến
tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ sáu được triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Cừ chủ trì. Hội nghị phân tích tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai, vị trí của Đông
Dương trong cuộc chiến tranh, những chính sách của thực dân Pháp, thái độ của các giai
cấp xã hội và đề ra đường lối chính trị của cách mạng Đông Dương, cũng như quyết định
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương. Dựa vào các phân tích những
vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách của Liên Xô đối với chiến tranh,
vị trí Đông Dương trong cuộc chiến tranh, chính sách của chính quyền thực dân Pháp ở
Đông Dương, vị trí, thái độ của các giai cấp xã hội, các đảng phái chính trị, vấn đề dân tộc
và phong trào dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng Đông Dương…, Hội nghị đề ra
đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập
chính quyền cách mạng của Đông Dương.

Về vấn đề dân tộc, Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề dân tộc ở Đông Dương phải xét theo
hai mặt: Một mặt là các dân tộc Đông Dương đoàn kết thống nhất đánh đổ đế quốc Pháp
đòi Đông Dương hoàn toàn độc lập và các dân tộc được quyền tự quyết, một mặt nữa là
các phong trào dân tộc giải phóng ở Đông Dương phải liên lạc khăng khít với cách mệnh

23
thế giới (là một bộ phận của cách mệnh vô sản thế giới) để đánh đổ kẻ thù chung là tư bản
đế quốc và xây dựng một thế giới không có dân tộc bị áp bức, không có ranh giới quốc gia
và chia rẽ dân tộc, nghĩa là thế giới cộng sản.

“…Không có một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới
quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể
có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền
thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt
buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như Việt Nam,
Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý
muốn của mình, song sự tự quyết không nhất định là rời hẳn nhau ra”.

Về mục tiêu trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới:

“Dưới đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác
hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng
hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương
chết, đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn" .

Về phương hướng chiến lược cách mạng: “…đứng trong tình thế khác ít nhiều với
tình thế 1930-1931, chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít
nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của
cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh tư sản dân quyền, không
giải quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi
được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào mà để thực hiện được nhiệm
vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện tình hình có thay đổi mới. Đế quốc
chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc
thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bổn xứ
cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm
tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái
mục đích ấy mà giải quyết .

Về hình thức tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất cả phong trào
đấu tranh lẻ tẻ vào cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc

24
Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân
tộc.

Về mặt tổ chức, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng quyết nghị
thành lập Mặt Trận Thống nhất phản đế Đông Dương, trong đó “lực lượng chính của Cách
Mệnh là công nông”, “dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp” [6;539-540]

Hội nghị đã đưa ra một cương lĩnh cụ thể của công cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, gồm 14 điểm:

1. Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế
quốc và phản bội dân tộc ta.

2. Đông Dương hoản toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết).

3. Lập Chính Phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.

4. Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập Quốc dân cách
mạng quân.

5. Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao thông, các binh xưởng,
các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất.

6. Tịch kí và quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc, bọn đế quốc
thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc.

7. Tịch kí và quốc hữu hoá đất ruộng của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản
bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần
chúng nhân dân cày cấy.

8. Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm mỏ, luật xã hội bảo
hiểm hoàn toàn, tiền hưu trí cho thợ, tìm công ăn việc làm cho thợ thất nghiệp, công việc
ngang nhau đồng lương ngang nhau.

9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nông phố và bình dân ngân
hàng.

25
11. Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn, bãi công, phổ
thông đầu phiếu.

12. Phổ thông giáo dục cưỡng bách.

13. Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính trị.

14. Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao [6;541-542].

 Nội dung Hội nghị lần thứ bảy BCHTƯ Đảng (11-1940)

Để ứng phó với tình hình mới (sự có mặt của phát xít Nhật ở Đông Dương), Ban
Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ bảy (ngày 6 đến 9-11-1940 tại Đình Bảng,
Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, tình
hình Đảng và các hội quần chúng, đưa ra đường lối cho cách mạng tương ứng với tình
hình mới. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng tháng 11-1940 vạch rõ nguy cơ của
các dân tộc Đông Dương bị "một cổ hai tròng". Kẻ thù chính của các dân tộc Đông Dương
lúc này không chỉ là thực dân Pháp mà cả phát xít Nhật. Hai tên đế quốc này ra sức vơ vét,
bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh. Do đó "một cao trào cách mạng nhất định sẽ
nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị
áp bức Đông Dương, võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập" Hội nghị đã thảo
luận và quyết định hai vấn đề cấp thiết:

Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích hoạt động
phân tán, dùng hình thức vũ trang công tác vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân
vừa phát triển cơ sở cách mạng tiến tới thành lập khu du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai
làm trung tâm. Đảng cho rằng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra ngày 27-9-1940 dù chỉ tồn
tại trong một tháng và diễn ra trong phạm vi một huyện nhưng có ý nghĩa lịch sử lớn. Nó
mở đầu cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương thời kỳ Chiến tranh thế giới
thứ II, đồng thời qua cuộc khởi nghĩa này Đảng ta rút được bài học quý giá về đấu tranh
vũ trang, khởi nghĩa vũ trang và chọn thời cơ.

Thứ hai, quyết định đình chỉ việc chuẩn bị phát động khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ
vì chưa có điều kiện bảo đảm thắng lợi. Chủ trương của Trung ương vừa truyền đạt đến
Sài Gòn thì đêm 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ và bị thất bại. Tiếp đó, cuộc nổi

26
dậy của binh lính yêu nước trong quân đội Pháp ngày 13-1-1941 do Đội Cung chỉ huy
cũng bị dập tắt. Cả ba cuộc nổi dậy diễn ra ở ba miền Bắc - Trung - Nam tuy bị dập tắt,
song đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của quần chúng cả nước, như“chim én nhỏ báo hiệu
mùa xuân”.

 Nội dung Hội nghị lần thứ tám BCHTƯ Đảng (5-1941)

Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về nước sau 30 năm Người ra
nước ngoài tìm đường cứu nước. Tháng 5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến
19-5-1941 tại khu rừng Khuổi Nậm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc chủ trì, với sự tham gia của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt,
Phùng Chí Kiên, đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Phân tích tình hình thế giới, Nghị quyết của hội nghị nhận định: “Nếu cuộc chiến
tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh
đế quốc lần này, sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước
thành công”. Hội nghị đã ra nhiều quyết định quan trọng.

Một là tiếp tục đặt giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu: Về tình hình
Đông Dương, Hội nghị xác định rõ: “Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải
phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách của giặc Pháp – Nhật”. Ban chấp hành
Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là
mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung
ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày",
thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày
nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Ngày 19-5-
27
1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh)
thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ
các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức của Việt Minh sẽ
là các Hội Cứu quốc. đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc,
Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên
cứu quốc…) để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần,
lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.

Hội nghị nhận định “cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang” và “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa
to lớn” và quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật “sẽ thành lập một chính phủ
nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ toàn
quốc”, nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đội ngũ của Đảng là lấy “vận động công nhân làm
công việc đầu tiên trong việc tổ chức quần chúng của Đảng”…

Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực
lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng
căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định
duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động
phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát
triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung
tâm.

Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Trung Đảng và cử Trường Chinh làm Tổng bí
thư. Ban Thường vụ có thêm Hòang Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt.

Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối đấu tranh
mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -
1939).Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi mọi lực

28
lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông
thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực
chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập.

3.2. Phong trào chống Pháp – Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vụ trang
Ngày 27/9/1940, Nhân việc quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chay
qua đường Bắc Sơn – Thái Nguyên, nhân dân Bắc sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa
phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn.

Tháng 11/1940, Hội nghị cán bộ trung ương họp ở làng Đình Bảng quyết định duy trì
và củng cố lực lượng vũ trang ở Bác Sơn và đình chỉ chủy trương phát động khởi nghĩa ở
Nam Kỳ. Tuy nhiên, chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ chưa được triển khai thì
cuộc khởi nghĩa đã nổ ra vào đêm 23/11/1940. Quân khởi nghĩa đánh chiếm nhiền đồn bốt
và tiến công nhiều quận lỵ. CHính quyền cách mạng được thành lập ở một số địa phương
và ban bố các quyền ự do dân chủ, mở các phiên tòa để xét xử phản cách mạng… Cuộc
khởi nghĩa bị đế quốc Pháp đàn áp khốc liệt, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất
nặng nề, phong trào cách mạng Nam Kỳ gặp khó khăn trong nhiều năm sau.

Ngày 13/1/1941, một cuộc binh biến nổ ra ở đồn Chợ Rạng do Đội cung chỉ huy
nhưng cũng bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.

Sau hộ nghị kần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941), lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc gửi thư (6/6/1941), kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt
gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”

Pháp-Nhật ngày càng tăc cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26/8/1941, thực
dân Pháp xử bắn các đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn
Tần, Nguyễn Thị Minh Khai. Đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo
(6/9/1942). Tháng 8/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên đường đi công tác ở Trung Quốc
cũng bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ hơn một năm.

Ngày 25/10/1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh) ra đời”. Việt Minh là mặt trận đại đàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi tập
29
hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị rộng lớn, một lực lượng cơ bản có ý nghĩa
quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền sau này.

Đảng tích cực chăm lo xây dựng Đảng và củng cố tổ chức, mở nhiều lớp huấn luyện
ngắn ngày, đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận.

Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng hợp ở Võng La, đề ra những biện
pháp cụ thể nhàm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị
điều kiện cho cuộc khởi nghĩa có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.

Đảng và Việt Minh cho xuất bản nhiều tờ báo. Trong các nhà tù đế quốc, những
chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo chí làm vũ khí đấu tranh. Năm 1943, Đảng công bố
bản Đề cương về văn hóa Việt Na, xác định văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ
trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Cuối năm 1944, Hội văn hóa cứu uốc Việt Nam ra đời.

Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng dân
chủ Việt Nam (6/1944).

Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt và người Pháp. Từ
Trung ương đến địa phương đều có ban binh vận.

Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng chú trọng chuẩn bị lực
lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc Sơn
được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân.

Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập môt đội vũ trang ở Cao Bằng
để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng
12/1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần
kíp của Đảng, chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần vạn động nhân dân đấu tranh chống bắt
lính, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân dân, đòi tăng lương, giảm giờ làm cho
công nhân, củng cố mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích chihs

30
thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ tranhg ở các khu du kích,… tiến lên phát
động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi
nổi trong khu căn cứ.

Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc thông báo chủ trương
của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân.

Cuối năm 1944, ở Cao-Bắc-Lạng, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động
chiến tranh du kích trong và ngoài phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung
Quôc trở lại Cao Bằng, kịp thời ra quyết điịnh đình chỉ phát động chiến tranh du kích trên
quy mô rộng lớn vì chưa đủ điều kiện. Tiếp đó, Người ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân.

Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời ở Cao Bằng.
Đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai Khắc (25/12/1944) và Nà Ngần (26/12/1944).

Ngày 24/12/1944, Đoàn của Tổng bộ Việt Minh do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu sang
Trung Quốc liên lạc với các nước đồng minh để phối hợp chống nhật. Tháng 2/1945, lãnh
tụ Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự giúp đỡ của Đồng minh chống phát xít
Nhật.

3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước


Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thức. Hồng quân
Liên xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông
Âu và tiến vê phía Beclin (Đức). Ở Tây Âu, Anh-Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất
Pháp (2/1945) rồi tiến về phía tây nước Đức.

Ở mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh đánh vào Miến Điện. Quân Mỹ đổ bộ lên
Philíppin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị quân Đồng minh khống chế, nên
Nhật phải giữ con đường duy nhất từ Mãn Châu qua Đông Dương xuống Đông Nam Á.

Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc
chiếm Đông Dương. Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt chính sách
nhằm củng cố quyền thống trị. Chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim được Nhật dựng ra
với cái bánh vẽ “độc lập” để phục vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa phát xít.

31
Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lức Nhật nổ súng lật đổ Pháp, Tổng bí thư
Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng Đình
Bảng để phân tích tình hình và đề ra chủy trương chiến lược mới. Ngày 12/6/1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.

Chỉ thị quyêt định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
cho cuộc tổng khởi nghĩa, đồng thời săn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có đủ điều
kiện. Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống nhật cứu
nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
1945.

Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị vè việc tổ chức Ủy ban giải phóng
Việt Nam

Ngày 15/5/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội Nghị quân sự cách
mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa. Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang thành
Việt Nam giải phóng quân, phat triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến khu
trong cả nước.

Tháng 5/1945, Hồ Cí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang), chỉ thị gấp rút chuẩn bị Đại
hội quốc dân, thành lập Khu giải phóng. Ngày 4/6/1945, khu giải phóng được chính thức
thành lập.

Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” đã
“thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy
với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền”.

Báo chí cách mạng của Đảng và Mặt trận Việt Minh đều hoạt động công khai, gây
ảnh hưởng chính trị vang dội.

Cao trào kháng Nhật cứu nước không những đọng viên được đông đảo quần chúng
công nhân, nông dân, tiểu thương, … mà còn lôi kéo cả tư sản dân tộc vào một số dịa chủ
nhỏ tham gia hoạt động cách mạng.

3.4. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền


Giữa tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau phátxít Đức đầu hàng
Liên Xô và Đồng minh (9/5/1945), Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân
Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống
các thành phố Hirosima (6/8/1945) và Nagasaki (9/8/1945), Chính phủ Nhật tuyên bố đầu
hàng Đồng minh không điều kiện ngày 15/8/1945. Quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh
thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ và thời cơ cách mạng xuất hiện.

32
Theo quyết định của Hội nghị Pốtxđam vào tháng 7 năm 1945, quân đội Trung Hoa
dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội của Liên hiệp Annh từ vĩ
tuyến 16 trở vào để giải giáp quân đội Nhật. Pháp âm mưu, với sự trợ giúp từ Anh, sẽ
quay trở lại xâm lược Việt Nam, đầu tiên là phục thồi bộ máy cai trị cũ ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ. Trong khi đó, những thế lực chống cách mạng ở trong nước cũng tìm cách đối
phó. Một vài người trong chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim quay sang tìm kiếm sự trợ
giúp của một số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ. Tại hội nghị Ianta
(2/1945), Tổng thống Mỹ Roosevelt hoàn toàn nhất trí với đề nghị chỉ để các thuộc địa
dưới quyền uỷ trị nếu “mẫu quốc” – tức Pháp đồng ý. Kể từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về
Pháp và ủng hộ Pháp trở lại xâm lược Đông Dương, đặc biệt là khi Roosevelt qua đời.
Trong tình hình thời cơ giành chính quyền từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng đến trước khi
quân Đồng minh vào Đông Dương nửa cuối tháng 8/1945, vấn đề đặt ra như một cuộc
chạy đua nước rút để giành chính quyền của Đảng và nhân dân Việt Nam, vừa tranh thủ
thời cơ vừa khắc phục nguy cơ để cách mạng thành công.

Ngày 12/8/1945, Uỷ ban lâm thời Khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu.
Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa
toàn quốc; 23 giờ cùng ngày ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa toàn
quốc. Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, tập trung phân
tích tình hình và dự đoán: “Quân Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi
phục lại địa vị cũ ở Đông Dương” 5. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược!
Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!”. Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo
khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động là phải đánh
chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính
trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh;
chộp lấy những căn cứ chính trước khi quân Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân
những nơi giành được quyền làm chủ.

Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào và tán thành quyết định tổng khởi
nghĩa của Đảng, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Bác Hồ kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể
chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cả tiến lên!” 6

Từ ngày 14 đến ngày 18/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng do
nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vào tình hình thực
tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi
nghĩa.

Từ ngày 14/8/1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn bình
Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, … hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.424.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.596.
33
chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16/8/1945, một đơn vị Giải phóng quân do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về thị xã Thái Nguyên.

Tại Hà Nội, ngày 17/8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mittinh ủng hộ chính
phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các tổ chức cứu
quốc ở nội và ngoại thành tiến hành míttinh đó thành cuộc míttinh ủng hộ Việt Minh.

Sau cuộc biểu dương lực lượng, Thành ủy Hà Nội nhận định đã có điều kiện để phát
động tổng khởi nghĩa.

Sáng ngày 19/8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Quần chúng cách mạng
xuống đường tập hợp thành đội ngủ, rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà há thành phố trong
tiếng hát “Tiến quân ca”. Trước khí thế và sức mạnh áp đảo của quần chúng, hơn một vạn
quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi ở Hà
Nội ảnh hưởng nhanh chống đến nhiều tỉnh và thành phố khác.

Ngày23/8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế huy động quần chúng từ các huyện đã
giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân trong nội thành Huế xuống
đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền và quân đội Nhật hoàn toàn tê liệt.

Ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An đã giành được chính quyền, xứ ủy Nam Kỳ
quyến định khởi nghĩa ở Saì Gòn và các tỉnh. Đêm 24/8, các lực lượng khoiẻ nghĩa với
gậy tầm vông, giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25/8, hơn 1
triệu người biểu tình tuần hành thị uy.

Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị đập tan các cơ quan
đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước.

Ngày 25/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban dân tốc
giải phóng về đến Hà Nộ, thống nhất những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình
hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của chính phủ lâm thởi, chuẩn bị đề ra
Tuyên ngôn độc lập.

Trong cuộc họp ngày 27/8/1945, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Ngày 30/8/1945, tại cuộc míttinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, Huế,
Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình, Hà
Nội. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

34
Như vậy cách mạng tháng tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù
trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phátxít Nhật đã đầu hàng đồng minh, quân sội Nhật ở
Đông Dương mấ hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận
lợi để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Dù có những sai lầm trong những bước đầu thay đổi, nhưng với sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân ta có một sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho cách
mạng tháng Tám từ đó khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Với việc tận dung
được những thời điểm thích hợp để phát triển phong trào thành khởi nghĩa giành chính
quyền và đạt được những thắng lợi to lớn. Với những thành tựu đạt được thì đây là bàn
đạp để phát triển lực lượng cách mạng càng lúc càng lớn mạnh và đi sâu trong lòng nhân
dân từ đó thực hiện hoàn thành sứ mệnh thống nhất đất nước.

35
CHƯƠNG 4

TÍNH CHẤT, Ý NGHĨA, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM 1945


4.1. Tính chất của cách mạng tháng tám 1945
Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng
khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, “Cách mạng Tháng Tám Việt
Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt
Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước độc lập, tự do”.

Cách mạng Tháng Tám 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình.
Việc này được thể hiện qua nhiều khía cạnh về nhiệm vụ, lực lượng hay chính quyền.

Về nhiệm vụ, Đảng ta xác định tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cuộc
cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt
Nam là mâu thuẫn giữa toán thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng
yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân
dân.

Lực lượng cách mạng bao gồm toán dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Việt
Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất
mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 là
sự vùng dậy của lực lượng toán dân tộc.

Đảng chủ trương thành lập chính quyền Nhà nước “của chung toán dân tộc” với hình
thức cộng hòa dân chủ. Đảng ta xác định, chỉ trừ tay sai đế quốc và những kẻ phản quốc,
“còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ
chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.

Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát
xít. Như Tổng Bí thư Trường Chinh nhận định cuộc cách mạng này “chống lại phát xít
Nhật và bọn phong kiến phản động, tay sai của phát xít Nhật, và nó là một bộ phận của

36
cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm
lược”. Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất
trong dân tộc; một phần ruộng đất của đế quốc và Việt Nam đã bị tịch thu, địa tô được
tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cũ được xóa bỏ. Cuộc cách mạng thành công, chính
quyền Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam đã được thành lập, xóa bỏ chế độ
quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.

Tuy vậy, vẫn còn những điều mà Cách mạng Tháng Tám chưa làm được. Cách mạng
Tháng Tám chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng,
chưa xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xóa bỏ những tàn tích phong
kiến và nửa phong kiến để cho công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh…. Do đó quan
hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như cũ. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
định rằng “Cách mạng Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy
đủ và sâu sắc”.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính
nhân văn, hoàn thành một bước cơ bản sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam khỏi
mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

4.2. Ý nghĩa của cách mạng tháng tám 1945


Cách mạng Tháng Tám 1945 mang lại niềm tự hào vì có Đảng lãnh đạo cách mạng
thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt
Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có
thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa
và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”.

Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa
đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng
nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn
đề chính quyền. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân
phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn
37
lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi này đưa Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ hoạt động bí mật trở thành
một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách
mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên
độc lập, tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành
thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà còn là
chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế, nó có
sức mạnh cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng
tạo của Đảng và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi
ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám còn làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.

4.3. Bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng tám 1945
Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 để lại cho Đảng và nhân dân Việt
Nam nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu.

Thứ nhất, chỉ đạo chiến lược phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong
cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ
cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, thực hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ cho
nhiệm vụ chống đế quốc.

Thứ hai, xây dựng lực lượng trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tinh
thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận
38
dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về huy động
lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật, cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của
V.I.Lenin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó là một
“lò lửa khởi nghĩa dân tộc”.

Thứ ba, phương pháp cách mạng cần nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của
quần chúng, ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng
phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp
đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền
toàn quốc.

Thứ tư, phải xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc,
vận dụng và phát triển lý luận Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối
chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên
hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường được tôi luyện
trong đấu tranh cách mạng. Cần chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung
ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của đảng bộ các địa phương.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4


Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch
sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hóa của dân
tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua muôn vàn khó khan,
thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết, phấn đấu của toàn
dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng 1930 – 1945, Đảng đã lãnh đạo giai
cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước quân chủ nhân dân.

39
PHẦN KẾT LUẬN
Mang ý nghĩa quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn đến cách mạng Việt Nam, Đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945 đã thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén, sự
sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động
phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, là lối đi then chốt để dẫn đến sự thắng lợi to lớn của cách mạng Việt
Nam. Đường lối ấy cũng đã thể hiện rõ tinh thần dân tộc bất khuất, tự lực, tự cường và ý
chí bảo vệ Tổ quốc cao cả của toàn bộ dân tộc Việt.

Những nội dung chính đã được tìm hiểu và trình bày từ quá trình Đảng lãnh đạo
hình thành và phát triển Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945:

Nội dung đầu tiên, Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930-1931, phong trào đã
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lối đi đúng đắn khi vận dụng
hợp lý sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông trong cuộc đấu tranh chống đế quốc
và phong kiến vì độc lập dân tộc và dân chủ. Bước đầu phát triển và gặp nhiều khó khăn,
bị đàn áp bởi thực dân Pháp, nhưng đến giai đoạn 1932-1935, phong trào được khôi phục
và tiếp tục phát triển.

Thứ hai, Đảng tiếp tục lãnh đạo phong trào dân chủ 1936-1939. Đảng Cộng sản đã
tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất,
kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp... Đồng thời,
Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc... để dần
hoàn thiện và làm bàn đạp cho cách mạng Tháng 8-1945.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Đảng tập hợp, tổ
chức các lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở liên minh công
nông, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù để đánh bại chúng. Kết
quả to lớn là sự thắng lợi của cách mạng Tháng 8-1945.

Cuối cùng, thắng lợi vẻ vang của cách mạng Tháng 8-1945 đem lại nhiều ý nghĩa to
lớn mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động lên
40
nắm chính quyền, làm chủ đất nước, mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan
xiềng xích của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại ngót
một ngàn năm, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít, cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong đấu tranh tự giải phóng. Cùng với đó là
nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho Đảng và nhân dân trong công cuộc bảo vệ nền độc
lập mới dành được, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam
(Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2019), Tư liệu tham khảo cuộc thi trắc nghiệm
Tìm hiểu 90 năm lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam: tư liệu cuộc thi, luận
cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương,

https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-
ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/luan-cuong-chanh-tri-cua-dang-
cong-san-dong-duong-532738.html, ngày truy cập, 10/02/2022.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.

4. Minh Đức (2015), Phong trào Đông Dương Đại hội và những cuộc đấu tranh công
khai, https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm
%3Apath%3A/camaulibrary/camauofsite/gioithieu/chuyende/kyniemnhungngaylelon/
cachmangthang8/thongtinquockhanh/dgfsdghdfh16, ngày truy cập, 19/02/2022.

5. Công ty cổ phần tin học Lạc Việt, Phong trào cách mạng 1930-1935, Bài 14,
https://suretest.vn/cung-co/bai-14-phong-trao-cach-mang-1930-1935-7938.html, ngày truy
cập, 10/02/2022.

6. Nguyễn Trọng Phúc (2019), Đấu tranh chống thế lực tơ-rốt-xkít bảo vệ đường lối của
Đảng (1930 - 1945) và bài học cho đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân túy
hiện nay, https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/dau-tranh-chong-the-luc-to-rot-xkit-bao-ve-
duong-loi-cua-dang-1930-1945-va-bai-hoc-cho-dau-tranh-chong-chu-nghia-co-124175,
ngày truy cập, 21/02/2022.

7. Nguyễn Thị Tâm, Cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam (1939-1945),
https://vanban.laocai.gov.vn/1299/31180/65534/362910/chuyen-de/cuoc-van-dong-giai-
phong-dan-toc-viet-nam-1939-1945-hoc-ki-ii-nam-hoc-2018-2019-nguyen-thi-tam, ngày
truy cập, 21/02/2022.
42
8. Đặng Đình Tân (2012), “Tự chỉ trích” - một tác phẩm xuất sắc về xây dựng chỉnh đốn
Đảng của nguyên cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, https://danguy.vinhuni.edu.vn/tu-lieu-
ve-dang/seo/tu-chi-trich-mot-tac-pham-xuat-sac-ve-xay-dung-chinh-don-dang-cua-
nguyen-co-tong-bi-thu-nguyen-van-cu-46842, ngày truy cập, 22/02/2022.

9. Viện Lịch sử Đảng (2008), Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, tr.468-
471, Nxb. Chính trị Quốc gia.

43

You might also like