You are on page 1of 9

Hội chứng ruột kích thích (IBS) được đặc trưng bởi sự khó chịu hoặc đau bụng

tái
phát với ít nhất hai đặc điểm sau: liên quan đến đi vệ sinh, liên quan đến số lần đại tiện,
hoặc liên quan đến sự thay đổi độ cứng của phân. Nguyên nhân chưa rõ, và sinh lý bệnh
vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn Chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Điều trị triệu chứng, bao
gồm quản lý chế độ ăn uống và sử dụng thuốc - thuốc kháng cholinergic và các tác nhân
hoạt động ở các thụ thể serotonin.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của hội chứng ruột kích thích còn chưa rõ. Không có nguyên nhân
thực thể nào có thể được tìm thấy trong các xét nghiệm, chụp Xquang và sinh thiết. Các
yếu tố cảm xúc, chế độ ăn uống, thuốc hoặc hóc môn có thể làm giảm hoặc làm trầm
trọng thêm các triệu chứng đường tiêu hoá. Trong lịch sử, rối loạn này thường được coi
hoàn toàn do căn nguyên tâm lý. Mặc dù có sự tham gia của các yếu tố tâm lý xã hội, hội
chứng ruột kích thích nên được hiểu là do sự kết hợp của các yếu tố tâm lý xã hội và sinh
lý gây nên.

Các yếu tố tâm lý xã hội


Trầm cảm là vấn đề phổ biến ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích, đặc biệt ở
những người tìm kiếm chăm sóc y tế. Một số bệnh nhân có rối loạn lo âu, trầm cảm, hoặc
rối loạn dạng cơ thể. Các rối loạn giấc ngủ cũng có thể gặp song hành. Tuy nhiên, căng
thẳng và xung đột cảm xúc không phải lúc nào cũng xảy ra đồng thời với sự khởi phát và
tái phát các triệu chứng. Một số bệnh nhân hội chứng ruột kích thích dường như có hành
vi bệnh tật bất thường (ví dụ biểu hiện mâu thuẫn về cảm xúc bằng triệu chứng đường
tiêu hoá, thường là đau bụng). Trong đánh giá bệnh nhân hội chứng ruột kích thích, đặc
biệt là những người có các triệu chứng dai dẳng, bác sỹ nên làm rõ các vấn đề tâm lý chưa
được giải quyết, bao gồm cả khả năng bị lạm dụng tình dục hoặc thể chất. Các yếu tố tâm
lý xã hội cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị trong hội chứng ruột kích thích.

Các yếu tố sinh lý


Có nhiều yếu tố sinh lý dường như liên quan đến các triệu chứng của hội chứng
ruột kích thích. Các yếu tố này bao gồm sự thay đổi nhu động, tăng mẫn cảm đường ruột
(tăng mẫn cảm tạng), và các yếu tố liên quan đến di truyền và môi trường khác nhau.

Tăng mẫn cảm tạng nghĩa là tình trạng tăng nhậy cảm với sự giãn bình thường của
lòng ruột và tăng cảm giác đau với lượng khí lưu thông bình thường trong ruột, bệnh có
thể là kết quả của sự tái cấu trúc các đường nối thần kinh trong trục ruột-não. Một số
bệnh nhân (có lẽ 1 trong số 7) đã ghi nhận các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích
của họ bắt đầu sau một đợt viêm dạ dày ruột cấp (gọi là hội chứng ruột kích thích hậu
nhiễm trùng). Một số bệnh nhân hội chứng ruột kích thích có rối loạn chức năng tự động
ruột Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không có bất thường về mặt sinh lý, và thậm chí ở
những người có, những bất thường có thể không tương quan với các triệu chứng.

Táo bón có thể được giải thích bởi sự giảm nhu động ruột, và bệnh tiêu chảy có
thể được giải thích bởi sự tăng nhu động ruột. Một số bệnh nhân bị táo bón có số lượng
các cơn co thắt lan truyền biên độ cao ở vùng đại tràng ít hơn, các cơn co thắt này giúp
thúc đẩy thức ăn đi qua các đoạn đại tràng Ngược lại, hoạt động quá mức của nhu động
đại tràng sigma có thể làm trì hoãn quá trình vận chuyển gặp trong táo bón chức năng.

Đau bụng sau ăn có thể là do phản xạ dạ dày-ruột tăng lên (đáp ứng co bóp ruột
đối với bữa ăn), xuất hiện các cơn co thắt lan truyền biên độ cao vùng đại tràng, tình
trạng tăng mẫn cảm tạng, hoặc sự kết hợp các yếu tố trên. Ăn mỡ có thể làm tăng tính
thấm ruột và khởi phát tình trạng quá mẫn. Các thức ăn giàu tinh bột lên men, đường đôi,
đường đơn và polyol (gọi chung là FODMAPs) được hấp thu kém trong ruột non và có thể
làm tăng khả năng di chuyển và tiết dịch của đại tràng.

Sự biến đổi nội tiết tố nữ ảnh hưởng đến chức năng của ruột ở phụ nữ. Độ nhạy
cảm của trực tràng cao hơn trong kỳ kinh nguyệt so với ngoài kỳ kinh. Ảnh hưởng của hóc
môn sinh dục đối với nhu động ruột là rất ít. Vai trò của sự gia tăng vi khuẩn trong ruột
non trong hội chứng ruột kích thích còn đang gây tranh cãi.

Các triệu chứng và dấu hiệu


Hội chứng ruột kích thích có khuynh hướng khởi phát ở tuổi vị thành niên, xung
quanh độ tuổi 20, gây ra các đợt triệu chứng tái phát ở các giai đoạn khác nhau. Khởi phát
ở tuổi trưởng thành hiếm gặp hơn. Các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích hiếm khi
ảnh hưởng đến giấc ngủ của bệnh nhân. Các triệu chứng thường bị kích hoạt bởi thức ăn
hoặc căng thẳng.

Bệnh nhân có triệu chứng đau bụng, thường gặp vùng bụng dưới, đau âm ỉ hoặc
từng cơn, liên quan đến đại tiện. Bên cạnh đó, tình trạng đau bụng còn liên quan đến số
lần đại tiện (tăng lên trong hội chứng ruột kích thích với tiêu chảy, giảm trong hội chứng
ruột kích thích với táo bón) và độ cứng của phân (ví dụ lỏng hay thành khuôn và rắn). Tình
trạng đau bụng liên quan đến đại tiện thường có xu hướng xuất phát từ căn nguyên ruột,
những trường hợp cơn đau liên quan đến tập luyện, vận động, đi tiểu tiện hay chu kì kinh
thường có căn nguyên khác.
Mặc dù tính chất đại tiện thường không thay đổi ở phần lớn bệnh nhân, cũng
không hiếm gặp các trường hợp người bệnh có sự chuyển thể từ táo bón thành tiêu chảy
và ngược lại. Bệnh nhân cũng có thể có các triệu chứng đại tiện bất thường (khó đi, mót
rặn hay cảm giác không đi hết phân), phân có nhày máu hoặc cảm giác căng chướng bụng.
Nhiều bệnh nhân cũng có chứng khó tiêu. Triệu chứng ngoài ruột (ví dụ, mệt mỏi, đau
mỏi cơ, rối loạn giấc ngủ, đau đầu mạn tính) cũng phổ biến.

Chẩn đoán
Dựa vào lâm sàng, theo tiêu chuẩn Rome
Sàng lọc các nguyên nhân thực thể bằng các xét nghiệm cơ bản và nội soi trực
tràng hoặc đại tràng
Các xét nghiệm khác cho bệnh nhân có dấu hiệu nguy hiểm (ví dụ, máu tươi trong
phân, sút cân, sốt)
Chẩn đoán hội chứng ruột kích thích dựa trên triệu chứng đại tiện (táo bón hay
tiêu chảy), thời gian và đặc điểm của đau, và loại trừ các bệnh khác thông qua khám và
các xét nghiệm chẩn đoán thông thường.

Dấu hiệu nguy hiểm


Các xét nghiệm chẩn đoán cần được thực hiện tích cực khi người bệnh có các dấu
hiệu nguy hiểm ngay khi thăm khám ban đầu hay tại bất kì thời điểm nào sau khi đã có
chẩn đoán:

Tuổi cao
Sốt
Sút cân
Chảy máu từ trực tràng
Nôn
Chẩn đoán phân biệt
Vì bệnh nhân hội chứng ruột kích thích có thể tiến triển thành bệnh thực thể, xét
nghiệm chẩn đoán các bệnh lý khác nên được thực hiện ở bệnh nhân có triệu chứng nguy
hiểm hoặc các triệu chứng khác thường trong suốt quá trình được chẩn đoán mắc hội
chứng ruột kích thích. Các bệnh thông thường có thể lẫn lộn với hội chứng ruột kích thích
bao gồm:
Không dung nạp lactose
Tiêu chảy do thuốc gây ra
Hội chứng sau mổ cắt túi mật
Lạm dụng thuốc nhuận tràng
Bệnh ký sinh trùng (ví dụ:, nhiễm giardia)
Viêm dạ dày tăng bạch cầu ái toan hay viêm ruột
Viêm đại tràng vi thể
Vi khuẩn phát triển quá mức ở ruột non
Bệnh celiac
Giai đoạn sớm của bệnh viêm ruột
Tuy nhiên, túi thừa đại tràng không viêm không gây ra triệu chứng, và sự hiện diện
của chúng không nên được coi là căn nguyên.

Phân bố theo tuổi của bệnh nhân bị bệnh viêm ruột làm cho việc đánh giá cả bệnh
nhân trẻ và người già càng cần thiết. Ở bệnh nhân > 60 có các triệu chứng cấp tính, cần
xem xét viêm ruột thiếu máu cục bộ. Bệnh nhân bị táo bón và không có tổn thương thực
thể nên được đánh giá tình trạng suy giáp và tăng calci huyết. Nếu các triệu chứng của
bệnh nhân gợi ý rối loạn hấp thu, cần nghĩ đến bệnh tiêu chảy phân mỡ kéo dài (Sprue),
bệnh celiac, và bệnh Whipple. Các rối loạn đại tiện nên được xem như là nguyên nhân của
táo bón ở những bệnh nhân than phiền về triệu chứng khó đi ngoài.

Các nguyên nhân hiếm gặp của tiêu chảy bao gồm: cường giáp, ung thư tuyến giáp
thể tủy, hoặc là hội chứng cận u, U gastrin, và u tăng tiết peptit co mạch (vipoma). Tuy
nhiên, những nguyên nhân gây tiêu chảy này thường đi kèm với lượng phân > 1000 ml
mỗi ngày, giúp phân biệt chúng với đại tiện trong hội chứng ruột kích thích.

Kinh nghiệm lâm sàng và các sai lầm thường gặp


Túi thừa đại tràng không viêm không gây ra triệu chứng, và sự hiện diện của chúng
không nên được coi là căn nguyên.
Tiền sử
Đặc biệt chú ý đến đặc điểm của đau, thói quen đại tiện, mối quan hệ với gia đình,
và tiền sử dùng thuốc cũng như chế độ ăn. Đồng thời khai thác về trạng thái tinh thần
hiện tại, những vấn đề cá nhân và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Mối quan hệ giữa
thầy thuốc - bệnh nhân là điểm mấu chốt cho chẩn đoán và hiệu quả điều trị.

Tiêu chuẩn Rome là các tiêu chuẩn dựa trên triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán
hội chứng ruột kích thích. Tiêu chuẩn Rome gồm: đau bụng ít nhất 1 ngày/tuần trong 3
tháng gần đây cùng với ≥ 2 trong số sau (1):

Đau có liên quan đến đại tiện.


Đau có liên quan đến thay đổi số lần đại tiện
Đau có liên quan đến thay đổi khuôn phân
Khám bệnh
Bệnh nhân nhìn chung có vẻ khỏe mạnh. Khám bụng có thể thấy đau khi ấn, đặc
biệt ở góc phần tư dưới trái xuất hiện kèm theo đại tràng sigma ấn đau, sờ thấy được. Soi
trực tràng và xét nghiệm máu ẩn trong phân nên được thực hiện với mọi bệnh nhân Ở
phụ nữ, thăm khám vùng chậu giúp loại trừ khối u và u nang buồng trứng, hoặc nội mạc
tử cung, có thể có triệu chứng giống hội chứng ruột kích thích.

Xét nghiệm
Chẩn đoán hội chứng ruột kích thích có thể dựa vào tiêu chuẩn Rome nếu các
bệnh nhân không có dấu hiệu nguy hiểm, chẳng hạn như chảy máu trực tràng, sút cân và
sốt, hoặc các dấu hiệu có thể gợi ý nguyên nhân khác. Nhiều bệnh nhân bị hội chứng ruột
kích thích thường bị làm nhiều xét nghiệm hơn cần thiết; tuy nhiên tổng phân tích tế bào
máu, sinh hóa cơ bản (bao gồm men gan), các xét nghiệm huyết thanh trong bệnh celiac
(xét nghiệm kháng thể mô transglutaminase IgA, cùng nồng độ IgA ), xét nghiệm phân tìm
trứng và ký sinh trùng (ở bệnh nhân hay bị tiêu chảy), hóc môn TSH và canxi cho bệnh
nhân với táo bón, và soi trực tràng hoặc đại tràng ống mềm cần được xem xét.

Trong quá trình nội soi ống mềm sợi quang trực tràng - đại tràng sigma, dụng cụ
và khí được bơm vào thường gây ra cơn co thắt ruột và cơn đau. Niêm mạc và mạch máu
trong hội chứng ruột kích thích bình thường. Nội soi đại tràng được ưu tiên hơn cho bệnh
nhân > 50 tuổi để loại trừ polyps đại tràng và u. Ở những bệnh nhân bị tiêu chảy mạn
tính, đặc biệt là phụ nữ lớn tuổi, sinh thiết niêm mạc có thể loại trừ viêm đại tràng vi thể.

Các thăm dò bổ sung (như siêu âm, CLVT, chụp đối quang kép bằng bari, nội soi dạ
dày tá tràng và chụp X quang ruột non) chỉ nên được thực hiện khi có các triệu chứng bất
thường khác. Xét nghiệm mỡ trong phân khi nghi ngờ bệnh nhân đại tiện phân mỡ. Thăm
dò ruột non (ví dụ, qua nội soi, nội soi viên nang) được khuyến cáo khi nghi ngờ có tình
trạng kém hấp thu. Xét nghiệm đách giá sự không dung nạp đường hoặc sự gia tăng vi
khuẩn trong ruột non nên được xem xét trong các trường hợp thích hợp.

Bệnh đồng mắc


Bệnh nhân có hội chứng ruột kích có thể tiến triển thành bệnh lý khác ở đường
tiêu hóa, nên các bác sĩ lâm sàng không nên bỏ qua các than phiền về triệu chứng của
bệnh nhân. Những thay đổi về triệu chứng (ví dụ như ở vị trí, loại, hoặc cường độ đau;
thói quen đại tiện; táo bón và tiêu chảy) và các triệu chứng mới (ví dụ tiêu chảy về đêm)
có thể báo hiệu một bệnh lý khác. Các triệu chứng khác cần đánh giá thêm bao gồm máu
tươi trong phân, sút cân, đau bụng rất nhiều hoặc co cứng bụng bất thường, đại tiện phân
mỡ hoặc phân có mùi hôi, sốt hoặc gai rét, nôn kéo dài, nôn máu, các triệu chứng làm
bệnh nhân thức giấc về đêm (ví dụ đau, mót rặn), và các triệu chứng ngày càng nặng dần.
Bệnh nhân > 40 tuổi có nhiều nguy cơ tiến triển thành bệnh lý khác hơn bệnh nhân trẻ
tuổi.

Điều trị
Hỗ trợ và thấu hiểu
Chế độ ăn thông thường, tránh các loại thực phẩm có ga và dễ gây tiêu chảy
Tăng lượng chất xơ trong trường hợp táo bón
Điều trị nội khoa theo các triệu chứng chính
Điều trị tập trung vào các triệu chứng cụ thể. Phát triển mối quan hệ thầy thuốc-
bệnh nhân là cần thiết trong điều trị hội chứng ruột kích thích. Bệnh nhân nên được hỏi
không chỉ những triệu chứng của họ mà cả hiểu biết của họ về các triệu chứng đó cũng
như những lý do thúc đẩy họ đến khám bác sĩ (ví dụ như sợ đây là bệnh nghiêm trọng).
Bệnh nhân cần được giáo dục về hội chứng này (ví dụ như sinh lý ruột bình thường và
chứng quá mẫn với stress và thức ăn) và được trấn an sau khi làm các xét nghiệm thích
hợp rằng họ không mắc một bệnh lý nặng hay nguy hiểm nào cả. Mục tiêu điều trị thích
hợp nên được xác định (biết trước về diễn biến bình thường của bệnh hay sự thay đổi của
các triệu chứng, các tác dụng phụ của thuốc, mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân).

Cuối cùng, bệnh nhân có thể có lợi từ việc tham gia tích cực vào quyết định điều
trị của mình. Khi thành công, điều này có thể nâng cao động lực của bệnh nhân trong tuân
thủ điều trị, thúc đẩy mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân tích cực hơn, và thay đổi sự
đối phó ngay cả với những bệnh nhân thụ động kéo dài nhất. Các stress, lo âu, hoặc rối
loạn cảm xúc nên được xác định, đánh giá và điều trị. Hoạt động thể dục thường xuyên
giúp giảm căng thẳng và hỗ trợ chức năng ruột, đặc biệt ở bệnh nhân táo bón.

Chế độ ăn
Nói chung, một chế độ ăn uống bình thường có thể được áp dụng, Các bữa ăn
không nên quá lớn, và ăn chậm và đúng giờ giấc. Bệnh nhân bị chướng bụng và đầy hơi có
thể có lợi từ việc giảm hoặc không ăn đậu, cải bắp và các thực phẩm khác có chứa đường
lên men. Giảm ăn đồ ngọt (ví dụ: sorbitol, mannitol, fructose), tự nhiên và qua chế biến
(ví dụ nước táo và nho, chuối, quả hạch, nho khô) có thể làm giảm chứng đầy hơi, đầy
bụng và tiêu chảy. Bệnh nhân có tình trạng không dung nạp lactose nên giảm lượng sữa
và các sản phẩm sữa. Chế độ ăn ít chất béo có thể giảm triệu chứng đau bụng sau ăn.

Bổ sung chất xơ có thể làm mềm phân và cải thiện sự táo bón. Có thể sử dụng các
chất có thành phần làm mềm phân (ví dụ: cám thô, bắt đầu với 15 mL [1 muỗng canh] với
mỗi bữa ăn, kèm uống nhiều nước). Ngoài ra, có thể sử dụng Psyllium với hai ly nước. Tuy
nhiên, sử dụng quá nhiều chất xơ có thể dẫn đến đầy bụng và tiêu chảy, nên cần cân nhắc
tùy từng bệnh nhân. Đôi khi, chướng bụng có thể giảm bằng cách chuyển sang chế phẩm
xơ tổng hợp (ví dụ methylcellulose).

Điều trị bằng thuốc


(Xem thêm technical review và guideline của Hội Tiêu hoá Hoa Kỳ về điều trị bằng
thuốc trong hội chứng ruột kích thích)

Điều trị bằng thuốc với triệu chứng nổi trội. Thuốc kháng cholinergic (ví dụ,
hyoscyamine 0,125 mg đường uống sau 30 đến 60 phút trước bữa ăn) có thể được sử
dụng nhờ tác dụng chống co thắt của chúng.

Ở những bệnh nhân hội chứng ruột kích thích hay bị táo bón (IBS-C), chất kích
hoạt kênh clo: lubiprostone 8 mcg hoặc 24 mcg uống 2 lần/ngày và nhóm ức chế CGP
vòng linaclotide 145mcg hoặc 290mcg uống 1 lần/ngày có thể cải thiện triệu chứng.
Thuốc nhuận tràng polyethylene glycol chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng ở bệnh nhân hội
chứng ruột kích thích. Tuy nhiên, chúng đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị
táo bón mạn tính và thụt tháo đại tràng trước khi nội soi, do đó thường được sử dụng cho
hội chứng ruột kích thích có táo bón (IBS-C).
Ở những bệnh nhân IBS có tiêu chảy (IBS-D), có thể uống diphenoxylate 2,5 đến 5
mg hoặc loperamide 2 đến 4 mg trước bữa ăn. Liều loperamide nên được tăng liều dần
để giảm tình trạng tiêu chảy và tránh gây táo bón. Rifaximin là thuốc kháng sinh đã được
chứng minh là làm giảm các triệu chứng chướng bụng và đau bụng và giúp giảm độ lỏng
của phân ở bệnh nhân hội chứng ruột kích thích có tiêu chảy IBS-D. Liều khuyến cáo của
rifaximin đối với IBS-D là 550 mg uống 3 lần/ngày trong 14 ngày. Alosetron là chất đối
kháng thụ thể 5-hydroxytryptamine-3 (serotonin) (5HT3) có thể có lợi cho phụ nữ bị hội
chứng ruột kích thích sau tiêu chảy không đáp ứng với các thuốc khác. Vì alosetron có liên
quan đến chứng viêm đại tràng do thiếu máu, nên việc sử dụng thuốc tại Mỹ cần một
chương trình kê đơn nghiêm ngặt. Eluxadoline có hoạt tính receptor của opioid hỗn hợp
và được chỉ định để điều trị hội chứng ruột kích thích hay tiêu chuẩn IBS-D.

Đối với nhiều bệnh nhân, thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs) giúp giảm triệu
chứng tiêu chảy, đau bụng, và đầy hơi. Những loại thuốc này được cho là làm giảm đau
bằng cách làm giảm dẫn truyền thần kinh từ ruột đến tủy sống và vỏ não. Thuốc chống
trầm cảm 3-TCA vòng amin bậc 2 (ví dụ, nortriptyline, desipramine) thường được dung
nạp tốt hơn các amin bậc ba (ví dụ, amitriptyline, imipramine, doxepin) do ít tác dụng phụ
về kháng cholinergic, gây ngủ và kháng alpha-adrenergic. Việc điều trị nên bắt đầu bằng
liều TCA rất thấp (ví dụ, desipramine 10 đến 25 mg một lần/ngày trước khi đi ngủ), tăng
khi cần thiết và tối đa khoảng 100 đến 150 mg một lần / ngày.

Thuốc ức chế chọn lọc hệ serotonin SSRIs đôi khi được sử dụng ở những bệnh
nhân bị lo âu hoặc chứng rối loạn cảm xúc, nhưng các nghiên cứu không cho thấy có lợi
ích đáng kể cho bệnh nhân hội chứng ruột kích thích và có thể làm trầm trọng thêm bệnh
tiêu chảy.

Dữ liệu sơ bộ cho thấy một số probiotic (ví dụ:, Bifidobacterium infantis) làm giảm
các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích, đặc biệt là chướng hơi. Các tác dụng có lợi
của probiotic không giống nhau giữa các chủng khác nhau. Một số loại tinh dầu (làm giảm
chướng bụng) có thể giúp giãn cơ trơn và giảm đau do co thắt ở một số bệnh nhân. Dầu
bạc hà là chất được sử dụng nhiều nhất trong nhóm thuốc này này.

Trị liệu tâm lý


Liệu pháp nhận thức hành vi, liệu pháp tâm lý tiêu chuẩn, và liệu pháp thôi miên
có thể giúp một số bệnh nhân hội chứng ruột kích thích.

Những ý chính
Hội chứng ruột kích thích (IBS) được đặc trưng bởi sự khó chịu hoặc đau bụng tái
phát với ít nhất hai đặc điểm sau: liên quan đến đi vệ sinh, liên quan đến số lần đại tiện,
hoặc liên quan đến sự thay đổi khuôn phân.
Nguyên nhân không rõ ràng nhưng dường như liên quan đến cả yếu tố tâm lý xã
hội và sinh lý học.
Loại trừ các bệnh nguy hiểm hơn bằng các xét nghiệm, đặc biệt ở bệnh nhân có
dấu hiệu nguy hiểm, như tuổi già, sốt, sút cân, chảy máu từ trực tràng, hoặc nôn.
Các bệnh thông thường có thể gây nhầm lẫn với IBS bao gồm không dung nạp
lactose, tiêu chảy do thuốc, tiêu chảy sau cắt bỏ túi mật, lạm dụng thuốc nhuận tràng,
bệnh ký sinh trùng, viêm dạ dày tá tràng hoặc viêm ruột, viêm đại tràng vi thể, tăng vi
khuẩn ruột non, bệnh celiac và viêm loét đại trực tràng.
Xét nghiệm nên bao gồm tổng phân tích tế bào máu, sinh hóa cơ bản (bao gồm
men gan), các xét nghiệm huyết thanh cho bệnh celiac, xét nghiệm phân trứng và ký sinh
trùng (ở bệnh nhân hay bị tiêu chảy), hóc môn TSH và canxi (ở bệnh nhân táo bón), và soi
trực tràng ống mềm hoặc nội soi đại tràng.
Cần thiết lập mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân với sự hỗ trợ và thấu hiểu; điều
trị bằng thuốc theo các triệu chứng nổi trội.

You might also like