Professional Documents
Culture Documents
T Tình
T Tình
- Hồ Xuân Hương-
I. MỞ BÀI
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái
tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho
rằng, “thơ là tiếng lòng”. Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm
hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch
nỗi lòng mình. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng đầy xót xa, tủi
hổ của Hồ Xuân Hương cũng là của những người phụ nữ sống trong xã hội xưa.
Hồ Xuân Hương xứng đáng với danh hiệu bà chúa thơ Nôm và là một hiện tượng
đặc biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản
ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường
tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì. Trong đó Tự tình (bài II) được coi là bài thơ hay
nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
...Mảnh tình san sẻ tí con con!”
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Thể loại và ngôn ngữ: Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng
đáng chú ý là nó không được viết bằng chữ Hán mà được viết bằng chữ Nôm là chữ viết
ghi lại tiếng nói của dân tộc. Và phải đến thời Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào
làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực sự.
- Hoàn cảnh ra đời: Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đa tài, đa tình, giao du rộng rãi
mà số phận truân chuyên, cuộc đời đầy éo le ngang trái và duyên phận hẩm hiu. Bà là con
vợ lẽ, lại muộn màng trong đường tình duyên, từng hai lần làm lẽ rồi hai lần đều duyên
phận ngắn ngủi, rơi vào cảnh góa bụa. Chính hoàn cảnh éo le ấy là nguồn cảm hứng cho bà
sáng tác chùm thơ Tự tình. Bài thơ Tự tình (bài II) là hình ảnh người phụ nữ cô đơn, lẻ loi
trong đêm khuya thanh vắng than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình.
- Nhan đề: Tự tình trước hết có nghĩa là bộc lộ cảm xúc, tâm tình. Với đặt nhan đề như
vậy, bài thơ là lời tự bộc bạch, lời của tâm hồn, con tim muốn được thổ lộ, giãi bày. Khi có
tâm trạng cô đơn, trống trải người ta thường tìm đến một đối tượng khác để tâm tình nhưng
Xuân Hương ở đây lại tâm sự với chính mình, nói về chính mình, về nỗi cô đơn, bất hạnh
của chính mình. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ là nỗi tự tình của riêng Xuân Hương mà còn
là nỗi đau, sự bẽ bàng của những người phụ nữ bị chèn ép, bị chế độ phong kiến làm cho
dang dở, lẻ loi.
2. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường
Hai câu đề trong bài thơ thất ngôn bát cú thường có nhiệm vụ làm cho người đọc
“mở cửa ra thấy núi” (khai môn kiến sơn). Hai câu thơ đầu trong bài thơ này cũng vậy, gợi
ra không gian, thời gian và tâm trạng tê tái của người phụ nữ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
1
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Trong đó, câu thơ thứ nhất thể hiện thời gian và thời gian ở đây là lúc đêm khuya, là
khoảng thời gian dễ gây tâm trạng. Bước đi của thời gian được cảm nhận rõ qua tiếng trống
canh. Bởi vì, thời xưa đêm thường được chia thành năm canh, giữa các canh thường có
trống báo hiệu. Tiếng trống canh vang lên giữa đêm khuya báo hiệu thời gian đang trôi đi.
Trong khi mọi người đã chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động
mệt mỏi, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là
khoảng không bao la, rộng lớn yên tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn”.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” (từ láy) của tiếng trống canh để
nói cái không gian tĩnh lặng về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác
động đến con người hay là vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh
vắng là lúc con người ta trở nên bé nhỏ và lạc lõng vô cùng khi giường đơn gối chiếc đối
diện với chính mình. “Trơ”ở đây là trơ trọi, là cô độc chỉ có một mình được đặt ở đầu câu
càng nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh của một người phụ nữ. “Hồng nhan” là chỉ cái vẻ đẹp
nhan sắc bên ngoài của người con gái nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh là tấm lòng
son bên trong. Chữ “cái” vốn chỉ vật bé nhỏ, tầm thường được sử dụng nhằm cụ thể hóa
đối tượng diễn tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi hổ, bẽ bàng khi nhan sắc, đức hạnh của
người phụ nữ bị coi rẻ, bị mỉa mai. “Nước non” chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội bên
ngoài, chỉ không gian rộng lớn. Như vậy từ “Trơ” nhấn mạnh cái nhỏ bé, đơn chiếc trước
cái rộng lớn là “nước non”, là sự thách thức của một con người có cá tính mạnh mẽ, táo
bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Vì lắm đau buồn mà nét mặt con người như trơ ra trước
cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác.
Nhìn chung, bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, gợi cảm, Hồ Xuân Hương đã gợi tả,
đã tự giãi bày nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi, bẽ bàng của mình. Đó cũng là tình cảnh của biết
bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đặc biệt là những người
phụ nữ phải rơi vào cảnh lẽ mọn:
Tối tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài
Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài đầy ngao ngán của người phụ nữ trước
duyên phận bẽ bàng. Và tình cảnh ấy đã từng khiến Hồ Xuân Hương uất hận mà viết:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
3. Hai câu thực: Thể hiện rõ nét hơn tình cảnh cô đơn, buồn tủi, chán chường
Khi nỗi buồn đè nặng đến không chịu đựng nổi, Hồ Xuân Hương muốn vùng vẫy
chống lại, giải thoát. Bởi vậy, nữ thi sĩ tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng, đê
mê ngây ngất của rượu để quên đi nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại
càng đau, nỗi buồn không nguôi trong vòng xoáy luẩn quẩn.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Câu thơ của nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:
2
“Rút dao chém nước, nước càng chảy
Nâng chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Gợi liên tưởng cả tâm trạng Thúy Kiều khi tỉnh rượu vào lúc tàn canh:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Tưởng nâng chén tiêu sầu hóa ra càng sầu thêm, càng xót xa, tủi hổ nên sau đó nữ thi sĩ tìm
cách khác để giải sầu:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Xuân Hương tìm đến thiên nhiên để xoa dịu nỗi đau nhưng ngẩng đầu lên ngắm
trăng thì trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng hao khuyết ở đây vừa là hình ảnh
thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân sắp qua đi mà tình yêu vẫn chưa bao
giờ được trọn vẹn, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ thật tài tình, đăng đối, hô
ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài hoa
mà phải chịu cảnh dang dở. Nguyên do ấy là vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng
nói về “Tài mệnh tương đố”, vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
4. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương
Hai câu luận là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái
“tình”bên trong.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé nhưng không hề yếu mềm mà mang một sức sống
mãnh liệt. Rêu vốn mềm yếu bỗng dưng vươn dậy đầy sức mạnh, có thể “xiên ngang mặt
đất”. Đá vốn đã cứng nhưng im lìm, thấp bé giờ đây trở nên cứng hơn, sắc nhọn hơn và
vươn lên cao để có thể “đâm toạc chân mây”. Hình ảnh thiên nhiên với sức sống mãnh liệt,
phép so sánh, cường điệu kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ và các động từ mạnh “xiên”,
“đâm” cộng với bổ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng
cũng là để nhấn mạnh tâm trạng của con người phẫn uất, phản kháng không chịu chấp nhận
số phận.
Các hình ảnh thiên nhiên cùng các biện pháp nghệ thuật ấy thể hiện rõ sự vùng vẫy,
bứt phá, phản kháng của Hồ Xuân Hương. Dường như nữ thi sĩ đang muốn xé trời, vạch
đất cho thỏa nỗi hận sầu, để thoát khỏi bi kịch của duyên phận, cuộc đời, thoát khỏi sự sắp
đặt của số phận. Phản ứng của nữ sĩ tuy mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn là đắng cay,
chua chát. Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
Đây là thời kì mà chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,
mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ”
với chế độ đa thê nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới, đòi quyền
bình đẳng, muốn được sống, được yêu thương và có được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc
ấy không hề dễ dàng bởi chính bản thân bà vẫn phải chấp nhận số phận éo le, ngang trái.
3
Số phận của thi sĩ cũng chính là số phận của biết bao những người phụ nữ trong xã
hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng
Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người phụ nữ như Hồ Xuân Hương:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
5. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán ngán, buồn tủi
Xuân Hương không muốn cam chịu nhưng vẫn phải chấp nhận, bà biết làm gì khác
ngoài việc trở về với chính lòng mình. Hai câu kết nói về tận cùng của sự đau khổ, chán
chường, buồn tủi của tác giả:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
“Ngán”ở đây là tâm trạng, cảm xúc ngao ngán, chán nản cuộc đời ngang trái. Xuân
chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, mùa của sum
họp nhưng còn có hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân thì của người phụ nữ. Hai từ “lại lại” cho
thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại, chỉ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời qua đi rồi trở lại, nó
đến mang đi mùa xuân của con người và mùa xuân của con người thì một đi không trở lại,
chỉ còn “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha” (Truyện Kiều).
Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về con người phải cảm thấy hớn
hở, vui mừng thì thi sĩ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ xuân đến là một lần
tuổi đời lại thêm, tuổi trẻ dần qua đi mà bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn yêu thương.
“Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác
Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ
lạnh lùng” để cho thấy tình cảnh làm lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thanh xuân
của người con gái có được là bao nhiêu, đã ít rồi lại còn ngày một ngắn lại. Vậy mà mảnh
tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần
của tình duyên, hạnh phúc: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ – càng ít hơn và cuối cùng phần
nhận được chỉ còn lại “tí con con”. Người phụ nữ ấy vẫn khát khao một hạnh phúc trọn vẹn
để được trao đi sự thủy chung, thế mà trái tim lại bị chia cắt, chảy máu. Nghệ thuật tăng
tiến không chỉ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của tình cảm mà còn góp phần thể hiện rõ hơn nỗi
đau, sự uất ức, càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn.
Bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc
phần nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ, tình yêu bị san
sẻ, hạnh phúc không thể với đến. Nhưng đồng thời ở đó, ta còn thấy được khát khao hạnh
phúc mãnh liệt của họ. Qua những vần thơ đó Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội phong
kiến đã kìm kẹp, phá tan nhu cầu, khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người.
III. KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương đã vận dụng sáng tạo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn
ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho
thể thơ cổ điển ấy một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt. Từ ngữ giản dị
mà đặc sắc với những động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ (xiên ngang mặt đất/ đâm
toạc chân mây), từ láy tượng thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn
4
trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Những hình ảnh giàu sức gợi (trăng khuyết chưa tròn,
rêu từng đám, đá mấy hòn,...) để diễn tả các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú trong
tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân phận của mình.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ
lận đận trong đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng
đáng với tấm chân tình của mình. Tâm trạng vừa buồn tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân
kiếp làm lẽ của người phụ nữ đồng thời cũng là bi kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân
của Hồ Xuân Hương. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc tới độc giả dù sống trong
hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số phận, thay
đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc lứa đôi và tình
duyên trọn vẹn.
LUYỆN ĐỀ
Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng “ Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện sâu sắc niềm khát khao
hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến . Ý khác lại khẳng định “ Thơ
Hồ Xuân Hương bộc lộ một cách chân thực tâm trạng bi kịch của nữ sĩ . Bằng cảm
nhận về bài thơ “Tự tình 2” em hãy bình luận các ý kiến trên.
I. MỞ BÀI
- Vài nét về tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắt vào hai nhận định.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích
- Ý kiến 1: Khát khao hạnh phúc là mong muốn được sống, được hạnh phúc thiết tha, cháy
bỏng. Trong bài thơ, trước sự trớ trêu của cuộc đời, số phận, Hồ Xuân Hương vẫn tha thiết
mong muốn, khát vọng có được hạnh phúc tình yêu.
- Ý kiến 2: Bi kịch: Bi là buồn, là bi thương. Bi kịch là chỉ tinh cảnh éo le, ngang trái, bất
hạnh, buồn đau. Bi kịch của Hồ Xuân Hương trong tác phẩm là sự buồn tủi, xót xa trước
duyên phận bẽ bàng, tình cảnh đầy éo le ngang trái của mình cũng như của những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến.
=> Hai ý kiến là hai nhìn nhận khác nhau, thậm chí có phần trái ngược nhau về bài
thơ.
2. Phân tích, chứng minh
2.1. Ý kiến 1: Thể hiện rất sâu sắc niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến:
+Sử dụng cụm từ chỉ thời gian: " Đêm khuya"
+ Động từ " trơ, cái hồng nhan" => sự khao khát hạnh phúc, cô đơn, tĩnh mịch trong đêm
khuya.
+ " Chén rượu... tròn" => Khao khát hạnh phúc nhân lên theo năm tháng, kéo dài suốt thời
gian dài.
5
+ Những hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của người phụ nữ đã bộc lộ khao khát
hạnh phúc mãnh liệt. " Xiên toạc.... hòn". Tác giả sử dụng những động từ mạnh, kết hợp
với những hình ảnh tượng trưng cho sự yếu ớt " Rêu", sức mạnh rắn rỏi " đá mấy hòn" như
thể hiện thái độ của bản thân trước sự trắc trở, lận đạn trong tình duyên của người phụ nữ.
Dù có muôn vàn sóng gió trong tình yêu, nhưng chắc chắn người phụ nữ sẽ vượt qua.
2.2. Ý kiến 2: Bộc lộ chân thực tâm trạng bi kịch của nữ sĩ.
- Bi kịch duyên phận hẩm hiu, nữ sĩ tự chua xót cho bản thân mình, thân phận rẻ rúng, bị
vùi dập trong xã hội phong kiến đầy những bất công.
- Bi kịch về tình duyên cho những người phụ nữ đã quá lỡ, tình duyên ngang trái trong
cuộc sống xã hội phong kiến xưa.
- Bi kịch không lối thoát trong tình yêu, hạnh phúc. Bế tắc cùng bế tắc luôn ập đến, khiến
người phụ nữ dù có đứng lên phản kháng, đấu tranh quyết liệt cũng bị vùi dập khiến nữ sĩ
trở nên vô vọng trong tình yêu. “Ngán nỗi… con con”.
3. Đánh giá hai nhận định:
- Hai nhận định đều đúng những chưa đủ. Hai nhận định cần phải bổ sung cho nhau mới có
thể thể hiện cái nhìn sâu sắc và toàn diện về bài thơ "Tự tình 2".
- Đánh giá về nội dung và nghệ thuật.
III. KẾT LUẬN: Suy nghĩ chung của bản thân về vấn đề đã nêu.
Đề bài 2: Phân tích bài “Tự tình 2” để chứng minh nhận định: Thơ là tự truyện của
khát vọng
8
giác thua cuộc, nhưng kết quả là Hồ Xuân Hương đã thua cuộc. Bài “Tự Tình 2” kết lại
bằng tâm trạng đau đớn, buồn tủi.
“Ngán nổi Xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Ngán là chán ngán, ngán ngẩm Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi. Thói đời éo le bạc
bẽo. Xuân đi rồi Xuân lại, tạo hóa chơi một vòng tròn luẩn quẩn. Từ “xuân” mang hai
nghĩa vừa là mùa xuân và là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên
với muôn nghìn hoa lá cỏ cây, chỉ có con người thêm một lần xuân lại là một nỗi buồn lớn
hơn.
“Nói làm chi rằng Xuân văn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
Hai từ lại trong cụm từ “Xuân đi xuân lại lại” từ lại thứ nhất là thêm lần nữa, từ lại
thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân,
nghịch cảnh éo le hơn với câu thơ cuối.
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Ở đây không phải khối tình còn mãi với non sông, mà là mảnh tình. Mảnh tình đã bé
lại còn san sẻ thành ra ít ỏi. Tuy nhiên cái tầm khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh
lấy chồng chung. Nó cũng là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa khi với họ hạnh
phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp.
Qua bài thơ “Tự Tình 2” của Hồ Xuân Hương ta thấy ý kiến của I. Michel Manlpose
là một ý kiến đúng đắn, khao khát chính là một dòng cảm xúc mới mẻ, mãnh liệt nhất của
thi sĩ. Đó là nỗi niềm thăng hoa để cho ra đời những đứa con tinh thần, độc đáo. Thi sĩ phải
là con người giàu rung cảm, sống sâu sắc, trọn vẹn với từng khoảnh khắc cuộc đời để có
những khao khát mãnh liệt, dồi dào trên nỗi trang thơ. Độc giả tìm đến với thơ ca trước hết
cần lắng lòng mình để cảm nhận trọn vẹn nỗi niềm, tâm sự của người nghệ sĩ gửi vào trong
trang viết. “Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiến). Phải chăng vì thế bấy lâu nay trong văn học nói
chung và thơ ca nói riêng tình cảm, khát vọng của thi sĩ luôn được đề cao. “Thơ là tự
truyện của khát vọng” đó là lời khẳng định đúng đắn và “Tự Tình 2” đã chứng minh điều
đó. Với một sự khao khát, một tâm trạng hết sức nhạy cảm và phong phú Hồ Xuân Hương
đã viết nên những dòng thơ này đặc sắc, mà đến ngày hôm nay nó vẫn còn giữ nguyên giá
trị./.