You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao & POHE

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận dụng quan điểm nêu trên của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Họ và tên sinh viên: Vũ Quỳnh Mai


MSV: 11224103
Lớp tín chỉ: Digital Marketing 64C
Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện

HÀ NỘI - 2023

1
MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………………………...tr,3
Chương 1: Tư tưởng HCM về kinh tế………………………………………………..tr.4
1. Lý luận về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin…………...tr.4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam………………………………………………………………………….tr.6
Chương 2: Tư tưởng HCM về kinh tế……………………………………………….tr.11
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....……………………………….tr.11
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam………………………………….……………………………………..tr.12
3. Hạn chế………..………………………………………………….……………….tr.13
4. Đề xuất giải pháp………………………………………………………………….tr.14
Kết luận: ……………………………………………………………………………..tr.15
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………...tr.16

2
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế củaNgười cơ bản
là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí Minh đã đưa ra những
quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước nông nghiệp quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
những thành phần kinh tế là một bộ phận đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ
nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất nước ta trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta đã trải qua hơn 60 năm lịch sử, đó là một
quãng thời gian dài lâu mà toàn dân cùng nhau trải qua giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, cùng
nhau chứng kiến giai đoạn lịch sử chuyển mình sang một hình thái kinh tế xã hội mới tiến lên
cộng sản chủ nghĩa. Đương nhiên việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát
triển như nước ta là một quá trình phấn đấu đầy “gian lao” và “ gian khổ”, chưa từng có tiền lệ
trong lịch sử, song Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên định trên con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội trong suốt hơn 85 năm qua. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết
phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác nhận vai trò, tỷ trọng và mối
quan hệ hợp thành giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các phần
kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như về
mặt chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm
tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Đến đây, ta nhìn về tư tưởng
của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó
là quan điểm mang ý nghĩa chiến lược, với tư duy logic vượt thời đại mà cho tới tận bây giờ
Đảng và Chính phủ vẫn tiếp tục học tập và làm theo lời Bác để thực hiện phát triển kinh tế
quốc dân. Với ý nghĩa to lớn và thiết thực như vậy, đề tài “ Tìm hiểu và phân tích quan điểm củ
Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự vận
dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước
ta hiện nay?” đã được chọn và trình bày sau đây.

3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác
– Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, có giá trị định hướng con đường phát triển đi lên của các dân tộc theo quy luật phát triển
chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia – dân tộc. Hệ thống đó dựa trên cơ sở khoa học
và bao gồm:
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do Các Mác và Ph.Ăngghen phát minh tạo nên cuộc
cách máng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ sở khoa học để nhận thức chân
thực về thời kỳ quá độ. Trên cơ sở quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết định sự
hình thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; đỉnh
cao, tiến bộ nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy
luôn có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi là thời kỳ quá độ.
Lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Phân tích thời kỳ quá độ từ xã hội TBCN
sang xã hội CSCN ở các nước TBCN đã phát triển cao nhất, C.Mác chỉ ra và xác định  hai giai
đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN: Giai đoạn thấp là XHCN, giai đoạn cao là
CSCN. Ở giai đoạn XHCN, chế độ kinh tế và sự phát triển của văn hóa mới đạt tới giới hạn và
chỉ bảo đảm cho xã hội thực hiện nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở
giai đoạn CSCN, con người không còn bị lệ thuộc vào sự phát triển của lao động; lao động vừa
là phương tiện sống, vừa trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống; sự phát triển phi thường
của lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động ngày càng tăng, của cải tuôn ra dào dạt… xã
hội đủ các điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện nguyên tắc“Làm hết năng lực, hưởng
theo nhu cầu”; sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người.
Xác định, luận giải về XHCN là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS được C.Mác phân tích: 1)
Không gian và thời gian là “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” ; 2) Thực chất xã hội thời kỳ đó
“không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà
trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một
xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội
cũ mà nó đã lọt lòng ra” , “Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản” ; 3) Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản.
Thống nhất với chủ nghĩa Mác về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CNCS, vận
dụng vào phân tích, xem xét ở những nước chưa có lực lượng sản xuất phát triển cao như nước
Nga Xô viết, hoặc chưa trải qua CNTB mà lại đang và sẽ bỏ qua chế độ CNTB; cùng sự phân

4
tích những thành phần, bộ phận, đặc điểm không thuần nhất, đan xen, thâm nhập lẫn nhau của
các yếu tố của CNTB và CNXH, thấy được sự lấn át của xã hội cũ đối với xã hội mới và tính
chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ này, V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CNCS thành ba giai đoạn: I “những cơn đau đẻ kéo
dài”, II “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, III “giai đoạn cao của xã hội cộng sản
chủ nghĩa”. Ở đó, xác định: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài”.
Từ sự phân tích, đánh giá trên đây, V.I.Lênin đã đưa ra khái niệm về thời kỳ quá độ từ CNTB
lên CNXH, đó là: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những
đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng
sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị
tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.
Nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin làm sâu sắc tính chất lâu dài, phức tạp của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước trình độ phát triển khác nhau, rằng: Với những
nước chưa có CNTB phát triển cao mà đi lên CNXH, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu
dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Tính chất đó được quy định bởi chỗ thời kỳ đó
không chỉ phải làm nhiệm vụ của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH mà còn phải thực hiện cả
một loạt nhiệm vụ mà đáng lẽ CNTB đã phải làm trước khi cách mạng vô sản nổ ra, như xóa bỏ
các tàn tích phong kiến, kiến lập nền công nghiệp cơ khí hóa… Với những nước càng ít phát
triển, “tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội
đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài),… chỉ là một trong những bước đầu tiên tiến lên
xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Đây là giá trị lý luận khoa học đặc sắc được đúc rút từ tính quy
luật: CNXH ra đời trên cơ sở của sự phát triển đến đỉnh cao của CNTB; đồng thời, tuân thủ tính
khách quan: CNXH có thể ra đời từ xuất phát điểm thấp hơn CNTB khi có những điều kiện,
tiền đề và thời cơ chín muồi (những khả năng, con đường hiện thực của một xã hội mới - xã hội
XHCN mà thực tiễn tất yếu cách mạng đã đem lại).
Với thực tiễn những năm đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước Nga Xô viết giúp cho
V.I.Lênin đưa ra kết luận khoa học: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là
điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một
cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ
này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống
xã hội”… Từ đó, xác lập nên hai hình thức cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH: 1) Quá độ
trực tiếp - từ những nước tư bản phát triển lên CNXH; 2) Quá độ gián tiếp - từ những nước
chưa qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH.
Ở hình thức quá độ thứ hai - quá độ bỏ qua CNTB lên CNXH, V.I.Lênin chỉ ra, nhiệm vụ của
thời kỳ quá độ sẽ nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, bởi phải thực hiện “kép” cả hai nhiệm vụ là
xây dựng CNXH về mặt chính trị, xã hội và đạt được những thành tựu cơ bản của CNTB về
mặt khoa học, lực lượng và trình độ sản xuất. Do vậy, ông nhấn mạnh và đòi hỏi sự cần thiết

5
phải trải qua nhiều bước trung gian, quá độ mới có thể xây dựng thành công CNXH, ví như,
phải “bắc những nhịp cầu nhỏ” đi xuyên qua kinh tế tư bản để từng bước xây dựng CNXH.
Đồng thời, lưu ý “chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung
gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
mấu chốt của vấn đề”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
2.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng và thời kỳ quá độ
lên CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thời
kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên CNXH. Ở Việt Nam là hình thái quá độ gián
tiếp với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1). Đặc điểm này chi phối tác động đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực
dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng các mầm mống cho CNXH phát triển, đó là
một tất yếu.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Phải tạo ra
những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện
dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4). Trong đó, “nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,...
tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và
xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(5).
Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh đã xác định bước đi, cách
làm phù hợp, Người khẳng định: Chúng ta cũng phải có phương pháp xây dựng CNXH của
riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Bước đi trong xây dựng XHCN ở nước
ta là “phải làm dần dần”, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại, phải thực hiện “đi bước nào vững
chắc bước ấy”.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng để xây dựng CNXH, đó là: Cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính; kết hợp
thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng; xây
dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm. Đặc biệt, Người xác định biện pháp cơ
bản, lâu dài quyết định nhất trong xây dựng CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân,
đem của dân, tài dân, sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Bác đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội rất toàn diện.
Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động
trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản

6
lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải
dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất
Trong bối cảnh nền kinh tế của nước a còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, Hồ Chí Minh xác định
nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ là phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh
tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đây là quá trình xây dựng nền tảng vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Giữa cải tạo và xây dựng thì xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài và phải luôn gắn với việc thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.1 Cơ cấu thành phần kinh tế
 Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn tại của các hình thức sở hữu,
các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất hàng hoá
thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, xét về toàn bộ, nó là nền
kinh tế quá độ, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế
khác nhau là một tất yếu khách quan. Mỗi thành phần kinh tế còn phát huy tác dụng tích cực,
có đóng góp vào quốc kế dân sinh thì không thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xoá bỏ ngay
một lúc được.
Khi nghiên cứu Chính sách kinh tế mới của Lênin để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, ở vùng tự do
của ta, còn tồn tại 6 thành phần kinh tế.
      Trong tác phẩm "Thường thức chính trị" viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã nêu rõ bản chất
của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và đã cụ thể  hoá các thành phần kinh tế bao gồm:
       - Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
       - Kinh tế quốc doanh
       - Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp
       - Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
       - Kinh tế tư bản của tư nhân.
       - Kinh tế tư bản quốc.
      Đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự tồn tại
của nền kinh tế nhiều thành phần. Đặc biệt, bên cạnh các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
thì có sự tồn tại của thành phần là kinh tế phong kiến. Đây là thành phần kinh tế mang tính đặc
thù, thành phần kinh tế này phản ánh trình độ phát triển kinh tế thấp với chế độ sở hữu phong
kiến về ruộng đất và trong hoàn cảnh đặc thù yêu cầu phải tiếp tục kháng chiến để hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ. Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung,
tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể. Về cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự
do 1945-1954, bên cạnh đảm bảo tính quy luật chung về đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần với các thành
phần kinh tế phổ biến, kinh tế quá độ thì vẫn tồn tại thành phần kinh tế mang tính đặc thù. Như
vậy, đây chính là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành
phần kinh tế trong nền kinh tế và có sơ sở để hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh

7
tế và góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
      Sau năm 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.  Miền Bắc bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa từ xuất
phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Cơ sở
vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp, đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ
thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có
hoà bình, vừa có chiến tranh. Tình hình thế giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ
một số khó khăn, bất đồng, mâu thuẫn. Vấn đề lý luận về mô hình, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội chưa sáng rõ. Từ thực tiễn miền Bắc như vậy, chủ  tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ
ra các hình thức sỡ hữu cơ bản trong nền kinh tế miền Bắc, bao gồm: “Sở hữu Nhà nước tức là
của toàn dân; sở hữu hợp tác tức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao
động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Với sự đa dạng của quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất, Người đã xác định rõ những thành phần kinh tế đang tồn tại và hoạt
động ở miền Bắc: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
      A- Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
      B- Các hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
      C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là
nữa CNXH).
      D- Tư bản của tư nhân.
      E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
      Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta
sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”
      Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Miền Bắc Việt Nam sau
năm 1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 ở những điểm thống
nhất và có những điểm thay đổi sau:
      - Điểm thống nhất: Trong nền kinh quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đặc điểm kinh tế cơ bản
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam là sự tồn tại khách quan của
các thành phần kinh tế. Và tồn tại các thành phần kinh tế phổ biến: Kinh tế quốc doanh; Kinh tế
của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; Tư bản của tư nhân. Thành phần kinh tế quá độ: Các
hợp tác xã; Tư bản của Nhà nước.
      - Điểm thay đổi
      Một là, khác với thời kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành phần kinh tế
phong kiến. Cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Người
nông dân đã trở thành người cày có rộng, chủ sở hữu ruộng đất. Điều này một lần nữa khẳng
định lại nhận định của Hồ Chí Minh: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân
cày phải có ruộng.
      Hai là, các thành phần kinh tế thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh tế quốc
doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cần phải ưu tiên phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho CNXH và thúc đẩy việc cải tạo xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh đã có bước phát triển
mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội đã trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho

8
chủ nghĩa xã hội có vai trò “lãnh đạo” trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa của sự phát triển kinh tế. "Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo
của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ
nó".
2.2.2 Cơ cấu ngành kinh tế
Hồ Chí Minh khẳng định “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông
nghiệp…hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Ngay từ bước đầu phát triển
kinh tế, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng ngành nông nghiệp nước ta. Theo Người, nông nghiệp
phải là gốc, là trụ cột chính bởi vì nông nghiệp bảo đảm lương thực, thực phẩm nguồn sống của
con người, là cơ sở cho các ngành kinh tế khác. Hơn nữa, vốn dĩ ở nước ta với tiền đề địa lý là
nước nhiệt đới cận xích đạo lấy nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu với bề dày lịch sử của
nền nông nghiệp lúa nước trải dài suốt quá trình kiến quốc, nông dân chiếm đại đa số trong dân
sư, cho nên việc quan tâm phát triển nông nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển nông nghiệp ở nước ta lúc đó thực sự quan trọng, không chỉ để đảm bảo lương thực,
thực phẩm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm việc làm cho người lao động, tạo
ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là nó sẽ là cơ sở ban đầu cho các ngành
kinh tế khác, cũng như cơ sở cho vấn đề công nghiệp hóa nước nhà. Nông nghiệp phải phát
triển đủ mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp nguyên liệu… Công nghiệp
phải phát triển mạnh để cung cấp hang tiêu dung cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông
dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu… Cho nên công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Thế là thực hiện liên minh công nông để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
Tiếp đó, theo Bác chìa khóa để thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp không đâu xa chính là
thương nghiệp. Vai trò của thường nghiệp của được Người giải thích như sau: “Trong nền kinh
tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt ác động
quan hệ mật thiết với nhau, Thương nghiệp cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương
nghiệp đưa hang đến nông thôn phục vụ nông dân thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu
cho thành thị tiêu dung. Nếu không thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp
với công nghiệp, không củng cố được liên minh công nông, công tác không chạy thì hoạt động
nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc.
2.2.3 Cơ cấu vùng kinh tế
Nói về quan điểm của mình về cơ cấu vùng thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra phương hướng là
cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm sao cho phù hợp với nông thôn, thành
thị và hải đảo để từ đó rút ngắn khoảng cách thu nhập, văn minh và nhận thức giữa các vùng.
Tiếp nữa, Người khẳng định phải xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc
tế. Bác cho rằng độc lập là phải độc lập toàn diện triệt để, một quốc gia dân tộc độc lập là một
quốc gia dân tộc độc lập về mọi mặt: chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa tư tưởng. Mà quan
trọng nhất với Người đó chính là độc lập và chính trị và kinh tế, tức là không lệ thuộc vào bất

9
kỳ quốc gia dân tộc nào khác như một số nước trung đông. Chúng ta độc lập toàn diện, độc lập
về mọi mặt nhưng không có nghĩa là đóng cửa khép kín mà vẫn có sự giao thương với các nước
khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò của khoa học kĩ thuật đối với sự phát triển của
nền kinh tế nước nhà. Người cho rằng chúng ta không có điều kiện thuận lợi cho khoa học kĩ
thuật thì giờ cần phải học tập tiếp thu từ các nước đi trước, tìm tòi và tiếp thu khoa học kĩ thuật,
nguồn vốn của nước họ và đặc biệt là những kinh nghiệm đi trước trong quản lý và sản xuất
đặc biệt là sản xuất hàng hóa. Từ đó ứng dụng về nước ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh địa
lý, tập tục thói quen đặc điểm của nền kinh tế nước nhà. Song song với việc học tập tiếp thu,
chúng ta cũng không được quên đi những tinh hoa của nước nhà, phải biết “hòa nhập mà không
hòa tan”, cũng như giữ vững tôn trọng độc lập chủ quyền, ngăn cấm mọi hành động ảnh hưởng
đến nền độc lập của quốc gia mình và không can thiệp tới độc lập chủ quyền của quốc gia dân
tộc khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện tốt việc tập trung quản lý kinh tế, tức quản lý và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, đưa ra những nguyên tắc trong quá trình quản lý cho hợp lý, đảm bảo lợi ích
chung của các thành phần kinh tế, công bằng với từng vùng kinh tế, ngành kinh tế, cải thiện
những mâu thuẫn trong nền kinh tế nước nhà. Người cũng khẳng định cần chống tiêu cực trong
hoạt động quản lý, xử phạt nghiêm minh những hành vi tham ô tham nhũng, bè phái, đặc biệt là
Đảng viên thì càng phải có những biện pháp xử lý hợp tình hợp lý, nếu nghiêm trọng thì khai
trừ khỏi Đảng cũng những hình phạt đúng luật đúng nguyên tắc để làm gương cho những người
khác và thanh lọc Đảng trong sạch.
Kết hợp với đó là những kế hoạch hóa trong phát triển kinh tế cho phù hợp với từng thời kỳ,
phải có những quan điểm cụ thể, kiện toàn bộ máy nhà nước thực hiện quản lý. Việc quản lý
kinh tế được Bác chú tâm rất kỹ. Theo Bác, việc quan tâm tới cán bộ quản lý kinh tế cũng rất
quan trọng. Mà quan tâm ở đây là quan tâm tới chất lượng đội ngũ quản lý, cần có chuyên môn
quản lý, kinh nghiệm quản lý đúng ngành phù hợp với vùng kinh tế, đồng thời phải có những
phẩm chất cần có của người quản lý, của công dân yêu nước. Có như vậy thì việc phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm mới có thể thành công. Ta có thể thấy, trên cơ sở nhận thức về tính
quy luật chung, tính đặc thù trong nền kinh tế của từng nước, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và trong từng giai đoạn cụ thể.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó trong khoảng thời
gian chưa thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ được diễn ra trước tiên ở Miền Bắc. Thời kỳ này
bắt đầu từ năm 1954 sau khi miền Bắc được giải phóng. Sau đó, các tính chất trong đấu tranh
giải phóng và chi viện cho miền Nam được thực hiện. Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn độc
lập và thống nhất hai miền Nam Bắc. Khi đó, sự thống nhất trong vai trò lãnh đạo của Đảng đặt
ra mục tiêu phát triển đất nước. Trước tiên là khôi phục kinh tế, xã hội và đi lên chủ nghĩa xã
hội.

10
Như vậy đến năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với các chính sách
cần thiết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Thực trạng vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
phát triển cơ cấu nền kinh tế ở nước ta hiện nay
2.1 Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã khẳng định; “Tư tưởng Hồ Chí Minh
soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta”. Trong đó, theo tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và xây dựng và
phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Chính phủ cùng nhau giải phóng mọi năng
lực sản xuất, đánh dấu mốc mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về “nhiệm vụ quan trọng nhất” ở thời kỳ quá độ “là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” vào thực tế đất nước thời kỳ đổi mới,
Đảng ta xác định: Trong đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội VI vào tháng 12 năm 1986 xác định tư
tưởng chỉ đạo cốt lõi là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi
với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đến Hội nghị Trung ương 6 (khóa
VI) Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán có ý nghĩa
chiến lược lâu dài và các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Xuyên suốt 7 kỳ Đại hội của Đảng từ khi đổi mới (Đại hội VI đến Đại hội XII) và cả trong
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” và “Cương lĩnh xây dựng đất nước tròn thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” thông qua năm 1991 và bổ sung phát triển năm 2011, đều đã
khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trong đổi mới, chính là “Phát triển một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này lại được cụ thể
hóa, hoàn chỉnh ở mỗi thời kỳ hoạt động của Đảng, nhất là cụ thể hóa về nội dung chính sách
xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đến Đại hội IX (năm 2001) thì khái niệm
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khẳng định như sau: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra năm 2006 đã xác định các thành phần
kinh tế của nước ta thời điểm đó, bám sát vào tư tưởng Hồ Chí Minh là có 5 thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, các thành phần kinh tế có tổ
chức hoạt động đúng pháp luật, đóng vai trò hợp thành nên nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cùng nhau phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tới Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta diễn ra vào năm 2011 lại một lần nữa nhấn mạnh mục
tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “nhiều hình thức sở hữu,

11
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tổ chức năm 2016 trên cơ sở tổng kết quá trình 30 năm đổi
mới, Đảng khái quát lại những lý luận của mình: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Và cho tới Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng mới diễn ra gần đây đã một lần nữa giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn về tầm quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh về
việc cải tiến để phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta trong giai đoạn
tiếp theo.
2.2 Chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp
Bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, do nhiều nguyên nhân mà Việt Nam ta vội vàng tập
trung lực lượng vào công nghiệp nặng, từ đó trải qua quá trình khó khăn vất vả. Phải đến Đại
hội Đảng lần thứ V và dấu mốc thay đổi toàn diện trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ VI
thì chúng ta mới thực sự có sự thay đổi, đặt trọng tâm vào nền nông nghiệp theo lời dạy của Hồ
Chủ tịch và từ đó nền kinh tế - xã hội mới bước đầu có sự khởi sắc.
Và cho tới ngày nay, khi tình hình trong và ngoài nước có sự biến chuyển, Việt Nam ta đã hoàn
thành cơ bản nhiệm vụ chặng đầu với nội dung chính là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Và hơn hết trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, cơ cấu kinh tế bắt
buộc phải bắt kịp thời đại. Chính vì vậy, trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội thì
Đảng đã đưa ra những chủ trương: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa với mục tiêu là tới năm 2020 thì nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Tuy nhiên, trước mắt, chúng ta cũng không được lơ là phát triển nông nghiệp bởi đó vẫn là
ngành kinh tế trọng điểm của đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta phải
phát triển toàn điện nông lâm ngư nghiệp, gắn liền với công nghiệp chế biến nông lâm thủy
sản.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội IX đã chỉ rõ phương
hướng phát triển nền kinh tế quốc dân là: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên
cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường
trong và ngoài nước, đáp ứng về cơ bản các nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân dân và yêu cầu
trang bị lại trong nền kinh tế và quốc phòng an ninh”. Đồng thời Đảng cũng nhấn mạnh việc
tăng cường chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn từ đó tiếp tục phát triển và đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn
để đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên trình độ mới, có thể ứng dụng khoa học kĩ thuật để cải thiện
lợi nhuận. Cùng với đó dần chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng
cao chất lương đội ngũ nhân lực để bảo đảm cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước vững tiến trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.3 Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm

12
Việt Nam chúng ta được phân chia thành 7 vùng kinh tế trọng điểm như sau: Trung du và miền
núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc bộ (Đồng bằng sông Hồng), Bắc Trung Bộ, Ven biển Nam Trung
Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Phụ thuộc vào đặc điểm địa lý,
dân cư, tập tục thói quen của từng vùng mà Đảng và nhà nước có những vận dụng và phương
hướng nhất định để phát triển nền kinh tế của vùng đó. Có thể nói Đảng ta thành công trong
việc phát triển kinh tế của 7 vùng kinh tế trọng điểm này. Xét trong bối cảnh hội nhập kinh tế,
thay đổi trong trục kinh tế và địa chính trị của thế giới, sự xuất hiện của một trật tự thế giới đa
cực, sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam chúng ta cần phải có những đổi mới tư
duy chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng
góp tích cực, khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác”.
Hơn nữa, tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương hiện nay đang là xu thế phổ biến nhất là
trong hoàn cảnh toàn cầu hóa đang ngày phát triển mạnh mẽ cho nên Việt Nam càng phải có sự
khai thác lãnh thổ linh hoạt và tối ưu nhất trong đó tạo ra sự đột phá để đáp ứng yêu cầu của
cạnh tranh quốc tế và hội nhập toàn cầu. Để thực hiện được những điều này thì Đảng và Chính
phủ nhận định rằng cần phải tập trung vào việc: Hoàn thiện quy hoạch vùng và lấy đó làm cơ
sở để phát triển các vùng kinh tế trọng điểm; Nâng cao chất lượng vật chất, gia tăng kết cấu cơ
sở hạ tầng kiến trúc xã hội, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên vùng kinh tế hợp lý song song với
bảo vệ môi trường. Đặc biệt, Đảng còn chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng
động lực, các khu kinh tế và các khu công nghiệp đi đôi với gia tăng liên kết giữa các địa
phương trong và các vùng với nhau để phát huy tối đa hóa tiềm năng và lợi thế của từng vùng
kinh tế. Đảng cũng nhận định rằng không một địa phương nào bị bỏ rơi, tức là cần phải tạo điều
kiện cho các khu vực còn khó khăn nhất là miền núi, hải đạo, biên giới, Tây Bắc, Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ và phía tây các tỉnh miền Trung và bắt đầu hình thành các khu kinh tế xuyên biên
giới.
3. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng phát triển kinh tế và việc vận dụng tư tưởng kinh
tế của Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, thể hiện như:
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn thấp; chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng
theo chiều rộng, với những ngành/sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật tư cao,
chưa đi mạnh vào chất lượng, còn phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư và bảo hộ, bao cấp dưới
nhiều hình thức của Nhà nước. Công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn
đến giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp. Hầu hết các ngành công nghiệp đều có hệ suất
tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh
tranh tuy có tiến bộ nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp đó, các thành phần kinh tế chưa phát triển đúng tiềm năng: Kinh tế nhà nước chưa làm
thật tốt vai trò chủ đạo; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kinh tế tập thể phát
triển chậm và còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng vai trò động lực của nền kinh tế, chưa
được quan tâm tạo điều kiện thỏa đáng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn khó khăn về môi
trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế, chính sách ...

13
Những tồn tại trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan (như sự chống phá của lực
lượng thù địch, bối cảnh kinh tế thị trường biến động phức tạp) và cả nguyên nhân chủ quan.
Trong đó, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chưa thật sự đúng đắn cũng dẫn đến
những hạn chế trên. Hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh có thể kể đến như
sau:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm với nhu cầu phát triển. Nhận
thức một số vấn đề còn chưa có nghiên cứu sâu sắc dẫn đến sự không thống nhất trong hoạch
định các chủ trương, chính sách.
Bên cạnh đó, việc tổ chức tuyên truyền, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh còn hình thức, giáo
điều, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến,
mô hình hay, cách làm hiệu quả trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh chưa thực sự tạo sức lan tỏa trong xã hội.
4. Đề xuất giải pháp
Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều
kiện mới của đất nước và tình hình thế giới. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc Việt Nam.
Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát triển thông qua
hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp, bảo đảm:
Giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các thành phần kinh
tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa chủ và thợ, giữa lợi
ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước, lợi ích trước mắt
và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế;
Kinh tế nhà nước thực sự giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật;
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật; trong
đó, cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản xuất, phát triển sản xuất
nhằm mang lại thịnh vượng, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động;
Các tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ trợ nhà nước, khi cần thiết có thể đấu tranh với các
thế lực tự phát của thị trường đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ...
Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận thức lý
luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi để đấy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cần bảo
đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận, trong đổi mới tư duy về kinh tế; bảo
đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính sách, thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ

14
vừa là phương thức, động lực và là giải pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã thể hiện
những nội dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam. Thực tiễn luôn vận động biến đổi và
đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ
nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới
Qua tìm hiểu và phân tích, chúng ta đúc kết lại trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, Người chia cơ
cấu kinh tế thành: cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế. Trong
đó, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được Người phân tích một cách sâu sắc và rành mạch nhất,
chỉ rõ được điểm mạnh và yếu của từng thành phần để có thể tìm ra phương hướng phù hợp
phát triển cho từng thành phần kinh tế. Có thể nói, 5 thành phần kinh tế ở nước ta khi đi lên chủ
nghĩa xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nay đã hiện hữu đầy đủ trong đường lối của
Đảng thời kỳ đổi mới. Những thành phần này được Đảng nhận thức sâu sắc và luôn cố gắng
hoàn thiện trong thực tiễn. Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng đề ra đường lối chính sách ngày
càng phù hợp và nhất quán với từng loại hình kinh tế, cũng như mục tiêu, phương hướng của
nền kinh tế nhiều thành phần qua từng Đại hội trong thời kì đổi mới. Nhờ vậy mà nền kinh tế
của nước ta đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần tạo nên thành công của thời kỳ đổi mới,
nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. V.I.Lênin, Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
5. Hồ Chí Minh, Thường thức chính trị (1954), Nxb Sự thật
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII,
XIII (1996, 2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Tạp chí cộng sản (2011): Tìm hiểu quan điểm của Đại hội XI của Đảng về các thành phần
kinh tế - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
8. Tạp chí Tổ chức nhà nước (2022): Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới (tcnn.vn)

16

You might also like