You are on page 1of 9

TÀI LIỆU VÙNG VĂN HÓA

1. Lý thuyết đặc thù văn hóa của Franz Boaz (1858-1942)


Boas cho rằng văn hóa là sản phẩm của những điều kiện đặc thù tồn tại trong
quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng người. Theo ông, quá trình lịch sử của mỗi
cộng đồng người chính là quá trình họ thích nghi với môi trường sống xung
quanh họ. Môi trường sống trước hết là môi trường tự nhiên, bao gồm các điều
kiện về khí hậu, nguồn nước, đất đai, sinh vật. Bên cạnh đó, môi trường sống
cũng bao gồm môi trường xã hội, tức là các cộng đồng, các nhóm cư dân khác
cư trú và tồn tại xung quanh họ, hoặc các cư dân mà họ gặp trong quá trình di
cư từ nơi này sang nơi khác.
Theo Boas, do môi trường tự nhiên và xã hội của mỗi cộng đồng người rất khác nhau,
nên tất yếu là quá trình họ thích nghi với các điều kiện của môi trường sống đó cũng
khác nhau. Kết quả là văn hóa của các cộng đồng người, sản phẩm của quá trình thích
nghi đó qua chiều dài lịch sử, rất khác nhau.
Như vậy, thuyết tương đối văn hóa trước hết phê phán mạnh mẽ thuyết tiến hóa.
Thuyết tiến hóa cho rằng con người trên thế giới dù ở bất kỳ đâu, sống trong hoàn
cảnh nào thì họ cũng sẽ phát triển theo cùng một con đường, và văn hóa khác nhau là
do tốc độ phát triển khác nhau. Trong khi đó, Boas cho rằng văn hóa là sản phẩm của
sự thích nghi với các hoàn cảnh và điều kiện cụ thể . Do đó không thể phân chia văn
hóa là cao hay thấp, phát triển hay chậm phát triển. Một người ngoài, khi nhìn vào
những hành vi hay tập quán văn hóa của một cộng đồng, có thể thấy rất nhiều thứ mà
ta cho là kỳ lạ, khó hiểu và lạc hậu. Nhưng những tập quán đó thực ra lại hoàn toàn
phù hợp với điều kiện cụ thể của môi trường tự nhiên và xã hội, nơi sản sinh ra nền
văn hóa đó.
*VD:
Người Thái ở nhà sàn không có nghĩa là họ chậm phát triển hơn người Việt ở nhà trệt,
mà vì nhà sàn là sự thích ứng của họ với điều kiện tự nhiên của vùng thung lũng và
núi cao nơi họ sống. Tại các vùng đó, phần không gian sát mặt đất thường ẩm thấp,
nhiều khí lạnh, khí độc, thậm chí có thể có bị thú dữ tấn công, và do đó hoàn toàn
không thích hợp để xây nhà trệt.
Theo ông, văn hóa không phải bắt nguồn từ nhu cầu của con người, không phải do sở
thích hay ý muốn chủ quan của con người quy định. Thay vào đó, ông cho rằng các
điều kiện khách quan của môi trường sống của một cộng đồng người hình thành nên
văn hóa của cộng đông đó. Đến lượt mình, văn hóa lại hình thành cách tư duy của con
người. Xem xét, tìm hiểu những gì đã diễn ra trong quá khứ, chính văn hoá tạo ra và
chi phối thế giới quan của con người - theo quy định cấu trúc xã hội.
*VD:
Người Việt có văn hóa sống theo cộng đồng.
Theo Boas, văn hóa đó không phải do họ muốn hay thích, mà được hình thành qua
một quá trình lịch sử lâu dài. Người Việt trong hàng ngàn năm phải liên tục đối
mặt với nạn ngoại xâm. Họ cũng phải chống chọi với đói nghèo, thiên tai, mất
mùa, đói kém. Để thích nghi với môi trường tự nhiên và xã hội ấy, họ không thế
sống đơn lẻ, mà phải sống dựa vào nhau, dựa vào cộng đồng. Văn hóa sống theo
cộng đông hình thành từ đó. Đến lượt mình, việc sống theo văn hóa cộng đồng
trong quá trình lịch sử lâu dài dần hình thành nên cách nghĩ, cách tư duy của con
người Việt.
*VD:
Tại sao học sinh Việt Nam khi ở trên lớp thường có xu hướng thụ động, ít khi dám bày
tỏ ý kiến mà chủ yếu là lắng nghe, tiếp nhận kiến thức của thầy cô, trong khi học sinh
ở các nước Âu - Mỹ nhìn chung là chủ động và mạnh dạn bày tỏ chính kiến hơn?
Nếu giải thích theo quan điểm của Boas, việc học sinh Việt Nam ngoan ngoãn nghe
lời thầy cô là kết quả của quá trình thích nghi với các điều kiện đặc thù trong quá khứ
lịch sử của Việt Nam. Trong cả ngàn năm dưới chế độ quân chủ, Việt Nam chịu sự tác
động của tư tưởng Nho giáo. Theo đó, mối quan hệ thầy trò được coi là quan hệ trên
dưới, thầy bảo trò nghe. Hệ thống giáo dục Việt Nam trong hàng ngàn năm dưới chế
độ phong kiến chủ yếu là mô hình học tập theo kiểu truyền đạt kiến thức, trong đó học
trò đơn thuần là dùi mài kinh sử, học thuộc lời truyền đạt của thánh hiền thay vì sáng
tạo ra cái mới về mô hình chính trị, Việt Nam thời phong kiến là mô hình nhà nước tập
quyền, khuyến khích việc đào tạo ra những con người biết tôn trọng tôn ti, trật tự,
trung thành với nhà vua và với các chuấn mực đạo đức, hơn là những con người sống
theo cá nhân, mạnh dạn bày tỏ ý kiến chủ quan của mình. Tất cả các điều kiện lịch sử
đó đã hình thành nên một văn hóa học tập và một lối tư duy đặc thù trong đa số học
sinh Việt Nam.
Lối tư duy đó vẫn tiếp tục tồn tại và có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời kỳ hiện tại,
ngay cả khi cấu trúc xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Mô hình doanh nghiệp bây
giờ đang đòi hỏi những con người lao động có tư duy năng động, sáng tạo; hệ thống
giáo dục đang hướng theo mô hình học sinh làm trung tâm; tư tưởng Nho giáo và quan
niệm thầy bảo trò nghe cũng không còn ảnh hưởng rộng rãi như trong thời phong kiên.
Tuy nhiên, học sinh Việt Nam vẫn thụ động, vì điều đó đã trở thành một nếp nghĩ, một
lối sống được rèn đúc qua quá trình thích nghi kéo dài hàng ngàn năm lịch sử. Nếp tư
duy này thậm chí còn có thể làm chậm quá trình chuyển đổi của cấu trúc xã hội.
Chẳng hạn, mặc dù mô hình doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam là đòi hỏi những
người lao động có tư duy sáng tạo, nhưng nếu đa số lao động vẫn tư duy theo kiêu thụ
động, thì vê lâu dài các doanh nghiệp theo mô hình sáng tạo sẽ tự diệt vong và biến
mất. Thay vào đó, các doanh nghiệp kiểu truyền thống sẽ trở lại và tiếp tục duy trì
hình thức hoạt động theo kiểu "cầm tay chỉ việc" như trong quá khứ.
2.Lý thuyết truyền bá văn hóa của
Alfred Kroeber (1876-1960)
- Thuyết bản chất hoặc thực thể luận của Kroeber [1917] quan niệm văn hóa là một
thực thể tự nó, thuộc lĩnh vực “cơ chế thượng tầng”, có các quy luật riêng, tồn tại độc
lập bên ngoài sự kiểm soát của các cá thể.
- Các học trò của Boas như Alfred KROEBER (1876–1960) và Clark WISSLER
(1870–1947) tiếp tục nghiên cứu phạm trù lịch sử của các hiện tượng văn hóa. Họ vay
mượn một loạt khái niệm về “vùng văn hóa” và “đặc trưng văn hóa” của các nhà nhân
học “truyền bá” Đức hồi đầu thế kỷ XX, để nghiên cứu sự phân bố trong không gian
của một hoặc nhiều đặc trưng văn hóa của các nền văn hóa ở gần nhau và phân tích
quá trình lan truyền của chúng.
“Truyền bá văn hóa” là kết quả quan hệ giữa các nền văn hóa khác nhau và sự di
chuyển các đặc trưng văn hóa. Khi có hiện tượng hội tụ các đặc trưng giống nhau
trong một phạm vi không gian, người ta gọi đó là vùng văn hóa. Trong đó, ở khu vực
trung tâm là các đặc trưng văn hóa cơ bản; còn ở khu vực ngoại vi, các đặc trưng này
đan xen lẫn nhau với các đặc trưng đến từ các khu vực văn hóa lân cận.
- Lý thuyết truyền bá văn hóa của Alfred Kroeber tập trung vào khái niệm văn hóa
như một hệ thống động, tiếp tục phát triển qua thời gian. Kroeber đề xuất rằng văn hóa
là một tổ hợp phức tạp của các yếu tố, bao gồm ngôn ngữ, nghệ thuật, tín ngưỡng, và
phong tục, và nó tiếp tục tồn tại và thay đối thông qua sự tương tác giữa các thành
phần này. Theo Kroeber, quá trình truyền bá văn hóa xảy ra thông qua các thế hệ, và
văn hóa có thể thích ứng với môi trường mới thông qua quá trình này. Ông cũng nhấn
mạnh vai trò của cá nhân sáng tạo trong việc định hình và đối mới văn hóa. Tóm lại,
lý thuyết của Kroeber mang tính đa chiều, kết hợp cả yếu tố thừa kế và sáng tạo trong
quá trình truyền bá văn hóa.
3.Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa
- Để giải thích sự tương đồng này, người ta đã đưa ra nhiều thuyết khác nhau : Thuyết
khuếch tán văn hóa (cultural diffusion) phổ biến ở Châu Âu mà theo đó thì văn hóa
được hình thành từ một trung tâm rồi được "lan tỏa" ra các nơi khác. Thuyết vùng văn
hóa (cultural areas) phổ biến ở Mĩ mà theo đó thì có thế tồn tại nhiều dân tộc với
những nên văn hóa cua minh trên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh tế -
văn hóa phổ biến trong dân tộc học Xô-viết mà theo đó thì trong lịch sử nhân loại từng
tồn tại loại hình kinh tế văn hóa săn bắt, hái lượm và đánh cá; loại hình kinh tế - văn
hóa nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi, và loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp
dùng cày với sức kéo động vật.
- Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa là một khái niệm trong lĩnh vực dân tộc học, nó
tương tác giữa các yếu tố kinh tế và văn hóa trong một cộng đồng dân cư. Theo thuyết
này, các loại hình kinh tế khác nhau sẽ tạo ra những nền văn hóa khác nhau, phản ánh
cách mà con người tương tác với môi trường và tổ chức cách sống của họ.

Ở Việt Nam, chúng ta có thể sử dụng thuyết loại hình kinh tế - văn hóa để giải thích sự
phát triển của nền văn hóa Việt trong quá trình lịch sử. Dưới đây là các ví dụ về các
loại hình kinh tế - văn hóa của Việt Nam:

1. Loại hình kinh tế - văn hóa săn bắt, hái lượm và đánh cá: Trong giai đoạn đầu của
lịch sử Việt Nam, khi người dân sống chủ yếu theo cách sống săn bắt, hái lượm và
đánh cá, nền văn hóa của họ phản ánh sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên tự
nhiên. Văn hóa này thường liên quan đến các nghi lễ tôn vinh thiên nhiên và các thần
linh, và có thể được thấy trong các truyền thuyết và hình thức nghệ thuật của người
Việt cổ đại.

2. Loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi: Khi nông nghiệp
trở thành hoạt động chính yếu, văn hóa Việt Nam đã phát triển theo hướng tôn vinh
đất đai và các thần linh liên quan đến nông nghiệp. Nền văn hóa này thường bao gồm
các truyền thống nông nghiệp, như lễ hội mừng mùa, các trò chơi dân gian liên quan
đến nông sản và nghi lễ cúng tế.

3. Loại hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp dùng cày với sức kéo động vật: Khi việc sử
dụng công cụ cày và sức kéo động vật trở nên phổ biến, nền văn hóa Việt Nam đã tiếp
tục thay đổi. Văn hóa này thường liên quan đến các giá trị xã hội như lao động chung,
sự hợp tác trong việc cày cấy và thu hoạch, và các lễ hội liên quan đến công việc nông
nghiệp.
Các ví dụ trên chỉ mang tính chất đại diện và chung chung về thuyết loại hình kinh tế -
văn hóa của Việt Nam. Thực tế, trong quá trình lịch sử phát triển, nền văn hóa Việt
Nam đã trải qua sự kết hợp và tương tác của nhiều yếu tố kinh tế và văn hóa khác
nhau, tạo nên một hình ảnh đa dạng và phong phú.
4.Thuyết khu vực văn hóa lịch sử
- Thuyết khu vực văn hóa lịch sử (historical cultural regions theory) là một khái niệm
trong ngành dân tộc học, nhấn mạnh rằng có thể tồn tại nhiều dân tộc với các nền văn
hóa riêng biệt trên cùng một vùng lãnh thổ.
- Thuyết này cho rằng các yếu tố lịch sử, địa lý và văn hóa đã tạo ra các khu vực văn
hóa đặc trưng, trong đó dân tộc và cộng đồng chia sẻ các giá trị, ngôn ngữ, tập tục và
đặc điểm văn hóa chung.
- VD:
1. Khu vực văn hóa Đông Bắc:
- Ngôn ngữ: Đông Bắc sử dụng tiếng Việt và cũng có sự hiện diện của các ngôn ngữ
dân tộc như Tày, Nùng, Dao.
- Phong tục, tập quán: Đông Bắc có những nghi lễ truyền thống như lễ hội mùa, lễ hội
cúng tế, lễ hội đền chùa.
- Trang phục: Trang phục truyền thống của người Đông Bắc thường có sự kết hợp
giữa trang phục dân tộc và trang phục phương Bắc.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật truyền thống của Đông Bắc bao gồm nhạc cụ dân tộc, như
kèn đê, t'rưng, và các hình thức múa truyền thống.
2. Khu vực văn hóa Tây Nguyên:
- Ngôn ngữ: Tây Nguyên sử dụng tiếng Việt và có sự hiện diện của các ngôn ngữ dân
tộc như Jarai, Bahnar, Ê Đê, Gia Rai.
- Phong tục, tập quán: Tây Nguyên có các nghi lễ tôn giáo, như rước hồn, cúng rơm,
và các hoạt động văn hóa truyền thống như cưới hỏi, tang lễ.
- Trang phục: Trang phục truyền thống của người Tây Nguyên thường có sự kết hợp
giữa trang phục dân tộc và trang phục phương Bắc.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật truyền thống của Tây Nguyên bao gồm các hình thức như
hát ru, múa gongs, và điệu múa đặc trưng của từng dân tộc.
3. Khu vực văn hóa Miền Trung:
- Ngôn ngữ: Miền Trung sử dụng tiếng Việt và có sự đa dạng về ngôn ngữ dân tộc như
Chăm, Bahnar, Ra Glai.
- Phong tục, tập quán: Miền Trung có các nghi lễ truyền thống như lễ hội cúng tế, lễ
hội thủ công mỹ nghệ, lễ hội tôn giáo.
- Trang phục: Trang phục truyền thống của Miền Trung thường có sự kết hợp giữa
trang phục dân tộc và trang phục phương Trung.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật truyền thống của Miền Trung bao gồm các hình thức như hát
Huế, hát chèo, múa bài chòi.
Các ví dụ trên chỉ là một phần nhỏ của sự đa dạng văn hóa ở các khu vực trong lịch sử
Việt Nam. Mỗi khu vực đều có những đặc trưng văn hóa riêng, bao gồm ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, trang phục, và nghệ thuật, phản ánh sự đa dạng và sự phát triển
lịch sử của dân tộc và văn hóa Việt Nam.
5.Khái niệm vùng văn hóa, phân biệt vùng văn hóa và văn hóa vùng
- Khái niệm vùng văn hoá:
- Vùng văn hóa là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các đơn vị
dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người, sáng tạo ra một hệ thống
các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong môi trường
xã hội nhân văn thông qua các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên, xã hội và
ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử phát triển lâu dài.
- Có hai yếu tố tạo bản sắc văn hóa vùng:
+ Yếu tố về môi trường sinh thái - tự nhiên mà từ đó sinh ra/quy định cách thức cư trú,
canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển.
+ Yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo ra cung cách
nhận thức - hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật,
ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa,… giữa nội bộ cộng đồng hay với
cư dân của các vùng đất/ địa phương khác.
- 1. Vùng văn hóa:
Vùng văn hóa là một khu vực địa lý được xác định dựa trên các đặc điểm văn hóa
chung của nhóm người trong đó. Vùng văn hóa không chỉ bao gồm các thành phần
văn hóa cụ thể, mà còn phản ánh sự tương tác và sự liên kết giữa các thành viên trong
nhóm dân tộc hoặc cộng đồng sống trong vùng đó. Đặc điểm văn hóa chung này có
thể bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục, tập quán, truyền thống, nghệ thuật, kiến
trúc và các yếu tố văn hóa khác.
Ví dụ:
Vùng văn hóa Địa Trung Hải: Đây là một vùng văn hóa được xác định dựa trên các
đặc điểm văn hóa chung của các quốc gia nằm ven biển Địa Trung Hải, bao gồm Ý,
Hy Lạp, Tây Ban Nha, Tunisia, Ai Cập và nhiều quốc gia khác. Vùng văn hóa Địa
Trung Hải có những đặc trưng văn hóa chung như ảnh hưởng của đạo Công giáo La
Mã, kiến trúc cổ đại La Mã, ẩm thực địa phương như pizza, pasta, mezze và couscous,
cùng với các nghệ thuật truyền thống như opera Ý và nhạc flamenco Tây Ban Nha.
Vùng văn hóa Tây Phi: Đây là một vùng văn hóa được xác định dựa trên các đặc điểm
văn hóa chung của các quốc gia ở khu vực Tây Phi, bao gồm Ghana, Nigeria, Sénégal,
Côte d'Ivoire và nhiều quốc gia khác. Vùng văn hóa Tây Phi có những đặc trưng văn
hóa chung như ảnh hưởng của các tôn giáo như Hồi giáo và Công giáo, truyền thống
âm nhạc và nhảy múa như afrobeats và đường cong, cùng với các nghệ thuật truyền
thống như điêu khắc gỗ và văn học địa phương.

2. Văn hóa vùng:


Văn hóa vùng là sự biểu hiện của văn hóa trong một khu vực nhất định, bao gồm các
yếu tố văn hóa mà nhóm người trong khu vực đó chia sẻ. Văn hóa vùng bao gồm ngôn
ngữ, truyền thống, phong tục, tập quán, nghệ thuật, kiến trúc và các yếu tố khác của
cuộc sống văn hóa. Nó phản ánh sự đa dạng và sự phát triển của văn hóa do ảnh
hưởng của các yếu tố lịch sử, địa lý và xã hội trong khu vực đó.
Ví dụ:
Văn hóa vùng Tây Nguyên ở Việt Nam: Vùng Tây Nguyên là một khu vực địa lý nằm
ở miền Trung Tây Nam của Việt Nam, bao gồm các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông,
KonTum và Lâm Đồng. Văn hóa vùng Tây Nguyên có những đặc trưng văn hóa độc
đáo như ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc thiểu số như Ede, M'nong, Jarai, Bahnar
và Gia Rai. Những bản nhạc truyền thống, như gong và kèn đing, cùng với các nghi lễ
tôn giáo truyền thống như rước Điên, cúng cơm mới và lễ hội trưởng thành, là những
yếu tố văn hóa quan trọng trong vùng này. Kiến trúc nhà gỗ cũng là một phần quan
trọng của văn hóa vùng Tây Nguyên.
Văn hóa vùng Provence ở Pháp: Vùng Provence nằm ở phía nam nước Pháp và có một
nền văn hóa đặc trưng. Vùng này nổi tiếng với ngôn ngữ Occitan, một ngôn ngữ cổ
đại châu Âu. Văn hóa vùng Provence còn phản ánh trong phong cách kiến trúc của các
ngôi làng và thành phố như Avignon, Aix-en-Provence và Arles. Nghệ thuật và văn
học Provence cũng có những đặc điểm riêng, như họa sĩ Paul Cézanne và nhà thơ
Frédéric Mistral.
6.Trình bày đặc điểm một vùng văn hóa mà anh/chị quan tâm.
Nói đến nề văn hóa Nam Bộ là nói đến văn hóa của các tộc người ở đây. Ngoại trừ
các tộc người sống ở văn đồng bằng miền Đông, như đã nói ở trên, các tộc người
Việt, Khơme, Chăm,
Hoa đều không pảhi là cư dân bản địa ở đây. Vì thế, văn hóa của họ là văn hóa ở
vùng đất mới.
Gần như là một quy luật, văn hóa của lưu dân ở vùng đất mới dù là của tộc người
nào, cũng đều là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa trong tiềm thức. Nói khác đi
là, những loài cây quen thuộc của vùng đất cũ, được đem cây trồng nơi đất mới.
Cho nên, nền văn hóa này, vừa có nét giống, lại vừa có nét khác với nền văn hóa ở
vùng đất cội nguồn , của cùng một tộc người. Xin đơn cử người Hoa, cùng là tục thờ
bà Thiên Hậu, nhưng người
Hoa Nam Bộ đã có những nới so với cư dân Hoa tại lục địa Trung Hoa hoặc dù kê
của người Khơme Nam Bộ lại khác dù kể ở Campuchia. Rõ nhất là người Việt, vẫn là
tục thờ Thành hoàng quen thuộc với cư dân trồng lúa nước. Nhưng ở Nam Bộ, tục thờ
này có những đặc điểm khác biệt cả về nghi lễ thờ cúng lẫn lễ hội, lẫn kiến trúc của
nơi thờ cúng.
Đặc điểm thứ hai của vùng văn hóa Nam Bộ là quá trình giao lưu văn hóa diễn ra với
một tốc độ mau lẹ. Thực ra, nếu xét một cách nghiêm ngặt về lịch sử, vùng đất này
mới có tuổi đời chừng hơn 300 năm. Thể nhưng trong một khoảng thời gian rất ngắn
ấy, văn hóa Nam Bộ đã định hình rồ những đặc trưng vùng của mình. Nhiều nhân tố
tạo ra điều này, nhưng không thể không thừa nhận tác động của quá trình tiếp biến
văn hóa. Sự tiếp biến xảy ra trước hết giữa các tộc người cùng sinh sống trong một
địa bàn.
Xin đơn cử người Việt, cùng chung sống với người Khơme; người Việt đã tiếp thu
chiếc bếp cả dùng cho việc nấu ăn trên đất ẩm, dùng nồi gốm rằng để kho cá, nấu
cơm, dùng cá om để đựng nước uống, nước mắm. Hoặc, nhiều món ăn của người Việt
hiện tại, thực ra là người Việt tiếp thu của người Khơme món canh chua, món bún
Bạc Liêu .v.v... Rõ nhất của quá trình tiếp biến nãy là hiện tượng sử dụng song ngữ,
đa ngữ trong vùng. Vốn từ của các tộc người được vay mượn, như người Việt vay
mượn vốn từ của người Hoa, Khơme và ngược lại. Thậm chí, những câu nói, câu hát
bình dân có sự pha tạp giữa các ngôn ngữ khác nhau.
Chẳng hạn, nếu ở nửa cuối thế kỉ XIX, bằng tấm lòng yệu nước, nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu đã từ chối không cho con mình học chữ tân trào - chữ Quốc ngữ, thì ở nửa đầu
thế kỉ XX, con gái nhà thơ, nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, cũng như nhiều trí thức Nam Bộ,
đã nhận ra giá trị của chữ Quốc ngữ và báo chí bằng chữ Quốc ngữ, nên đã làm chủ
bút tờ báo Nữ giới chung, dùng nó làm tiếng chuông thức tinh nữ giới. Chính vì sớm
tiếp nhận văn hóa phương Tây, văn hóa Mỹ, nền văn hóa Nam Bộ sẽ có những đặc
điểm mà vùng khác không có. Nói cách khác, quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra ở
Nam Bộ vài một tốc độ mau lẹ đã khiến cho vùng Nam Bộ có đặc điểm này.
Mặt khác, Nam Bộ là vùng văn hóa có nhiều tôn giáo tín ngưỡng cùng đan xen tồn
tại, nói cách khác đi là diện mạo tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ khá đa dạng và phức
tạp. Ngoài các tôn giáo lớn ở ngoài du nhập vào như Phật giáo, (Công giáo, Tin lãnh,
Hồi giáo, Nam Bộ còn là quê hương của tôn giáo tín ngưỡng địa phương như Cao
đài, Hòa hảo, như các ông đạo, các tín ngưỡng dân gian như thờ Tố tiên, Thổ thần,
thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ Neaktã, Arăk.
Bản thân từng tôn giáo ở Nam Bộ cũng khá đa dạng Bên cạnh Phật giáo Tiểu thừa lại
có Phật giáo Đại thừa. Với các tín ngưỡng dân gian, điều kiện tự nhiên lịch sử của
vùng đất mới đã khiên nó có những nét khác biệt, tuy rằng, chúng đi ra từ một nguồn
cội là đồng bằng Bắc Bộ. Xin đơn củ, nói tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, tín ngưỡng
này đã có những nét khác biệt, điện thần phong phú hơn, nghi lễ thờ cúng cũng có sự
khác biệt. Hiện tượng các ông đạo như đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo đi Chậm, đạo Câm,
đạo Dừa v.v.,, có thể coi như một hình tượng riêng biệt của tôn giáo tín ngưỡng Nam
Bộ.
Trong ứng xử với thiên nhiên, các tộc người ở Nam Bộ cũng có những nét khác biệt so
với các vùng văn hóa khác. Dù là người Việt hay người Khơme, người Chăm, người
Hoa v.v... Khi tới vùng này sinh sống, họ đêu đứng trước một thiên nhiên vừa có phần
lạ lẫm, vừa có phần huyền bí ứng xử với thiên nhiên của người Việt có thể coi là thái
độ tiêu biểu nhất. Khác với đồng bằng sông Hồng, Nam Bộ, dù có tới 4900 km kênh
đào, dù có hai dòng sông lớn, vẫn không hề có một km đê nào. Dựa theo chế độ thủy
triều, hệ thống thủy lợi ở Nam Bộ đưa nước ngọt từ sông lớn vào sông nhỏ, vào kênh
rạch rồi lên mương, lên vườn. Nghĩa là một thái độ ứng xử hoàn toàn khác với ở Bắc
Bộ. Thái độ ứng xử với thiên nhiên còn được thế hiện- qua việc ăn và mặc. PGS, TS.
Ngô Đức Thịnh từng nhận xét: "món ăn Nam Bộ là sản phẩm độc đáo của miền đất
mới, là kết quả của sự giao tiếp với nhiều dân tộc, với các làng văn hóa Đông Tây.
Trên hết chúng tôi nghĩ rằng, cội nguồn của vấn đề vẫn là một thái độ ứng xử với
thiên nhiên."
Trước hết cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam Bộ có sự thay đổi. Nếu ở đồng bằng Bắc
Bộ, mô hình cơ cấu bữa ăn ấy là Cơm + Rau + Cá, thì ở Nam Bộ, tương quan giữa
các thành tố có thay đổi. Nguồn tài nguyên thủy sản ở Nam Bộ đạt tới sự sung túc,
phong phú, hơn tất cả mọi vùng trên đất nước ta. Vì thế, sử dụng nguồn đạm thủy sản
trong bữa ăn người Việt có chú trọng hơn. Các món ăn chế biến từ thủy sản cùng
nhiều về số lượng, phong phú về chất lượng, so với các nơi khác. Và người Việt sử
dụng các món ăn từ hải sản cũng nhiều hơn so với cư dân Bắc Bộ. Mặt khác, thiên
hướng trong có cấu bữa ăn của người Việt là nghiêng về chọn các món có tác dụng
giải nhiệt. Dừa và các món ăn được chế biến từ dừa chiếm vị thế quan trạng trong
các món ăn, chính bất nguồn từ khía cạnh nãy. Các loại nước giải khát như nước dừa,
nước quả được ưa thích. Trà dùng để giải khát, chứ không để thưởng thức như ở Bắc
Bộ,
Vì vậy, sự thay đối trong thái độ ứng xử với thiên nhiên của người Việt, cũng như các
tộc người khác ở đây là một đặc điểm của văn hóa vùng Nam Bộ.
Đặc điểm cuối cùng không thể không nhắc tới là sự phát triển của dòng văn hóa bác
học, nhất là của người Việt ở đây.
Từ giữa thế ki XVIII, Gia Định đã có những trường học nổi tiếng như trường Hòa
Hưng của nhà giáo ưu tú Võ Trường Toản. Người thầy giáo lớn của Nam Bộ đã đào
tạo được nhiều người tài danh như Ngô Tòng Châu, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức,
Ngô Nhân Tịnh. Năm Gia Long thứ 12 (1813), khoa thi hương đầu tiên được tổ chức
ở Gia Định, năm 1862, khoa thi Hương cuối cùng được tô chức ở An Giang. Như vậy,
trong 49 năm, trường thi Gia Định có 22 khoa thi, tuyển chọn được 296 cử nhân,
trong đó có những người ra kinh thi tiến sĩ và được lấy đỗ 5 người.
Như vậy, đội ngũ trí thức Nho học xuất hiện ở Nam Bộ. Một số văn đàn, thi xã xuất
hiện như: Tao đàn Chiêu Anh Các, như Bình Dương thi xã Bạch Mai thi xã. Nửa sau
thế kỉ XIX, các tác giả Nam Bộ đã đóng góp phần quan trọng, bằng văn chương, vào
cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,
Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp. Sau khi chiếm đóng Nam Kì, người Pháp bãi bỏ
chế độ giáo dục bằng chữ Hán, mở các trường học Pháp Việt ở Sài Gòn, sau đó ở các
tỉnh, các huyện khác. Chữ Quốc ngữ, chữ Pháp thay thơ chữ Nôm, chữ Hán trong nhà
trường chữ Qốc ngữ rất nhanh chóng trở thành công cụ truyên tải văn hóa ở Nam Bộ,
thay cho chữ Nôm. Tầng lớp trí thức mới xuất hiện ở Nam Bộ và chính họ góp phần
thúc đầy quá trình thay đổi chữ viết của văn hóa Nam Bộ, Việt Nam những năm này.
Đó là việc dùng chữ Quốc ngữ để làm báo như Sương Nguyệt Anh (báo Nữ giới
chung), Lê Hoàng Mưu (báo Lục tính tân văn), Nguyễn Dư Hoài, Lương Khắc Ninh
(báo Nông cố min demi), dùng chữ Quốc ngữ để sưu tầm, phiên cứu như Trương Vịnh
Ký, để sáng tác như Trương Duy Toản, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Văn
Vinh v.v....
Cũng vào đầu thê ki XX, các trường trung cấp kĩ thuật, các trường dạy nghề đã được
người Pháp mở ở Sài Gòn. Khoảng những năm 40 của thế kỉ XX, người Pháp có tổ
chức ở Sài Gòn một số cơ sở nghiên cứu khoa học và văn hóa, sau Hà Nội, Sài Gòn là
một trung tâm lớn.
Từ năm 1954 đên năm 1975, Nam Bộ lại vào giai đoạn giao lưu văn hóa với văn hóa
Mỹ Trong hai môt năm ấy, một số trường đại học, một số cơ sở nghiên cứu khoa học
đã được xây dựng ở
Sài Gòn và Cần Thơ tầng lớp trí thức trong giai đoạn này đã góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của đất nước.
Từ sau năm 1975, Nam Bộ lại là một vùng đang phát triển về mọi mặt, văn hóa phát
triển khá nhanh với sự xuất hiện của hàng loạt các trường đại học, các cơ quan
nghiên cứu v.v..
Dòng văn hóa bác học ở Nam Bộ từ khi người Việt vào đây lập nghiệp đến nay, quả là
một nhân tố quan trọng trong tiến trình văn hóa của vùng và góp phần rất đáng kê
vào diễn trình lịch sử của văn hóa Việt Nam.
Tóm lại, Nam Bộ có nhiều nét riêng so với các vùng khác. Vùng đất vừa có bề dày
trong diễn trình lịch sử của văn hóa Việt Nam, lại là vùng đất giàu sức trẻ của cả các
tộc người ở đây vị thế địa chính trị, địa văn hóa của Nam Bộ, khiến nó trở thành
trung tâm mà quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra nhanh chóng cả về bề mặt lẫn bề
sâu, cả về lượng và chất, tạo cho vùng văn hóa Nam Bộ có những đặc thù riêng và trở
thành một gương mặt riêng khó lẫn trong diện mạo các vùng văn hóa ở nước ta.

You might also like