Professional Documents
Culture Documents
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1954 hầu hết là giai đoạn kháng chiến
chống thực dân Pháp với các mốc thời gian nổi bật sau đây:
Lịch sử Việt Nam từ 1945-1954 qua kháng chiến chống Pháp từ năm 1946-
1950: Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp nổ ra Pháp bội ước và
công ty nước ta. Con kháng chiến tại đô thị và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài với thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 và
sức mạnh chiến đấu chống toàn dân, toàn diện. Hoàn thành lịch sử mới và
chiến dịch biên giới Thu – Đông năm 1950.
Bước phát triển mới của cuộc chiến toàn quốc chống thực dân Pháp từ năm
1951 đến năm 1953: Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh hàng hóa Đông
Dương. Đại hội Đại biểu lần thứ 2 của Đảng diễn ra vào tháng 2 năm 1951.
Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt. Các công cụ chiến dịch giữ
quyền chủ động trên chiến trường. Bao gồm các chiến dịch: Các chiến dịch ở
trung du và đồng bằng Bắc Bộ từ năm 1950 đến năm 1951; Chiến dịch Hòa
Bình Đông – Xuân từ 1951 đến 1952. Chiến dịch Tây Bắc Thu – Đông năm
1952; Chiến dịch Thượng Lào Xuân – Hè năm 1953.
Con kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc từ năm 1953 đến
năm 1954: Mới âm thanh của Pháp – Mỹ ở Đông Dương với Nava kế hoạch.
Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân từ năm 1953 đến năm 1954 với các
chiến dịch: Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 đến năm 1954;
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Đây cũng được coi là chiến dịch
nổi bật nhất trong Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1954. Hiệp định
Giơnevơ năm 1954 về cuộc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp từ
năm 1945 đến năm 1954. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 đến năm 1954
cũng kết thúc tại đây để chuẩn bị cho giai đoạn 1954-1975.
2.2. Phá thế bị bao vây, cô lập, giành sự công nhận quốc tế đối với Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngay sau khi thành lập chính phủ lâm thời, Việt Nam đã tiến hành nhiều biện
pháp nhằm khẳng định độc lập, chủ quyền của đất nước và xây dựng sự công nhận
quốc tế, cụ thể là:
Một là, tỏ rõ vai trò nước chủ nhà trong việc tổ chức đón quân Đồng minh
vào giải giáp quân Nhật, tổ chức biểu tình 4 vạn người đón Hà Ứng Khâm.
Hai là, gửi thư tới Liên hợp quốc và đại diện các nước lớn như Pháp, Anh,
Mỹ nhằm xây dựng sự công nhận quốc tế.
Cuối tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Lời kêu gọi Liên hợp quốc và
Hội đồng Bảo an, nêu rõ nguồn gốc và tình hình cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Người viết: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và
độc lập cho đất nước”. Người nêu những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của
Việt Nam, đề nghị “Hội đồng vui lòng chấp nhận những điều mà chúng tôi đã nói ở
trên để vãn hồi hòa bình trong một phần thế giới này, để cho Hiến chương Đại Tây
Dương được tôn trọng và để khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là
được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ”.
Tháng 12/1946, trong lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh tuyên bố
những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại rộng mở và hợp tác của Việt Nam, kể
cả chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Người khẳng định: “Đối với các nước dân
chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực: Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà
kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt Nam sẵn
sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá
cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc
tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực
lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an
ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân
và không quân”.
Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến đầu tháng 03/1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và nhân dân
Pháp, nêu rõ nguyên nhân xung đột, đề nghị ngừng bắn và nối lại các cuộc đàm
phán để lập lại hòa bình. Trong thư gửi Quốc hội và nhân dân Pháp (07/01/1947),
Người viết: “Muốn lập lại hòa bình, chỉ cần: Trở lại tình trạng trước ngày 20/11 và
17/12/1946, đình chỉ ngay và đình chỉ thực sự những cuộc xung đột trong toàn cõi
Việt Nam (Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ). Xúc tiến ngay công việc của các uỷ ban
đã dự định đặt ra để thi hành Tạm ước 14/9/1946, các uỷ ban này phải họp ở Sài
Gòn và Hà Nội, nhưng không ở Đà Lạt. Tiếp tục ngay những cuộc điều đình ở
Fontaineucleau để giải quyết một cách vĩnh cửu vấn đề giao thiệp giữa hai nước
Pháp, Việt... Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập
và thống nhất của nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này; hòa bình và
trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc, dân tộc Việt Nam đang chờ đợi cử chỉ đó”.
Trong lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp ngày 10/01/1947, Người viết:
“Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và người Việt ngừng chảy.
Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau. Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ
và nhân dân Pháp mang lại một cử chỉ hòa bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải
chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước”. Trong thư gửi tướng
Leclerc, Hồ Chí Minh viết: “Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh một
dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác như
anh em với nước ngài sao? Phải chăng đó là một công việc bạc bẽo đau đớn”.
Lập trường hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tác động đến dư
luận nước Pháp. Đảng Cộng sản và các lực lượng cánh tả đòi Chính phủ Pháp nối lại
thương lượng với Chính phủ Việt Nam. Thủ tướng Ramađiê buộc phải hứa xem xét
mọi yêu cầu đình chiến (03/04/1947). Cao ủy Pháp Bôlae cử P.Muýt gặp Hồ Chí
Minh và Bộ trưởng Hoàng Minh Giám tại Thái Nguyên (11/05/1947). Phía Pháp
nêu những điều kiện ngừng bắn: Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho quân đội
Pháp. Quân đội Pháp đi lại và đóng binh tự do khắp nơi trên đất nước Việt Nam.
Giao trả những tù binh lính Pháp hay lính Lê dương đảo ngũ chạy qua phía Việt
Nam. Thả những người Pháp và người Việt Nam thân Pháp do Chính phủ Việt Nam
giam giữ” 10 10 . Đó là những điều kiện mà việc thực hiện đồng nghĩa với sự đầu
hàng. Hồ Chí Minh phê phán những điều kiện của phía Pháp, nêu rõ những lập
trường của Chính phủ nhân dân Việt Nam là muốn có hòa bình và quan hệ tốt với
nhân dân Pháp. Người khẳng định: Chúng tôi muốn có hòa binh, nhưng không phải
là bất cứ giá nào, mà phải là hòa bình trong độc lập tự do.
Trong khi nỗ lực để đem lại hòa bình, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng
khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam: “Hễ còn một tên lính thực
dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn
toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự” 11 11 .
Hành động chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp không chỉ vi phạm thô
bạo chủ quyền dân tộc Việt Nam mà còn phá hoại hòa bình thế giới. Kẻ thù của dân
tộc Việt Nam cũng là kẻ thù của nhân dân yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ
thế giới. Mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta cũng là mục tiêu đấu tranh của nhân
dân thế giới.
Ba là, lập quan hệ với các phái đoàn của các lực lượng quân đội Đồng minh ở
Việt Nam. Việt Nam lập các cơ quan đại diện tại Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ. Việc
thành lập các cơ quan này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tuyên truyền đối
ngoại, giúp Việt Nam kịp thời nắm bắt tin tức quốc tế để có hướng xử lý đối ngoại
kịp thời. Đồng thời, qua các cơ quan này, Việt Nam đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
cả về tinh thần và vật chất, đào tạo cán bộ...
Việt Nam đã lập 12 phòng thông tin ở các địa bàn quan trọng như Pa-ri, Luân
Đôn, Niu Oóc, Pra-ha, Niu Đê-li, Răng-gun, Băng-cốc, Xin-ga-po, Hồng Kông, Tân
Đảo. Dưới sự hỗ trợ của các tổ chức dân chủ, các hội ái hữu sở tại và Việt kiều, các
phòng thông tin của Việt Nam đã cung cấp ra thế giới những tin tức và hình ảnh về
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, đường lối chính sách của Việt Nam để
nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về Việt Nam và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam.
Bốn là, đối với các hội nghị quốc tế và khu vực. Việt Nam cử đại biểu tham
dự như Hội nghị Liên Á (tháng 4/1947) tại Niu Đê-li, hội nghị ESCAP (tháng
1/1949) tại Băng-cốc, hội nghị Nhân dân thế giới đấu tranh cho hoà bình (tháng
4/1949) tại Pa-ri, hội nghị Liên hiệp Công đoàn thế giới (tháng 6/1949) tại Mi-lan.
Thông qua các hội nghị này, với tư cách là một dân tộc đấu tranh giành độc lập, Việt
Nam đã đưa được tiếng nói chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đến với nhân dân
thế giới, tạo được sự đồng tình ủng hộ nhất định.
Năm là, về quan hệ ngoại giao, Việt Nam tuyên bố khẳng định nguyện vọng
thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày 14/1/1950, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đứng hẳn về
phe dân chủ và nhập vào hẳn khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc. Chắc chắn
thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho thắng lợi sau này, Chính phủ Việt Nam Dân
chủ cộng hoà sẵn sàng cùng chính phủ các nước trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại
giao trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia.
Đáp lại thiện chí của Việt Nam, các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân
dân đã nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam như Trung Quốc
(18/1/1950), Liên Xô (30/1/1950), Triều Tiên (31/1/1950), Tiệp Khắc (02/2/1950),
Hung-ga-ri (03/2/1950),Bun-ga-ri(08/2/1950), Ru-ma-ni (03/2/1950), Ba-lan
(04/2/1950), An-ba-ni (11/2/1950), Mông Cổ (17/11/1954). Đây là thắng lợi đối
ngoại lớn của Việt Nam, bước đầu giành được sự công nhận quốc tế, phá được thế
bị bao vây, cô lập, xây dựng được các kênh quan hệ công khai, vững chắc với các
nước Xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới.
2.4. Vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam
Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, Tổng Bí thư Đảng
Trường Chinh viết: “Ta phải làm cho các lực lượng tiến bộ trên thế giới nhận rõ
rằng: ta hy sinh, cố gắng vì hòa bình trên thế giới nữa. Đấu tranh cho hòa bình và
dân chủ, cá lực lượng ấy không thể đứng bàng quan hoặc chỉ ủng hộ Việt Nam bằng
lời nói mà phải ủng hộ Việt Nam bằng việc làm. Phải lôi thực dân Pháp ra tòa án dư
luận quốc tế mà hỏi tội mà bắt chúng đình chỉ cuộc chiến tranh ăn cướp ở Đông
Dương, một cuộc chiến tranh trái hẳn Hiến chương Liên hợp quốc”. Giải thích cụ
thể đường lối kháng chiến của Đảng, về mặt đối ngoại, Tổng Bí thư chỉ rõ: phải cô
lập kẻ thù, kéo theo nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa
Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động Pháp; làm cho các lực lượng
hòa bình và dân chủ trên thế giới bênh vực ta, tán thành mục đích kháng chiến của
ta.
Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng (15-17/1/1948) cũng chỉ rõ: cuộc kháng
chiến của Việt Nam trực tiếp chịu ảnh hưởng lớn lao của tình hình Pháp và Trung
Hoa, nên nước ta phải chuẩn bị đối phó với mọi biến chuyển quốc tế, nhất là biến
chuyển ở hai nước đó; phải theo dõi thật sát tình hình chính trị thế giới, đặc biệt là
tình hình Pháp, Trung Hoa và các nước Đông Nam Á, châu Á và các chính sách thủ
đoạn của phản động Mỹ, có thể thấy trước các biến cố. Liên lạc chặt chẽ với các
Đảng anh em để thi hành những phương sách giúp đỡ nhau một cách thiết thực, tích
cực chuẩn bị về quân sự, chính trị để lâm thời có thể hành động một cách táo bạo và
mau lẹ, xoay chuyển tình thế, để thu thật nhiều thắng lợi cho cuộc kháng chiến,
giành lấy vinh quang cho dân tộc.
Những quan điểm cơ bản về chính sách đối ngoại hữu nghị và hợp tác rộng
mở của Đảng và Chính phủ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiều
lần trong thư gửi các lãnh tụ và nhân dân các nước (13/01/1947), các thư gửi Chính
phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, trong trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí
nước ngoài. Người khẳng định: “Việt Nam chỉ muốn hoà bình và độc lập, để cộng
tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới, trước là với các dân tộc anh em Á Đông
và dân tộc Pháp”. “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á Châu là một thái
độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”.
Ngoài thực lực đấu tranh trong nước, các hoạt động ngoại giao vận động nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa hết sức quan
trọng nhằm tập hợp lực lượng quốc tế ủng hộ Việt Nam. Thông qua các cơ quan đại
diện ở nước ngoài, Việt Nam đẩy mạnh tuyên truyền tới nhân dân Pháp và nhân dân
thế giới về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược,
chống áp bức, bóc lột; tập hợp được các lực lượng tiến bộ ủng hộ sự nghiệp chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam. Việt Nam đã phối hợp với Đảng Cộng sản Pháp dấy
lên phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp chống cuộc chiến tranh của chính quyền
Pháp tại Đông Dương. Một thách thức lớn đối với giới cầm quyền Pháp là phong
trào phản đối chiến tranh lên cao ngay tại nước Pháp với sự tham gia của nhiều tầng
lớp nhân dân, đòi đưa quân đội viễn chinh về nước, đòi hòa bình ở Việt Nam, đòi
điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản
Pháp, Tổng Công đoàn Pháp phát động những cuộc bãi công ở các cảng có tàu chở
vũ khí và trang thiết bị đi Đông Dương. Điển hình cho phong trào của nhân dân
Pháp phản đối chiến tranh Đông Dương là tấm gương của Raymông Điêng
(Raymond Dien) và Hăngri Máctanh (Henri Martin), đã làm chấn động toàn nước
Pháp.
Điều này có tác dụng rất lớn trong việc gây sức ép và đánh vào tâm lý giới
cầm quyền Pháp cũng như thuyết phục nhân dân thế giới tin vào tính chất phi nghĩa
của cuộc chiến tranh xâm lược của chính quyền Pháp tại Đông Dương. Kết quả là,
nước ta đã có được sự ủng hộ quốc tế rất lớn và có giá trị. Tổ chức Hoà bình và
Công đoàn quốc tế đã phối hợp với nhân dân Pháp đấu tranh đòi vãn hồi hòa bình ở
Đông Dương. Ban Thường trực Hội đồng Hoà bình thế giới đã thông qua nghị quyết
ngày 10/9/1953 kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi Pháp chấm dứt cuộc chiến
tranh tại Đông Dương. Đại hội lần thứ ba của tổ chức Công đoàn thế giới tháng
10/1953 quyết định lấy ngày 19/12/1953 là ngày lao động thế giới đoàn kết với nhân
dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn về tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế. Liên Xô,
Trung Quốc đã dành cho ta sự giúp đỡ rất to lớn và có hiệu quả về xây dựng quân
đội, vũ khí, quân trang, quân dụng, lương thực, y tế, đào tạo cán bộ... góp phần
không nhỏ vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam.
2.5. Ngoại giao trong giai đoạn kết thúc cuộc kháng chiến chông Pháp
Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã phát huy truyền thống “vừa đánh - vừa đàm” của dân tộc, phối hợp
chặt chẽ và nhịp nhàng các hoạt động tiến công quân sự và tiến công ngoại giao,
từng bước thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho Việt Nam, tiến tới chiến thắng
Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954.
Những thắng lợi về quân sự, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã tạo thế
mạnh cho Việt Nam giành thắng lợi trên bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne- vơ
1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, giành được sự công nhận của cộng đồng
quốc tế đối với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam.
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Đầu năm 1954,
khi Chiến tranh Lạnh đã đến điểm cao, thì lại xuất hiện xu thế hòa hoãn giữa các
nước lớn. Sau một quá trình thương lượng khó khăn và mặc dù Mĩ chống đối, Hội
nghị ngoại trưởng 4 nước lớn Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp ở Beclin từ ngày 25/01/1954
đến ngày 18/02/1954 đã quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để
bàn về vấn đề Triều Tiên và việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương với sự tham gia của Trung Quốc và một số nước hữu quan. Hội nghị quốc tế
Giơ-ne-vơ bàn về giải quyết vấn đề chiến tranh ở Đông Dương diễn ra từ ngày 8/5-
21/7/1954 với sự tham gia của 9 đoàn đại biểu, gồm 5 nước lớn là Liên Xô, Mỹ,
Anh, Pháp, Trung Quốc và các đoàn của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Quốc gia
Việt Nam, Vương quốc Cam-pu-chia, Vương quốc Lào.
Việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa rất to lớn:
i) Hiệp định Giơ-ne-vơ đã đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp ở Đông Dương; bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ
vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước là
miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa,
hậu phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm
sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín cho dân tộc
và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước sau đó...
ii) Cộng đồng quốc tế thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, công nhận Việt Nam là quốc gia độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
iii) Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến
tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi
tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu
tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập
dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và
địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.