You are on page 1of 34

COVID-19

NEWSLETTER
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021

Xét nghiệm đánh giá kháng thể Phát hiện


nhằm đánh giá khả năng virus SARS-CoV-2

10
miễn dịch kháng lại SARS-CoV-2 qua hơi thở:
ở mức độ cá thể: giải pháp mới
nên hay không? 04 cho đại dịch toàn cầu

30 Có hay không
sự lây nhiễm SARS-CoV-2
ở vật nuôi?
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 1
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021

COVID-19
NEWSLETTER

Chịu trách nhiệm xuất bản


PGS.TS Vũ Hải Quân - Giám đốc ĐHQG-HCM

Ban biên tập


GS.TS.BS Đặng Vạn Phước (Trưởng ban), PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (Phó ban), 
GS.TS.BS Trương Phi Hùng, PGS.TS Hoàng Công Gia Khánh, GS.TS Trần Linh Thước,
GS.TS Huỳnh Văn Sơn, PGS.TS Nguyễn Văn Thuận, PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, 
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hoài, PGS.TS Trần Văn Hiếu, TS Đinh Bá Tiến, TS Lê Minh Công, 
PGS.TS Lâm Quang Vinh, PGS.TS Nguyễn Đình Tứ, TS Trương Minh Huy Vũ,
TS.BS Nguyễn Hoan Phú, ThS.BS Nguyễn Hoàng Thiên Hương, ThS Phạm Ngọc Trung Hiếu.

Bài viết vui lòng gửi về email: covid19@vnuhcm.edu.vn

2 covid19.vnuhcm.edu.vn
| COVID-19 | 01/11/2021
NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY covid19@vnuhcm.edu.vn | vnuhcm.info | vnuhcm
04 20
Vắc xin SARS-CoV-2
Xét nghiệm đánh dựa trên vùng RBD
giá kháng thể nhằm được biểu hiện ở nấm
đánh giá khả năng men phối trộn với tá
miễn dịch kháng lại dược 3M-052-alum có
SARS-CoV-2 ở mức khả năng gia tăng hiệu
độ cá thể: nên hay quả bảo vệ ở các loài
không? linh trưởng

10 25

vnuhcm
“Siêu kháng thể”
S2H97 và khả năng
chống lại nhiều loại
Phát hiện virus vi-rút Corona khác
SARS-CoV-2 qua nhau: Tiềm năng
hơi thở: giải pháp mới cho trận chiến
mới cho đại dịch COVID-19?
toàn cầu

17 28 30

Tại sao tỉ lệ mắc


COVID-19 và trở nặng Có hay không sự lây
Tại sao nên phát ở trẻ em ít hơn người nhiễm SARS-CoV-2 ở
triển vaccine hít? lớn tuổi? vật nuôi?

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 3


XÉT NGHIỆM
ĐÁNH GIÁ KHÁNG THỂ
NHẰM ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG MIỄN DỊCH
KHÁNG LẠI SARS-CoV-2
Ở MỨC ĐỘ CÁ THỂ:
NÊN HAY KHÔNG?

Ngô Ngọc Phương Thuỳ, ThS.BS Trần Huy Dũng


Trung tâm nghiên cứu Di truyền
và Sức khoẻ sinh sản (CGRH), Khoa Y ĐHQG-HCM

Tóm tắt Giới thiệu

Từ cuối năm 2019 đến nay, SARS-CoV-2 đã gây ra Từ các ca nhiễm được báo cáo đầu tiên tại Vũ Hán,
đại dịch suy hô hấp cấp ở người trên toàn thế giới với Trung Quốc vào cuối năm 2019, cho đến nay, SARS-
hàng trăm triệu ca nhiễm và hàng triệu ca tử vong. CoV-2 đã gây ra trận đại dịch trên nhiều quốc gia và
Cho đến nay, các chính sách miễn dịch cộng đồng vùng lãnh thổ. Theo thống kê của Wordometer, tính
đang được đẩy mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới, tới cuối tháng 9/2021, đã có hơn 233 triệu ca nhiễm
trong đó có Việt Nam, nhằm hạn chế các tác động và gần 5 triệu ca tử vong do nhiễm SARS-CoV-2 [1].
tiêu cực của virus. Gần đây, nhiều trang thông tin giới Với tiềm năng của y học hiện đại, nhiều công nghệ
thiệu dịch vụ xét nghiệm đánh giá kháng thể chống lại sản xuất vaccine được phát triển sản xuất ở nhiều
SARS-CoV-2 nhằm đánh giá tình trạng miễn dịch cá quốc gia, bằng nhiều phương pháp khác nhau và các
thể được chia sẻ rộng rãi trên các cổng thông tin cũng vaccine này đã được phân phối đến khắp các quốc gia
như mạng xã hội. Nhiều dữ liệu từ các nghiên cứu cho trên thế giới. Để hạn chế tình trạng trở nặng các triệu
thấy các xét nghiệm đánh giá kháng thể chỉ nên được chứng cho nhiễm SARS-CoV-2, các chính sách tiêm
áp dụng để khảo sát tình trạng miễn dịch cộng đồng, chủng đã được thực hiện trên toàn cầu. Theo thống
cũng như truy vết tiền sử nhiễm bệnh ở mức độ cá kê, tính tới ngày 27/9/2021, toàn thế giới có hơn 6,1 tỷ
thể, trong trường hợp cá thể này chưa tiêm vaccine liều vaccine kháng lại SARS-CoV-2 được tiêm chủng,
trước đó. Các khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và trong đó Việt Nam đã tiêm được hơn 38 triệu liều.
Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ cũng chỉ ra rằng xét Tính trên toàn dân số, Việt Nam đã có 32% dân số
nghiệm đánh giá miễn dịch chỉ có ý nghĩa về mặt dịch được tiêm vaccine, trong đó 8,2% đã tiêm đủ hai mũi
tễ trên cộng đồng, không có ý nghĩa trong đánh giá vaccine [2]. Gần đây, nhiều thông tin truyền thông giới
tình trạng miễn dịch ở mức độ cá thể do tính phức tạp thiệu về dịch vụ xét nghiệm đánh giá kháng thể nhằm
của các đáp ứng miễn dịch. xem xét khả năng miễn dịch của từng cá thể chống lại
sự xâm nhiễm SARS-CoV-2. Trong khi đó, các thông
tin từ Bộ Y tế cũng chưa cho thấy có chỉ định xét
nghiệm kháng thể trên người nhiễm virus hoặc người
tiêm vaccine [3]. Vậy các xét nghiệm kháng thể có nên
được áp dụng ở mức độ cá thể hay không? Bài viết
này sẽ tổng hợp các bằng chứng từ các y văn về bản
chất, hiệu quả của các xét nghiệm đánh giá kháng thể
hiện đang lưu hành trên thế giới cũng như khả năng
ứng dụng của các xét nghiệm này ở mức độ cá thể.

4 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Các kit xét nghiệm đánh giá kháng thể kháng cells) được hoạt hoá và dần biệt hoá thành các tương bào
SARS-CoV-2 hiện hành trên thế giới tiết ra các kháng thể đặc hiệu với từng epitope của tác
nhân xâm nhiễm được trình diện. Kháng thể sản sinh trong
Nguyên lý của các xét nghiệm đánh giá kháng các đáp ứng đầu tiên là kháng thể dạng IgM, trong khi IgG
thể kháng SARS-CoV-2 lại được sản sinh sau đó để duy trì khả năng miễn dịch
bảo vệ cơ thể khỏi tác nhân xâm nhiễm [6]. Bên cạnh đó,
Một số báo cáo cho thấy, khác với bản chất của các xét kháng thể IgA được tìm thấy ở các màng nhầy và hoạt
nghiệm phát hiện sự hiện diện của RNA của SARS-CoV-2, động như đáp ứng miễn dịch tự nhiên. Các báo cáo cũng
các xét nghiệm đánh giá kháng thể có thể cho phép chúng cho thấy kháng thể kháng lại SARS-CoV-2 sản sinh vào
ta thu thập các dữ liệu tốt hơn về mặt dịch tễ học, từ đó khoảng 6-10 ngày sau khi nhiễm virus, kháng thể IgM
có thể truy vết các trường hợp đã từng nhiễm virus trước sẽ đạt đỉnh nồng độ vào khoảng ngày thứ 12 sau nhiễm
đó [4]. Điều này có nghĩa là, với một số trường hợp nhiễm và tồn tại khoảng 35 ngày. Kháng thể IgG đạt đỉnh nồng
virus không triệu chứng và lượng virus trong cơ thể quá ít, độ vào khoảng ngày thứ 17 sau nhiễm và có thể tồn tại
dưới ngưỡng phát hiện dẫn đến kết quả RT-PCR âm tính. khoảng 49 ngày sau đó [7, 8].
Tuy nhiên, các xét nghiệm đánh giá kháng thể lại cho kết
quả dương tính với kháng thể IgG hoặc IgM đặc trưng Các kit xét nghiệm đánh giá kháng thể kháng
cho SARS-CoV-2. Cụ thể hơn, nghiên cứu của Long Q.X. SARS-CoV-2 được thương mại hoá
và cộng sự (2020) thực hiện đánh giá sự hiện diện của
các kháng thể IgG và IgM ở 285 bệnh nhân nhiễm SARS- Tính đến ngày 30/4/2020, đã có 10 xét nghiệm đánh
CoV-2 cho thấy 100% các bệnh nhân đều dương tính với giá kháng thể được chấp thuận bởi FDA với độ nhạy trung
IgG đặc hiệu cho virus này. Hiệu giá kháng thể IgG và IgM bình 84,90% và độ đặc hiệu trung bình là 98,63% (Bảng 1).
đều ổn định trong vòng 6 ngày sau khi bệnh nhân xảy ra Các xét nghiệm đang lưu hành hiện nay gồm 4 loại chính:
quá trình chuyển đổi huyết thanh. Kết quả nghiên cứu này test nhanh (RDT - rapid diagnostic test) sử dụng phương
cũng cho thấy xét nghiệm huyết thanh học có thể hữu pháp sắc ký miễn dịch (LFIA - Lateral flow immunoassays)
ích cho việc xác định tiền sử nhiễm virus ở những bệnh (Hình 1), ELISA (Enzyme-link immunosorbent assays), xét
nhân có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm SARS-CoV-2 nhưng lại nghiệm kháng thể trung hoà và CMIA (Chemiluminescent
có kết quả RT-PCR âm tính hoặc các trường hợp nhiễm immunoassays), riêng xét nghiệm kháng thể trung hoà chỉ
virus không triệu chứng [5]. được phép sử dụng trong các nghiên cứu, ba phương pháp
còn lại vẫn đang được phát triển thành các bộ kit thương
Các xét nghiệm đánh giá kháng thể dùng để phát hiện mại [9]. Các xét nghiệm đánh giá kháng thể hiện vẫn đang
sự hiện diện của các loại kháng thể được sản sinh từ tế được nghiên cứu phát triển trên toàn thế giới với độ nhạy
bào bạch cầu lympho B sau khi xảy ra quá trình trình diện và độ đặc hiệu chưa thống nhất giữa các nghiên cứu.
kháng nguyên của hệ thống miễn dịch. Sau khi trình diện
kháng nguyên, các tế bào B chưa trưởng thành (naive B

Bảng 1. Thông tin các xét nghiệm đánh giá kháng thể được chấp thuận bởi FDA [10]

Loại xét Độ nhạy Độ đặc hiệu


Hãng sản xuất Kháng thể đích
nghiệm (%) (%)
Test nhanh,
Cellex IgM và IgG 93,75 96
LFIA
Tổng kháng thể
Ortho Clinical Diagnostics ELISA 83,33 100
(IgM và IgG)
Test nhanh,
Chembio Diagnostic System IgM và IgG 93,55 93,95
LFIA
Mount Sinai Laboratory ELISA IgG 92,50 100
Test nhanh,
Autobio Diagnostics IgM và IgG 88,15 99,04
LFIA
DiaSorin CLIA IgG 70,90 99,27

Ortho Clinical Diagnostics ELISA IgG 87,50 100


Abbott Laboratories CMIA IgG 89,34 99,63
Tổng kháng thể
Bio-Rad Laboratories ELISA 92,16 99,56
(IgM, IgG, IgA)
Wadsworth Center, New York State Tổng kháng thể
CMIA 84,90 98,63
Department of Health (IgM, IgG, IgA)

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 5


So sánh tính chính xác của các xét nghiệm nhiên, rất ít các dữ liệu đánh giá độ chính xác của các xét
đánh giá kháng thể thương mại hiện hành nghiệm đánh giá kháng thể này trên những bệnh nhân
ở giai đoạn một tháng sau nhiễm. Cũng trong báo cáo
Phân tích gộp của Cochrane thực hiện đánh giá tính phân tích gộp này, các dữ liệu dự đoán tỷ lệ dương tính
chính xác của các xét nghiệm đánh giá kháng thể vì mục giả và âm tính giả của các xét nghiệm kháng thể có mối
đích chẩn đoán tiền sử nhiễm SARS-CoV-2 ở các bệnh tương quan với tỷ lệ lưu hành SARS-CoV-2 trong quần
nhân. Các xét nghiệm trong phân tích này đều là các kit thể thực hiện xét nghiệm. Cụ thể, nếu tỷ lệ lưu hành vi-
xét nghiệm thương mại hiện hành trên thế giới, gồm các rus trong quần thể là 5% thì tỷ lệ dương tính giả của xét
kit CMIA, kit test nhanh RDT, kit ELISA, dữ liệu được tổng nghiệm đánh giá kháng thể là 21,0% và tỷ lệ âm tính
hợp từ 57 nghiên cứu khác nhau. Kết quả chỉ ra rằng 2/3 giả là 0,4%. Trong trường hợp tỷ lệ lưu hành virus trong
các nghiên cứu này chỉ dựa trên kết quả phát hiện RNA quần thể tăng lên đến 50,0%, tỷ lệ dương tính giả của xét
của SARS-CoV-2 bằng RT-PCR khi phân tích kết quả đánh nghiệm đánh giá kháng thể sẽ giảm xuống khoảng 2,0%
giá kháng thể nên có thể tiềm ẩn các vấn đề liên quan nhưng tỷ lệ âm tính giả sẽ tăng lên đến 8,0% [11]. Hơn
đến nguy cơ âm tính giả của kết quả RT-PCR. Phân tích nữa, nghiên cứu của Vanroye F. đưa ra các bằng chứng
gộp này cũng cho thấy các đánh giá trên IgG, IgM, IgA, cho thấy các kit RDT đặc trưng cho kháng thể chống
tổng kháng thể và các phân tích kết hợp IgM/IgG đều lại SARS-CoV-2 có thể phản ứng chéo với các tác nhân
có độ nhạy khá thấp nếu bệnh nhân đang ở giai đoạn 7 khác như ký sinh trùng sốt rét, virus Dengue gây sốt xuất
ngày đầu sau khi nhiễm virus. Độ nhạy của các xét ng- huyết, sán lá gan lớn Schistosomiasis [12].
hiệm tăng dần ở tuần thứ hai và thứ ba sau nhiễm. Tuy

Hình 1. Cấu tạo que test nhanh bằng phương pháp LFIA [13].

Cơ sở khoa học về đáp ứng miễn dịch chống 3- 4 tuần [15] và có dấu hiệu giảm dần trong 2-3 tháng
lại SARS-CoV-2 sau đó [16]. Mặt khác, nhiều dữ liệu nghiên cứu chỉ ra sự
dao động trong nồng độ kháng thể ở các bệnh nhân phụ
Đáp ứng miễn dịch dịch thể thuộc vào lớp kháng thể sản sinh bởi phản ứng miễn dịch
dịch thể (IgM, IgG, IgA) và mức độ nặng của triệu chứng
Bất kỳ tác nhân xâm nhiễm nào khi tấn công vào các trên bệnh nhân đó. Bệnh nhân có triệu chứng nặng do
tế bào của cơ thể người đều được phát hiện bởi hệ miễn nhiễm SARS-CoV-2 sẽ có nồng độ kháng thể cao hơn và
dịch, từ đó kích hoạt các đáp ứng miễn dịch nhằm đào thải các kháng thể này tồn tại trong thời gian dài hơn so với
tác nhân gây bệnh ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, trong đáp các trường hợp nhiễm virus có triệu chứng nhẹ hoặc hoàn
ứng miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm của SARS-CoV-2, toàn không xuất hiện triệu chứng [5]. Ở các bệnh nhân
các nghiên cứu vẫn chưa rõ thành phần cụ thể nào trong này, nồng độ kháng thể IgA và IgM giảm đi đáng kể sau
hệ miễn dịch có vai trò quan trọng nhất trong cơ chế sinh 60 ngày kể từ ngày khởi phát triệu chứng, trong khi đó,
miễn dịch chống lại virus này cũng như vẫn chưa có một nồng độ kháng thể IgG vẫn duy trì ở mức cao [8]. Kháng
báo cáo nào chỉ ra rằng lượng kháng thể bao nhiêu là cần thể dạng IgG được chứng minh có thể duy trì trong máu
thiết để một cá thể có thể duy trì tính miễn dịch chống bệnh nhân khoảng 90 ngày, ngay cả trong các trường hợp
lại virus này theo thời gian. Đa số các bệnh nhân nhiễm có triệu chứng nhẹ do nhiễm SARS-CoV-2 [17]. Như đã đề
SARS-CoV-2 đều cho thấy có hiện tượng chuyển đổi huyết cập, nồng độ kháng thể có liên quan đến mức độ nặng
thanh hoặc có kết quả dương tính khi thực hiện các xét của triệu chứng của bệnh nhân nhiễm virus, tuy nhiên, một
nghiệm đánh giá kháng thể vào khoảng 2 tuần sau nhiễm báo cáo lại cho thấy động học phản ứng của các kháng
[14]. Một báo cáo phát hiện được kháng thể chống lại thể không có sự khác biệt khi so sánh giữa các bệnh nhân
SARS-CoV-2 ở bệnh nhân sớm nhất ở ngày thứ 6 sau khi có mức độ ảnh hưởng khác nhau bởi virus [18].
khởi phát triệu chứng và lượng kháng thể tăng dần sau
6 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
Kháng thể trung hoà trong đáp ứng miễn dịch rus không triệu chứng hoặc những bệnh nhân đến khám
dịch thể kháng SARS-CoV-2 muộn, khi mà các kết quả xác định kháng nguyên đã âm
tính nhưng lại dương tính với kháng thể. Điều này chứng
Điều thú vị là không phải tất cả các kháng thể sản sinh tỏ các trường hợp này đã nhiễm virus trước đó. Bên cạnh
ra từ các đáp ứng miễn dịch đều có khả năng chống lại đó, nhiều trường hợp có kết quả dương tính với kháng thể
virus trong những lần tái nhiễm sau đó. Chỉ có kháng thể đặc hiệu cho SARS-CoV-2 nhưng vẫn nhiễm virus sau đó,
trung hoà mới có khả năng thực sự bảo vệ cơ thể chống cho thấy kết quả dương tính trong các xét nghiệm đánh
lại tác nhân xâm nhiễm. Một nghiên cứu cho thấy lượng giá kháng thể không phản ánh được chức năng bảo vệ
kháng thể trung hoà ở những bệnh nhân nhiễm SARS- của các kháng thể này. Báo cáo này cũng khuyến cáo rằng
CoV-2 đã khỏi bệnh có độ dao động rất lớn [19]. Các ng- nếu áp dụng rộng rãi các xét nghiệm đánh giá kháng thể
hiên cứu định lượng cũng chỉ ra rằng các kháng thể trung ở mức độ cá thể, có thể gây ra những hiểu lầm về chức
hoà chống lại SARS-CoV-2 xuất hiện sớm nhất vào ngày năng bảo vệ của kháng thể, dẫn đến chủ quan và các cá
thứ 9 sau khi khởi phát triệu chứng và đạt đỉnh nồng độ thể này có thể trở thành tác nhân lây lan virus cho những
vào khoảng ngày thứ 31-35 [20], sau đó giảm dần và có người xung quanh, làm tăng tỷ lệ nhiễm trên cộng đồng
thể giảm đến mức dưới ngưỡng phát hiện sau 2-3 tháng [10]. Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào kết quả đánh giá kháng
[21]. Bên cạnh đó, vài nghiên cứu cũng ghi nhận mối tương thể mà bỏ qua các hạn chế kỹ thuật về tỷ lệ dương tính
quan giữa nồng độ kháng thể trung hoà và nồng độ tổng giả và âm tính giả, có thể dẫn đến các hệ lụy khác về mặt
kháng thể IgG trong máu [22] cũng như mối tương quan xã hội. Những trường hợp có kết quả âm tính giả trong
với mức độ nặng của triệu chứng lâm sàng do nhiễm vi- xét nghiệm đánh giá kháng thể không được tham gia các
rus [23]. Những trường hợp có triệu chứng nặng có nồng hoạt động xã hội trong thời kỳ mở cửa sau dịch, trong khi
độ kháng thể trung hoà cao hơn gấp 7 lần so với những họ thực sự có kháng thể chống lại virus. Ngược lại, những
trường hợp có triệu chứng nhẹ [23]. Như vậy, ta có thể trường hợp có kết quả dương tính giả lại có nguy cơ nới
thấy, hoạt động miễn dịch dịch thể chống lại SARS-CoV-2 lỏng các biện pháp bảo vệ cá nhân khi tham gia các hoạt
ở các cá thể khác nhau có thể khác nhau từ mức độ phản động cộng đồng, trong khi khả năng bảo vệ thực sự của
ứng, đến độ đặc hiệu của phản ứng. Do đó, một số trường kháng thể khá thấp [27].
hợp bệnh nhân ghi nhận nồng độ kháng thể trung hoà –
thành phần có chức năng chính trong việc chống lại virus, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ
dưới ngưỡng phát hiện trong khi các kit xét nghiệm đánh cũng đưa ra các khuyến cáo về việc sử dụng các xét ng-
giá kháng thể thương mại vẫn cho kết quả dương tính hiệm đánh giá kháng thể với nhiều điểm đáng lưu ý [28]:
trong định lượng tổng kháng thể trong huyết tương [24].
(1) Chỉ sử dụng các test đánh giá kháng thể với mục
đích chẩn đoán, xác định tiền sử nhiễm SARS-CoV-2.
Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
Không nên sử dụng để xác định tình trạng miễn dịch của
bệnh nhân nhiễm virus cho đến khi các nghiên cứu lâm
Bên cạnh hoạt động miễn dịch dịch thể, các đáp ứng
sàng khẳng định được các đặc tính của kháng thể đặc hiệu
miễn dịch ở cơ thể người còn có thể hoạt động theo
chống lại SARS-CoV-2.
hướng miễn dịch qua trung gian tế bào, cụ thể hơn là các
đáp ứng thông qua hoạt động của tế bào lympho T. Sau (2) Không nên sử dụng xét nghiệm đánh giá kháng
khi trình diện kháng nguyên, các tế bào lympho T chưa thể để đánh giá tình trạng miễn dịch ở những người đã
trưởng thành (naive T cells) sẽ biệt hoá theo hai hướng: T tiêm vaccine ngừa SARS-CoV-2. Do một số xét nghiệm
CD8+ và T CD4+. Tế bào T CD8+ đóng vai trò phân huỷ đánh giá kháng thể không thể phát hiện được các kháng
các tế bào bị nhiễm virus, trong khi các tế bào T CD4+ thể sản sinh từ đáp ứng miễn dịch sinh ra bởi vaccine, do
đóng vai trò kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt đặc thù phản ứng sinh miễn dịch đáp ứng với vaccine ở
động của các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, mỗi cá thể là khác nhau.
đặc biệt là việc điều hướng cho các tế bào T CD8+ đến tấn
(3) Đối với những cơ sở y tế, nếu quần thể có tỷ lệ
công đúng các tế bào bị nhiễm. Ngoài ra, vài báo cáo ghi
nhiễm SARS-CoV-2 >5% dân số thì các chỉ định làm xét
nhận sự lưu hành một lượng nhỏ tế bào T nhớ trong máu
nghiệm đánh giá kháng thể nên chọn các kit thương mại
sau khi nhiễm virus [25]. Nghiên cứu gần đây tìm thấy dấu
có độ đặc hiệu cao.
vết của các tế bào T CD4+ đặc hiệu cho sự nhiễm SARS-
CoV-2 hiện diện ở tất cả các bệnh nhân và 90% các trường (4) Các bác sĩ được khuyến cáo chỉ định xét nghiệm
hợp này có sự hiện diện các tế bào T CD8+. Điều này chỉ đánh giá kháng thể cho những bệnh nhân đã từng hoặc
ra rằng hoạt động miễn dịch qua trung gian tế bào cũng đang nhiễm SARS-CoV-2.
góp phần không nhỏ trong hoạt động miễn dịch chống
(5) Các bác sĩ được khuyến cáo sử dụng các thuật
lại SARS-CoV-2 [26]. Tuy nhiên, các hoạt động miễn dịch
toán trực giao giữa tình trạng nhiễm virus của bệnh nhân
thông qua trung gian tế bào không thể được đánh giá
và khả năng phát hiện kháng thể, từ đó đưa ra các chỉ định
và đo lường bằng các kit thương mại đánh giá kháng thể
xét nghiệm đánh giá kháng thể khi cần thiết.
hiện hành.
(6) Vẫn chưa có bằng chứng chứng minh hiệu quả
Các khuyến cáo trong việc áp dụng xét của các xét nghiệm đánh giá kháng thể, cho dù xét ng-
nghiệm đánh giá kháng thể hiệm đó dựa trên IgM, IgG, tổng kháng thể hoặc đánh giá
kết hợp IgM/IgG. Dù vẫn có các bằng chứng có thể phát
Một báo cáo của Mathur G. (2020) khuyến cáo các xét hiện được kháng thể IgA kháng lại SARS-CoV-2, CDC vẫn
nghiệm đánh giá kháng thể có thể được sử dụng như một không khuyến cáo các bác sĩ chỉ định các xét nghiệm dựa
công cụ để khảo sát tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 trong cộng trên IgA trong đánh giá tính sinh miễn dịch ở bệnh nhân
đồng, đặc biệt giúp phát hiện các trường hợp nhiễm vi- nhiễm virus này.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 7


Kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các xét nghiệm đánh giá kháng thể đang được 1. Worldometers. [updated 28 Sept 2021; cited 2021 28
thương mại hoá hiện nay chủ yếu dựa trên phản ứng Sept]. Available from: https://www.worldometers.
định tính hoặc định lượng các kháng thể dạng IgA, info/coronavirus/
IgM, IgG hoặc tổng lượng kháng thể kháng đặc hiệu
2. Times TNY. Tracking Coronavirus Vaccinations
với SARS-CoV-2. Các kit xét nghiệm thương mại hoá
hiện tại được phát triển theo các kỹ thuật như CMIA, Aroung the World 2021 [updated 27 Sept 2021; cited
LFIA, ELISA giúp phát hiện kháng thể trong mẫu máu 2021 27 Sept]. Available from: https://www.nytimes.
ngoại vi của bệnh nhân. Chỉ có các đáp ứng miễn dịch com/interactive/2021/world/covid-vaccinations-track-
theo hướng miễn dịch dịch thể mới có thể sản sinh ra er.html.
các kháng thể đặc hiệu kháng SARS-CoV-2. Các đáp 3. Tế BY. Xét nghiệm SARS-CoV-2: tìm kháng nguyên
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào lympho T không
hay kháng thể? 2021 [updated 28 Aug 2021; cited 2021
thể sản sinh ra các kháng thể, do đó, kết quả của đáp
27 Aug]. Available from: https://covid19.gov.vn/xet-
ứng miễn dịch qua trung gian tế bào chống lại SARS-
CoV-2 không thể đo lường được bởi các kit xét ng- nghiem-sars-cov-2-tim-khang-nguyen-hay-khang-
hiệm đánh giá kháng thể hiện hành. the-1717083185.htm.
4. Sullivan PS, Sailey C, Guest JL, Guarner J, Kelley C,
Các bằng chứng từ các nghiên cứu về tính sinh Siegler AJ, et al. Detection of SARS-CoV-2 RNA and
miễn dịch do SARS-CoV-2 cũng như các so sánh về Antibodies in Diverse Samples: Protocol to Validate
độ nhạy và độ đặc hiệu của các kit xét nghiệm đánh
the Sufficiency of Provider-Observed, Home-Collect-
giá kháng thể hiện lưu hành trên thế giới, cùng với các
ed Blood, Saliva, and Oropharyngeal Samples. JMIR
khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa
Dịch bệnh Hoa Kỳ, các xét nghiệm đánh giá kháng thể Public Health Surveill. 2020;6(2):e19054.
chỉ nên được ứng dụng trong các chương trình khảo 5. Long Q, Liu BZ, Deng HJ. Antibody responses to
sát miễn dịch cộng đồng, không nên áp dụng ở mức SARS-CoV-2 in patients with COVID-19. Nat Med.
độ cá thể. 2020;26:845 - 8.

Kết quả xét nghiệm đánh giá kháng thể ở mức độ 6. Gronvall G, Connell N, Kobokovich A. Developing a
cá thể không mang ý nghĩa lớn về mặt y học, không National Strategy for Serology (Antibody Testing) in
phản ánh đúng tình trạng miễn dịch của cá thể đó. the United States. Baltimore, MD: The Johns Hopkins
Ngược lại, các kết quả này có thể mang đến các hệ lụy Center for Health Security2020 [cited 2021 28 Sept].
tiêu cực ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động Available from: https://www.centerforhealthsecurity.
cộng đồng của cá thể do các hạn chế về tỷ lệ dương org/our-work/publications/developing-a-nation-
tính giả và âm tính giả của các kỹ thuật xét nghiệm al-strategy-for-serology-antibody-testing-in-the-US.
hiện hành.
7. Azkur AK, Akdis M, Azkur D, Sokolowska M, van
Các bác sĩ lâm sàng nên cân nhắc các khuyến cáo de Veen W, Bruggen MC, et al. Immune response to
của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh SARS-CoV-2 and mechanisms of immunopathological
trước khi đưa ra các chỉ định xét nghiệm đánh giá changes in COVID-19. Allergy. 2020;75(7):1564-81.
kháng thể, tránh dẫn đến lãng phí cũng như giảm
8. Yu HQ, Sun BQ, Fang ZF, Zhao JC, Liu XY, Li YM, et al.
thiểu các hệ lụy do hiểu sai các kết quả xét nghiệm
đánh giá kháng thể gây ra. Distinct features of SARS-CoV-2-specific IgA response
in COVID-19 patients. Eur Respir J. 2020;56(2).

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


SARS-CoV-2 Severe Acute Respiratory Syndrome Coronavirus 2
CDC Centers for Disease Control and Prevention
RNA Ribonucleic Acid
RT-PCR Reverse Transcriptase Polymerase Chain Reaction
IgM Immunoglobulin M
IgA Immunoglobulin A
IgG Immunoglobulin G
RDT Rapid Diagnostic Test (test chẩn đoán nhanh)
LFIA Lateral Flow Immunoassays (Sắc ký miễn dịch)
ELISA Enzyme-linked Immunosorbent Assays
CMIA Chemiluminescent Immunoassays
CD4+ Cluster of Differentiation 4+
CD8+ Cluster of Differentiation 8+

8 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


TÀI LIỆU THAM KHẢO

9. Kobokovich A, West A, Gronvall G. Serology-Based Tests for COVID-19 Baltimore, MD: The Johns Hopkins Center for
Health2020 [cited 2021 28 Sept]. Available from: //www.centerforhealthsecurity.org/resources/COVID-19/ser- ology/
Serology-based-tests-for-COVID-19.html. .
10. Mathur G, Mathur S. Antibody testing for COVID-19: Can it be used as a screening tool in areas with low prevalence?
Am J Clin Pathol. 2020;154:1 - 3.
11. Deeks JJ, Dinnes J, Takwoingi Y, Davenport C, Spijker R, Taylor-Phillips S, et al. Antibody tests for identification of
current and past infection with SARS-CoV-2. Cochrane Database Syst Rev. 2020;6:CD013652.
12. Vanroye F, Bossche DVD, Brosius I, Tack B, Esbroeck MV, Jacobs J. COVID-19 Antibody Detecting Rapid Diagnostic
Tests Show High Cross-Reactivity When Challenged with Pre-Pandemic Malaria, Schistosomiasis and Dengue Sam-
ples. Diagnostics (Basel). 2021;11(7).
13. Huntley BJF, Huntley ES, Di Mascio D, Chen T, Berghella V, Chauhan SP. Rates of Maternal and Perinatal Mortality
and Vertical Transmission in Pregnancies Complicated by Severe Acute Respiratory Syndrome Coronavirus 2 (SARS-
Co-V-2) Infection: A Systematic Review. Obstet Gynecol. 2020;136(2):303-12.
14. Prévost J. Cross-sectional evaluation of humoral responses against SARS-CoV-2 Spike. bioRxiv. 2020.
15. Long Q. Clinical and immunological assessment of asymptomatic SARS-CoV-2 infections. Nat Med. 2020;26:1200 - 4.
16. Cui P, Chen Z, Wang T, Dai J, Zhang J, Ding T, et al. Severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 detection in the
female lower genital tract. Am J Obstet Gynecol. 2020;223(1):131-4.
17. Isho B, Abe KT, Zuo M, Jamal AJ, Rathod B, Wang JH, et al. Persistence of serum and saliva antibody responses to
SARS-CoV-2 spike antigens in COVID-19 patients. Sci Immunol. 2020;5(52).
18. Hou H, Wang T, Zhang B, Luo Y, Mao L, Wang F, et al. Detection of IgM and IgG antibodies in patients with coronavi-
rus disease 2019. Clin Transl Immunology. 2020;9(5):e01136.
19. Luchsinger LL, Ransegnola B, Jin D, Muecksch F, Weisblum Y, Bao W, et al. Serological Assays Estimate Highly Variable
SARS-CoV-2 Neutralizing Antibody Activity in Recovered COVID19 Patients. medRxiv. 2020.
20. Lee WT, Girardin RC, Dupuis AP, Kulas KE, Payne AF, Wong SJ, et al. Neutralizing Antibody Responses in COVID-19
Convalescent Sera. J Infect Dis. 2021;223(1):47-55.
21. Seow J, Graham C, Merrick B, Acors S, Pickering S, Steel KJA, et al. Longitudinal observation and decline of neu-
tralizing antibody responses in the three months following SARS-CoV-2 infection in humans. Nat Microbiol.
2020;5(12):1598-607.
22. Maor Y, Cohen D, Paran N, Israely T, Ezra V, Axelrod O, et al. Compassionate use of convalescent plasma for treatment
of moderate and severe pneumonia in COVID-19 patients and association with IgG antibody levels in donated plasma.
EClinicalMedicine. 2020;26:100525.
23. Wang P, Liu L, Nair MS, Yin MT, Luo Y, Wang Q, et al. SARS-CoV-2 neutralizing antibody responses are more robust in
patients with severe disease. Emerg Microbes Infect. 2020;9(1):2091-3.
24. Wu F, Liu M, Wang A, Lu L, Wang Q, Gu C, et al. Evaluating the Association of Clinical Characteristics With Neutral-
izing Antibody Levels in Patients Who Have Recovered From Mild COVID-19 in Shanghai, China. JAMA Intern Med.
2020;180(10):1356-62.
25. Janssen EM, Droin NM, Lemmens EE, Pinkoski MJ, Bensinger SJ, Ehst BD, et al. CD4+ T-cell help controls CD8+ T-cell
memory via TRAIL-mediated activation-induced cell death. Nature. 2005;434(7029):88-93.
26. Grifoni A, Weiskopf D, Ramirez SI, Mateus J, Dan JM, Moderbacher CR, et al. Targets of T Cell Responses to SARS-
CoV-2 Coronavirus in Humans with COVID-19 Disease and Unexposed Individuals. Cell. 2020;181(7):1489-501 e15.
27. Weinstein MC, Freedberg KA, Hyle EP, Paltiel AD. Waiting for Certainty on Covid-19 Antibody Tests - At What Cost? N
Engl J Med. 2020;383(6):e37.
28. CDC. Interim Guidelines for COVID-19 Antibody Testing 2021 [updated 21 Sept 2021; cited 2021 28 Sept]. Available
from: https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/lab/resources/antibody-tests-guidelines.html.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 9


Phát hiện virus SARS-CoV-2
qua hơi thở:
giải pháp mới
cho đại dịch toàn cầu

Nguyễn Thị Yến Nhi,


Nguyễn Thanh An
TS. Phạm Tấn Thi
Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG-HCM
TS. Nguyễn Minh Hiền
Khoa Y, ĐHQG-HCM

Sự bùng phát đại dịch COVID-19 đã và đang ảnh khuyết như thời gian trả kết quả chậm (1-2 ngày) đối với
hưởng mạnh mẽ đến hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng PCR, yêu cầu về mặt hậu cần phức tạp đối với xét nghiệm
như cuộc sống của mọi người trên toàn thế giới. Việc phát nhanh [1, 2]. Thêm vào đó, quy trình lấy mẫu xét nghiệm
hiện sớm các cá nhân nhiễm SARS-CoV-2 được xem là hiện nay được cho là gây khó chịu cho bệnh nhân và vẫn
yếu tố cơ bản trong việc ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh. có thể bỏ sót các khu vực có tải lượng virus cao dẫn đến
Hiện nay ba phương pháp chính đang được sử dụng là cho kết quả âm tính giả. Ngoài ra, các xét nghiệm PCR và
xét nghiệm sinh học phân tử hay còn gọi là xét nghiệm xét nghiệm nhanh được cho là có hiệu suất kém đối với
phản ứng chuỗi polymerase (PCR - Polymerase Chain Re- các trường hợp mẫu bệnh phẩm có tải lượng virus quá
action), xét nghiệm kháng thể và xét nghiệm nhanh kháng thấp [1, 2].
nguyên SARS-CoV-2. Mỗi phương pháp đều cho thấy độ
đặc hiệu và độ nhạy cao, song vẫn tồn tại một số khiếm

10 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Mức độ lây nhiễm COVID-19 với biến chủng Delta các giọt bắn chứa SARS-CoV-2 sẽ được giải phóng. Các
trong cộng đồng hiện đang diễn ra vô cùng nhanh chóng giọt có kích thước lớn hơn (> 5–10 μm) rơi trên các bề
và diễn biến phức tạp. Nhằm nâng cao hiệu quả và giảm mặt gần đó, trong khi những giọt nhỏ (khoảng 1 μm) có
thiểu khó khăn trong việc kiểm soát dịch bệnh, nhu cầu thể vẫn trong không khí dưới dạng các giọt dịch siêu nhỏ
phát triển một phương pháp xét nghiệm mới vừa đảm lơ lửng (aerosol) và được người khác hít vào (lây truyền
bảo độ chính xác vừa nhanh chóng, rẻ tiền, dễ sử dụng từ môi trường sang người) như minh họa trong hình 1B
để sàng lọc trước hoặc loại trừ trường hợp nhiễm ở giai [7]. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một cái hắt hơi
đoạn sớm hơn, ngay cả trước khi xuất hiện các triệu chứng và ho điển hình có thể chứa 40.000 và 3.000 giọt tương
đang trở nên hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, hiện nay 2 ứng, dẫn đến sự lây lan của 10.000 đến 2 × 108 virosome
con đường lây nhiễm chính của virus COVID-19 đã được , tùy thuộc vào tải lượng virus của người mang mầm bệnh
xác định là thông qua tiếp xúc trực tiếp và lây qua đường [16, 17]. Một yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến sự
không khí [3-5]. Dựa trên các cơ sở đó phương pháp phát lây truyền qua đường không khí là tỷ lệ sống sót của virus
hiện COVID-19 thông qua hơi thở đang được quan tâm và trong môi trường. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành
một vài nghiên cứu đã được thực hiện và công bố. nhằm khảo sát yếu tố này và kết quả cho thấy virus SARS-
CoV-2 có khả năng duy trì sức sống trong thời gian dài
Sự lây nhiễm qua không khí của SARS-CoV-2 bên ngoài cơ thể, ngay cả trong điều kiện môi trường
khắc nghiệt [18].
Một số người vẫn nhầm tưởng rằng bệnh
nhiễm trùng đường hô hấp do virus SARS-
CoV-2 gây ra chỉ lây truyền từ người sang
người hoặc thông qua tiếp xúc với các bề
mặt nhiễm virus (Hình 1A) [6, 7]. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy tiếp xúc trực tiếp không phải
là phương thức duy nhất để lây lan virus mà
các giọt nhỏ chứa virus do người nhiễm thở
ra cũng góp phần trong việc lây lan nhanh
chóng [8-11].

Hai yếu tố được xem xét trong đánh giá


sự lây truyền qua đường không khí là tải
lượng virus trong các giọt nước bọt, chất
nhầy và tỷ lệ sống sót của SARS-CoV-2 trong
môi trường [12, 13]. Xét đến yếu tố tải lượng
virus trong trường hợp cụ thể như hắt hơi
và ho, những giọt nước bọt lớn và những
giọt nhỏ từ màng nhầy giải phóng vào môi
trường tạo thành nguy cơ lây nhiễm cao.
Nguy cơ này liên quan đến tải lượng virus
trong một giọt cũng như số lượng giọt và
sự khuếch tán của chúng trong môi trường.
Một số nghiên cứu cho thấy số lượng giọt
được thải ra trong quá trình ho hoặc hắt hơi
nhiều hơn so với khi thở bình thường và các
giọt có kích thước đủ nhỏ (<5 mm) để duy
trì trong không khí nhiều giờ liền [14]. Khi
những người bị nhiễm bệnh ho hoặc hắt hơi,

Hình 1. (A) Sơ đồ các đường lây truyền khác


nhau của SARS-CoV-2 (thở, ho, hắt hơi). Bên
cạnh phạm vi gần và sự lây truyền trong
không khí, các giọt chứa virus có thể đọng lại
trên các bề mặt dẫn đến hiện tượng tự lây
nhiễm [19]. (B) Sự khuếch tán trong không
khí của các giọt chứa virus lớn và nhỏ [20].
(C) Tổng thể tích của các giọt aerosol (pL)
được thải ra ngoài cho các tình huống thở,
nói, ho và hắt hơi ở hai mức độ: cao (A) và
thấp (B). Các hình chữ nhật biểu thị giá trị
trung bình; đường kẻ dài biểu thị giá trị lớn
nhất và giá trị nhỏ nhất. Thể tích được tính
theo pL/20 phút cho các trường hợp thở và
nói và pL mỗi lần ho và hắt hơi [21].

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 11


Vậy đối với những người nhiễm không có triệu chứng thập. Các bộ lọc đặc biệt được thiết kế để tách các
ho hay hắt hơi thì họ lây nhiễm như thế nào và làm thế aerosol ra khỏi hơi thở bằng cách sử dụng tĩnh điện.
nào để họ tạo ra aerosol? Để trả lời cho câu hỏi này, Hạn chế của phương pháp này là mẫu aerosol được
nhóm nghiên cứu của Anfinrud Philip và cộng sự đã thu thập thường thấp khoảng 1 mL [32] và quá trình
dùng các phương pháp laser đơn giản để hình ảnh hóa thu thập mẫu bị ảnh hưởng bởi phương pháp thở điển
các giọt chất lỏng trong miệng tạo ra trong quá trình hình như độ sâu của hơi thở. Vì tải lượng virus trong
nói [22]. Kết quả cho thấy các giọt có đường kính 20– hơi thở rất thấp nên việc tiến hành thu thập mẫu cần
500 μm và nhỏ hơn trong khi thở, chúng không dễ lắng phải được thực hiện trong thời gian dài (30 phút) để
đọng và sẽ khuếch tán trong không khí, đặc biệt nguy thu được lượng mẫu đạt chuẩn [33].
hiểm trong quá trình lây lan COVID-19. Mặt khác, Schi-
jven và cộng sự [21] đã phát triển một phương pháp Các nghiên cứu về hơi thở cho thấy rằng sự nhiễm
để ước tính ô nhiễm trong không khí với các hạt SARS- trùng có thể gây ra sự biến đổi của hệ vi sinh vật trong
CoV-2 khi nói, ho và hắt hơi trong môi trường trong phổi và hậu quả là dẫn đến sự biến đổi của các chất
nhà (Hình 1C). Nghiên cứu của họ cho thấy xác suất lây chuyển hóa trong hơi thở. Các hợp chất hữu cơ dễ bay
nhiễm liên quan chặt chẽ đến nồng độ virus (1% xác hơi (VOC - Volatile Organic Compounds) trong hơi thở
suất bị nhiễm nếu nồng độ <105/mL). Ngoài ra, một có thể được sử dụng để chẩn đoán nhiễm COVID-19
nghiên cứu khác của Netz và cộng sự [23] đã phát triển [31, 34]. Nghiên cứu của Grassin-Delyle và cộng sự
một phương trình mô tả đặc điểm vật lý của các giọt đã thực hiện đo VOC trong hơi thở của bệnh nhân
chứa SARS-CoV-2 được tạo ra trong khi nói, phụ thuộc COVID-19 và so sánh dấu hiệu này với những bệnh
vào một số thông số (kích thước, độ ẩm tương đối, nhân có hội chứng suy giảm hô hấp khác [35]. Kết quả
nhiệt độ). Kết quả cho thấy rằng khi nói, nồng độ viri- cho thấy VOC giữa hai nhóm có sự khác biệt và có thể
on** thở ra tăng lên, với sự gia tăng kích thước giọt từ được sử dụng để phân biệt bệnh nhân COVID-19 với
3 đến 2 × 105 virion mỗi phút tương ứng với kích thước độ chính xác cao. Cơ sở lý luận của cách tiếp cận này
giọt từ 1 đến 40 μm. Mặc dù các thử nghiệm khác nhau dựa trên những phát hiện cho thấy rằng các tác nhân
nhưng kết quả đều cho thấy rằng có hàng ngàn virion virus và phản ứng của cơ thể, cụ thể là hệ thống miễn
được phát ra từ những người bị nhiễm bệnh trong quá dịch đối với các tác nhân này sẽ tạo ra VOC trong hơi
trình giao tiếp cũng như thở bình thường. Qua đó, có thở [36, 37]. Sự hiện diện của VOC trong hơi thở xuất
thể thấy rằng phát hiện COVID-19 thông qua xét ng- hiện trong giai đoạn đầu của quá trình nhiễm trùng, do
hiệm hơi thở là rất quả quan. đó phục vụ cho việc phát hiện sớm COVID-19. Bốn VOC
điển hình nhất cho COVID-19 là methylpent-2-enal,
Phát hiện COVID-19 qua hơi thở 2,4-octadiene 1-chloroheptane và nonanal với nồng
độ trong khoảng 10 đến 250 ppb. Các đánh giá toàn
Virus SARS-CoV-2 có mặt trong không khí [25- diện về tiềm năng của VOC như một dấu ấn sinh hóa
28] và các vật thể có thể ảnh hưởng đến môi trường để chẩn đoán bệnh cũng đã được công bố gần đây [34,
không khí xung quanh như quạt thông gió [29] hoặc 36, 37].
trên bề mặt sàn nhà bệnh viện [29], chủ yếu là do
chúng có thể tồn lại trong không khí tối đa đến 3 giờ Tháng 3 năm 2020, Haick và các cộng sự đã hoàn
[29, 30]. Ma và cộng sự đã thực hiện phân tích hơi thở thành một nghiên cứu lâm sàng thực hiện tại Vũ Hán,
của bệnh nhân COVID-19 và kết quả cho thấy mỗi giờ Trung Quốc (IRB: ChiCTR2000030556) bao gồm lấy
trong hơi thở của bệnh nhân có đến hàng triệu bản mẫu bằng thiết bị phân tích hơi thở dựa trên một loạt
sao của virus [25]. Ngoài ra, tỷ lệ phát hiện virus trong các cảm biến hóa học làm bằng các hạt nano vàng
mẫu hơi thở (26,9%, n = 52) cao hơn so với mẫu xét được biến đổi phân tử kết hợp với phương pháp học
nghiệm bề mặt (5,4%, n = 242) và không khí (3,8%, máy như mô tả trong hình 2. Đối tượng nghiên cứu
n = 26) [25]. Tuy nhiên, để phát hiện virus trực tiếp bao gồm 41 bệnh nhân dương tính với COVID-19,
từ hơi thở cần phải thu thập mẫu trong thời gian dài 14 bệnh nhân COVID-19 không triệu chứng và 47
bằng một phương pháp và công nghệ đặc hiệu gọi là người thuộc nhóm đối chứng. Bệnh nhân dương tính
phương pháp ngưng tụ hơi thở (EBC - Exhaled Breath COVID-19 được lấy mẫu hai lần: trong thời gian tiến
Condensate). Như được mô tả trong nhiều nghiên cứu triển bệnh và sau khi được chữa khỏi. Mô hình Dis-
gần đây, việc thu thập và phân tích pha lỏng của hơi criminant Factor Analysis đã được xây dựng và đào tạo
thở có thể giúp phát hiện trực tiếp các phân tử không để phân biệt giữa các nhóm khác nhau. Kết quả phân
bay hơi như RNA, DNA, vi sinh vật và virus [31]. Một ưu biệt giữa nhóm bệnh nhân COVID-19 dương tính với
điểm của phương pháp EBC là có thể làm tích tụ virus, nhóm đối chứng có độ chính xác là 76% và độ nhạy
các sản phẩm phụ chuyển hóa của virus trong hơi thở 100%; phân biệt nhóm bệnh nhân COVID-19 dương
cũng như các giọt bắn hoặc các aerosol đến ngưỡng có tính so với COVID-19 âm tính đạt độ chính xác 95%
thể phát hiện được. Điều này có thể giải quyết được và độ nhạy 100%; và bệnh nhân COVID-19 dương tính
vấn đề tải lượng virus thấp trong hơi thở. Một thiết bị trước và sau khi chữa khỏi có độ chính xác 88% và độ
thu thập mẫu EBC hiệu quả được đánh giá dựa trên nhạy 83% (Hình 2) [38].
2 thông số: (1) số hạt thu được so với tổng lượng hạt
trong không khí; (2) phần virus còn tồn tại sau khi thu

12 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Hình 2. (a) Minh họa về cách lấy mẫu từ một bệnh nhân ở Vũ Hán, Trung Quốc. (b) Phản ứng đặc trưng của cảm biến
đối với ba mẫu hơi thở khác nhau. Phản ứng bình thường của máy xét nghiệm hơi thở với ba mẫu khác nhau từ bệnh
nhân A nhiễm COVID-19: mẫu đầu tiên khi bị nhiễm bệnh; mẫu thứ hai sau khi được xác định là đã phục hồi; và mẫu
đối chứng. Trục x đại diện cho chu kỳ phép đo. (c – f) Chẩn đoán bệnh nhân COVID-19 dựa trên xét nghiệm mẫu hơi
thở. Hình c, d và e hiển thị phân loại dữ liệu từ phản ứng của cảm biến đối với mẫu hơi thở biểu thị bằng biến chuẩn
của phép phân tích phân biệt. Các hình chữ nhật đại diện cho tập huấn luyện (70% số mẫu) và tập thử nghiệm (30% số
mẫu) của mô hình. Đường gạch ngang bên trong hình chữ nhật đại diện cho giá trị giới hạn của mô hình: dương tính
thực (TP), âm tính thực (TN), dương tính giả (FP), âm tính giả (FN). (c) Bệnh nhân COVID-19 (n = 41) và nhóm đối chứng
(n = 57). (d) Bệnh nhân COVID-19 (n = 41) và các nhóm nhiễm trùng phổi khác/nhóm đối chứng (n = 32). (e) COVID-19
bệnh nhân ở lần lấy mẫu đầu tiên (n = 41) và lần lấy mẫu thứ hai (n = 21). (f) Đường cong ROC cho phản ứng của cảm
biến hơi thở ở bệnh nhân nhiễm COVID-19 (Co) so với nhóm đối chứng (C) (đen); nhóm nhiễm COVID-19 so với nhóm
nhiễm trùng phổi khác/nhóm đối chứng (LI), (đỏ); và ở nhóm bệnh nhân COVID-19 được lấy mẫu lần 1 (Co1) và nhóm
được lấy mẫu lần 2 (Co2) (xanh lam). †p <0,0001. [39]

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 13


Kết luận và triển vọng trong tương lai
Ngoài ra, sử dụng kết hợp các thuật toán tiên tiến
Đại dịch COVID-19 đã khiến toàn thế giới phải đối mặt nhằm phân tích sâu với khả năng dự đoán mạnh mẽ từ
với những thách thức lớn trong việc chẩn đoán nhanh và các nền tảng cảm biến hơi thở có thể giúp các nhà lãnh
giám sát sự bùng phát dịch. Các phương pháp tiếp cận đạo đưa ra các quyết định và đồng thời cải thiện cách tiếp
dựa trên các mục tiêu cụ thể như xét nghiệm PCR mặc cận thông tin COVID-19 của các hệ thống chăm sóc sức
dù có thể được áp dụng để chẩn đoán nhanh, tuy nhiên khỏe. Thông qua đó, một nền tảng tích hợp sẽ cho phép
vẫn tồn tại những hạn chế đáng kể. Các kỹ thuật được sử hỗ trợ bệnh nhân liên tục, từ chẩn đoán dự đoán đến theo
dụng hiện nay đặc hiệu cho từng bệnh và trong bối cảnh dõi COVID-19. Điều này giúp làm giảm thời gian chi phí và
xuất hiện các biến thể của virus SARS-CoV-2 đòi hỏi nỗ số lượng các xét nghiệm không cần thiết, giảm gánh nặng
lực và thời gian đáng kể để cải tiến các phương pháp xét cho các bệnh viện. Trong thời gian nằm viện hoặc cách ly
nghiệm cho phù hợp. Do vậy, sử dụng phương pháp tiếp tại nhà, phân tích hơi thở sẽ là công cụ theo dõi để đánh
cận không đặc hiệu như xét nghiệm qua hơi thở có thể hỗ giá hiệu quả điều trị và sự thoái triển của bệnh. Nền tảng
trợ rất lớn cho con người trong việc chăm sóc sức khỏe phân tích hơi thở không chỉ cho phép chẩn đoán, điều trị
cho bản thân và đem lại nhiều lợi ích cho xã hội đặc biệt và theo dõi bệnh nhân đầy đủ mà còn có thể sàng lọc liên
trước bối cảnh nhiều nước đã quyết định tái mở cửa nền tục trong các quần thể có nguy cơ và giám sát dịch bệnh
kinh tế. theo thời gian thực. Mặc dù việc phát hiện trực tiếp các
phần tử virus SARS-CoV-2 từ hơi thở là chưa thể thực hiện
Kỹ thuật xét nghiệm COVID-19 qua hơi thở được kỳ về mặt công nghệ, tuy nhiên việc phát triển các thiết bị
vọng sẽ làm giảm những tiếp xúc không cần thiết đối với cảm biến mới có thể trích xuất hiệu quả thông tin từ hơi
những người nhiễm bệnh và hỗ trợ cho cuộc chiến chống thở ra để theo dõi tình trạng bệnh nhân theo thời gian
đại dịch. Áp dụng các phương pháp xét nghiệm hiện tại thực là điều cần thiết. Việc tích hợp một cảm biến trên
với các thành phần truyền dữ liệu an toàn cũng cho phép mỗi chiếc khẩu trang là một hướng phát triển thích hợp
các bác sĩ, hệ thống y tế quốc gia và các tổ chức y tế trên và có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong việc giám sát
toàn thế giới chẩn đoán và giám sát được đảm bảo về sự lây lan của COVID-19.
mặt đạo đức và quyền riêng tư. Bằng cách tạo cơ sở dữ
liệu mẫu, các mô hình dự báo có thể được thiết lập cho Bài viết này được biên soạn lại dựa theo “Detecting
sự phát triển của bệnh trong các nhóm nguy cơ cao, liên COVID-19 from Breath: A Game Changer for a Big Chal-
quan đến thời gian nằm viện và tiên lượng cho những lenge” của nhóm tác giả Giorgia Giovannini, Hossam Ha-
bệnh nhân dương tính. Các phương pháp tiếp cận dựa ick và Denis Garoli đăng trên tạp chí ACS Sensors: tập 6
trên hơi thở sẽ cho phép chẩn đoán, điều trị và theo dõi (số 4), ngày 07/04/2021.
bệnh nhân đầy đủ, bao gồm sàng lọc liên tục các quần
thể có nguy cơ và giám sát dịch bệnh theo thời gian thực. Nguồn: https://pubs.acs.org/doi/full/10.1021/acs-
Dựa trên nguồn dữ liệu toàn dân, chúng ta có thể thực sensors.1c00312#
hiện phân tích thống kê, khai thác dữ liệu, từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu dịch tễ học chuyên
sâu. Điều này cũng sẽ giúp thu thập thông tin có giá trị về
các nhu cầu trong tương lai để sàng lọc và giám sát bệnh
truyền nhiễm giữa các quần thể.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

COVID-19 Coronavirus disease of 2019


(Bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do virus Corona 2019)
EBC Exhaled Breath Condensate
(Phương pháp ngưng tụ hơi thở ra)
PCR Polymerase Chain Reaction
(Phản ứng chuỗi polymerase)
VOC Volatile Organic Compounds
(Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi)
SARS-CoV-2 Severe acute respiratory syndrome coronavirus 2
(Virus gây hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng 2)

14 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ernst E, Wolfe P, Stahura C, Edwards KA. Technical considerations to development of serological tests for SARS-
CoV-2. Talanta. 2021;224:121883.
2. Maxmen A. The researchers taking a gamble with antibody tests for coronavirus. Nature. 2020.
3. Pokhrel P, Hu C, Mao H. Detecting the coronavirus (COVID-19). ACS sensors. 2020;5(8):2283-2296.
4. Samson R, Navale GR, Dharne MS. Biosensors: Frontiers in rapid detection of COVID-19. 3 Biotech. 2020;10(9):1-9.
5. Ribeiro BV, Cordeiro TAR, e Freitas GRO, Ferreira LF, Franco DL. Biosensors for the detection of respiratory viruses: A
review. Talanta Open. 2020;2:100007.
6. Chan JF-W, Yuan S, Kok K-H, To KK-W, Chu H, Yang J, et al. A familial cluster of pneumonia associated with the 2019
novel coronavirus indicating person-to-person transmission: a study of a family cluster. Lancet. 2020;395(10223):514-523.
7. Orenes-Piñero E, Baño F, Navas-Carrillo D, Moreno-Docón A, Marín JM, Misiego R, et al. Evidences of SARS-CoV-2
virus air transmission indoors using several untouched surfaces: A pilot study. Sci Total Environ 2021;751:142317.
8. Li R, Pei S, Chen B, Song Y, Zhang T, Yang W, et al. Substantial undocumented infection facilitates the rapid dissemi-
nation of novel coronavirus (SARS-CoV-2). Science. 2020;368(6490):489-493.
9. Liu Y, Gayle AA, Wilder-Smith A, Rocklöv J. The reproductive number of COVID-19 is higher compared to SARS
coronavirus. J Travel Med. 2020;27(2).
10. Zhang S, Diao M, Yu W, Pei L, Lin Z, Chen D. Estimation of the reproductive number of novel coronavirus
(COVID-19) and the probable outbreak size on the Diamond Princess cruise ship: A data-driven analysis. Int J Infect
Dis. 2020;93:201-204.
11. SanJuan-Reyes S, Gómez-Oliván LM, Islas-Flores H. COVID-19 in the environment. Chemosphere. 2021;263:127973.
12. Qin Z, Peng R, Baravik IK, Liu X. Fighting COVID-19: Integrated micro-and nanosystems for viral infection diagnos-
tics. Matter. 2020;3(3):628-651.
13. Torrente-Rodríguez RM, Lukas H, Tu J, Min J, Yang Y, Xu C, et al. SARS-CoV-2 RapidPlex: a graphene-based multi-
plexed telemedicine platform for rapid and low-cost COVID-19 diagnosis and monitoring. Matter. 2020;3(6):1981-1998.
14. Asadi S, Bouvier N, Wexler AS, Ristenpart WD. The coronavirus pandemic and aerosols: Does COVID-19 transmit via
expiratory particles? Aerosol Sci Technol. 2020;54(6):635-638.
15. Mymetics. Technology 2021 [Available from: https://www.mymetics.com/technology.
16. VanSciver M, Miller S, Hertzberg J. Particle image velocimetry of human cough. Aerosol Sci Technol. 2011;45(3):415-
422.
17. Bahl P, de Silva CM, Chughtai AA, MacIntyre CR, Doolan C. An experimental framework to capture the flow dynam-
ics of droplets expelled by a sneeze. Exp Fluids. 2020;61(8):1-9.
18. Coutureau C, Pascard M, Kanagaratnam L, Jolly D, de Champs C. Does copper prevent nosocomial transmission of
COVID-19? J Am Med Dir Assoc. 2021;22(1):219-220.
19. Tellier R, Li Y, Cowling BJ, Tang JW. Recognition of aerosol transmission of infectious agents: a commentary. BMC
Infect Dis. 2019;19(1):1-9.
20. Morawska L, Cao J. Airborne transmission of SARS-CoV-2: The world should face the reality. Environ Int.
2020;139:105730.
21. Schijven JF, Vermeulen LC, Swart A, Meijer A, Duizer E, de Roda Husman AM. Exposure assessment for airborne
transmission of SARS-CoV-2 via breathing, speaking, coughing and sneezing. medRxiv. 2020.
22. Anfinrud P, Stadnytskyi V, Bax CE, Bax A. Visualizing Speech-Generated Oral Fluid Droplets with Laser Light Scat-
tering. N Engl J Med. 2020;382(21):2061-2063.
23. Netz RR, Eaton WA. Physics of Virus Transmission by Speaking Droplets. Proc Natl Acad Sci U S A.
2020;117(41):25209-25211.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

24. Nature of the Virion 2021 [Sep 12, 2021]. Available from: https://bio.libretexts.org/@go/
page/9858.
25. Ma J, Qi X, Chen H, Li X, Zhang Z, Wang H, et al. Coronavirus Disease 2019 Patients in Earlier
Stages Exhaled Millions of Severe Acute Respiratory Syndrome Coronavirus 2 Per Hour. Clin Infect
Dis. 2021;72(10):e652–e654.
26. Guo Z-D, Wang Z-Y, Zhang S-F, Li X, Li L, Li C, et al. Aerosol and surface distribution of severe
acute respiratory syndrome coronavirus 2 in hospital wards, Wuhan, China, 2020. Emerg Infect Dis.
2020;26(7):1583-1591.
27. Santarpia JL, Rivera DN, Herrera V, Morwitzer MJ, Creager H, Santarpia GW, et al. Aerosol and
surface transmission potential of SARS-CoV-2. MedRxiv. 2020.
28. Liu Y, Ning Z, Chen Y, Guo M, Liu Y, Gali NK, et al. Aerodynamic analysis of SARS-CoV-2 in two
Wuhan hospitals. Nature. 2020;582(7813):557-560.
29. Ong SWX, Tan YK, Chia PY, Lee TH, Ng OT, Wong MSY, et al. Air, surface environmental, and
personal protective equipment contamination by severe acute respiratory syndrome coronavirus 2
(SARS-CoV-2) from a symptomatic patient. Jama. 2020;323(16):1610-1612.
30. Van Doremalen N, Bushmaker T, Morris DH, Holbrook MG, Gamble A, Williamson BN, et
al. Aerosol and surface stability of SARS-CoV-2 as compared with SARS-CoV-1. N Engl J Med.
2020;382(16):1564-1567.
31. Lamote K, Janssens E, Schillebeeckx E, Lapperre TS, De Winter BY, Van Meerbeeck J. The scent of
COVID-19: viral (semi-) volatiles as fast diagnostic biomarkers? J Breath Res. 2020;14(4):042001.
32. Pan M, Lednicky JA, Wu CY. Collection, particle sizing and detection of airborne viruses. J Appl
Microbiol. 2019;127(6):1596-1611.
33. The COVID-19 testing debacle. Nat Biotechnol. 2020;38(9):653.
34. Haick H, Broza YY, Mochalski P, Ruzsanyi V, Amann A. Assessment, origin, and implementation
of breath volatile cancer markers. Chem Soc Rev. 2014;43(5):1423-1449.
35. Grassin-Delyle S, Roquencourt C, Moine P, Saffroy G, Carn S, Heming N, et al. Metabolomics of
Exhaled Breath in Critically Ill COVID-19 Patients: A Pilot Study. EBioMedicine. 2021;63:103154.
36. Broza YY, Vishinkin R, Barash O, Nakhleh MK, Haick H. Synergy between nanomaterials and
volatile organic compounds for non-invasive medical evaluation. Chem Soc Rev. 2018;47(13):4781-
4859.
37. Broza YY, Mochalski P, Ruzsanyi V, Amann A, Haick H. Hybrid volatolomics and disease detec-
tion. Angew Chem Int Ed. 2015;54(38):11036-11048.
38. Miripour ZS, Sarrami-Forooshani R, Sanati H, Makarem J, Taheri MS, Shojaeian F, et al. Re-
al-time diagnosis of reactive oxygen species (ROS) in fresh sputum by electrochemical tracing;
correlation between COVID-19 and viral-induced ROS in lung/respiratory epithelium during this
pandemic. Biosens Bioelectron. 2020;165:112435.
39. Shan B, Broza YY, Li W, Wang Y, Wu S, Liu Z, et al. Multiplexed Nanomaterial-Based Sensor
Array for Detection of COVID-19 in Exhaled Breath. ACS Nano. 2020;14(9):12125– 12132.

16 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Tại sao nên phát triển
vaccine hít?
Đỗ Bá Quốc Thái, Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF, Khoa Sinh học-
Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM
PGS.TS Trần Văn Hiếu, Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF; PTN. Cảm
biến sinh học, Khoa Sinh học-Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

Nội dung bài viết:

Trong bối cảnh chưa có thuốc chữa trị đặc hiệu, vaccine hiện đang là phương pháp hiệu
quả nhất trong việc bảo vệ con người khỏi sự xâm nhiễm của virus SARS-CoV-2. Tuy nhiên,
nhiều quốc gia tiến hành chủng ngừa toàn diện vẫn gặp tình trạng tái nhiễm trong cộng
đồng [1], dẫn đến việc phải liên tục “mở cửa” và “đóng cửa” xã hội, gây nên nhiều thiệt hại về
kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều biến chủng của SARS-CoV được hình thành dần trở thành một
vấn đề gây chú ý [2]. Vậy, vaccine dạng hít đang nhận được nhiều sự chú ý trong giới nghiên
cứu khoa học có thực sự là giải pháp lâu dài trong kỷ nguyên COVID-19 hay không?

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 17


Tại sao chúng ta cần vaccine dạng hít (khí cơ thể tạo ra kháng thể có khả năng trung hòa và ngăn
dung)? cản sự tăng sinh của virus trong cơ thể [3]. Các vaccine
hiện có, nhìn chung, là sự mô phỏng lại một phần hoặc
Sự cần thiết của vaccine dạng hít có thể được làm rõ toàn bộ cấu trúc kháng nguyên của virus SARS-CoV-2.
khi so sánh chúng với vaccine dạng tiêm truyền thống. Chúng gây đáp ứng miễn dịch trong cơ thể thông qua
Đối với vaccine tiêm truyền thống, việc chủ động gây đáp việc nhận biết của các tế bào trình diện kháng nguyên,
ứng miễn dịch trên cơ thể người giúp hệ miễn dịch người qua đó hoạt hóa các tế bào miễn dịch trong cơ thể sản
chuẩn bị tốt cho sự xâm nhiễm trong tương lai. Hiện nay, xuất kháng thể để chống lại virus (Hình 1).
mục tiêu chính của hầu hết các vaccine COVID-19 là giúp

Hình 1. Các loại vaccine hiện có cho chủng ngừa SARS-CoV-2 giúp cung cấp “nguyên liệu đầu vào” cho
tế bào trình diện kháng nguyên, qua đó kích hoạt đáp ứng miễn dịch [4].

Tuy nhiên, vaccine dạng tiêm gặp hai vấn đề lớn trong Đã có loại vaccine dạng hít nào được đưa vào
việc chủng ngừa COVID-19. Đầu tiên, vaccine tiêm sẽ thử nghiệm hoặc sử dụng hay chưa?
gây đáp ứng bên trong cơ thể, nhưng hầu hết các mầm
bệnh, đặc biệt là virus SARS-CoV-2 xâm nhiễm vào cơ thể Hiện nay, chưa có vaccine dạng hít nào được chứng
thông qua đường hô hấp. Vì vậy, việc gây đáp ứng miễn nhận để sử dụng lâm sàng nhưng nhiều vaccine dạng hít
dịch trong cơ thể bằng vaccine tiêm không thể tác động đang được thử nghiệm. Đơn cử là CanSino dạng hít hiện
trực tiếp lên các tế bào phổi - tế bào tiếp xúc trực tiếp với đang được thử nghiệm lâm sàng pha I và cho thấy tiềm
mầm bệnh, do đó làm giảm hiệu năng của vaccine [5]. năng ứng dụng cũng như hiệu quả cao [11].
Thứ hai, cơ chế đáp ứng miễn dịch ở các cơ quan có cấu
trúc màng nhầy diễn ra một cách hoàn toàn khác biệt, CanSino là một loại vaccine adenovirus. Hay nói đơn
đặc biệt là quá trình trình diện kháng nguyên [6]. Do đó, giản hơn, vaccine này sử dụng một loại virus khác không
vaccine dạng hít được phát triển với mục tiêu giải quyết gây bệnh ở người để mang và biểu hiện cấu trúc kháng
hai vấn đề nêu trên. nguyên tương tự trên SARS-CoV-2. Một số vaccine tương
đồng được sử dụng rộng rãi là AstraZeneca, Spunik V và
Cách gây đáp ứng miễn dịch giữa vaccine Johnson n’ Johnson [12]. Đối với dạng tiêm, ở thử ng-
dạng hít và vaccine tiêm có giống nhau hiệm lâm sàng pha III, CanSino cho thấy hiệu quả cao với
không? 65,37%, so với 62,1% của AstraZeneca hay chỉ 50,4% của
Sinovac. Đối với dạng hít, tuy chỉ ở giai đoạn thử nghiệm
Hệ miễn dịch của người là một hệ thống phức tạp, với lâm sàng pha I nhưng CanSino cho thấy tiềm năng ứng
sự tương tác của nhiều thành phần cũng như thông qua dụng cao [11]. Cụ thể, hai liều vaccine dạng hít giúp cơ
nhiều cơ chế khác nhau. Trong cơ thể, vaccine có thể trực thể tạo ra được lượng kháng thể trung hòa tương đương
tiếp tương tác với các tế bào trình diện kháng nguyên với một liều vaccine dạng tiêm cùng loại. Tuy nhiên, lượng
nhưng ở các cơ quan có cấu trúc màng nhầy, đặc biệt là phân tử virus trong một liều vaccine dạng hít chỉ bằng
phổi, việc trình diện kháng nguyên diễn ra một cách khó khoảng 1-2/5 lượng phân tử virus có trong một liều vac-
khăn. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, cơ thể con người cine dạng tiêm. Lượng kháng thể được tạo ra từ vaccine
đã phát triển cơ chế trình diện kháng nguyên riêng biệt dạng hít thấp hơn vaccine dạng tiêm nhưng hiệu giá
ở các cơ quan như trên thông qua tế bào tua và tế bào kháng thể của hai loại vaccine này là tương đương. Điều
M [7],[8]. Tế bào tua có khả năng bắt các giữ các cấu trúc này có thể được giải thích do sự khác biệt ở vị trí tiếp nhận
kháng nguyên và hỗ trợ trình diện [9]. Đặc biệt, tế bào và cũng chỉ ra rằng tỷ lệ kháng thể trung hòa cao hơn khi
M hiện diện trên bề mặt phổi có khả năng thực bào các gây đáp ứng miễn dịch bằng vaccine dạng hít. Bên cạnh
kháng nguyên, tuy nhiên do thiếu các enzyme phân cắt đó, tỷ lệ mắc các triệu chứng sau khi sử dụng vaccine như
nên kháng nguyên được vận chuyển một cách toàn vẹn đau đầu, sốt, mệt mỏi cũng ít hơn khi so với khi dùng
đến các tế bào miễn dịch đang chờ sẵn ở dưới lớp biểu vaccine tiêm. Cuối cùng, một trong những lợi ích luôn cần
mô phổi [10]. Do đó, vaccine dạng hít có vai trò là cung đề cập khi sử dụng vaccine dạng hít chính là giá thành và
cấp kháng nguyên cho tế bào M trên hiện diện trên bề tính tiện dụng.
mặt phổi và qua đó, trực tiếp gây đáp ứng trên phổi .

18 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Tiềm năng phát triển của vaccine dạng hít là vận chuyển/ bảo vệ mRNA được nghiên cứu cho thấy khả
như thế nào? năng ứng dụng để phát triển vaccine mRNA dạng hít [13].
Bên cạnh đó, sự phát triển của kỹ thuật gen-công nghệ
Tuy chỉ mới dừng lại ở việc thử nghiệm với vaccine protein tái tổ hợp có thể cung cấp cho chúng ta nhiều
vector của virus nhưng nhiều dạng khác cho thấy tiềm công cụ hữu ích trong việc phát triển vaccine dạng hít.
năng phát triển to lớn. Đối với vaccine mRNA phòng ngừa Đơn cử là việc phát triển các protein có khả năng nhắm
SARS-CoV-2, mặc dù cho thấy hiệu quả cao nhất ở thời trúng đích tế bào M, điều này có thể giúp vận chuyển
điểm hiện tại nhưng chưa có loại vaccine dạng hít tương tốt các phân tử kháng nguyên đến các tế bào trình diện
ứng nào được thử nghiệm lâm sàng [13]. Một trong những kháng nguyên với hiệu suất cao, qua đó giúp đáp ứng
vấn đề khi phát triển vaccine mRNA ở dạng hít chính là miễn dịch hiệu quả hơn [14].
khả năng dễ phân hủy của mRNA. Vì vậy, nhiều hệ thống

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] CDCMMWR, “COVID-19 Vaccine Breakthrough Infections Reported to CDC — United States, January 1–
April 30, 2021,” MMWR Morb. Mortal. Wkly. Rep., vol. 70, 2021, doi: 10.15585/mmwr.mm7021e3.
[2] F. L. van de Veerdonk and M. G. Netea, “Rare variants increase the risk of severe COVID-19,” eLife, vol. 10, p.
e67860, doi: 10.7554/eLife.67860.
[3] M. A. French and Y. Moodley, “The role of SARS‐CoV‐2 antibodies in COVID‐19: Healing in most, harm at
times,” Respirol. Carlton Vic, p. 10.1111/resp.13852, May 2020, doi: 10.1111/resp.13852.
[4] “COVID-19 Vaccine: Critical Questions with Complicated Answers.” https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/
articles/PMC7771841/.
[5] “Vaccination by inhalation,” MIT News | Massachusetts Institute of Technology. https://news.mit.edu/2021/
vaccination-inhalation-0319 (accessed Sep. 19, 2021).
[6] P. G. Holt, “Antigen presentation in the lung,” Am. J. Respir. Crit. Care Med., vol. 162, no. 4 Pt 2, pp. S151-156,
Oct. 2000, doi: 10.1164/ajrccm.162.supplement_3.15tac2.
[7] S. Kimura et al., “Airway M Cells Arise in the Lower Airway Due to RANKL Signaling and Reside in the
Bronchiolar Epithelium Associated With iBALT in Murine Models of Respiratory Disease,” Front. Immunol.,
vol. 10, p. 1323, 2019, doi: 10.3389/fimmu.2019.01323.
[8] “The Airway Antigen Sampling System: Respiratory M Cells as an Alternative Gateway for Inhaled Antigens
| The Journal of Immunology.” https://www.jimmunol.org/content/186/7/4253.
[9] P. Campana, V. Parisi, D. Leosco, D. Bencivenga, F. Della Ragione, and A. Borriello, “Dendritic Cells and
SARS-CoV-2 Infection: Still an Unclarified Connection,” Cells, vol. 9, no. 9, p. 2046, Sep. 2020, doi: 10.3390/
cells9092046.
[10] S. Kimura, “Molecular insights into the mechanisms of M-cell differentiation and transcytosis in the
mucosa-associated lymphoid tissues,” Anat. Sci. Int., vol. 93, no. 1, pp. 23–34, Jan. 2018, doi: 10.1007/s12565-017-
0418-6.
[11] S. Wu et al., “Safety, tolerability, and immunogenicity of an aerosolised adenovirus type-5 vector-based
COVID-19 vaccine (Ad5-nCoV) in adults: preliminary report of an open-label and randomised phase 1 clinical
trial,” Lancet Infect. Dis., p. S1473309921003960, Jul. 2021, doi: 10.1016/S1473-3099(21)00396-0.
[12] C. D. Funk, C. Laferrière, and A. Ardakani, “Target Product Profile Analysis of COVID-19 Vaccines in Phase
III Clinical Trials and Beyond: An Early 2021 Perspective,” Viruses, vol. 13, no. 3, p. 418, Mar. 2021, doi: 10.3390/
v13030418.
[13] M. Y. T. Chow, Y. Qiu, and J. K. W. Lam, “Inhaled RNA Therapy: From Promise to Reality,” Trends Pharma-
col. Sci., vol. 41, no. 10, pp. 715–729, Oct. 2020, doi: 10.1016/j.tips.2020.08.002.
[14] D. D. Lo, J. Ling, and A. Holly Eckelhoefer, “M cell targeting by a Claudin 4 targeting peptide can enhance
mucosal IgA responses,” BMC Biotechnol., vol. 12, no. 1, p. 7, Mar. 2012, doi: 10.1186/1472-6750-12-7.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 19


Vắc xin SARS-CoV-2
dựa trên vùng RBD
được biểu hiện ở nấm men
phối trộn với tá dược 3M-052-alum
có khả năng gia tăng hiệu quả bảo vệ
ở các loài linh trưởng

anti-RBD được hệ
miễn dịch tạo ra có sự tương
quan cao với khả năng trung hòa virus.
Không giống như vắc xin sống nhược độc, vắc xin
TỔNG QUAN tiểu đơn vị có khả năng gây đáp ứng miễn dịch kém và
cần sử dụng tá dược để tăng cường hiệu quả vắc xin.
COVID-19 là đại dịch được Tổ chức Y tế Thế giới Nhóm nghiên cứu của Maria và cộng sự trước đây đã thử
(World Health Organization - WHO) chính thức công bố nghiệm một loại tá dược có tên là 3M-052, một chất kích
vào tháng 3 năm 2020. Đến nay, đại dịch này đã lây lan hoạt Toll-like receptor-7/8 (TLR-7/8) phối trộn tạo hạt
đến hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nano polymer hoặc hấp thụ vào nhôm phèn (3M-052-al-
gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội um). 3M-052 là một phân tử nhỏ với chuỗi acyl béo 18-C
trên toàn cầu. Hiện nay vẫn chưa có phác đồ và thuốc đặc thuộc họ imidazoquinolines, khi cho 3M-052 hấp thụ vào
trị COVID-19, dẫn đến nguy cơ tử vong vẫn sẽ tiếp tục gia nhôm hydroxide với sự hỗ trợ của phospholipid, ta được
tăng. Trước tình hình đó, vắc xin phòng ngừa COVID-19 3M-052-alum. Đây là tá dược có khả năng tăng cường các
vẫn luôn được đánh giá là cứu cánh hàng đầu, giúp giảm tế bào plasma sống lâu (long-lived plasma cells - LLPCs)
thiểu sự xâm nhiễm và nguy cơ tử vong do căn bệnh này đặc hiệu với protein Env của virus HIV trong cơ thể của
gây ra. Trên thế giới đã có nhiều loại vắc xin được cấp loài linh trưởng rhesus macaque (RM). Trong khi đó, tá
phép sử dụng khẩn cấp có điều kiện tại một số quốc gia dược nhôm đơn lẻ lại thất bại trong việc này. Hơn nữa,
và khu vực cụ thể. Tuy nhiên, nhu cầu về vắc xin được dự nghiên cứu về vắc xin HIV Env có tá dược 3M-052 kích
đoán vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là ở các nước đang thích phản ứng tạo kháng thể ở niêm mạc đường sinh
phát triển và thu nhập thấp. Điều này đặt ra yêu cầu về dục và có hiệu quả bảo vệ khỏi virus. SARS CoV 2 có con
những loại vắc xin hiệu quả, giá thành thấp và dễ nâng đường xâm nhập chính ở các tế bào niêm mạc đường
cấp quy mô sản xuất. Nhóm nghiên cứu của Maria và hô hấp, vì vậy việc tạo ra kháng thể đặc hiệu chống lại
cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu Linh trưởng Quốc gia SARS-CoV-2 tại đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới
Yerkes tại Đại học Emory, Hoa Kỳ đã công bố một loại vắc và trong huyết thanh là rất quan trọng.
xin ứng viên tiềm năng chống lại SARS-CoV-2 dựa trên
receptor binding domain (RBD) của virus, biểu hiện bằng Với các cơ sở lý thuyết và thực nghiệm trên, Maria
tế bào nấm men và phối trộn với tá dược 3M-052-alum, và cộng sự đã tiến hành tạo vắc xin SARS-CoV-2 bằng
một loại tá dược cải tiến từ tá dược nhôm phèn có khả cách biểu hiện đoạn RBD (amino acid vị trí 332-549 thuộc
năng kích thích mạnh hệ miễn dịch. Loại vắc xin ứng viên tiểu phẩn S1 của protein S) bằng hệ thống Pichia pastoris
này đáp ứng các tiêu chí được đặt ra ban đầu là hiệu quả, X33, sau đó thử trên loài linh trưởng RM. Tá dược sử dụng
giá thành thấp và quy mô sản xuất dễ dàng nâng cấp. được thực hiện trong nghiên cứu là nhôm phèn đơn lẻ
(alum) và 3M-052-alum, hai tá dược này có thể áp dụng
Cơ chế xâm nhiễm của SARS-CoV-2 dựa trên protein trong lâm sàng và có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch
spike (S protein) trên lớp vỏ virus tương tác với thụ thể dịch thể và đáp ứng miễn dịch tế bào T.
angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2) trên bề mặt tế
bào, từ đó virus có thể thâm nhập nội bào. Do đó, protein Thiết kế thí nghiệm được chia làm ba nhóm (n = 5 mỗi
S đang là mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển vắc xin nhóm), nhóm 1 không thử vắc xin, nhóm 2 thử với RBD +
phòng ngừa SARS-CoV-2. Đáng chú ý, receptor binding alum và nhóm 3 thử với RBD + 3M-052-alum. Nhóm 2 và
domain (RBD) trong protein S đóng vai trò chính trong nhóm 3 được chủng ngừa ba lần vào tuần 0, 4 và 9.
việc tương tác và xâm nhiễm củavirus, thế nên kháng thể
20 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
ThS Huỳnh Kiến Quang, PGS.TS Trần Văn Hiếu
Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Phòng thí nghiệm Cảm
biến Sinh học, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

Trong thử nghiệm đánh


giá khả năng trung hoà virus sống,
tỷ lệ virus bị trung hoà ở liều thứ hai có vẻ
Mẫu máu, còn ít và tỷ lệ này tăng lên mạnh mẽ sau khi chủng
mẫu niêm mạc (mũi và trực tràng), dịch rửa phế quản ngừa ở liều thứ ba. Biến thể virus SARS-CoV-2 D614G -
(bronchoalveolar lavage – BAL) và tuỷ xương được thu biến thể đang lưu hành rộng rãi cũng được thử nghiệm
nhận để xét nghiệm. Tất cả động vật thí nghiệm được thử khả năng trung hòa của kháng thể được tạo ra; kết quả
thách với virus thật (chủng Washington-1 – WA-1) thông cho thấy, cả hai nhóm thí nghiệm đều cho khả năng trung
qua đường mũi (intranasal - IN) và nội khí quản (intratra- hòa biến thể virus này, đặc biệt, khả năng trung hòa virus
cheal - IT) kết hợp sau khoảng 1 tháng tính từ lần chủng được gia tăng rõ rệt sau khi chủng ngừa liều thứ ba.
ngừa thứ 3. Các động vật thí nghiệm bị loạng choạng và
tử vong vào ngày thứ 7 và thứ 8 sau khi thử nghiệm. Mẫu Maria và cộng sự đã tiếp tục tiến hành thử nghiệm
máu, dịch mũi, dịch họng, dịch rửa phế quản phế nang đánh giá sự chuyển đổi các lớp kháng thể được tạo ra
được thu nhận tại các thời điểm trước, sau thử thách và trong huyết thanh của động vật thí nghiệm. Kết quả cho
lúc chết của các con vật thí nghiệm đó. thấy, một lượng kháng thể IgG1 được tạo ra ở nhóm 3
cao hơn nhóm 2 về mặt thống kê, trong khi đó, ở nhóm
KẾT QUẢ 2 lại có lượng kháng thể IgG4 cao hơn nhóm 3. Điều này
chứng tỏ đã có sự chuyển biến về hướng đáp ứng tương
Khả năng tạo đáp ứng miễn dịch của ứng viên vắc xin ứng với Th1 hay Th2 được tạo ra bởi các tá dược đi kèm
RBD + 3M-052-alum được thử nghiệm và thu được một (Hình 1).
số kết quả quan trọng như sau:
Các thử nghiệm về khả năng kích thích thực bào (An-
RBD+3M-052-alum có khả năng kích thích tibody-dependent phagocytosis - ADP) sử dụng dòng
mạnh miễn dịch dịch thể tế bào đơn nhân người THP-1 và khả năng gây độc qua
trung gian tế bào sử dụng tế bào NK của tình nguyện viên
Bằng phương pháp Enzyme-linked Immunosorbent (Antibody-dependent cell cytotoxic – ADCC) cũng được
assay (ELISA), lượng kháng thể trong huyết thanh của thực hiện. Kết quả thu được chứng tỏ rằng, khả năng kích
động vật thí nghiệm đã được đánh giá, kết quả cho thấy thích thực bào và gây độc tế bào của kháng thể trong
sau 4 tuần thử nghiệm ở liều thứ nhất, kháng thể an- nhóm 3 cao hơn hẳn so với nhóm 2 về mặt thống kê. Sau
ti-RBD đã được tạo ra và lượng kháng thể tạo ra ở nhóm khi phân tích, nhóm nghiên cứu cũng cho thấy mối tương
3 (RBD+3M-052-alum) cao hơn nhóm 2 (RBD+alum) về quan tương ứng của kết quả này với hiệu giá kháng thể
mặt thống kê. trung hoà thu được.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 21


Song song đó, nhóm tác giả cũng kiểm tra việc sinh giúp gia tăng các đáp ứng này. Các cơ sở dữ liệu trên gợi
kháng thể trong các vị trí miễn dịch màng nhầy tương ý rằng, tá dược 3M-052-alum có những ảnh hưởng tích
ứng như: dịch mũi, dịch rửa phế nang, và dịch trực tràng. cực đến việc kích thích tạo kháng thể trong cơ thể của
Các thí nghiệm trên đều cho thấy rằng việc tạo IgG trong động vật thí nghiệm.
các vị trí miễn dịch màng nhầy ở nhóm 3 luôn cao hơn
nhóm 2 về mặt thống kê và việc chủng ngừa ở liều thứ ba

Hình 1. Vắc xin RBD+3M-052-alum kích thích mạnh miễn dịch dịch thể ở RM

RBD+3M-052-alum có khả năng kích thích Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, hướng đáp
tế bào T CD8+ một cách mạnh mẽ và lâu ứng của tế bào T CD4+ tiết IFN y đặc hiệu với RBD ng-
dài, đồng thời kích thích tế bào T CD4+ theo hiêng về Th1 chỉ quan sát thấy ở nhóm 3. Trong khi đó,
hướng đáp ứng Th1 ở cùng nhóm tế bào T CD4+ này ở nhóm 2 lại có xu
hướng tiết cytokine interleukin-4 (IL-4) cao hơn, gợi ý
Để kiểm tra xem loại tế bào T nào sẽ tham gia đáp rằng các đáp ứng miễn dịch này ở nhóm 2 đã nghiêng
ứng, nhóm nghiên cứu đã thử tiến hành thực hiện kích về hướng Th2. Việc tiết Tumor necrosis factor (TNF) -
thích tế bào bằng hỗn hợp peptide có chứa trình tự một chất tiết quan trọng cũng được nhóm nghiên cứu
của protein S, sau đấy nhuộm cytokine nội bào với các đánh giá, cho kết quả tương tự với mức độ tiết của IFN
kháng thể đặc hiệu cytokine tương ứng. Nhóm nghiên y ở cả hai loại tế bào T CD4+ và CD8+. Các kết quả thí
cứu nhận ra rằng, sau tuần 1 kể từ lần chủng ngừa đầu nghiệm trên chứng tỏ có sự cân bằng trong đáp ứng
tiên, có đáp ứng tạo ra interferon gamma (IFN y) của tế của T CD4+ và CD8+, đồng thời mục tiêu tạo miễn dịch
bào CD8+ đặc hiệu với RBD ở một số động vật thí ng- qua trung gian tế bào đã đạt được khi sử dụng vắc xin
hiệm. Những đáp ứng này đạt đỉnh vào tuần thứ 10 với RBD+3M-052-alum (Hình 2).
tỷ lệ ở nhóm 3 cao hơn nhóm 2 và duy trì cho đến ngày
thử thách với virus thật.

22 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Hình 2. Vắc xin RBD+3M-052-alum kích thích tạo tế bào T CD8+ đặc hiệu RBD cao hơn vắc xin
RBD+alum và hướng đáp ứng Th1 của tế bào T CD4+

RBD+3M-052-alum có khả năng giảm đáng kể Phản ứng miễn dịch trong cơ thể có tương
tải lượng virus ở đường hô hấp trên và đường quan với việc bảo vệ trước sự xâm nhiễm của
hô hấp dưới sau thí nghiệm thử thách với SARS-CoV-2
SARS-CoV-2
Nhằm kiểm tra các đáp ứng của hệ miễn dịch có tương
Các động vật thí nghiệm được thử thách với SARS- quan với nhau không và có mối liên hệ nào với hiệu quả
CoV-2 cách một tháng sau khi chủng ngừa liều cuối cùng bảo vệ hay việc làm giảm mức độ virus trong đường hô
qua đường mũi (intranasal - IN) và đường nội khí quản hấp không, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xử lý thống kê
(intratracheal – IT) với liều SARS-CoV-2, WA-1 tổng số đạt dữ liệu và tìm ra được một số mối tương quan đáng chú
2.3 x 105 PFU. Thông tin về sự thay đổi tải lượng virus ở ý như sau:
dịch phết mũi, dịch rửa phế quản, và dịch phết họng ở - Kháng thể trung hoà SARS-CoV-2, mức độ hoạt
RNA tổng số và RNA subgenomic (sgRNA) được thu nhận động gây độc qua trung gian tế bào và phản ứng của
và xử lý thống kê. Kết quả thu được cho thấy, nhóm động kháng thể kháng RBD trong huyết thanh lẫn dịch mũi tại
vật được chủng ngừa với RBD-3M-052-alum được bảo vệ tuần thứ 11 tỷ lệ nghịch với sgRNA virus trong dịch phết
trước sự xâm nhiễm của SARS-CoV-2 ở ngày thứ hai và đa mũi tại ngày thứ 2 sau thử thách.
số các động vật đều không phát hiện virus ở ngày thứ 4,
- Có tỷ lệ nghịch giữa phản ứng của kháng thể kháng
trong khi đó ở nhóm không chủng ngừa, RNA tổng số đã
RBD và RNA tổng số và sgRNA virus ở ngày thử thách.
được phát hiện trong dịch rửa phế quản ở ngày thứ 2. Kết
quả thống kê cho thấy có sự thấp hơn rõ rệt về tải lượng - Không có sự tương quan nào được quan sát thấy
virus ở nhóm 3 so với nhóm 2 và nhóm 1. Khi thực hiện giữa phản ứng tế bào T CD4+ hoặc T CD8+ tiết IFN-y với
kiểm tra sgRNA, chỉ 20% động vật ở nhóm 3 và 60% động RNA tổng số hoặc sgRNA virus trong dịch mũi.
vật ở nhóm 2 được phát hiện có tải lượng virus, trong khi - Phản ứng của tế bào T CD4+ tiết IFN-y tỷ lệ thuận
toàn bộ 100% động vật không chủng ngừa đều phát hiện với lượng RNA tổng số trong dịch rửa phế quản trong khi
có tải lượng virus. Với kết quả này, nhóm nghiên cứu đã không có mối liên hệ nào được quan sát thấy giữa phản
quan sát thấy tác động đáng kể của việc sử dụng RBD- ứng tế bào T CD8+ tiết IFN-y và lượng RNA tổng số trong
3M-052-alum trong việc giảm tải lượng virus ở đường hô dịch rửa phế quản.
hấp dưới. Tải lượng virus ở đường hô hấp trên thể hiện
trong dịch phết mũi cũng được kiểm tra, một lần nữa, kết Các kết quả trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
quả của nhóm được tiêm RBD+3M-052-alum hỗ trợ giả tạo các đáp ứng lâu dài của huyết thanh chứa kháng thể
thuyết rằng loại ứng viên vắc xin này có khả năng làm kháng RBD và kháng thể trong niêm mạc trong việc bảo
giảm áp lực về tải lượng virus ở đường hô hấp trên. vệ cơ thể chống lại SARS-CoV-2.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 23


RBD+3M-052-alum kích thích việc hình Tóm lại, Maria và cộng sự đã công bố một ứng
thành các tương bào trong hạch lympho viên vắc xin phòng SARS-CoV-2 tiềm năng sử dụng
chính tá dược đã được nhóm nghiên cứu trước đây.
Cuộc thử nghiệm một vắc xin trước đây của nhóm Vắc xin này dựa trên vùng tương tác của virus với thụ
nghiên cứu sử dụng cùng một loại tá dược với thử thể người RBD được phối trộn với tá dược 3M-052-al-
nghiệm này gợi ý rằng tế bào tiết kháng thể được vắc um có khả năng kích thích mạnh hệ miễn dịch dịch
xin kích thích tạo ra trong máu với tỷ lệ lớn. Để kiểm thể và miễn dịch qua trung gian tế bào, đồng thời có
chứng xem liệu vắc xin dựa trên RBD này có khả năng khả năng bảo vệ cơ thể trước sự xâm nhiễm của SARS-
kích thích tương tự hay không, nhóm nghiên cứu đã CoV-2, làm giảm tải lượng virus trong đường hô hấp,
tiến hành định lượng các loại tế bào này bằng kỹ thuật dẫn đến việc giảm lây lan của loại virus này. Loại vắc
enzyme-linked immunospot (ELISPOT). Kết quả cho xin này đáp ứng được yêu cầu dễ sản xuất, linh động
thấy, nhóm sử dụng RBD+3M-052-alum có khả năng trong việc nâng cấp quy mô do sử dụng hệ thống biểu
kích thích hệ miễn dịch tạo ra nhiều tế bào tiết kháng hiện của nấm men, giúp tiết kiệm chi phí, là một sự lựa
thể IgA+ và IgG+ nhiều hơn đáng kể so với các nhóm chọn tiềm năng dành cho các nước đang phát triển và
còn lại. Tế bào tiết kháng thể này cũng được phát hiện có thu nhập thấp.
trong tủy xương ở tuần thứ 13, tương đồng với kết
quả trước, nhóm 3 có lượng tế bào tiết kháng thể này
cao hơn nhóm còn lại. Đáng chú ý, một lượng lớn tế
bào tiết kháng thể đặc hiệu với vắc xin RBD được quan
sát thấy ở các hạch lympho ở vùng chậu và vùng kheo
ở chân của các động vật thí nghiệm này. Lượng tế bào
này ở nhóm 3 cao hơn đáng kể so với nhóm 2.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lược dịch từ:


Maria Pino, Talha Abid, Susan Pereira Ribeiro, Venkata Viswanadh Edara, Katharine Floyd,
Justin C. Smith, Muhammad Bilal Latif, Gabriela Pacheco-Sanchez, Debashis Dutta, Shelly
Wang, Sanjeev Gumber, Shannon Kirejczyk, Joyce Cohen, Rachelle L. Stammen, Sherrie M.
Jean, Jennifer S. Wood, Fawn Connor-Stroud, Jeroen Pollet, Wen-Hsiang Chen, Junfei Wei,
Bin Zhan, Jungsoon Lee, Zhuyun Liu, Ulrich Strych, Neeta Shenvi, Kirk Easley, Daniela Weis-
kopf, Alessandro Sette, Justin Pollara, Dieter Mielke, Hongmei Gao, Nathan Eisel, Celia C.
LaBranche, Xiaoying Shen, Guido Ferrari, Georgia D. Tomaras, David C. Montefiori, Rafick P.
Sekaly, Thomas H. Vanderford, Mark A. Tomai, Christopher B. Fox, Mehul S. Suthar, Pamela
A. Kozlowski, Peter J. Hotez, Mirko Paiardini, Maria Elena Bottazzi and Sudhir Pai Kasturi
(2021). A yeast expressed RBD-based SARSS-CoV-2 vaccine formulated with 3M-052-alum
adjuvant promotes protective efficacy in non-human primates. Science Immunology.

24 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


“SIÊU KHÁNG THỂ” S2H97
VÀ KHẢ NĂNG CHỐNG LẠI
NHIỀU LOẠI VI-RÚT CORONA KHÁC NHAU:
TIỀM NĂNG MỚI
CHO TRẬN CHIẾN COVID-19?

Dương Bảo Châu, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hoài


Nhóm nghiên cứu Vi sinh Y, Khoa Công nghệ Sinh học,
Trường Đại học Quốc tế ĐHQG-HCM

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 25


Gần đây, các nhà khoa học đã ghi nhận khả năng của 2A) có thể tạo nên sự bảo vệ đối với nhiều chủng vi-rút và
một loại kháng thể không chỉ chống lại các biến thể khác đầy tính hứa hẹn trong phát triện loại vắc-xin pan-sarbeco
nhau của SARS-CoV-2 mà còn những loại vi-rút Corona trong tương lai.
khác giống với SARS-CoV-2. Phát hiện này đã mở
ra hướng đi tiềm năng trong việc phát triển các
phương pháp điều trị trên diện rộng và nghiên
cứu vắc-xin chống lại các biến thể khác nhau của
SARS-CoV-2 [1].

Tyler Starr và cộng sự trực thuộc Trung tâm


nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson (Seattle,
Washington) đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra
giải pháp mới cho việc điều trị bằng kháng thể
đối với COVID-19, trước tình hình một số biến
thể của SARS-CoV-2 chứa các đột biến cho phép
vi-rút đào thoát miễn dịch. Nghiên cứu được tiến
hành trên 12 kháng thể được thu từ huyết tương
của các bệnh nhân đã hồi phục sau COVID-19 bởi
Công ty Vir Biotechnology (San Francisco, Cali-
fornia). Kết quả cho thấy, những kháng thể này
bám vào vùng liên kết thụ thể (receptor binding
domain - RBD) một phần trên protein gai của
vi-rút, vốn là nơi liên kết với thụ thể của tế bào
người, từ đó ngăn cản sự xâm nhập của vi-rút.
Đây có thể là lý do các kháng thể thành công bảo
vệ bệnh nhân trước sự tấn công của SARS-CoV-2
và bệnh nhân hồi phục. Các nhà khoa học đã lập
danh sách các đột biến ở vùng liên kết của biến
thể SARS-CoV-2 và các loài khác trong nhóm vi-
rút sarbeco (vi-rút corona gây nên Hội chứng hô
hấp cấp tính nặng - Severe acute respiratory syn-
drome-related coronavirus), sau đó khảo sát ảnh
hưởng của các đột biến trên vùng RBD đến khả
năng trung hòa vi-rút của 12 loại kháng thể đã
thu nhận.

Kết quả thu được đáng ngạc nhiên khi kháng


thể S2H97 nổi bật với khả năng liên kết vùng RBD
của 42/45 chủng vi-rút sarbeco được khảo sát.
Kháng thể S2H97 được nhóm nghiên cứu gọi là
kháng thể vi-rút pan-sarbeco, có khả năng ngăn
cản sự lây nhiễm của hầu hết biến thể SARS-
CoV-2 và vi-rút sarbeco từ các tế bào nuôi cấy
trong phòng thí nghiệm. Cụ thể, dựa trên nghiên
cứu của Starr và cộng sự [1], kết quả của thí ng-
hiệm mô tả sự liên kết của vi-rút và kháng thể
dựa trên phương pháp phân loại tế bào bằng
đánh dấu huỳnh quang (Fluorescence-activated
cell sorting- FACS) cho thấy kháng thể S2H97
có khả năng trung hòa toàn bộ 45 chủng vi-rút
trong thí nghiệm sơ cấp, tuy nhiên mất khả năng
liên kết ở lần thí nghiệm thứ cấp đối với chủng Hình 1. Bản đồ nhiệt minh họa mức độ liên kết
Rs4231, RsSHC014, và Rs4084 thuộc nhánh vi-rút SARS- của các loại kháng thể với nhiều chủng vi-rút
CoV-1(1a) (Hình 1). Bên cạnh đó, kháng thể S2H97 cũng sarbeco khác nhau dựa trên phương pháp phân
được ghi nhận khả năng bảo vệ chuột lang khỏi sự lây loại tế bào bằng đánh dấu huỳnh quang (Flu-
nhiễm SARS-CoV-2. Starr nhận định “Đó là loại kháng thể orescence-activated cell sorting- FACS) (thanh
tuyệt vời nhất mà chúng tôi từng phát hiện”. màu, phía dưới bên trái). Dấu hoa thị biểu thị ái
lực của liên kết giảm trong lần thí nghiệm thứ cấp;
Đi sâu vào cơ chế trung hòa vi-rút của kháng thể RBD- Receptor binding domain, vùng liên kết thụ
S2H97, nhóm nghiên cứu đã phát hiện kháng thể S2H97 thể; RBM - Receptor binding motif - vùng cho phép
có khả năng liên kết với vùng RBD nhưng ở một vùng nằm liên kết với thụ thể (Nguồn hình ảnh: chỉnh sửa và
ở vị trí khác biệt với vùng liên kết RBD của các kháng thể tổng hợp từ “Starr, T.N., et al., SARS-CoV-2 RBD
khác (Hình 2A). Starr cũng nhấn mạnh rằng những phân tử antibodies that maximize breadth and resistance to
có khả năng liên kết với vùng này (bề mặt màu vàng, Hình escape. Nature, 2021. 597(7874): p. 97-102.”).

26 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Hình 2. Cơ chế trung hòa vi-rút của siêu kháng thể S2H97. (A) Cấu trúc sử dụng kính hiển vi điện tử lạnh (Cryo-EM)
của S2H97 Fabs (bề mặt xanh lục) gắn với protein gai (spike protein) của SARS-CoV-2 ở vị trí thuận lợi cho sự mở rộng
vùng RBD (bề mặt màu vàng) và tạo điều kiệu để kháng thể S2H97 trung hòa vi-rút. RBD đóng (bề mặt màu xám nhạt,
PDB: 7K43) và vùng RBD liên kết với Fab của kháng thể khác (bề mặt màu xám đậm, PDB: 7JVC) được hiển thị để so
sánh. Các protomer của protein gai được biểu diễn bằng màu vàng, xanh lam và hồng. (B) Hình ảnh hiển vi điện tử chụp
bằng phương pháp nhuộm âm tính (negative-stain electron microscopy) của cấu trúc trimer protein gai (native-like
soluble prefusion trimer S) trước (SARS-CoV-2 S) và sau khi ủ với kháng thể S2H97 (+S2H97). (Nguồn hình ảnh: chỉnh
sửa và tổng hợp từ “Starr, T.N., et al., SARS-CoV-2 RBD antibodies that maximize breadth and resistance to escape.
Nature, 2021. 597(7874): p. 97-102.”)

Ngoài kháng thể S2H97, 11 loại kháng thể còn lại Arinjay Banerjee, một nhà vi-rút học tại Đại học Sas-
có khả năng truy bắt nhiều loại vi-rút. Tuy nhiên, những katchewan ở Saskatoon, Canada, nhận định đây là một
kháng thể hiệu quả với các chủng SARS-CoV-2, ngăn cản tin tốt khi nhóm nghiên cứu đã xác định được các kháng
sự xâm nhập sớm của vi-rút lại thể hiện số lượng liên kết thể có thể liên kết với một loạt các vi-rút sarbeco. Tuy
hạn chế trong nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu cũng nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng “Câu hỏi lớn nhất còn
phát hiện rằng các kháng thể có thể trung hòa nhiều loại lại là lối đi nào cho những loại vi-rút mà chúng ta chưa
vi-rút, nhắm vào các đoạn có tính bảo tồn trên vùng RBD biết đến sự tồn tại của chúng?”. Mặc dù theo Banerjee,
khi vi-rút biến đổi. Nghiên cứu đã cung cấp thông tin về các nhà khoa học không thể khảo sát hoạt động của
khả năng kích thích miễn dịch của kháng thể pan-sarbe- kháng thể đối với những loại vi-rút chưa được phát hiện
covirus, đại diện là kháng thể S2H97, hướng đến trong nhưng phát hiện mới về liệu pháp điều trị và phòng vi-rút
tương lai phát triển các kháng thể và vắc-xin phản ứng sarbeco sẽ tạo tiền đề cho cuộc chiến chống lại sự lây lan
chéo với các dòng vi-rút sarbeco có khả năng lây lan của các chủng vi-rút Corona từ động vật hoang dã.
từ động vật sang người. Mặc dù các kháng thể giống
S2H97 hiếm gặp trong các huyết thanh mang kháng thể
đa dòng, nhưng khả năng bảo vệ và cách thức liên kết
đặc biệt của kháng thể S2H97 đã mở ra hướng mới để cải
thiện khả năng truy bắt vi-rút bằng cách nhắm vào các
vùng tiềm năng trên RBD.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Starr, T.N., et al., SARS-CoV-2 RBD antibodies that maximize breadth and resistance to escape. Nature,
2021. 597(7874): p. 97-102.
Dịch từ bài viết “Kwon, D., This ‘super antibody’ for COVID fights off multiple coronaviruses. Nature, 2021.
Retrieved from: https://www.nature.com/articles/d41586-021-01917-9”

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 27


TẠI SAO TỈ LỆ MẮC COVID-19
VÀ TRỞ NẶNG Ở TRẺ EM
ÍT HƠN NGƯỜI LỚN TUỔI?
Miễn dịch bẩm sinh
- Phòng tuyến quan trọng của trẻ em
đối với COVID-19
Lược dịch từ:
Mallapaty, S. (2021). Kids and covid: Why young immune systems are still on
top. Nature, 597(7875), 166-168. https://doi.org/10.1038/d41586-021-02423-8

Bùi Diệu Châu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học,
Trường ĐH Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM
PGS.TS Trần Văn Hiếu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Phòng thí nghiệm Cảm biến
Sinh học, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường ĐH Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM

28 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Hiện tại, đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến vô biết SARS-CoV-2, ở mức độ cao hơn đáng kể so với
cùng phức tạp, đe dọa tới sức khỏe và tính mạng của người lớn. Điều này giúp các tế bào nhanh chóng sinh
hàng trăm triệu người trên toàn cầu, trong đó, trẻ em interferons, bắt đầu chuỗi phản ứng chống lại tác nhân
cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, đáng chú ý là tỉ xâm nhiễm.
lệ nhiễm cũng như trở nặng của trẻ em với COVID-19
không cao. Theo thống kê của CDC Hoa Kỳ, từ tháng Bạch cầu trung tính (Neutrophils): Đây là loại thực
3/2020 đến cuối tháng 8/2021, chỉ có dưới 2% số ca bào tuần hoàn được thu hút tới vị trí của tác nhân
nhập viện do COVID-19 là bệnh nhân dưới 18 tuổi. ngoại lai trong hệ tuần hoàn hoặc vị trí nhiễm để nhanh
chóng bắt lấy và tiêu diệt chúng trước khi chúng phân
COVID-19 ảnh hưởng như thế nào tới trẻ chia. So với người lớn, khi bị nhiễm SARS-CoV-2, trẻ
em? em có mức hoạt hóa các bạch cầu trung tính cao hơn
và khả năng này trở nên kém hiệu quả hơn khi càng
Như đã nói ở trên, trẻ em vẫn hoàn toàn có thể lớn tuổi.
nhiễm COVID-19, nhưng chỉ có một số ít trường hợp
xuất hiện biến chứng nặng. Một trong những biến Tế bào lympho bẩm sinh (Innate lymphoid cells): Đây
chứng nặng và nguy hiểm có thể gặp ở trẻ là hội chứng là những tế bào có chức năng phát hiện tổn thương
viêm đa tạng (multi-system inflammatory syndrome in mô và tiết ra các protein tín hiệu giúp điều chỉnh các
children/MIS-C), khiến nhiều bộ phận khác nhau như phản ứng miễn dịch bẩm sinh và thích ứng. Khi không
tim, phổi, thận, não, da, mắt hoặc các cơ quan tiêu hóa mắc bệnh, lượng tế bào lymphoid này sẽ giảm dần
bị viêm và dễ hình thành cục máu đông. May mắn thay, theo tuổi tác, điều này tương ứng với nguy cơ mắc
nhóm bệnh nhân trẻ, bao gồm cả trẻ nhỏ, tỉ lệ nhiễm bệnh COVID-19 nặng cao hơn ở người lớn.
nhìn chung vẫn thấp và đa số không có triệu chứng,
hoặc chỉ có các triệu chứng nhẹ như sốt nhẹ, mệt mỏi Các protein tín hiệu (interferon và inteleukin): Các
và ho. thực bào tuần hoàn có thể tới được vị trí nhiễm là nhờ
sự dẫn đường của các chất dẫn dụ này, cảnh báo hệ
Vì sao lại có sự đặc biệt này? thống miễn dịch về sự xuất hiện của mầm bệnh. Mức
độ của các protein tín hiệu, đặc biệt là interferon-γ và
Theo các nhà miễn dịch học, khi người lớn không interleukin-17, và sự biểu hiện của các gen mã cho các
còn lợi thế về “trí nhớ miễn dịch”, trẻ em cho thấy khả protein nay cao hơn ở trẻ em, và có xu hướng giảm dần
năng kiểm soát nhiễm SARS-CoV-2 một cách tự nhiên theo tuổi tác.
tốt hơn. Vì vậy, miễn dịch bẩm sinh được cho là mấu
chốt của khả năng này tính tới thời điểm hiện tại. Giả Miễn dịch thích ứng của trẻ em phản ứng
thiết này có cơ sở khi thấy rằng trẻ có các rối loạn liên thế nào với COVID-19?
quan đến phản ứng miễn dịch thích ứng, ví dụ như
không thể sản xuất kháng thể hoặc có khiếm khuyết ở Khi nhiễm bệnh, những bệnh nhân trẻ tuổi tuy
tế bào B và tế bào T, khi nhiễm SARS-CoV-2 không xảy có lượng kháng thể tạo ra tương tự với những người
ra các vấn đề đáng lo ngại. Trong khi đó, ở những trẻ trưởng thành, nhưng trong đó, lượng kháng thể chuyên
có biến chứng nặng phát hiện các sai hỏng về hệ miễn biệt và một số tế bào liên quan đến miễn dịch thích
dịch bẩm sinh, hoặc có các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn. ứng lại thấp hơn. Cụ thể là các kháng thể trung hòa
SARS-CoV-2, các kháng thể đánh dấu tế bào bị nhiễm,
Miễn dịch bẩm sinh là gì? tế bào T điều hòa và tế bào T hỗ trợ. Sự hoạt động kém
mạnh mẽ của hệ miễn dịch thích ứng có thể là do các
Miễn dịch bẩm sinh (innate immunity) là cơ chế phản ứng miễn dịch bẩm sinh đã hoạt động hiệu quả
phòng vệ đầu tiên của cơ thể sẵn sàng chống lại các hơn trong việc loại bỏ các mối đe dọa.
tác nhân ngoại lai xâm nhiễm. Nhờ miễn dịch bẩm sinh,
các tác nhân gây bệnh có thể nhanh chóng bị kiểm Ngoài ra, ở trẻ tế bào T trinh nguyên (naive T cell)
soát và loại bỏ ngay cả khi cơ thể chưa từng tiếp xúc. chưa từng tiếp xúc với kháng nguyên nào nhiều hơn
Điều này giúp bảo vệ cơ thể, loại bỏ mầm bệnh trong người lớn tuổi nên khi nhiễm, các tế bào này được huy
lúc các phản ứng miễn dịch thích ứng chưa kịp đáp động để đáp ứng tối ưu nhất với SARS-CoV-2.
ứng cũng như tương tác, định hướng cho miễn dịch
thích ứng. Nhưng liệu miễn dịch bẩm sinh có là đủ?

Có gì khác biệt trong hệ thống miễn dịch SARS-CoV-2 cũng như các loại virus khác, chúng
bẩm sinh của trẻ? tiến hóa không ngừng nhằm lẩn trốn, chống lại đáp
ứng miễn dịch bẩm sinh. Trước đây biến thể Alpha, một
Hàng rào biểu mô: Các lớp tế bào biểu mô được biến thể nguy hiểm tại nhiều quốc gia, đã biến đổi một
xem là phòng tuyến đầu tiên của hệ miễn dịch bẩm số đặc điểm để đào thoát miễn dịch bẩm sinh. Vì vậy,
sinh. Ở trẻ, những tế bào này biểu hiện lượng lớn các với mức độ nguy hiểm và lây lan của biến thể Delta
thụ thể nhận diện phân tử liên quan tới mầm bệnh hiện tại, tuy miễn dịch bẩm sinh vẫn đang là tấm
(Pathogen recognition receptor/PRR). Đặc biệt là sự
biểu hiện của các gen mã hóa MDA5, một thụ thể nhận

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 29


C Ó HAY KHÔNG
SỰ LÂY NHIỄM SARS-CoV-2
Ở VẬT NUÔI?

Lê Nguyễn Yến Vy, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Khoa Sinh học –
Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM
PGS.TS. Trần Văn Hiếu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF;
Phòng thí nghiệm Cảm biến Sinh học, Khoa Sinh học – Công nghệ Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

Được xác định lần đầu vào tháng 12/2019 tại Trung Quốc, SARS-CoV-2 (virus co-
rona gây Hội chứng viêm đường hô hấp cấp tính 2) đã nhanh chóng lây lan trên
toàn cầu, trở thành đại dịch COVID-19 và kéo dài cho đến nay. Mặc dù quá trình
lây truyền từ khi khởi phát của SARS-CoV-2 được cho là từ người sang người,
đã xuất hiện một số báo cáo về sự lây nhiễm của chủng virus này trên các loài
vật nuôi trong nhà và một số loài động vật khác [1-3]. Điều này làm dấy lên lo
ngại về việc các loài động vật cũng có thể là một nhân tố lan truyền mầm bệnh
cũng như khả năng bị tổn thương của chúng nếu nhiễm chủng virus này. Trong
bài viết này, chúng tôi cung cấp một số thông tin tổng hợp được từ các nghiên
cứu về sự lây nhiễm của SARS-CoV-2 ở động vật, đặc biệt là những loài gần gũi
với con người là chó và mèo, bằng cách trả lời những câu hỏi xoay quanh vấn đề
đang được cộng đồng quan tâm.

30 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


Bằng chứng nào khiến người ta nghi ngờ với virus bằng xét nghiệm RT-qPCR [10]. Tại Bỉ, RNA của
SARS-CoV-2 có khả năng lây nhiễm ở động SARS-CoV-2 được phát hiện trong mẫu nôn và phân của
vật? một con mèo có các triệu chứng tiêu chảy, nôn mửa và
Theo báo cáo, các bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2 đầu khó thở [14]. Hai con mèo tại Mỹ, trong đó có một con
tiên được phát hiện ở Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc đều mèo Devon Rex 5 tuổi, có kết quả xét nghiệm dương tính
liên quan đến việc tiếp xúc với động vật hoang dã được với SARS-CoV-2 mang triệu chứng hắt hơi và sổ mũi [15].
bán tại chợ hải sản Hoa Nam của địa phương này [4]. Một con mèo giống châu Âu tại Pháp cũng được phát
Qua phân tích, trình tự gen của SARS CoV-2 có độ tương hiện mang virus và tồn tại kháng thể kháng virus trong
đồng cao với các chủng coronavirus ở loài dơi lá đuôi huyết thanh [16]. Ngoài ra, hai con mèo tại Mỹ khác cũng
(Rhinolophus affinis), 96% [5], và ở tê tê (Manis javani- được xác định nhiễm SARS-CoV-2 [17]. Các báo cáo trên
ca), 91,02% [6]. Đây là những bằng chứng ban đầu khiến được thu thập trong khoảng thời gian từ tháng ba đến
giới khoa học nghi ngờ chủng virus này có ngồn gốc từ tháng sáu năm 2020.
động vật hoang dã. Bên cạnh đó là việc các thí nghiệm
lây nhiễm SARS CoV-2 đã được thực hiện thành công trên Những nghiên cứu về lây nhiễm SARS-CoV-2
linh trưởng, chồn sương, và chuột hamster vàng (Mesoc- ở mèo có kết quả như thế nào?
ricetus auratus) [7], cùng sự xuất hiện của một số báo cáo Khác với loài chó, thí nghiệm gây nhiễm SAR-CoV-2
về việc chó, mèo mang khả năng nhiễm SARS-CoV-2 khi ở mèo đã được thực hiện thành công, nhưng các con vật
virus này được tìm thấy trong mẫu phân của chúng. nhiễm không xuất hiện các triệu chứng lâm sàng [12].
Trong cùng nghiên cứu về sự lây nhiễm SARS-CoV-2 ở
Đã có những báo cáo nào về sự nhiễm SARS- vật nuôi tại Ý đã được nêu trên, có 316 con mèo đã được
CoV-2 ở chó? lấy mẫu phân tích [13]. Kết quả PCR cho thấy không có
Những ca nhiễm SARS-CoV-2 ở chó đầu tiên xuất hiện con mèo nào dương tính với SARS-CoV-2 và có 5,8% số
tại Hong Kong, Trung Quốc, một con chó Phốc sóc 17 tuổi con mèo được phát hiện có tồn tại kháng thể trung hòa
bị nhiễm không triệu chứng [8] và một con chó chăn cừu virus trong huyết thanh ở mức đo được. Tương tự ở chó,
Đức 2,5 tuổi có xét nghiệm RT qPCR dương tính với mẫu suy luận được đưa ra là do loài mèo có khả năng đào thải
là dịch mũi họng [9]. Cả hai chú chó này đều được phát virus trong thời gian ngắn.
hiện mang kháng thể kháng SARS-CoV-2. Tại Hà Lan, một
chú chó bò Mỹ (American Bulldog) có triệu chứng khó thở Có những kết luận gì đã được đưa ra về khả
được phát hiện mang kháng thể kháng chủng virus này năng lây nhiễm SAR-CoV-2 ở chó hay mèo?
[10]. Ngoài ra, còn có hai con chó tại Mỹ được xác định Với kết quả của các nghiên cứu đã được thực hiện, sự
mang kháng thể kháng virus [10] và một con chó chăn nhiễm SARS-CoV-2 ở chó, mèo từ các báo cáo thực ng-
cừu Đức 7 tuổi có xét nghiệm RT-qPCR dương tính [11]. hiệm đã được xác nhận. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
Tất cả chú chó trên đều sống cùng chủ bị nhiễm SARS- báo cáo nào về việc vật nuôi lây truyền virus sang người
CoV-2 và tất cả ca nhiễm trên được báo cáo trong khoảng và khả năng lây truyền virus này từ người sang vật nuôi là
thời gian từ tháng hai đến tháng bảy năm 2020. rất thấp, với hệ số lây nhiễm cơ bản nhỏ hơn 1 [18].

Những nghiên cứu về lây nhiễm SARS-CoV-2 Ngoài chó và mèo, khả năng nhiễm SARS-
ở chó có kết quả như thế nào? CoV-2 ở các loài vật nuôi khác như thế nào?
Trong phòng thí nghiệm, hai trong số bốn con chó Kết quả lây nhiễm SARS-CoV-2 trong phòng thí ng-
được cho nhiễm SARS-CoV-2 qua đường mũi có khả năng hiệm cho thấy ở lợn và gà không có khả năng nhiễm
tạo kháng thể trung hòa với virus và RNA virus không chủng virus này khi các mẫu xét nghiệm đều âm tính sau
được tìm thấy ở mô của con vật bốn ngày sau khi chết. khi các con vật này được gây nhiễm qua đường mũi [19].
Ngoài ra, RNA virus không thường xuyên được tìm thấy Bên cạnh đó, vào tháng tư năm 2020, hai trang trại chồn
trong mẫu phân của các con vật này sau khi nhiễm virus hương tại Hà Lan đã được ghi nhận bùng phát sự lây
[12]. nhiễm SARS-CoV-2 [20]. Từ đó cho thấy, khả năng nhiễm
Ở môi trường tự nhiên, một nghiên cứu đã được thực chủng virus này là khác nhau ở những loài động vật khác
hiện tại miền Bắc nước Ý với số lượng mẫu là 603 con chó nhau. Các thông tin về sự lây nhiễm ở các loài vật nuôi
tại những khu vực thường xuyên xuất hiện các ca nhiễm trong nhà lẫn ở trang trại được tổng hợp trong Bảng 1.
mới ở người [13]. Kết quả PCR cho thấy không có con chó
nào dương tính với SARS-CoV-2 và có 3,3% số con chó Những loài động vật hoang dã nào có khả
được phát hiện có tồn tại kháng thể trung hòa virus trong năng nhiễm SARS-CoV-2?
huyết thanh ở mức đo được. Điều này được suy đoán là Chuột hamster, khỉ rhesus, khỉ đuôi dài, khỉ xanh châu
do chó có khả năng đào thải virus trong khoảng thời gian Phi là những loài có khả năng nhiễm SARS-CoV-2 trong
tương đối ngắn mặc dù chúng vẫn sinh kháng thể kháng môi trường phòng thí nghiệm [21]. Trong môi trường tự
virus. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận sự sinh nhiên, sự nhiễm chủng virus này đã được ghi nhận ở các
kháng thể chỉ xảy ra ở những con chó trưởng thành (trên cá thể hổ Malayan, sư tử châu Phi và hổ Siberia tại một
một tuổi) và những con chó sống trong gia đình có người vườn thú ở Mỹ [17]. Các thông tin về sự lây nhiễm ở các
nhiễm virus có nhiều khả năng sinh kháng thể hơn so với loài động vật hoang dã được nêu trong Bảng 1.
những con còn lại.

Đã có những báo cáo nào về sự nhiễm SARS-


CoV-2 ở mèo?
Cũng tại Hong Kong, một trong 17 con mèo của một
bệnh nhân COVID-19 cũng được xác định dương tính
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 31
Loại lây nhiễm
Khả năng nhiễm
(trong tự nhiên/
Loài (không/rất thấp/thấp/ Dấu hiệu lâm sàng Khả năng lây lan
trong phòng thí
trung bình/cao)
ngiệm)
Vật nuôi
Có (nhưng không
Tự nhiên và trong Có, giữa những cá
Mèo nhà Cao xuất hiện ở tất cả
phòng thí nghiệm thể cùng loài
các ca)
Chuột hamster Syrian Có (từ không đến
(Mesocricetus Trong phòng thí rất nhẹ ở một số ca, Có, giữa những cá
Cao
nghiệm tùy thuộc vào độ thể cùng loài
auratus) tuổi)
Có (nhưng không
Tự nhiên và trong
Chó Thấp xuất hiện ở tất cả Không
phòng thí nghiệm
các ca)
Vật nuôi trang trại
Có, giữa những cá
Chồn Mỹ (Neovison Tự nhiên và trong Có (ở một số ca
Cao thể chồn và từ chồn
vison) phòng thí nghiệm nhiễm)
sang người)
Tự nhiên và trong Có, giữa những cá
Chồn hương Cao Có (ở một số ít ca)
phòng thí nghiệm thể cùng loài
Lửng chó (Nyctereu- Trong phòng thí Có, giữa những cá
Cao Không
tes procyonoides) nghiệm thể cùng loài
Thỏ (thỏ trắng New
Trong phòng thí
Zealand, Oryctolagus Trung bình Không Không
nghiệm
cuniculus)
Lợn (lợn lai Mỹ York- Trong phòng thí
Rất thấp Không Không
shire, Sus scrofa) nghiệm
Trong phòng thí
Bò nhà (Bos taurus) Rất thấp Không Không
nghiệm
Gia cầm (gà, vịt và Trong phòng thí
Không Không Không
gà tây) nghiệm
Động vật hoang dã
Mèo lớn (hổ, sư tử,
Có, giữa các loài
báo tuyết và báo sử Tự nhiên Cao Có, ở hầu hết các ca
động vật
tử)
Dơi ăn quả Ai Cập
(Rousettus Trong phòng thí Có, giữa các các thể
Cao Không
nghiệm cùng loài
aegyptiacus)
Khỉ đột (Gorilla
Tự nhiên Cao Có Có
gorilla)
Hươu đuôi trắng
Trong phòng thí Có, giữa các cá thể
(Odocoileus virgin- Cao Không
nghiệm cùng loài
ianus)
Khỉ đuôi sóc (Calli- Trong phòng thí
Cao Không Không
thrix jacchus) nghiệm
Khỉ macaque (Macaca
Trong phòng thí Có (từ không đến
fascicularis và Macaca Cao Có
nghiệm nặng ở một số ca)
mulatta)
Rái cá vuốt bé châu Á
Tự nhiên Cao Có ?
(Aonyx cinereus)
Chuột đồng (Myodes Trong phòng thí
Trung bình Không Không
glareolus) nghiệm

Chuột nhắc rừng Bắc


Mỹ (Peromyscus Trong phòng thí Có, giữa các cá thể
Cao Không
nghiệm chuột nhắc rừng
maniculatus)

Bảng 1. Thông tin về khả năng lây nhiễm SARS-CoV-2 của các loài động vật
(dữ liệu từ Tổ chức Thú y Thế giới) [22].

32 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Abdel-Moneim A. S. et al. (2020), “Evidence for SARS-CoV-2 Infection of Animal Hosts”, Pathogens. 9 (7).
[2] Newman A. et al. (2020), “First Reported Cases of SARS-CoV-2 Infection in Companion Animals - New York,
March-April 2020”, MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 69 (23), pp. 710-713.
[3] Sit T. H. C. et al. (2020), “Infection of dogs with SARS-CoV-2”, Nature. 586 (7831), pp. 776-778.
[4] WHO (World Health Organization), “WHO Director-General’s Opening Remarks at the Media Briefing on
COVID-19” (17/3/2020), truy cập tại: https://www.who.int/director-general/speeches/detail/who-director-general-
s-opening-remarks-at-the-media-briefing-on-covid-19---11-march-2020.
[5] Zhou P. et al. (2020), “A pneumonia outbreak associated with a new coronavirus of probable bat origin”,
Nature. 579 (7798), pp. 270-273.
[6] Zhang T. et al. (2020), “Probable Pangolin Origin of SARS-CoV-2 Associated with the COVID-19 Outbreak”,
Curr Biol. 30 (7), pp. 1346-1351.e1342.
[7] de Morais H. A. et al. (2020), “Natural Infection by SARS-CoV-2 in Companion Animals: A Review of Case
Reports and Current Evidence of Their Role in the Epidemiology of COVID-19”, Frontiers in Veterinary Science. 7,
pp. 823.
[8] OIE (World Organization for Animal Health), “SARS-CoV-2 Positive Test Results in Dogs in Hong Kong:
Follow-Up Report No.1” (09/3/2020), truy cập tại: https://www.oie.int/wahis_2/public/wahid.php/Reviewreport/
Review?page_refer=MapFullEventReport&reportid=33546.
[9] OIE (World Organization for Animal Health), “Immediate Notification (Second H.K. Dog, 20-03-2020)”
(20/3/2020), truy cập tại: https://www.oie.int/wahis_2/public/wahid.php/Reviewreport/Review?reportid=33684.
[10] AVMA (American Veterinary Medical Association), “SARS-CoV-2 in Animals”, truy cập tại: https://www.avma.
org/resources-tools/animal-health-and-welfare/covid-19/sars-cov-2-animals-including-pets.
[11] “Exclusive: Buddy, First Dog to Test Positive for COVID-19 in the U.S.,Has Died”, truy cập tại: https://www.
nationalgeographic.com/animals/2020/07/first-dog-to-test-positive-for-covid-in-us-dies/.
[12] Shi J. et al. (2020), “Susceptibility of ferrets, cats, dogs, and other domesticated animals to SARS-coronavirus
2”, Science. 368 (6494), pp. 1016-1020.
[13] Patterson E. I. et al. (2020), “Evidence of exposure to SARS-CoV-2 in cats and dogs from households in Italy”,
Nature Communications. 11 (1), pp. 6231.
[14] OIE (World Organization for Animal Health), “Information Provided by the National Veterinary Services of
Belgium” (28/3/2020), truy cập.
[15] CDC (Centers for Disease Control and Prevention), “Confirmation of COVID 19 in Two Pet Cats in New York “
(2020), truy cập.
[16] Sailleau C. et al. (2020), “First detection and genome sequencing of SARS‐CoV‐2 in an infected cat in France”,
Transboundary and Emerging Diseases. 67.
[17] USDA APHIS, “Confirmed Cases of SARS-CoV-2 in Animals in the United States”, truy cập tại: https://www.
aphis.usda.gov/aphis/ourfocus/animalhealth/sa_one_health/sars-cov-2-animals-us
[18] Temmam S. et al. (2020), “Absence of SARS-CoV-2 infection in cats and dogs in close contact with a cluster of
COVID-19 patients in a veterinary campus”, One Health. 10, pp. 100164.
[19] Schlottau K. et al. (2020), “SARS-CoV-2 in fruit bats, ferrets, pigs, and chickens: an experimental transmission
study”, The Lancet Microbe. 1 (5), pp. e218-e225.
[20] Oreshkova N. et al. (2020), “SARS-CoV-2 infection in farmed minks, the Netherlands, April and May 2020”,
Euro Surveill. 25 (23).
[21] de Morais H. A. et al. (2020), “Natural Infection by SARS-CoV-2 in Companion Animals: A Review of Case
Reports and Current Evidence of Their Role in the Epidemiology of COVID-19”, Frontiers in Veterinary Science. 7
(823).
[22] OIE (World Organization for Animal Health), “Infection with SARS-CoV-2 in animals” (Cập nhật: 5/2021),
truy cập tại: https://www.oie.int/app/uploads/2021/05/en-factsheet-sars-cov-2.pdf.

SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 33


COVID-19
NEWSLETTER
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021

vnuhcm.edu.vn | info@vnuhcm.edu.vn
vnuhcm.info | vnuhcm
Chuyên trang COVID-19
covid19.vnuhcm.edu.vn
covid19@vnuhcm.edu.vn
34 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021

You might also like