You are on page 1of 13

CÁC LÝ THUYẾT ĐỊA LÝ HỌC VĂN HOÁ, SINH THÁI HỌC VĂN

HOÁ VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ

Lý Tùng Hiếu*

Các lý thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá được phát triển ở
phương Tây trong thế kỷ XX đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự
hình thành, biến đổi của văn hoá, đồng thời xác định mối quan hệ giữa văn hoá với
môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh
quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Vận dụng các lý
thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá trong nghiên cứu văn hoá, chúng
tôi nhận thức rằng, điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hoá là hai tác
nhân hợp thành một môi trường văn hoá mà trong đó, nền văn hoá của các cộng đồng
người hình thành, vận động và biến đổi. Do những tác động khác nhau của hai tác
nhân ấy, các nền văn hoá có thể mang tính chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm
chạp hay nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều. Trước những tác động ấy, số
phận của các nền văn hoá sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn
của các chủ thể văn hoá.
Từ khoá: địa lý học văn hoá; sinh thái học văn hoá; điều kiện địa lý tự nhiên;
điều kiện giao lưu văn hoá; môi trường văn hoá.
CONTRIBUTORY VALUES AND APPLIED DIRECTIONS OF THEORIES OF
CULTURAL GEOGRAPHY AND CULTURAL ECOLOGY
Theories of cultural geography and cultural ecology developed in the West in
the twentieth century have shed light on the role of the natural environment for the
formation and transformation of culture, the relationship between culture and the
environment, adaptation of people to the natural environment, and the shaping of the
landscape by agricultural production, technology and construction. Applying theories
of cultural geography and cultural ecology in the study of culture, the author
recognizes that physical geographic conditions and cultural interchange conditions
are two components of a cultural environment, in which the cultures of human
communities form, move and change. Due to the varied effects of these two factors,
cultures can be static or dynamic, slow or fast changing, more or less variable. Faces
these effects, the fate of cultures will depend on the creativity and the choice of the
cultural subjects.
Keywords: cultural geography; cultural ecology; physical geographic
condition; cultural interchange condition; cultural environment.
-----------------------------------------

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các lý thuyết địa lý học văn hoá (cultural geography) và sinh thái học văn hoá
(cultural ecology) được phát triển ở phương Tây trong thế kỷ XX với sự đóng góp của
*
Tiến sĩ, Giảng viên chính, Khoa Văn hoá học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG-HCM.
Email: lytunghieu@gmail.com.
1
các nhà địa lý học, sinh thái học, và nhân học. Thông qua việc nghiên cứu quan hệ
giữa văn hoá với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và
sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người,
các lý thuyết này đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường địa lý tự nhiên đối với sự hình
thành, biến đổi của văn hoá, đồng thời chỉ ra những tác động trở lại của văn hoá đối
với môi trường sinh thái, từ đó đặt ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái
của con người.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, các lý thuyết địa lý học văn hoá và
sinh thái học văn hoá đã được giới thiệu và vận dụng ở Việt Nam trong một số công
trình nghiên cứu địa lý học, sinh thái học, nhân học. Trong ngành văn hoá học, tác giả
cũng đã có dịp giới thiệu và vận dụng các lý thuyết này trong một số công trình nghiên
cứu liên quan [Lý Tùng Hiếu, 2017: 36-40; 2019a: 33-40; 2019b: 36-47; 2019c: 18-
31]. Đáp ứng nhu cầu cập nhật tri thức lý thuyết văn hoá học, trong bài này tác giả sẽ
bổ sung tư liệu và vận dụng phương pháp phân tích - tổng hợp tư liệu và phương pháp
so sánh, để tóm lược giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái
học văn hoá, và giới thiệu hướng vận dụng, phát triển những luận điểm phù hợp của
các lý thuyết này vào việc nghiên cứu văn hoá và văn hoá Việt Nam.

2. GIÁ TRỊ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC LÝ THUYẾT ĐỊA LÝ HỌC VĂN HOÁ VÀ
SINH THÁI HỌC VĂN HOÁ
2.1. Carl Ortwin Sauer với “hình thái học cảnh quan”
Người được xem là có công đặt nền móng cho các lý thuyết địa lý học văn hoá
và sinh thái học văn hoá là Carl Ortwin Sauer (1889-1975), nhà địa lý học người Mỹ
đã phát triển phân ngành địa lý học văn hoá. Bài báo “The morphology of landscape”
(Hình thái học của cảnh quan, 1925) của ông đăng trên University of California
Publications in Geography 2 được xem là bài báo tiếng Anh có ảnh hưởng nhất trong
việc giới thiệu những ý tưởng về các cảnh quan văn hoá. Theo C.O. Sauer, “trong mỗi
cảnh quan, có những hiện tượng không đơn giản có mặt ở đó nhưng chúng có liên đới
với nhau hoặc độc lập với nhau”. Do đó, theo ông, nhiệm vụ của nhà địa lý học là phát
hiện mối liên kết cấp vùng giữa các hiện tượng: “Nhiệm vụ của địa lý học được quan
niệm là thiết lập một hệ thống có tính cách quyết định bao gồm các hiện tượng cảnh
quan, nhằm nắm bắt tất cả ý nghĩa của nó và tạo màu sắc cho quang cảnh đa dạng trên
mặt đất”1. Đối với quyết định luận môi trường (environmental determinism), một lý
thuyết phổ biến trong địa lý học khi C.O. Sauer bắt đầu sự nghiệp, ông có thái độ phê
bình quyết liệt. Ông đề xuất một cách tiếp cận khác gọi là “hình thái học cảnh quan”
(landscape morphology) hoặc “lịch sử văn hoá” (cultural history). Cách tiếp cận này
liên quan đến việc thu thập quy nạp các dữ kiện thực tế về tác động của con người lên
cảnh quan theo thời gian. C.O. Sauer tin rằng nông nghiệp, sự thuần hoá thực vật và
động vật có ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Trong Kết luận của bài báo trên, ông
đúc kết nhiệm vụ của nhà địa lý học là vượt thoát sự cầm tù của những lý thuyết lỗi
1
Nguyên văn: “Within each landscape there are phenomena that are not simply there but are
either associated or independent of each other”. “The task of geography is conceived as the
establishment of a critical system which embraces the phenomenology of landscape, in order
to grasp in all of its meaning and colour the varied terrestrial scene” [Sauer, Carl O.: 1925:
20].
2
thời, vận dụng cách tiếp cận hình thái học để xử lý mối quan hệ qua lại giữa con người
với môi trường, thể hiện trong các cảnh quan khác nhau trên thế giới:
“Trong hiện thực đầy màu sắc của cuộc sống, sự kiềm toả của những lý thuyết
‘giản dị thái quá’ đang bị thực tế tấn công liên tục. Chúng ta quan tâm đến
“hoạt động có chỉ huy, không phải là sự thực hành non nớt” và đây là cách tiếp
cận hình thái học. Bộ phận hiện thực được lựa chọn một cách thô phác của
chúng ta, tức là cảnh quan, đang trải qua sự thay đổi trên nhiều phương diện. Sự
tiếp xúc của con người với ngôi nhà không ngừng biến chuyển của mình, như
được thể hiện qua cảnh quan văn hoá, là địa hạt công việc của chúng ta. Chúng
ta quan tâm đến tầm quan trọng của nơi chốn đối với con người, và cả với sự
chuyển đổi nơi chốn của con người. Nói chung, chúng ta xử lý mối quan hệ qua
lại giữa nhóm hoặc các nền văn hoá với nơi chốn, như được thể hiện trong các
cảnh quan khác nhau của thế giới” [Sauer, Carl O., 1925: 53] 2.
Trong bài báo “Recent developments in cultural geography” (Những phát triển
gần đây trong địa lý học văn hoá, 1927), C.O. Sauer đã xem xét sự thành tạo các cảnh
quan văn hoá (cultural landscapes) từ “các dạng thức xếp chồng lên trên cảnh quan tự
nhiên” (the forms superimposed on the physical landscape) [Sauer, Carl O., 1927: 154-
212].
Đặc biệt, C.O. Sauer tỏ ra quan tâm đến cách thức mà chủ nghĩa tư bản hiện đại
và các chính phủ trung ương tập quyền phá huỷ sự đa dạng văn hoá và sức khoẻ môi
trường của thế giới. Trong bài báo “Themes of plant and animal destruction in
economic history” (Những đề tài về sự huỷ hoại thực vật và động vật trong lịch sử
kinh tế, 1938) đăng trên Journal of Farm Economics, 20, ông đã chỉ trích ảnh hưởng
của các nền văn minh thương mại đối với các dạng sống hoang dã và thuần hoá, vì
những lợi ích ích tức thời và tương lai, làm kiệt quệ nghiêm trọng các kết quả của tiến
hoá sinh học [Sauer, Carl O., 1983: 150]3.
Lý thuyết của C.O. Sauer có ảnh hưởng ở cả Bắc Mỹ và châu Âu. Sau khi C.O.
Sauer nghỉ hưu, trường phái địa lý học con người - môi trường của ông đã phát triển
thành sinh thái học văn hoá (cultural ecology), sinh thái học chính trị (political
ecology) và sinh thái học lịch sử (historical ecology).
2.2. Julian Haynes Steward với “phương pháp luận tiến hoá đa tuyến”

2
Nguyên văn: “In the colorful reality of life there is a continuous resistance of fact to
confinement within any ‘simpliste’ theory. We are concerned with “directed activity, not
premature realization” and this is the morphologic approach. Our naïvely selected section of
reality, the landscape, is undergoing manifold change. This contact of man with his
changeful home, as expressed through the cultural landscape, is our field of work. We are
concerned with the importance of the site to man, and also with his transformation of the
site. Altogether we deal with the interrelation of group, or cultures, and site, as expressed in
the various landscapes of the world” [Sauer, Carl O., 1925: 53]
3
Nguyên văn: “Commercial production has caused and is causing a steady and great
shrinkage of forms, because suddenly restricted standards of utility are introduced.
Unfortunately, immediate and prospective utility may be very different things. This applies
equally in criticism of the effect of our commercial civilization on wild and on domesticated
forms of life: in both cases we have drastically impoverished the results of biologic
evolution” [Sauer, Carl O., 1983: 150].
3
Học giả kế tiếp là Julian Haynes Steward (1902-1972), nhà nhân học người Mỹ
đã góp phần phát triển các khái niệm và phương pháp của sinh thái học văn hoá, và lý
thuyết khoa học về biến đổi văn hoá. J.H. Steward đã đặt ra thuật ngữ, hình dung về
sinh thái học văn hoá như một phương pháp luận để hiểu con người thích ứng với các
môi trường đa dạng như thế nào. Trong công trình Theory of Culture Change: The
Methodology of Multilinear Evolution (Lý thuyết về biến đổi văn hoá: Phương pháp
luận tiến hoá đa tuyến, 1955), dựa trên nhận thức về vai trò quan trọng của địa bàn
sinh thái trong việc định hình văn hoá của một vùng, J.H. Steward cho rằng sinh thái
học văn hoá là khoa học miêu tả những cách thức mà trong đó sự thích ứng với môi
trường đã gây ra sự biến đổi văn hoá. Và rằng bất kỳ sự thích nghi đặc biệt nào của
con người cũng được thừa hưởng một phần từ lịch sử, bao gồm các công nghệ, thực
hành và kiến thức cho phép con người sống trong một môi trường nào đó. Điều đó có
nghĩa là trong khi môi trường ảnh hưởng đến đặc điểm thích ứng của con người, nó
cũng đồng thời chịu tác động của con người chứ không tự định đoạt được chính nó.
Bằng cách đó, J.H. Steward đã khôn ngoan tách biệt tính cách hay thay đổi của môi
trường khỏi những hoạt động bên trong của nền văn hoá chiếm chỗ môi trường ấy.
Xem xét về lâu dài, điều này có nghĩa là môi trường và văn hoá nằm trên những con
đường tiến hoá riêng rẽ ít nhiều, và khả năng ảnh hưởng qua lại giữa môi trường và
văn hoá phụ thuộc vào cấu trúc của mỗi bên [Steward, Julian H., 1972].
Phương pháp của J.H. Steward là dẫn chứng các công nghệ và phương pháp
được con người sử dụng để khai thác môi trường và kiếm sống, kế tiếp là quan sát các
mô hình hành vi / văn hoá của con người liên quan đến việc sử dụng môi trường, cuối
cùng là đánh giá các mô hình hành vi ấy có ảnh hưởng qua lại như thế nào đến các
khía cạnh khác của văn hoá. Chẳng hạn, ở một vùng dễ bị hạn hán, sự quan tâm lớn
của cư dân đối với các mô hình lượng mưa có nghĩa là điều đó đã trở thành trung tâm
của cuộc sống hàng ngày, và dẫn đến sự phát triển của một hệ thống niềm tin tôn giáo
mà trong đó, lượng mưa và nước nổi bật lên. Hệ thống tín ngưỡng này có thể không
xuất hiện trong một xã hội có lượng mưa tốt cho cây trồng, hoặc nơi đã được thực hiện
thuỷ lợi [Steward, Julian H., 1972].
Cũng trong công trình này, J.H. Steward đã kịch liệt phê phán tiến hoá luận đơn
tuyến (unilinear evolutionism), một lý thuyết giải thích sự tiến hoá văn hoá
thịnh hành trong thế kỷ XIX: “Tiến hoá văn hoá có thể được xem như là một
loại tái dựng lịch sử đặc biệt hoặc như là một phương pháp luận hay cách tiếp
cận đặc biệt. Các công trình tái dựng lịch sử của các nhà tiến hoá luận đơn
tuyến thế kỷ XIX độc đáo ở chỗ giả định rằng tất cả các nền văn hoá đều đi qua
các trình tự song song và không liên quan về mặt di truyền. Giả định này mâu
thuẫn với những người theo tương đối luận văn hoá hoặc những người theo đặc
thù luận lịch sử thế kỷ XX, những người coi sự phát triển văn hoá như là sự
chia tách một cách cơ bản, trừ khi sự khuếch tán hướng tới những khác biệt
đồng đều. Sự bất đồng này, liên quan đến thực tế có tính lịch sử và cơ bản,
được phản ánh trong sự phân loại văn hoá. Các hạng mục chính của các nhà
tiến hoá luận đơn tuyến chủ yếu là các giai đoạn phát triển có thể áp dụng cho
tất cả các nền văn hoá; những cái mà với các nhà tương đối luận và đặc thù luận
là các vùng văn hoá hoặc các truyền thống văn hoá. Sự khác biệt về quan điểm
cũng liên quan đến chính tính luận lý khoa học. Các nhà tiến hoá luận đã suy

4
diễn, tiên nghiệm, khái lược, và có tính triết học ở mức độ cao. Các nhà tương
đối luận thì mang tính chất hiện tượng học và mỹ học.
“Các nghiên cứu của thế kỷ hai mươi đã tích lũy được một loạt bằng chứng ủng
hộ mạnh mẽ luận điểm cho rằng các nền văn hoá cụ thể chia tách đáng kể với
nhau và không trải qua các giai đoạn như tiến hoá luận đơn tuyến hình dung. Vì
thực tế cơ bản này của lịch sử văn hoá không còn là vấn đề gây tranh cãi lớn,
nên những người tìm cách lưu giữ truyền thống của thuyết tiến hoá thế kỷ XIX
đã buộc phải di chuyển cái khung tham khảo của họ từ cái riêng sang cái chung,
từ một sự sắp xếp có tính phổ quát sao cho vừa khớp với tất cả các nền văn hoá
riêng lẻ sang một hệ thống khái quát hoá rộng rãi về bản chất của bất kỳ nền
văn hoá nào. Họ thừa nhận rằng các nền văn hoá cụ thể có những đặc điểm
khác biệt gây ra bởi sự phát triển chia tách ở các khu vực khác nhau cũng như
bởi giai đoạn phát triển, nhưng giờ đây họ tuyên bố quan tâm đến sự tiến hoá
của văn hoá nói chung chứ không phải của các nền văn hoá. Sự tái dựng lịch sử
văn hoá thế giới của họ, thật tình mà nói, được thực hiện theo những thuật ngữ
chung chung như vậy để mọi người đều chấp nhận” [Steward, Julian H., 1972:
27-28]4.
Tuy nhiên, sự khẳng định của J.H. Steward rằng môi trường tự nhiên và sinh
học ảnh hưởng đến văn hoá đã gây tranh cãi, bởi nó có hơi hường của quyết định luận
môi trường đối với hành động của con người. Nhưng trong một công trình khác là tiểu
luận “Evolutionary principles and social types” (Các nguyên tắc tiến hoá và các loại
hình xã hội) in trong Evolution and ecology: essays on social transformationm (Sự tiến
hoá và sinh thái học: các tiểu luận về biến đổi xã hội, 1977), J.H. Steward đã thừa

4
Nguyên văn: “Cultural evolution may be rergarded either as a special type of historical
reconstruction or as a particular methodology or approach. The historical reconstructions of
the nineteenth-century unilinear evolutionists are distinctive for the assumption that all
cultures pass through parallel and genetically unrelated sequences. This assumptiom is in
conflict with the twentieth-century cultural relativists or historical particularists, who regard
cultural development as essentially divergent, except as diffusion tends to level differences.
This disagreement concerning fundamental historical fact is reflected in cultural taxonomy.
The major categories of the unilinear evolutionists are primarily developmental stages
applicable to all cultures; those of the relativists and particularists are culture areas or
traditions. The difference in point of view also involves the very logic of science. The
evolutionists were deductive, a priori, schematic, and largely philosophical. The relativists
are phenomenological and esthetic.
“The twentieth-century research has accumulated a mass of evidence which overwhelmingly
supports the contention that particular cultures diverge significantly from one another and do
not pass through unilinear stages. Since this basic fact of cultural history is no longer a
matter of major controversy, those who have sought to keep the tradition of nineteenth-
century evolution alive have been forced to shift their frame of reference from the particular
to the general, from a universal scheme into which all individual cultures may be fitted to a
system of broad generalizations about the nature of any culture. They concede that particular
cultures have distinguishing features caused by divergent development in different areas as
well as by the stage of development, but they now profess to be interested in the evolution of
culture generically considered and not of cultures. Their reconstruction of world culture
history is, as a matter of fact, made in such general terms as to be quite acceptable to
everyone” [Steward, Julian H., 1972: 27-28].
5
nhận rằng các nguồn tài nguyên có thể được tạo ra thông qua môi trường xã hội. So
sánh người Shoshoni với người Indian Carrier ở British Columbia, Steward nhận thấy
rằng sự du nhập việc buôn bán lông thú đã tạo ra một thặng dư vật chất đủ cho người
Carrier chuyển hệ thống dòng họ đơn giản của họ thành một hệ thống xây dựng trên
địa vị, được duy trì bởi tập tục potlatch (người chủ tiệc sẽ tặng quà cho khách tuỳ theo
theo địa vị và cấp bậc trong bộ lạc), cho dù môi trường tự nhiên của họ không thay đổi
[Steward, Julian H., 1977: 68-86; Layton, Robert: 2007: 299-300].
Lý thuyết sinh thái học văn hoá và lý thuyết về biến đổi văn hoá của J.H.
Steward có ảnh hưởng trong các nhà nhân học và khảo cổ học từ giữa thế kỷ XX cho
đến tận ngày nay. Bàn về những đóng góp của J.H. Steward, Ngô Thị Phương Lan
[2016: 57-71] đúc kết rằng quan điểm tiến hoá văn hoá của J.H. Steward là văn hoá ở
các vùng môi trường giống nhau sẽ đi theo các trình tự phát triển giống nhau và hình
thành nên các đáp ứng tương tự với các thách thức của môi trường. Văn hoá sẽ tiến
hoá theo các hướng khác nhau tuỳ vào môi trường mà chúng thích nghi. Sự đa dạng
của môi trường sẽ tạo nên sự đa dạng hay sự đa tuyến của các con đường tiến hoá.
Trong khi nghiên cứu văn hoá, cần chú ý những yếu tố văn hoá gần với thực hành sinh
tồn J.H. Steward gọi là lõi văn hoá hay hạt nhân văn hoá (cultural core), bao gồm các
dạng thức chính trị, xã hội và tôn giáo mà thực tế chứng minh có mối quan hệ chặt chẽ
với các sắp xếp kinh tế. Theo thuyết sinh thái truyền thống, môi trường là yếu tố biến
đổi khá chậm, nên hạt nhân văn hoá sẽ ổn định, tạo sự cân bằng cho xã hội.
2.3. Joël Bonnemaison với “địa lý học văn hoá mới”
Góp phần quan trọng phát triển lý thuyết địa lý học văn hoá là nhà địa lý học
văn hoá người Pháp Joël Bonnemaison (1940-1997). Với lập luận cho rằng các nền
văn hoá đều được xây dựng và định vị trong một không gian nhất định, và có một mối
quan hệ biện chứng giữa văn hoá với không gian của nó, Joël Bonnemaison đã kế thừa
các quan điểm địa lý học văn hoá trước đó và góp phần xây dựng một trường phái mà
ông gọi là “địa lý học văn hoá mới” (new cultural geography). Trong công trình
Culture and Space: Conceiving a New Cultural Geography (Văn hoá và không gian:
Sự hình thành địa lý học văn hoá mới, 2005), Joël Bonnemaison giải thích lý thuyết
của mình như sau:
“Thuật ngữ địa văn hoá là mới, nhưng ý niệm về nó lại không mới. Ý niệm về
địa văn hoá xuất hiện lần đầu tại Đức, nơi các nhà địa lý học ít ‘tự nhiên chủ
nghĩa’ hơn ở Pháp: vào thế kỷ 19, Friedrich Ratzel đã đề cập đến địa lý nhân
học, sau đó quan niệm về địa văn hoá đến Pháp thông qua ảnh hưởng của nhân
học Mỹ với những đóng góp quan trọng về địa văn hoá của Carl Sauer - một
học trò của Ratzel và là người sáng lập trường phái Berkeley. Đối với Pháp, đây
là một sự trở lại hơn là một sự xuất hiện mới. Với sự nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của văn hoá, các nhà địa lý học nói tiếng của Pháp ở Quebec đã có ảnh
hưởng lớn đến sự phục hưng của cách tiếp cận địa văn hoá vào những năm
1980. Sự trở lại của cách tiếp cận địa văn hoá gắn với trường phái địa lý học
của Pháp qua cách tiếp cận khá đặc trưng của trường phái này đối với địa văn
hoá. Có thể nêu một số dữ kiện nhằm làm sáng tỏ sự tái khám phá này.
“Thứ nhất, sự phục hưng của địa văn hoá gắn liền với sự mở rộng của thuật ngữ
‘văn hoá’. Ở thế hệ của tôi người ta thường nói rằng ‘mọi thứ đều là chính trị’;
còn bây giờ thì ‘mọi thứ đều là văn hoá’. Có thể thấy rằng nói về văn hoá đang
6
như một cái mốt (fashion). Hiện nay chúng ta thường hay nói về văn hoá công
ty, văn hoá đảng phái chính trị v.v. Mỗi hoạt động, từng nhóm người đều có văn
hoá của riêng họ. Thậm chí chúng ta thấy có cả Bộ Văn hoá trong Chính phủ
Pháp. Cùng với địa lý học, văn hoá xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực khoa học
xã hội. Thực tế là trước đây các nhà khoa học xã hội thường xác định những
nhân tố thuộc về văn hoá là những nhân tố có tính định tính, không thể định
lượng và kiểu xác định này làm hạn chế ít nhiều đến việc nghiên cứu thấu đáo
nhiều sự vật, hiện tượng.
“Ba chiều kích của không gian cảnh quan trong địa văn hoá gồm:
“- Lãnh thổ: liên qua đến các cột mốc và đường biên giới lãnh thổ; đến cơ cấu
chính trị với những vùng trọng điểm, trung tâm và vùng ngoại vi.
“- Môi trường địa lý: một cấu trúc địa lý và sinh thái - đất trồng, thực vật, nước,
khí hậu, mật độ dân cư, hệ thống thông tin liên lạc. Con người hoàn toàn phụ
thuộc vào hệ thống sinh thái này bởi vì toàn bộ môi trường địa lý được nhân
hoá thành một quy mô nhỏ hơn hoặc lớn hơn.
“- Biểu tượng địa lý: cấu trúc biểu trưng một môi trường địa lý và ý nghĩa của
nó. Khái niệm này tương tự như khái niệm ‘médiance’ đã từng được Augustin
Berque đưa ra từ năm 1990 để chỉ những tác động và những giá trị con người
đem lại cho cảnh quan. Những biểu tượng địa lý có ý nghĩa đều liên quan đến
đạo đức học và siêu hình học. Chúng đại diện cho giá trị tinh thần của xứ sở mà
chúng ta gọi là linh hồn của xứ sở” [Bonnemaison, Joël, 2009].
Theo Bonnemaison, các nền văn hoá đều được xây dựng và định vị trong một
không gian tương ứng, do đó các hệ thống văn hoá đều bao hàm yếu tố không gian.
Trong công trình La géographie culturelle (Địa lý học văn hoá, 2004), ông cho rằng
hệ thống văn hoá bao gồm bốn yếu tố, được xem là bốn cực hay bốn trụ cột: (1) Di sản
kiến thức: Văn hoá trước hết là di sản kiến thức. Đó là sự hiểu biết về thế giới, làm cho
văn hoá mang tính “khoa học”. Bên cạnh khoa học phương Tây có tính phổ quát, còn
có các “khoa học” trong mỗi nền văn minh khác nhau, ở mỗi tộc người ngoại lai, gọi là
các khoa học tộc người (ethnosciences) ngoài phương Tây, được coi là các khoa học
hoặc kiến thức tiền hiện đại. Ngày nay, văn hoá bản địa được đánh giá cao, không bị
coi là thấp kém như đầu những năm 1950... (2) Di sản kỹ thuật: gồm các kỹ năng và
công cụ. Theo cách nói của nhà địa lý người Pháp Vidal de la Blache (1845-1918), đó
là các lối sống, dựa vào các kỹ thuật cơ bản, đáp ứng các nhu cầu đầu tiên của đời
sống để sinh tồn, để phân biệt con người với loài vật. Đó còn là nghệ thuật sống, một
lý lẽ để sống. (3) Tín ngưỡng: kiến thức và kỹ thuật ngoài phương Tây còn dựa trên tín
ngưỡng tôn giáo, thể hiện một cách nhìn về thế giới, thường được coi là tầng cao của
văn hoá, biểu hiện mối liên hệ cơ bản giữa các giá trị và kỹ thuật. (4) Không gian: Các
nền văn hoá được xây dựng và định vị trong một không gian. Fernand Braudel (1902-
1985), nhà sử học người Pháp nổi tiếng với Lý thuyết hệ thống kinh tế - xã hội trên
phạm vi thế giới, cũng cho rằng văn hoá có một chỗ dựa địa lý. Khác với quyết định
luận địa lý, nó có quan hệ biện chứng giữa môi trường và văn hoá [Bonnemaison, Joël,
2004; Trần Ngọc Khánh, 2012: 51-54].

7
3. VẬN DỤNG CÁC LÝ THUYẾT ĐỊA LÝ HỌC VĂN HOÁ VÀ SINH THÁI
HỌC VĂN HOÁ
3.1. Xác định các tác nhân của môi trường làm hình thành và biến đổi văn
hoá
Các lý thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá nhằm nghiên cứu
quan hệ giữa văn hoá với môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự
nhiên, và sự định hình cảnh quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con
người, có giá trị đóng góp rất quan trọng trong việc nghiên cứu văn hoá, đặc biệt là
nghiên cứu các vùng văn hoá và phân vùng văn hoá. Như một nhận định của Ngô Thị
Phương Lan [2016: 57]: “Thuyết sinh thái văn hoá phát triền mạnh mẽ ở Mỹ vào giữa
thế kỷ XX nhằm lý giải các sắp xếp của con người dựa trên sự thích nghi với môi
trường sinh thái. Mặc dù lý thuyết này thường bị phê phán là không quan tâm đến sự
tác động của các yếu tố ngoại sinh trong quá trình hình thành nền văn hoá và không
chú ý đến sự biến đổi văn hoá nhưng lý thuyết có giá trị nhất định khi lý giải cho sự
thích nghi của con người với các vùng sinh thái cụ thể từ góc nhìn yếu tố nội sinh”.
Vận dụng các lý thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá vào việc
nghiên cứu văn hoá, chúng tôi nhận thấy rằng, sự hình thành và biến đổi của văn hoá
các tộc người và văn hoá các vùng miền trước hết bắt nguồn từ hai tác nhân then chốt:
điều kiện địa lý tự nhiên và điều kiện giao lưu văn hoá.
- Điều kiện địa lý tự nhiên (physical geography): bao gồm các yếu tố địa lý tự
nhiên như địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn, sinh thái, tài nguyên, những biến
đổi của môi trường, v.v. trong không gian sinh tồn của một cộng đồng người. Các điều
kiện địa lý tự nhiên ấy cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, phương tiện mà các tộc người
có thể thích nghi, tận dụng để sinh tồn và phát triển, đồng thời đặt ra những hiểm hoạ,
thách thức mà các tộc người phải tìm cách ứng phó và chế ngự. Cách thức thích nghi,
tận dụng, ứng phó, chế ngự môi trường tự nhiên của con người, của các tộc người,
chính là văn hoá. Vì vậy, điều kiện địa lý tự nhiên vừa là nguyên liệu vừa là tác nhân
làm hình thành văn hoá.
Những yếu tố tự nhiên của một vùng đất là nguyên liệu và tác nhân làm hình
thành văn hoá của một cộng đồng người sẽ hợp thành không gian văn hoá (cultural
space) của cộng đồng người đó, góp phần làm hình thành đặc trưng của văn hoá tộc
người và văn hoá vùng. Điều đó có nghĩa là giữa điều kiện địa lý tự nhiên với không
gian văn hoá có một sự khác biệt nhất định: điều kiện địa lý tự nhiên là tác nhân khách
quan, còn không gian văn hoá là sản phẩm nhân hoá giới tự nhiên của con người. “Đối
với các nhà địa lý với tư duy thực nghiệm ở Mỹ, văn hoá bao gồm các thứ không thuộc
về tự nhiên. Họ phân biệt văn hoá là cái nhìn thấy được trong cảnh quan địa lý, do con
người tạo lập nên và có khả năng làm thay đổi môi trường tự nhiên. Đó là cảnh quan
được nhân hoá” [Trần Ngọc Khánh, 2011]. Sự khác biệt ấy là do môi trường tự nhiên
chỉ cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, phương tiện, còn cách thức con người tận dụng,
thích nghi, chế ngự môi trường tự nhiên ấy thì phụ thuộc vào kinh nghiệm, tri thức, kỹ
thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục đích của từng cộng đồng người. Với tư duy phát
triển và tính xã hội cao, con người không phản ứng một cách đồng loạt giống như nhau
trước những tác nhân của môi trường tự nhiên, như các loài động vật. Ngược lại, con
người có khả năng lựa chọn và thường xuyên lựa chọn những cách thức phản ứng phù
hợp với kinh nghiệm, tri thức, kỹ thuật cũng như nhu cầu, lợi ích, mục đích của mình.
8
Do đó, mặc dù không gian văn hoá của một vùng văn hoá thường có điều kiện địa lý tự
nhiên tương đối đồng nhất, nhưng những cộng đồng người cư trú trên đó có thể tạo ra
những không gian văn hoá riêng, khác biệt với nhau, vì họ chỉ chú trọng khai thác một
số yếu tố tự nhiên nào đó chứ không phải là toàn bộ điều kiện địa lý tự nhiên tiềm tàng
của vùng văn hoá. Nói cách khác, không phải tất cả yếu tố của địa lý tự nhiên mà chỉ
những yếu tố của tự nhiên trong một không gian nào đó đã được một cộng đồng người
nhận thức, thích nghi, định danh, khai thác, cải biến hay huỷ hoại, mới hợp thành
không gian văn hoá của họ.
- Điều kiện giao lưu văn hoá (cultural interchange): bao gồm những yếu tố địa
lý tự nhiên như vị trí địa lý và địa hình của vùng cư trú, tạo thuận lợi hay gây bất lợi
cho việc giao lưu văn hoá của một cộng đồng người. Những vùng đất có điều kiện địa
lý tự nhiên thoáng mở như vị trí tiếp giáp các tuyến đường giao thương, địa hình thảo
nguyên hoặc đồng bằng châu thổ không bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội giao lưu
văn hoá nội vùng và giao lưu văn hoá với bên ngoài sẽ gia tăng. Ngược lại, những
vùng đất có điều kiện địa lý tự nhiên biệt lập như vị trí địa lý tách biệt khỏi các tuyến
đường giao thương, địa hình đồi núi hoặc hải đảo bị biển rộng núi cao chia cắt, cơ hội
giao lưu văn hoá nội vùng và giao lưu văn hoá với bên ngoài sẽ giảm đi. Thông
thường, giao lưu văn hoá sẽ được khởi đầu bằng trao đổi thương mại và tôn giáo. Qua
đó, nó cung cấp cho cộng đồng người những nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích
nghi, chế ngự mới đối với môi trường tự nhiên, làm mới hành trang văn hoá của họ
trên những chặng đường cải biến tự nhiên và xã hội để sinh tồn và phát triển.
Giao lưu văn hoá là tiền đề của tiếp biến văn hoá (acculturation), tức là tiếp
thu, biến đổi những yếu tố văn hoá ngoại sinh thành những yếu tố văn hoá tộc người,
đồng thời biến đổi văn hoá tộc người để thích ứng với những yếu tố văn hoá mới. Nếu
giao lưu văn hoá chỉ là trao đổi để tăng cường hiểu biết và thoả mãn nhu cầu của con
người, thì tiếp biến văn hoá sẽ làm biến đổi văn hoá tộc người.
Hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao lưu văn hoá là tiền đề của văn hoá tộc
người và văn hoá vùng, nên khi chúng biến đổi, văn hoá tộc người và văn hoá vùng sẽ
tất yếu biến đổi. Trong thực tiễn, hai tác nhân ấy không đồng nhất giữa các vùng miền,
và không bất biến trong lịch sử. Do đó, các nguyên liệu, phương tiện, cách thức thích
nghi, ứng phó với tự nhiên và xã hội mà hai tác nhân ấy cung cấp cho con người ở các
vùng miền khác nhau và ở những giai đoạn khác nhau, tất yếu phải khác nhau. Điều đó
giải thích vì sao, cho dù cùng một tộc người, nhưng cư trú trên những vùng địa lý khác
nhau, có quá trình giao lưu văn hoá khác nhau, cũng có thể làm hình thành những
nhóm địa phương có đặc trưng văn hoá khác nhau. Ngược lại, cho dù khác tộc người,
nhưng cư trú trên cùng một địa bàn, có quá trình giao lưu văn hoá mật thiết với nhau,
cũng có thể làm hình thành những nhóm trung gian có những đặc trưng văn hoá
chung, biến đổi từ văn hoá truyền thống của các tộc người tổ tiên.
Có thể diễn giải dây chuyền tác động của hai tác nhân địa lý tự nhiên và giao
lưu văn hoá trong sự hình thành và biến đổi văn hoá tộc người và văn hoá vùng theo sơ
đồ:
- Điều kiện địa lý tự nhiên => không gian văn hoá => hình thành, biến đổi văn
hoá tộc người => hình thành, biến đổi đặc trưng văn hoá vùng.

9
- Điều kiện giao lưu văn hoá => tiếp biến văn hoá => biến đổi văn hoá tộc
người => biến đổi đặc trưng văn hoá vùng.
3.2. Phê phán quan điểm của quyết định luận môi trường
Tuy nhiên, điều kiện địa lý tự nhiên không quyết định số phận của các nền văn
hoá như quan điểm của quyết định luận môi trường (environmental determinism).
Theo Ngô Thị Phương Lan [2016: 58], quyết định luận môi trường đã xuất hiện từ thời
Hy Lạp cổ đại. Trong thế kỷ XX, quan điểm này đã bị Carl Ortwin Sauer phê phán, và
các nhà địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá ở phương Tây đã từ bỏ nó. Nhưng
ở Việt Nam, cho đến nay nó vẫn còn rơi rớt trong một số công trình nghiên cứu văn
hoá, thậm chí nó còn được vận dụng để phân loại các nền văn hoá và truy tìm nguồn
gốc các ưu khuyết điểm của văn hoá ở môi trường địa lý tự nhiên.
Chẳng hạn trong công trình Việt Nam văn hoá sử cương, xuất bản lần đầu vào
năm 1938 và vẫn đang được nhiều nơi in lại, học giả Đào Duy Anh viết: “Điều
kiện thiên nhiên đối với sự sinh hoạt của loài người vốn có ảnh hưởng quyết
định, vì sinh hoạt chẳng qua là dùng sức thể chất và tinh thần mà thích dụng
hay lợi dụng tự nhiên để mưu sự sống còn. Thế thì cách sinh hoạt của người,
tức là văn hoá, có quan hệ rất mật thiết với điều kiện tự nhiên” [Đào Duy Anh,
1998: 14-15].
Hoặc trong công trình Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cái nhìn hệ thống -
loại hình, xuất bản lần đầu vào năm 1996 và tái bản có sửa chữa bổ sung nhiều
lần, tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng, do những khác biệt về điều kiện tự nhiên
(địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế), trên thế giới đã hình thành hai loại
hình văn hoá ứng với hai loại hình kinh tế: văn hoá kiểu nông nghiệp mang tính
chất trọng tĩnh, và văn hoá kiểu du mục mang tính chất trọng động. “Các nền
văn hoá hiện đại dù đang thuộc giai đoạn văn minh nào (nông nghiệp, công
nghiệp, hay thậm chí hậu công nghiệp) cũng đều không thoát ra ngoài hai loại
hình cơ bản là TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG mà căn cứ theo nguồn gốc thì
có thể gọi chúng là các loại hình văn hoá GỐC NÔNG NGHIỆP và GỐC DU
MỤC”. Do đó, theo tác giả này, các thành tố của các hệ thống văn hoá “đều bị
quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hoá” [Trần Ngọc Thêm, 2001: 30,
36-38].
Hiện nay, dựa vào những thành tựu của địa lý học văn hoá và sinh thái học văn
hoá, không khó để mọi người nhận ra tính chất quyết định luận môi trường và tiên
nghiệm (a priori) của những cách giải thích văn hoá như vậy. Không khó, bởi vì các
ngành địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá trong thế kỷ XX đã cung cấp vô số
bằng chứng nói lên sức mạnh biến đổi môi trường tự nhiên của con người, và cung cấp
bằng chứng cho thấy sự biến đổi môi trường tự nhiên như thế nào là tuỳ thuộc vào các
nền văn hoá tồn tại và vận động trong môi trường tự nhiên ấy. Và nếu như chưa tiếp
cận được những tri thức ấy thì người ta vẫn có thể dễ dàng nhận thấy, trong quan hệ
với môi trường tự nhiên, con người rất khác với con vật ở chỗ họ không chỉ đơn thuần
khai thác môi trường tự nhiên và mãi mãi lệ thuộc tự nhiên. Ngược lại, trong quá trình
khai thác môi trường tự nhiên, con người có khả năng sáng tạo và khả năng tiếp nhận
kinh nghiệm, tri thức của các nền văn hoá khác để từ đó, họ giảm dần sự lệ thuộc vào
giới tự nhiên, thậm chí có thể tác động trở lại môi trường tự nhiên, vươn lên kiểm soát
giới tự nhiên. Chính từ thực tế đó, các nhà nghiên cứu văn hoá ngày nay cho rằng, môi
10
trường tự nhiên chỉ tác động có mức độ vào quá trình hình thành và biến đổi của văn
hoá. Và tác động ấy theo thời gian và sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đã giảm
đi, tỷ lệ nghịch với tác động trở lại của con người đối với môi trường tự nhiên.
Như một nhận định của Simon During (sinh năm 1950), nhà nghiên cứu văn
học, văn hoá người New Zealand: “Thoạt tiên, tự nhiên (nature) được định
nghĩa trái ngược với kỹ xảo và công nghệ (artifice and technology). Trong điều
kiện ấy, nó trở thành một lĩnh vực của những gì không thuộc quyền kiểm soát
của cơ quan con người, hoặc ngay cả những gì được tạo ra hoặc được đánh dấu
bởi cơ quan con người. Điều trở ngại trước mắt của định nghĩa này là ngày nay
những gì tồn tại với tư cách ‘tự nhiên’ gần như đều là một sản phẩm trực tiếp
hoặc gián tiếp của sự thao túng lâu dài của con người, đến mức trên hành tinh
này hầu như không còn gì là ‘tự nhiên’ thuần tuý đúng nghĩa nữa” [During,
Simon, 2005: 208]5.
Do đó, khi khảo sát mối tương quan giữa môi trường tự nhiên và văn hoá, thiết
tưởng người nghiên cứu cần xem xét vận dụng những quan điểm chừng mực hơn.
Thay cho quyết định luận môi trường, quan điểm phù hợp là xem mối quan hệ giữa
môi trường tự nhiên và văn hoá là mối quan hệ tương tác và tương thuộc (interaction
and interdependence), tức là tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó, sự
thích nghi và khai thác môi trường tự nhiên phụ thuộc vào khả năng (possibility) của
các nền văn hoá.
Chẳng hạn, quan điểm của Ngô Thị Phương Lan [2016: 58-59]: “Trái với
hướng tiếp cận của các nhà quyết định luận môi trường, các nhà nhân học qua
các nghiên cứu cụ thể đã chứng minh tính chủ động của con người thông qua
văn hoá trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên. Các nhà nhân học đã
chứng minh môi trường có tác động rõ ràng đến văn hoá, đặt ra các giới hạn
cho văn hoá nhưng không phải là yếu tố quyết định văn hoá. Đây là quan điểm
của thuyết khả năng (possibilism). Môi trường đặt ra một số giới hạn tuy nhiên
lại mở ra một số các khả năng khác cho các nền văn hoá. Các nền văn hoá sẽ
lựa chọn các khả năng thích hợp để thích nghi với một môi trường cụ thể. Các
môi trường cung cấp được khai thác như thế nào thì phụ thuộc vào khả năng
của các nền văn hoá (Sutton và Anderson, 2004: 19)”.
Và quan điểm của Phạm Đức Dương [2013: 67-68]: “Môi trường trong quan hệ
với con người được nhận thức như là tiền đề quy định chứ không phải quyết
định thế ứng xử của con người với hai đặc trưng cơ bản: Xét về mặt sinh học,
đó là sự cân bằng giữa cơ thể - môi trường và sự thích nghi với các nền sinh
thái. Xét về mặt xã hội, vì hoạt động có ý thức nên con người luôn luôn muốn
biến đổi tự nhiên phù hợp với mình, do đó, con người tự đặt mình đối lập với tự
nhiên, biến hệ sinh thái tự nhiên thành hệ sinh thái nhân văn”.

5
Nguyên văn: “Nature is defined, first, against artifice and technology. In these terms it
becomes the domain of what is not under the control of human agency, or even what is
produced or marked by human agency. The immediate difficulty with this definition is that
today what exists as nature is almost wholly a direct or indirect product of long human
manipulation so that, on this planet, there is almost no pure nature in this sense” [During,
Simon, 2005: 208].
11
4. KẾT LUẬN
Nói tóm lại, những đóng góp quan trọng nhất của các lý thuyết địa lý học văn
hoá và sinh thái học văn hoá là làm sáng tỏ vai trò của môi trường tự nhiên đối với sự
hình thành, biến đổi của văn hoá, đồng thời xác định mối quan hệ giữa văn hoá với
môi trường, sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên, và sự định hình cảnh
quan do sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng của con người. Từ thực tiễn những
gì mà một số nền văn hoá đã làm đối với môi trường tự nhiên trong thế kỷ XX, các lý
thuyết địa lý học văn hoá và sinh thái học văn hoá đã chỉ ra sai lầm của quyết định
luận môi trường, chứng minh những tác động trở lại của văn hoá đối với môi trường tự
nhiên, từ đó đặt ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên của con người.
Tiếp thu, vận dụng những giá trị đóng góp của các lý thuyết địa lý học văn hoá
và sinh thái học văn hoá trong nghiên cứu văn hoá, chúng tôi nhận thức rằng, điều kiện
địa lý tự nhiên là tiền đề hình thành không gian văn hoá; và điều kiện giao lưu văn hoá
là tiền đề của tiếp biến văn hoá. Cư trú trong một không gian văn hoá, tuỳ theo nhu cầu
và năng lực sáng tạo của mình, các chủ thể văn hoá có thể khai thác các yếu tố của tự
nhiên như là nguồn nguyên liệu, phương tiện để làm ra văn hoá. Và cùng với năng lực
sáng tạo của mình, các chủ thể văn hoá có thể lựa chọn, tiếp biến những tri thức,
phương pháp, phương tiện, nguyên liệu mới và cả những nhu cầu mới thông qua sự
tiếp xúc với các cộng đồng cư dân lân cận, để đổi mới, nâng cao nền văn hoá của
mình. Do đó, không gian văn hoá và giao lưu tiếp biến văn hoá đóng vai trò như là hai
tác nhân hợp thành một môi trường văn hoá (cultural environment) mà trong đó, nền
văn hoá của các cộng đồng người hình thành, vận động và biến đổi. Nền văn hoá của
một cộng đồng người mang tính chất tĩnh tại hay năng động, biến đổi chậm chạp hay
nhanh chóng, mức độ biến đổi ít hay nhiều, phụ thuộc một phần vào không gian văn
hoá và quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá mà cộng đồng người ấy đã trải qua. Phần
còn lại, nó phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và khả năng lựa chọn của chủ thể văn hoá
trước những tác động đến từ môi trường văn hoá ấy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bonnemaison, Joël (2004), La géographie culturelle: Cours de l’université Paris
IV - Sorbonne 1994-1997, Christel Thibault réd., Paris: C.T.H.S.
[2]. Bonnemaison, Joel (2005), Culture and Space: Conceiving a New Cultural
Geography, Chantal Blanc-Pamard, Maud Lasseur, Christel Thibault ed., Josée
Pénot-Demetry trans., New York: I.B. Tauris.
[3]. Bonnemaison, Joël (2009), “Sự hồi sinh của một cách tiếp cận văn hoá”, Nguyễn
Thanh Tùng dịch, Nguyễn Văn Hiệu hiệu đính, từ nguyên bản tiếng Anh Culture
and Space: Conceiving a New Cultural Geography, New York, 2005;
www.vanhoahoc.edu.vn, 23/05/2009.
[4]. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hoá sử cương, xuất bản lần đầu năm 1938,
NXB Đồng Tháp tái bản.
[5]. During, Simon (2005), Cultural Studies: a Critical Introduction, London and
New York: Routledge.

12
[6]. Layton, Robert (2007), Nhập môn lý thuyết nhân học, Phan Ngọc Chiến dịch,
Lương Văn Hy hiệu đính, từ nguyên tác tiếng Anh An introduction to the theory
in anthropology, the Press Syndicate of the University of Cambridge, 1997, 1998,
2000, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[7]. Lý Tùng Hiếu (2017), Trường Sơn - Tây Nguyên: Tiếp cận văn hoá học, sách
chuyên khảo, NXB Tri thức.
[8]. Lý Tùng Hiếu (2019a), “Các lý thuyết địa lý học văn hoá, sinh thái học văn hoá
và việc vận dụng trong nghiên cứu văn hoá”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá, số 28,
tháng 6-2019, tr. 33-40.
[9]. Lý Tùng Hiếu (2019b), Văn hoá Việt Nam: Tiếp cận hệ thống - liên ngành, NXB
Văn hoá - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
[10]. Lý Tùng Hiếu (2019c), Giao lưu tiếp biến văn hoá và sự biến đổi văn hoá Việt
Nam, NXB Khoa học Xã hội.
[11]. Ngô Thị Phương Lan (2016), “Thuyết sinh thái văn hoá và nghiên cứu văn hoá ở
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 6 (214) 2016, tr. 57-73.
[12]. Phạm Đức Dương (2013), Văn hoá học dẫn luận, NXB Văn hoá Thông tin.
[13]. Sauer, Carl O. (1925), “The morphology of landscape”, University of California
Publications in Geography, V. 2, N. 2, pp. 19-54.
[14]. Sauer, Carl O. (1927), “Recent developments in cultural geography”, Recent
Developments in the Social Sciences, New York: Lippincott, pp. 154-212.
[15]. Sauer, Carl O. (1983), Land and Life. A Selection from the Writings of Carl
Ortwin Sauer. Edited, with an introduction, by John Leighly. Berkeley, Los
Angeles, London: University of California Press, 1963; California Library
Reprint Series Edition.
[16]. Steward, Julian H. (1972), Theory of Culture Change: The Methodology of
Multilinear Evolution, first edition 1955, Urbana and Chicago: University of
Illinois Press.
[17]. Steward, Julian H. (1977), “Evolutionary principles and social types”, Evolution
and Ecology: Essays on Social Transformation, ed. J.C. Steward and R.P
Murphy, Urbana: University of Illinois Press, pp. 68-86.
[18]. Trần Ngọc Khánh (2011), “Mấy cơ sở tiếp cận lý thuyết nghiên cứu văn hoá”,
www.vanhoahoc.edu.vn, 04/09/2011.
[19]. Trần Ngọc Khánh (2012), Văn hoá đô thị giản yếu, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh.
[20]. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cái nhìn hệ thống -
loại hình, in lần thứ 3 có sửa chữa bổ sung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: Lý Tùng Hiếu (2019), “Các lý thuyết địa lý học văn hoá, sinh thái học văn hoá
và việc vận dụng trong nghiên cứu văn hoá”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá, số 28,
tháng 6-2019, trang 33-40.

13

You might also like