Professional Documents
Culture Documents
Covid Newsletter So 8 - 01112021
Covid Newsletter So 8 - 01112021
NEWSLETTER
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
10
miễn dịch kháng lại SARS-CoV-2 qua hơi thở:
ở mức độ cá thể: giải pháp mới
nên hay không? 04 cho đại dịch toàn cầu
30 Có hay không
sự lây nhiễm SARS-CoV-2
ở vật nuôi?
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 1
SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
COVID-19
NEWSLETTER
2 covid19.vnuhcm.edu.vn
| COVID-19 | 01/11/2021
NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY covid19@vnuhcm.edu.vn | vnuhcm.info | vnuhcm
04 20
Vắc xin SARS-CoV-2
Xét nghiệm đánh dựa trên vùng RBD
giá kháng thể nhằm được biểu hiện ở nấm
đánh giá khả năng men phối trộn với tá
miễn dịch kháng lại dược 3M-052-alum có
SARS-CoV-2 ở mức khả năng gia tăng hiệu
độ cá thể: nên hay quả bảo vệ ở các loài
không? linh trưởng
10 25
vnuhcm
“Siêu kháng thể”
S2H97 và khả năng
chống lại nhiều loại
Phát hiện virus vi-rút Corona khác
SARS-CoV-2 qua nhau: Tiềm năng
hơi thở: giải pháp mới cho trận chiến
mới cho đại dịch COVID-19?
toàn cầu
17 28 30
Từ cuối năm 2019 đến nay, SARS-CoV-2 đã gây ra Từ các ca nhiễm được báo cáo đầu tiên tại Vũ Hán,
đại dịch suy hô hấp cấp ở người trên toàn thế giới với Trung Quốc vào cuối năm 2019, cho đến nay, SARS-
hàng trăm triệu ca nhiễm và hàng triệu ca tử vong. CoV-2 đã gây ra trận đại dịch trên nhiều quốc gia và
Cho đến nay, các chính sách miễn dịch cộng đồng vùng lãnh thổ. Theo thống kê của Wordometer, tính
đang được đẩy mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới, tới cuối tháng 9/2021, đã có hơn 233 triệu ca nhiễm
trong đó có Việt Nam, nhằm hạn chế các tác động và gần 5 triệu ca tử vong do nhiễm SARS-CoV-2 [1].
tiêu cực của virus. Gần đây, nhiều trang thông tin giới Với tiềm năng của y học hiện đại, nhiều công nghệ
thiệu dịch vụ xét nghiệm đánh giá kháng thể chống lại sản xuất vaccine được phát triển sản xuất ở nhiều
SARS-CoV-2 nhằm đánh giá tình trạng miễn dịch cá quốc gia, bằng nhiều phương pháp khác nhau và các
thể được chia sẻ rộng rãi trên các cổng thông tin cũng vaccine này đã được phân phối đến khắp các quốc gia
như mạng xã hội. Nhiều dữ liệu từ các nghiên cứu cho trên thế giới. Để hạn chế tình trạng trở nặng các triệu
thấy các xét nghiệm đánh giá kháng thể chỉ nên được chứng cho nhiễm SARS-CoV-2, các chính sách tiêm
áp dụng để khảo sát tình trạng miễn dịch cộng đồng, chủng đã được thực hiện trên toàn cầu. Theo thống
cũng như truy vết tiền sử nhiễm bệnh ở mức độ cá kê, tính tới ngày 27/9/2021, toàn thế giới có hơn 6,1 tỷ
thể, trong trường hợp cá thể này chưa tiêm vaccine liều vaccine kháng lại SARS-CoV-2 được tiêm chủng,
trước đó. Các khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và trong đó Việt Nam đã tiêm được hơn 38 triệu liều.
Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ cũng chỉ ra rằng xét Tính trên toàn dân số, Việt Nam đã có 32% dân số
nghiệm đánh giá miễn dịch chỉ có ý nghĩa về mặt dịch được tiêm vaccine, trong đó 8,2% đã tiêm đủ hai mũi
tễ trên cộng đồng, không có ý nghĩa trong đánh giá vaccine [2]. Gần đây, nhiều thông tin truyền thông giới
tình trạng miễn dịch ở mức độ cá thể do tính phức tạp thiệu về dịch vụ xét nghiệm đánh giá kháng thể nhằm
của các đáp ứng miễn dịch. xem xét khả năng miễn dịch của từng cá thể chống lại
sự xâm nhiễm SARS-CoV-2. Trong khi đó, các thông
tin từ Bộ Y tế cũng chưa cho thấy có chỉ định xét
nghiệm kháng thể trên người nhiễm virus hoặc người
tiêm vaccine [3]. Vậy các xét nghiệm kháng thể có nên
được áp dụng ở mức độ cá thể hay không? Bài viết
này sẽ tổng hợp các bằng chứng từ các y văn về bản
chất, hiệu quả của các xét nghiệm đánh giá kháng thể
hiện đang lưu hành trên thế giới cũng như khả năng
ứng dụng của các xét nghiệm này ở mức độ cá thể.
Bảng 1. Thông tin các xét nghiệm đánh giá kháng thể được chấp thuận bởi FDA [10]
Hình 1. Cấu tạo que test nhanh bằng phương pháp LFIA [13].
Cơ sở khoa học về đáp ứng miễn dịch chống 3- 4 tuần [15] và có dấu hiệu giảm dần trong 2-3 tháng
lại SARS-CoV-2 sau đó [16]. Mặt khác, nhiều dữ liệu nghiên cứu chỉ ra sự
dao động trong nồng độ kháng thể ở các bệnh nhân phụ
Đáp ứng miễn dịch dịch thể thuộc vào lớp kháng thể sản sinh bởi phản ứng miễn dịch
dịch thể (IgM, IgG, IgA) và mức độ nặng của triệu chứng
Bất kỳ tác nhân xâm nhiễm nào khi tấn công vào các trên bệnh nhân đó. Bệnh nhân có triệu chứng nặng do
tế bào của cơ thể người đều được phát hiện bởi hệ miễn nhiễm SARS-CoV-2 sẽ có nồng độ kháng thể cao hơn và
dịch, từ đó kích hoạt các đáp ứng miễn dịch nhằm đào thải các kháng thể này tồn tại trong thời gian dài hơn so với
tác nhân gây bệnh ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, trong đáp các trường hợp nhiễm virus có triệu chứng nhẹ hoặc hoàn
ứng miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm của SARS-CoV-2, toàn không xuất hiện triệu chứng [5]. Ở các bệnh nhân
các nghiên cứu vẫn chưa rõ thành phần cụ thể nào trong này, nồng độ kháng thể IgA và IgM giảm đi đáng kể sau
hệ miễn dịch có vai trò quan trọng nhất trong cơ chế sinh 60 ngày kể từ ngày khởi phát triệu chứng, trong khi đó,
miễn dịch chống lại virus này cũng như vẫn chưa có một nồng độ kháng thể IgG vẫn duy trì ở mức cao [8]. Kháng
báo cáo nào chỉ ra rằng lượng kháng thể bao nhiêu là cần thể dạng IgG được chứng minh có thể duy trì trong máu
thiết để một cá thể có thể duy trì tính miễn dịch chống bệnh nhân khoảng 90 ngày, ngay cả trong các trường hợp
lại virus này theo thời gian. Đa số các bệnh nhân nhiễm có triệu chứng nhẹ do nhiễm SARS-CoV-2 [17]. Như đã đề
SARS-CoV-2 đều cho thấy có hiện tượng chuyển đổi huyết cập, nồng độ kháng thể có liên quan đến mức độ nặng
thanh hoặc có kết quả dương tính khi thực hiện các xét của triệu chứng của bệnh nhân nhiễm virus, tuy nhiên, một
nghiệm đánh giá kháng thể vào khoảng 2 tuần sau nhiễm báo cáo lại cho thấy động học phản ứng của các kháng
[14]. Một báo cáo phát hiện được kháng thể chống lại thể không có sự khác biệt khi so sánh giữa các bệnh nhân
SARS-CoV-2 ở bệnh nhân sớm nhất ở ngày thứ 6 sau khi có mức độ ảnh hưởng khác nhau bởi virus [18].
khởi phát triệu chứng và lượng kháng thể tăng dần sau
6 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
Kháng thể trung hoà trong đáp ứng miễn dịch rus không triệu chứng hoặc những bệnh nhân đến khám
dịch thể kháng SARS-CoV-2 muộn, khi mà các kết quả xác định kháng nguyên đã âm
tính nhưng lại dương tính với kháng thể. Điều này chứng
Điều thú vị là không phải tất cả các kháng thể sản sinh tỏ các trường hợp này đã nhiễm virus trước đó. Bên cạnh
ra từ các đáp ứng miễn dịch đều có khả năng chống lại đó, nhiều trường hợp có kết quả dương tính với kháng thể
virus trong những lần tái nhiễm sau đó. Chỉ có kháng thể đặc hiệu cho SARS-CoV-2 nhưng vẫn nhiễm virus sau đó,
trung hoà mới có khả năng thực sự bảo vệ cơ thể chống cho thấy kết quả dương tính trong các xét nghiệm đánh
lại tác nhân xâm nhiễm. Một nghiên cứu cho thấy lượng giá kháng thể không phản ánh được chức năng bảo vệ
kháng thể trung hoà ở những bệnh nhân nhiễm SARS- của các kháng thể này. Báo cáo này cũng khuyến cáo rằng
CoV-2 đã khỏi bệnh có độ dao động rất lớn [19]. Các ng- nếu áp dụng rộng rãi các xét nghiệm đánh giá kháng thể
hiên cứu định lượng cũng chỉ ra rằng các kháng thể trung ở mức độ cá thể, có thể gây ra những hiểu lầm về chức
hoà chống lại SARS-CoV-2 xuất hiện sớm nhất vào ngày năng bảo vệ của kháng thể, dẫn đến chủ quan và các cá
thứ 9 sau khi khởi phát triệu chứng và đạt đỉnh nồng độ thể này có thể trở thành tác nhân lây lan virus cho những
vào khoảng ngày thứ 31-35 [20], sau đó giảm dần và có người xung quanh, làm tăng tỷ lệ nhiễm trên cộng đồng
thể giảm đến mức dưới ngưỡng phát hiện sau 2-3 tháng [10]. Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào kết quả đánh giá kháng
[21]. Bên cạnh đó, vài nghiên cứu cũng ghi nhận mối tương thể mà bỏ qua các hạn chế kỹ thuật về tỷ lệ dương tính
quan giữa nồng độ kháng thể trung hoà và nồng độ tổng giả và âm tính giả, có thể dẫn đến các hệ lụy khác về mặt
kháng thể IgG trong máu [22] cũng như mối tương quan xã hội. Những trường hợp có kết quả âm tính giả trong
với mức độ nặng của triệu chứng lâm sàng do nhiễm vi- xét nghiệm đánh giá kháng thể không được tham gia các
rus [23]. Những trường hợp có triệu chứng nặng có nồng hoạt động xã hội trong thời kỳ mở cửa sau dịch, trong khi
độ kháng thể trung hoà cao hơn gấp 7 lần so với những họ thực sự có kháng thể chống lại virus. Ngược lại, những
trường hợp có triệu chứng nhẹ [23]. Như vậy, ta có thể trường hợp có kết quả dương tính giả lại có nguy cơ nới
thấy, hoạt động miễn dịch dịch thể chống lại SARS-CoV-2 lỏng các biện pháp bảo vệ cá nhân khi tham gia các hoạt
ở các cá thể khác nhau có thể khác nhau từ mức độ phản động cộng đồng, trong khi khả năng bảo vệ thực sự của
ứng, đến độ đặc hiệu của phản ứng. Do đó, một số trường kháng thể khá thấp [27].
hợp bệnh nhân ghi nhận nồng độ kháng thể trung hoà –
thành phần có chức năng chính trong việc chống lại virus, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ
dưới ngưỡng phát hiện trong khi các kit xét nghiệm đánh cũng đưa ra các khuyến cáo về việc sử dụng các xét ng-
giá kháng thể thương mại vẫn cho kết quả dương tính hiệm đánh giá kháng thể với nhiều điểm đáng lưu ý [28]:
trong định lượng tổng kháng thể trong huyết tương [24].
(1) Chỉ sử dụng các test đánh giá kháng thể với mục
đích chẩn đoán, xác định tiền sử nhiễm SARS-CoV-2.
Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
Không nên sử dụng để xác định tình trạng miễn dịch của
bệnh nhân nhiễm virus cho đến khi các nghiên cứu lâm
Bên cạnh hoạt động miễn dịch dịch thể, các đáp ứng
sàng khẳng định được các đặc tính của kháng thể đặc hiệu
miễn dịch ở cơ thể người còn có thể hoạt động theo
chống lại SARS-CoV-2.
hướng miễn dịch qua trung gian tế bào, cụ thể hơn là các
đáp ứng thông qua hoạt động của tế bào lympho T. Sau (2) Không nên sử dụng xét nghiệm đánh giá kháng
khi trình diện kháng nguyên, các tế bào lympho T chưa thể để đánh giá tình trạng miễn dịch ở những người đã
trưởng thành (naive T cells) sẽ biệt hoá theo hai hướng: T tiêm vaccine ngừa SARS-CoV-2. Do một số xét nghiệm
CD8+ và T CD4+. Tế bào T CD8+ đóng vai trò phân huỷ đánh giá kháng thể không thể phát hiện được các kháng
các tế bào bị nhiễm virus, trong khi các tế bào T CD4+ thể sản sinh từ đáp ứng miễn dịch sinh ra bởi vaccine, do
đóng vai trò kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt đặc thù phản ứng sinh miễn dịch đáp ứng với vaccine ở
động của các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, mỗi cá thể là khác nhau.
đặc biệt là việc điều hướng cho các tế bào T CD8+ đến tấn
(3) Đối với những cơ sở y tế, nếu quần thể có tỷ lệ
công đúng các tế bào bị nhiễm. Ngoài ra, vài báo cáo ghi
nhiễm SARS-CoV-2 >5% dân số thì các chỉ định làm xét
nhận sự lưu hành một lượng nhỏ tế bào T nhớ trong máu
nghiệm đánh giá kháng thể nên chọn các kit thương mại
sau khi nhiễm virus [25]. Nghiên cứu gần đây tìm thấy dấu
có độ đặc hiệu cao.
vết của các tế bào T CD4+ đặc hiệu cho sự nhiễm SARS-
CoV-2 hiện diện ở tất cả các bệnh nhân và 90% các trường (4) Các bác sĩ được khuyến cáo chỉ định xét nghiệm
hợp này có sự hiện diện các tế bào T CD8+. Điều này chỉ đánh giá kháng thể cho những bệnh nhân đã từng hoặc
ra rằng hoạt động miễn dịch qua trung gian tế bào cũng đang nhiễm SARS-CoV-2.
góp phần không nhỏ trong hoạt động miễn dịch chống
(5) Các bác sĩ được khuyến cáo sử dụng các thuật
lại SARS-CoV-2 [26]. Tuy nhiên, các hoạt động miễn dịch
toán trực giao giữa tình trạng nhiễm virus của bệnh nhân
thông qua trung gian tế bào không thể được đánh giá
và khả năng phát hiện kháng thể, từ đó đưa ra các chỉ định
và đo lường bằng các kit thương mại đánh giá kháng thể
xét nghiệm đánh giá kháng thể khi cần thiết.
hiện hành.
(6) Vẫn chưa có bằng chứng chứng minh hiệu quả
Các khuyến cáo trong việc áp dụng xét của các xét nghiệm đánh giá kháng thể, cho dù xét ng-
nghiệm đánh giá kháng thể hiệm đó dựa trên IgM, IgG, tổng kháng thể hoặc đánh giá
kết hợp IgM/IgG. Dù vẫn có các bằng chứng có thể phát
Một báo cáo của Mathur G. (2020) khuyến cáo các xét hiện được kháng thể IgA kháng lại SARS-CoV-2, CDC vẫn
nghiệm đánh giá kháng thể có thể được sử dụng như một không khuyến cáo các bác sĩ chỉ định các xét nghiệm dựa
công cụ để khảo sát tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 trong cộng trên IgA trong đánh giá tính sinh miễn dịch ở bệnh nhân
đồng, đặc biệt giúp phát hiện các trường hợp nhiễm vi- nhiễm virus này.
Kết quả xét nghiệm đánh giá kháng thể ở mức độ 6. Gronvall G, Connell N, Kobokovich A. Developing a
cá thể không mang ý nghĩa lớn về mặt y học, không National Strategy for Serology (Antibody Testing) in
phản ánh đúng tình trạng miễn dịch của cá thể đó. the United States. Baltimore, MD: The Johns Hopkins
Ngược lại, các kết quả này có thể mang đến các hệ lụy Center for Health Security2020 [cited 2021 28 Sept].
tiêu cực ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động Available from: https://www.centerforhealthsecurity.
cộng đồng của cá thể do các hạn chế về tỷ lệ dương org/our-work/publications/developing-a-nation-
tính giả và âm tính giả của các kỹ thuật xét nghiệm al-strategy-for-serology-antibody-testing-in-the-US.
hiện hành.
7. Azkur AK, Akdis M, Azkur D, Sokolowska M, van
Các bác sĩ lâm sàng nên cân nhắc các khuyến cáo de Veen W, Bruggen MC, et al. Immune response to
của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh SARS-CoV-2 and mechanisms of immunopathological
trước khi đưa ra các chỉ định xét nghiệm đánh giá changes in COVID-19. Allergy. 2020;75(7):1564-81.
kháng thể, tránh dẫn đến lãng phí cũng như giảm
8. Yu HQ, Sun BQ, Fang ZF, Zhao JC, Liu XY, Li YM, et al.
thiểu các hệ lụy do hiểu sai các kết quả xét nghiệm
đánh giá kháng thể gây ra. Distinct features of SARS-CoV-2-specific IgA response
in COVID-19 patients. Eur Respir J. 2020;56(2).
9. Kobokovich A, West A, Gronvall G. Serology-Based Tests for COVID-19 Baltimore, MD: The Johns Hopkins Center for
Health2020 [cited 2021 28 Sept]. Available from: //www.centerforhealthsecurity.org/resources/COVID-19/ser- ology/
Serology-based-tests-for-COVID-19.html. .
10. Mathur G, Mathur S. Antibody testing for COVID-19: Can it be used as a screening tool in areas with low prevalence?
Am J Clin Pathol. 2020;154:1 - 3.
11. Deeks JJ, Dinnes J, Takwoingi Y, Davenport C, Spijker R, Taylor-Phillips S, et al. Antibody tests for identification of
current and past infection with SARS-CoV-2. Cochrane Database Syst Rev. 2020;6:CD013652.
12. Vanroye F, Bossche DVD, Brosius I, Tack B, Esbroeck MV, Jacobs J. COVID-19 Antibody Detecting Rapid Diagnostic
Tests Show High Cross-Reactivity When Challenged with Pre-Pandemic Malaria, Schistosomiasis and Dengue Sam-
ples. Diagnostics (Basel). 2021;11(7).
13. Huntley BJF, Huntley ES, Di Mascio D, Chen T, Berghella V, Chauhan SP. Rates of Maternal and Perinatal Mortality
and Vertical Transmission in Pregnancies Complicated by Severe Acute Respiratory Syndrome Coronavirus 2 (SARS-
Co-V-2) Infection: A Systematic Review. Obstet Gynecol. 2020;136(2):303-12.
14. Prévost J. Cross-sectional evaluation of humoral responses against SARS-CoV-2 Spike. bioRxiv. 2020.
15. Long Q. Clinical and immunological assessment of asymptomatic SARS-CoV-2 infections. Nat Med. 2020;26:1200 - 4.
16. Cui P, Chen Z, Wang T, Dai J, Zhang J, Ding T, et al. Severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 detection in the
female lower genital tract. Am J Obstet Gynecol. 2020;223(1):131-4.
17. Isho B, Abe KT, Zuo M, Jamal AJ, Rathod B, Wang JH, et al. Persistence of serum and saliva antibody responses to
SARS-CoV-2 spike antigens in COVID-19 patients. Sci Immunol. 2020;5(52).
18. Hou H, Wang T, Zhang B, Luo Y, Mao L, Wang F, et al. Detection of IgM and IgG antibodies in patients with coronavi-
rus disease 2019. Clin Transl Immunology. 2020;9(5):e01136.
19. Luchsinger LL, Ransegnola B, Jin D, Muecksch F, Weisblum Y, Bao W, et al. Serological Assays Estimate Highly Variable
SARS-CoV-2 Neutralizing Antibody Activity in Recovered COVID19 Patients. medRxiv. 2020.
20. Lee WT, Girardin RC, Dupuis AP, Kulas KE, Payne AF, Wong SJ, et al. Neutralizing Antibody Responses in COVID-19
Convalescent Sera. J Infect Dis. 2021;223(1):47-55.
21. Seow J, Graham C, Merrick B, Acors S, Pickering S, Steel KJA, et al. Longitudinal observation and decline of neu-
tralizing antibody responses in the three months following SARS-CoV-2 infection in humans. Nat Microbiol.
2020;5(12):1598-607.
22. Maor Y, Cohen D, Paran N, Israely T, Ezra V, Axelrod O, et al. Compassionate use of convalescent plasma for treatment
of moderate and severe pneumonia in COVID-19 patients and association with IgG antibody levels in donated plasma.
EClinicalMedicine. 2020;26:100525.
23. Wang P, Liu L, Nair MS, Yin MT, Luo Y, Wang Q, et al. SARS-CoV-2 neutralizing antibody responses are more robust in
patients with severe disease. Emerg Microbes Infect. 2020;9(1):2091-3.
24. Wu F, Liu M, Wang A, Lu L, Wang Q, Gu C, et al. Evaluating the Association of Clinical Characteristics With Neutral-
izing Antibody Levels in Patients Who Have Recovered From Mild COVID-19 in Shanghai, China. JAMA Intern Med.
2020;180(10):1356-62.
25. Janssen EM, Droin NM, Lemmens EE, Pinkoski MJ, Bensinger SJ, Ehst BD, et al. CD4+ T-cell help controls CD8+ T-cell
memory via TRAIL-mediated activation-induced cell death. Nature. 2005;434(7029):88-93.
26. Grifoni A, Weiskopf D, Ramirez SI, Mateus J, Dan JM, Moderbacher CR, et al. Targets of T Cell Responses to SARS-
CoV-2 Coronavirus in Humans with COVID-19 Disease and Unexposed Individuals. Cell. 2020;181(7):1489-501 e15.
27. Weinstein MC, Freedberg KA, Hyle EP, Paltiel AD. Waiting for Certainty on Covid-19 Antibody Tests - At What Cost? N
Engl J Med. 2020;383(6):e37.
28. CDC. Interim Guidelines for COVID-19 Antibody Testing 2021 [updated 21 Sept 2021; cited 2021 28 Sept]. Available
from: https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/lab/resources/antibody-tests-guidelines.html.
Sự bùng phát đại dịch COVID-19 đã và đang ảnh khuyết như thời gian trả kết quả chậm (1-2 ngày) đối với
hưởng mạnh mẽ đến hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng PCR, yêu cầu về mặt hậu cần phức tạp đối với xét nghiệm
như cuộc sống của mọi người trên toàn thế giới. Việc phát nhanh [1, 2]. Thêm vào đó, quy trình lấy mẫu xét nghiệm
hiện sớm các cá nhân nhiễm SARS-CoV-2 được xem là hiện nay được cho là gây khó chịu cho bệnh nhân và vẫn
yếu tố cơ bản trong việc ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh. có thể bỏ sót các khu vực có tải lượng virus cao dẫn đến
Hiện nay ba phương pháp chính đang được sử dụng là cho kết quả âm tính giả. Ngoài ra, các xét nghiệm PCR và
xét nghiệm sinh học phân tử hay còn gọi là xét nghiệm xét nghiệm nhanh được cho là có hiệu suất kém đối với
phản ứng chuỗi polymerase (PCR - Polymerase Chain Re- các trường hợp mẫu bệnh phẩm có tải lượng virus quá
action), xét nghiệm kháng thể và xét nghiệm nhanh kháng thấp [1, 2].
nguyên SARS-CoV-2. Mỗi phương pháp đều cho thấy độ
đặc hiệu và độ nhạy cao, song vẫn tồn tại một số khiếm
1. Ernst E, Wolfe P, Stahura C, Edwards KA. Technical considerations to development of serological tests for SARS-
CoV-2. Talanta. 2021;224:121883.
2. Maxmen A. The researchers taking a gamble with antibody tests for coronavirus. Nature. 2020.
3. Pokhrel P, Hu C, Mao H. Detecting the coronavirus (COVID-19). ACS sensors. 2020;5(8):2283-2296.
4. Samson R, Navale GR, Dharne MS. Biosensors: Frontiers in rapid detection of COVID-19. 3 Biotech. 2020;10(9):1-9.
5. Ribeiro BV, Cordeiro TAR, e Freitas GRO, Ferreira LF, Franco DL. Biosensors for the detection of respiratory viruses: A
review. Talanta Open. 2020;2:100007.
6. Chan JF-W, Yuan S, Kok K-H, To KK-W, Chu H, Yang J, et al. A familial cluster of pneumonia associated with the 2019
novel coronavirus indicating person-to-person transmission: a study of a family cluster. Lancet. 2020;395(10223):514-523.
7. Orenes-Piñero E, Baño F, Navas-Carrillo D, Moreno-Docón A, Marín JM, Misiego R, et al. Evidences of SARS-CoV-2
virus air transmission indoors using several untouched surfaces: A pilot study. Sci Total Environ 2021;751:142317.
8. Li R, Pei S, Chen B, Song Y, Zhang T, Yang W, et al. Substantial undocumented infection facilitates the rapid dissemi-
nation of novel coronavirus (SARS-CoV-2). Science. 2020;368(6490):489-493.
9. Liu Y, Gayle AA, Wilder-Smith A, Rocklöv J. The reproductive number of COVID-19 is higher compared to SARS
coronavirus. J Travel Med. 2020;27(2).
10. Zhang S, Diao M, Yu W, Pei L, Lin Z, Chen D. Estimation of the reproductive number of novel coronavirus
(COVID-19) and the probable outbreak size on the Diamond Princess cruise ship: A data-driven analysis. Int J Infect
Dis. 2020;93:201-204.
11. SanJuan-Reyes S, Gómez-Oliván LM, Islas-Flores H. COVID-19 in the environment. Chemosphere. 2021;263:127973.
12. Qin Z, Peng R, Baravik IK, Liu X. Fighting COVID-19: Integrated micro-and nanosystems for viral infection diagnos-
tics. Matter. 2020;3(3):628-651.
13. Torrente-Rodríguez RM, Lukas H, Tu J, Min J, Yang Y, Xu C, et al. SARS-CoV-2 RapidPlex: a graphene-based multi-
plexed telemedicine platform for rapid and low-cost COVID-19 diagnosis and monitoring. Matter. 2020;3(6):1981-1998.
14. Asadi S, Bouvier N, Wexler AS, Ristenpart WD. The coronavirus pandemic and aerosols: Does COVID-19 transmit via
expiratory particles? Aerosol Sci Technol. 2020;54(6):635-638.
15. Mymetics. Technology 2021 [Available from: https://www.mymetics.com/technology.
16. VanSciver M, Miller S, Hertzberg J. Particle image velocimetry of human cough. Aerosol Sci Technol. 2011;45(3):415-
422.
17. Bahl P, de Silva CM, Chughtai AA, MacIntyre CR, Doolan C. An experimental framework to capture the flow dynam-
ics of droplets expelled by a sneeze. Exp Fluids. 2020;61(8):1-9.
18. Coutureau C, Pascard M, Kanagaratnam L, Jolly D, de Champs C. Does copper prevent nosocomial transmission of
COVID-19? J Am Med Dir Assoc. 2021;22(1):219-220.
19. Tellier R, Li Y, Cowling BJ, Tang JW. Recognition of aerosol transmission of infectious agents: a commentary. BMC
Infect Dis. 2019;19(1):1-9.
20. Morawska L, Cao J. Airborne transmission of SARS-CoV-2: The world should face the reality. Environ Int.
2020;139:105730.
21. Schijven JF, Vermeulen LC, Swart A, Meijer A, Duizer E, de Roda Husman AM. Exposure assessment for airborne
transmission of SARS-CoV-2 via breathing, speaking, coughing and sneezing. medRxiv. 2020.
22. Anfinrud P, Stadnytskyi V, Bax CE, Bax A. Visualizing Speech-Generated Oral Fluid Droplets with Laser Light Scat-
tering. N Engl J Med. 2020;382(21):2061-2063.
23. Netz RR, Eaton WA. Physics of Virus Transmission by Speaking Droplets. Proc Natl Acad Sci U S A.
2020;117(41):25209-25211.
24. Nature of the Virion 2021 [Sep 12, 2021]. Available from: https://bio.libretexts.org/@go/
page/9858.
25. Ma J, Qi X, Chen H, Li X, Zhang Z, Wang H, et al. Coronavirus Disease 2019 Patients in Earlier
Stages Exhaled Millions of Severe Acute Respiratory Syndrome Coronavirus 2 Per Hour. Clin Infect
Dis. 2021;72(10):e652–e654.
26. Guo Z-D, Wang Z-Y, Zhang S-F, Li X, Li L, Li C, et al. Aerosol and surface distribution of severe
acute respiratory syndrome coronavirus 2 in hospital wards, Wuhan, China, 2020. Emerg Infect Dis.
2020;26(7):1583-1591.
27. Santarpia JL, Rivera DN, Herrera V, Morwitzer MJ, Creager H, Santarpia GW, et al. Aerosol and
surface transmission potential of SARS-CoV-2. MedRxiv. 2020.
28. Liu Y, Ning Z, Chen Y, Guo M, Liu Y, Gali NK, et al. Aerodynamic analysis of SARS-CoV-2 in two
Wuhan hospitals. Nature. 2020;582(7813):557-560.
29. Ong SWX, Tan YK, Chia PY, Lee TH, Ng OT, Wong MSY, et al. Air, surface environmental, and
personal protective equipment contamination by severe acute respiratory syndrome coronavirus 2
(SARS-CoV-2) from a symptomatic patient. Jama. 2020;323(16):1610-1612.
30. Van Doremalen N, Bushmaker T, Morris DH, Holbrook MG, Gamble A, Williamson BN, et
al. Aerosol and surface stability of SARS-CoV-2 as compared with SARS-CoV-1. N Engl J Med.
2020;382(16):1564-1567.
31. Lamote K, Janssens E, Schillebeeckx E, Lapperre TS, De Winter BY, Van Meerbeeck J. The scent of
COVID-19: viral (semi-) volatiles as fast diagnostic biomarkers? J Breath Res. 2020;14(4):042001.
32. Pan M, Lednicky JA, Wu CY. Collection, particle sizing and detection of airborne viruses. J Appl
Microbiol. 2019;127(6):1596-1611.
33. The COVID-19 testing debacle. Nat Biotechnol. 2020;38(9):653.
34. Haick H, Broza YY, Mochalski P, Ruzsanyi V, Amann A. Assessment, origin, and implementation
of breath volatile cancer markers. Chem Soc Rev. 2014;43(5):1423-1449.
35. Grassin-Delyle S, Roquencourt C, Moine P, Saffroy G, Carn S, Heming N, et al. Metabolomics of
Exhaled Breath in Critically Ill COVID-19 Patients: A Pilot Study. EBioMedicine. 2021;63:103154.
36. Broza YY, Vishinkin R, Barash O, Nakhleh MK, Haick H. Synergy between nanomaterials and
volatile organic compounds for non-invasive medical evaluation. Chem Soc Rev. 2018;47(13):4781-
4859.
37. Broza YY, Mochalski P, Ruzsanyi V, Amann A, Haick H. Hybrid volatolomics and disease detec-
tion. Angew Chem Int Ed. 2015;54(38):11036-11048.
38. Miripour ZS, Sarrami-Forooshani R, Sanati H, Makarem J, Taheri MS, Shojaeian F, et al. Re-
al-time diagnosis of reactive oxygen species (ROS) in fresh sputum by electrochemical tracing;
correlation between COVID-19 and viral-induced ROS in lung/respiratory epithelium during this
pandemic. Biosens Bioelectron. 2020;165:112435.
39. Shan B, Broza YY, Li W, Wang Y, Wu S, Liu Z, et al. Multiplexed Nanomaterial-Based Sensor
Array for Detection of COVID-19 in Exhaled Breath. ACS Nano. 2020;14(9):12125– 12132.
Trong bối cảnh chưa có thuốc chữa trị đặc hiệu, vaccine hiện đang là phương pháp hiệu
quả nhất trong việc bảo vệ con người khỏi sự xâm nhiễm của virus SARS-CoV-2. Tuy nhiên,
nhiều quốc gia tiến hành chủng ngừa toàn diện vẫn gặp tình trạng tái nhiễm trong cộng
đồng [1], dẫn đến việc phải liên tục “mở cửa” và “đóng cửa” xã hội, gây nên nhiều thiệt hại về
kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều biến chủng của SARS-CoV được hình thành dần trở thành một
vấn đề gây chú ý [2]. Vậy, vaccine dạng hít đang nhận được nhiều sự chú ý trong giới nghiên
cứu khoa học có thực sự là giải pháp lâu dài trong kỷ nguyên COVID-19 hay không?
Hình 1. Các loại vaccine hiện có cho chủng ngừa SARS-CoV-2 giúp cung cấp “nguyên liệu đầu vào” cho
tế bào trình diện kháng nguyên, qua đó kích hoạt đáp ứng miễn dịch [4].
Tuy nhiên, vaccine dạng tiêm gặp hai vấn đề lớn trong Đã có loại vaccine dạng hít nào được đưa vào
việc chủng ngừa COVID-19. Đầu tiên, vaccine tiêm sẽ thử nghiệm hoặc sử dụng hay chưa?
gây đáp ứng bên trong cơ thể, nhưng hầu hết các mầm
bệnh, đặc biệt là virus SARS-CoV-2 xâm nhiễm vào cơ thể Hiện nay, chưa có vaccine dạng hít nào được chứng
thông qua đường hô hấp. Vì vậy, việc gây đáp ứng miễn nhận để sử dụng lâm sàng nhưng nhiều vaccine dạng hít
dịch trong cơ thể bằng vaccine tiêm không thể tác động đang được thử nghiệm. Đơn cử là CanSino dạng hít hiện
trực tiếp lên các tế bào phổi - tế bào tiếp xúc trực tiếp với đang được thử nghiệm lâm sàng pha I và cho thấy tiềm
mầm bệnh, do đó làm giảm hiệu năng của vaccine [5]. năng ứng dụng cũng như hiệu quả cao [11].
Thứ hai, cơ chế đáp ứng miễn dịch ở các cơ quan có cấu
trúc màng nhầy diễn ra một cách hoàn toàn khác biệt, CanSino là một loại vaccine adenovirus. Hay nói đơn
đặc biệt là quá trình trình diện kháng nguyên [6]. Do đó, giản hơn, vaccine này sử dụng một loại virus khác không
vaccine dạng hít được phát triển với mục tiêu giải quyết gây bệnh ở người để mang và biểu hiện cấu trúc kháng
hai vấn đề nêu trên. nguyên tương tự trên SARS-CoV-2. Một số vaccine tương
đồng được sử dụng rộng rãi là AstraZeneca, Spunik V và
Cách gây đáp ứng miễn dịch giữa vaccine Johnson n’ Johnson [12]. Đối với dạng tiêm, ở thử ng-
dạng hít và vaccine tiêm có giống nhau hiệm lâm sàng pha III, CanSino cho thấy hiệu quả cao với
không? 65,37%, so với 62,1% của AstraZeneca hay chỉ 50,4% của
Sinovac. Đối với dạng hít, tuy chỉ ở giai đoạn thử nghiệm
Hệ miễn dịch của người là một hệ thống phức tạp, với lâm sàng pha I nhưng CanSino cho thấy tiềm năng ứng
sự tương tác của nhiều thành phần cũng như thông qua dụng cao [11]. Cụ thể, hai liều vaccine dạng hít giúp cơ
nhiều cơ chế khác nhau. Trong cơ thể, vaccine có thể trực thể tạo ra được lượng kháng thể trung hòa tương đương
tiếp tương tác với các tế bào trình diện kháng nguyên với một liều vaccine dạng tiêm cùng loại. Tuy nhiên, lượng
nhưng ở các cơ quan có cấu trúc màng nhầy, đặc biệt là phân tử virus trong một liều vaccine dạng hít chỉ bằng
phổi, việc trình diện kháng nguyên diễn ra một cách khó khoảng 1-2/5 lượng phân tử virus có trong một liều vac-
khăn. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, cơ thể con người cine dạng tiêm. Lượng kháng thể được tạo ra từ vaccine
đã phát triển cơ chế trình diện kháng nguyên riêng biệt dạng hít thấp hơn vaccine dạng tiêm nhưng hiệu giá
ở các cơ quan như trên thông qua tế bào tua và tế bào kháng thể của hai loại vaccine này là tương đương. Điều
M [7],[8]. Tế bào tua có khả năng bắt các giữ các cấu trúc này có thể được giải thích do sự khác biệt ở vị trí tiếp nhận
kháng nguyên và hỗ trợ trình diện [9]. Đặc biệt, tế bào và cũng chỉ ra rằng tỷ lệ kháng thể trung hòa cao hơn khi
M hiện diện trên bề mặt phổi có khả năng thực bào các gây đáp ứng miễn dịch bằng vaccine dạng hít. Bên cạnh
kháng nguyên, tuy nhiên do thiếu các enzyme phân cắt đó, tỷ lệ mắc các triệu chứng sau khi sử dụng vaccine như
nên kháng nguyên được vận chuyển một cách toàn vẹn đau đầu, sốt, mệt mỏi cũng ít hơn khi so với khi dùng
đến các tế bào miễn dịch đang chờ sẵn ở dưới lớp biểu vaccine tiêm. Cuối cùng, một trong những lợi ích luôn cần
mô phổi [10]. Do đó, vaccine dạng hít có vai trò là cung đề cập khi sử dụng vaccine dạng hít chính là giá thành và
cấp kháng nguyên cho tế bào M trên hiện diện trên bề tính tiện dụng.
mặt phổi và qua đó, trực tiếp gây đáp ứng trên phổi .
[1] CDCMMWR, “COVID-19 Vaccine Breakthrough Infections Reported to CDC — United States, January 1–
April 30, 2021,” MMWR Morb. Mortal. Wkly. Rep., vol. 70, 2021, doi: 10.15585/mmwr.mm7021e3.
[2] F. L. van de Veerdonk and M. G. Netea, “Rare variants increase the risk of severe COVID-19,” eLife, vol. 10, p.
e67860, doi: 10.7554/eLife.67860.
[3] M. A. French and Y. Moodley, “The role of SARS‐CoV‐2 antibodies in COVID‐19: Healing in most, harm at
times,” Respirol. Carlton Vic, p. 10.1111/resp.13852, May 2020, doi: 10.1111/resp.13852.
[4] “COVID-19 Vaccine: Critical Questions with Complicated Answers.” https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/
articles/PMC7771841/.
[5] “Vaccination by inhalation,” MIT News | Massachusetts Institute of Technology. https://news.mit.edu/2021/
vaccination-inhalation-0319 (accessed Sep. 19, 2021).
[6] P. G. Holt, “Antigen presentation in the lung,” Am. J. Respir. Crit. Care Med., vol. 162, no. 4 Pt 2, pp. S151-156,
Oct. 2000, doi: 10.1164/ajrccm.162.supplement_3.15tac2.
[7] S. Kimura et al., “Airway M Cells Arise in the Lower Airway Due to RANKL Signaling and Reside in the
Bronchiolar Epithelium Associated With iBALT in Murine Models of Respiratory Disease,” Front. Immunol.,
vol. 10, p. 1323, 2019, doi: 10.3389/fimmu.2019.01323.
[8] “The Airway Antigen Sampling System: Respiratory M Cells as an Alternative Gateway for Inhaled Antigens
| The Journal of Immunology.” https://www.jimmunol.org/content/186/7/4253.
[9] P. Campana, V. Parisi, D. Leosco, D. Bencivenga, F. Della Ragione, and A. Borriello, “Dendritic Cells and
SARS-CoV-2 Infection: Still an Unclarified Connection,” Cells, vol. 9, no. 9, p. 2046, Sep. 2020, doi: 10.3390/
cells9092046.
[10] S. Kimura, “Molecular insights into the mechanisms of M-cell differentiation and transcytosis in the
mucosa-associated lymphoid tissues,” Anat. Sci. Int., vol. 93, no. 1, pp. 23–34, Jan. 2018, doi: 10.1007/s12565-017-
0418-6.
[11] S. Wu et al., “Safety, tolerability, and immunogenicity of an aerosolised adenovirus type-5 vector-based
COVID-19 vaccine (Ad5-nCoV) in adults: preliminary report of an open-label and randomised phase 1 clinical
trial,” Lancet Infect. Dis., p. S1473309921003960, Jul. 2021, doi: 10.1016/S1473-3099(21)00396-0.
[12] C. D. Funk, C. Laferrière, and A. Ardakani, “Target Product Profile Analysis of COVID-19 Vaccines in Phase
III Clinical Trials and Beyond: An Early 2021 Perspective,” Viruses, vol. 13, no. 3, p. 418, Mar. 2021, doi: 10.3390/
v13030418.
[13] M. Y. T. Chow, Y. Qiu, and J. K. W. Lam, “Inhaled RNA Therapy: From Promise to Reality,” Trends Pharma-
col. Sci., vol. 41, no. 10, pp. 715–729, Oct. 2020, doi: 10.1016/j.tips.2020.08.002.
[14] D. D. Lo, J. Ling, and A. Holly Eckelhoefer, “M cell targeting by a Claudin 4 targeting peptide can enhance
mucosal IgA responses,” BMC Biotechnol., vol. 12, no. 1, p. 7, Mar. 2012, doi: 10.1186/1472-6750-12-7.
anti-RBD được hệ
miễn dịch tạo ra có sự tương
quan cao với khả năng trung hòa virus.
Không giống như vắc xin sống nhược độc, vắc xin
TỔNG QUAN tiểu đơn vị có khả năng gây đáp ứng miễn dịch kém và
cần sử dụng tá dược để tăng cường hiệu quả vắc xin.
COVID-19 là đại dịch được Tổ chức Y tế Thế giới Nhóm nghiên cứu của Maria và cộng sự trước đây đã thử
(World Health Organization - WHO) chính thức công bố nghiệm một loại tá dược có tên là 3M-052, một chất kích
vào tháng 3 năm 2020. Đến nay, đại dịch này đã lây lan hoạt Toll-like receptor-7/8 (TLR-7/8) phối trộn tạo hạt
đến hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nano polymer hoặc hấp thụ vào nhôm phèn (3M-052-al-
gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội um). 3M-052 là một phân tử nhỏ với chuỗi acyl béo 18-C
trên toàn cầu. Hiện nay vẫn chưa có phác đồ và thuốc đặc thuộc họ imidazoquinolines, khi cho 3M-052 hấp thụ vào
trị COVID-19, dẫn đến nguy cơ tử vong vẫn sẽ tiếp tục gia nhôm hydroxide với sự hỗ trợ của phospholipid, ta được
tăng. Trước tình hình đó, vắc xin phòng ngừa COVID-19 3M-052-alum. Đây là tá dược có khả năng tăng cường các
vẫn luôn được đánh giá là cứu cánh hàng đầu, giúp giảm tế bào plasma sống lâu (long-lived plasma cells - LLPCs)
thiểu sự xâm nhiễm và nguy cơ tử vong do căn bệnh này đặc hiệu với protein Env của virus HIV trong cơ thể của
gây ra. Trên thế giới đã có nhiều loại vắc xin được cấp loài linh trưởng rhesus macaque (RM). Trong khi đó, tá
phép sử dụng khẩn cấp có điều kiện tại một số quốc gia dược nhôm đơn lẻ lại thất bại trong việc này. Hơn nữa,
và khu vực cụ thể. Tuy nhiên, nhu cầu về vắc xin được dự nghiên cứu về vắc xin HIV Env có tá dược 3M-052 kích
đoán vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là ở các nước đang thích phản ứng tạo kháng thể ở niêm mạc đường sinh
phát triển và thu nhập thấp. Điều này đặt ra yêu cầu về dục và có hiệu quả bảo vệ khỏi virus. SARS CoV 2 có con
những loại vắc xin hiệu quả, giá thành thấp và dễ nâng đường xâm nhập chính ở các tế bào niêm mạc đường
cấp quy mô sản xuất. Nhóm nghiên cứu của Maria và hô hấp, vì vậy việc tạo ra kháng thể đặc hiệu chống lại
cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu Linh trưởng Quốc gia SARS-CoV-2 tại đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới
Yerkes tại Đại học Emory, Hoa Kỳ đã công bố một loại vắc và trong huyết thanh là rất quan trọng.
xin ứng viên tiềm năng chống lại SARS-CoV-2 dựa trên
receptor binding domain (RBD) của virus, biểu hiện bằng Với các cơ sở lý thuyết và thực nghiệm trên, Maria
tế bào nấm men và phối trộn với tá dược 3M-052-alum, và cộng sự đã tiến hành tạo vắc xin SARS-CoV-2 bằng
một loại tá dược cải tiến từ tá dược nhôm phèn có khả cách biểu hiện đoạn RBD (amino acid vị trí 332-549 thuộc
năng kích thích mạnh hệ miễn dịch. Loại vắc xin ứng viên tiểu phẩn S1 của protein S) bằng hệ thống Pichia pastoris
này đáp ứng các tiêu chí được đặt ra ban đầu là hiệu quả, X33, sau đó thử trên loài linh trưởng RM. Tá dược sử dụng
giá thành thấp và quy mô sản xuất dễ dàng nâng cấp. được thực hiện trong nghiên cứu là nhôm phèn đơn lẻ
(alum) và 3M-052-alum, hai tá dược này có thể áp dụng
Cơ chế xâm nhiễm của SARS-CoV-2 dựa trên protein trong lâm sàng và có khả năng tạo ra đáp ứng miễn dịch
spike (S protein) trên lớp vỏ virus tương tác với thụ thể dịch thể và đáp ứng miễn dịch tế bào T.
angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2) trên bề mặt tế
bào, từ đó virus có thể thâm nhập nội bào. Do đó, protein Thiết kế thí nghiệm được chia làm ba nhóm (n = 5 mỗi
S đang là mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển vắc xin nhóm), nhóm 1 không thử vắc xin, nhóm 2 thử với RBD +
phòng ngừa SARS-CoV-2. Đáng chú ý, receptor binding alum và nhóm 3 thử với RBD + 3M-052-alum. Nhóm 2 và
domain (RBD) trong protein S đóng vai trò chính trong nhóm 3 được chủng ngừa ba lần vào tuần 0, 4 và 9.
việc tương tác và xâm nhiễm củavirus, thế nên kháng thể
20 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021
ThS Huỳnh Kiến Quang, PGS.TS Trần Văn Hiếu
Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Phòng thí nghiệm Cảm
biến Sinh học, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM
Hình 1. Vắc xin RBD+3M-052-alum kích thích mạnh miễn dịch dịch thể ở RM
RBD+3M-052-alum có khả năng kích thích Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, hướng đáp
tế bào T CD8+ một cách mạnh mẽ và lâu ứng của tế bào T CD4+ tiết IFN y đặc hiệu với RBD ng-
dài, đồng thời kích thích tế bào T CD4+ theo hiêng về Th1 chỉ quan sát thấy ở nhóm 3. Trong khi đó,
hướng đáp ứng Th1 ở cùng nhóm tế bào T CD4+ này ở nhóm 2 lại có xu
hướng tiết cytokine interleukin-4 (IL-4) cao hơn, gợi ý
Để kiểm tra xem loại tế bào T nào sẽ tham gia đáp rằng các đáp ứng miễn dịch này ở nhóm 2 đã nghiêng
ứng, nhóm nghiên cứu đã thử tiến hành thực hiện kích về hướng Th2. Việc tiết Tumor necrosis factor (TNF) -
thích tế bào bằng hỗn hợp peptide có chứa trình tự một chất tiết quan trọng cũng được nhóm nghiên cứu
của protein S, sau đấy nhuộm cytokine nội bào với các đánh giá, cho kết quả tương tự với mức độ tiết của IFN
kháng thể đặc hiệu cytokine tương ứng. Nhóm nghiên y ở cả hai loại tế bào T CD4+ và CD8+. Các kết quả thí
cứu nhận ra rằng, sau tuần 1 kể từ lần chủng ngừa đầu nghiệm trên chứng tỏ có sự cân bằng trong đáp ứng
tiên, có đáp ứng tạo ra interferon gamma (IFN y) của tế của T CD4+ và CD8+, đồng thời mục tiêu tạo miễn dịch
bào CD8+ đặc hiệu với RBD ở một số động vật thí ng- qua trung gian tế bào đã đạt được khi sử dụng vắc xin
hiệm. Những đáp ứng này đạt đỉnh vào tuần thứ 10 với RBD+3M-052-alum (Hình 2).
tỷ lệ ở nhóm 3 cao hơn nhóm 2 và duy trì cho đến ngày
thử thách với virus thật.
RBD+3M-052-alum có khả năng giảm đáng kể Phản ứng miễn dịch trong cơ thể có tương
tải lượng virus ở đường hô hấp trên và đường quan với việc bảo vệ trước sự xâm nhiễm của
hô hấp dưới sau thí nghiệm thử thách với SARS-CoV-2
SARS-CoV-2
Nhằm kiểm tra các đáp ứng của hệ miễn dịch có tương
Các động vật thí nghiệm được thử thách với SARS- quan với nhau không và có mối liên hệ nào với hiệu quả
CoV-2 cách một tháng sau khi chủng ngừa liều cuối cùng bảo vệ hay việc làm giảm mức độ virus trong đường hô
qua đường mũi (intranasal - IN) và đường nội khí quản hấp không, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xử lý thống kê
(intratracheal – IT) với liều SARS-CoV-2, WA-1 tổng số đạt dữ liệu và tìm ra được một số mối tương quan đáng chú
2.3 x 105 PFU. Thông tin về sự thay đổi tải lượng virus ở ý như sau:
dịch phết mũi, dịch rửa phế quản, và dịch phết họng ở - Kháng thể trung hoà SARS-CoV-2, mức độ hoạt
RNA tổng số và RNA subgenomic (sgRNA) được thu nhận động gây độc qua trung gian tế bào và phản ứng của
và xử lý thống kê. Kết quả thu được cho thấy, nhóm động kháng thể kháng RBD trong huyết thanh lẫn dịch mũi tại
vật được chủng ngừa với RBD-3M-052-alum được bảo vệ tuần thứ 11 tỷ lệ nghịch với sgRNA virus trong dịch phết
trước sự xâm nhiễm của SARS-CoV-2 ở ngày thứ hai và đa mũi tại ngày thứ 2 sau thử thách.
số các động vật đều không phát hiện virus ở ngày thứ 4,
- Có tỷ lệ nghịch giữa phản ứng của kháng thể kháng
trong khi đó ở nhóm không chủng ngừa, RNA tổng số đã
RBD và RNA tổng số và sgRNA virus ở ngày thử thách.
được phát hiện trong dịch rửa phế quản ở ngày thứ 2. Kết
quả thống kê cho thấy có sự thấp hơn rõ rệt về tải lượng - Không có sự tương quan nào được quan sát thấy
virus ở nhóm 3 so với nhóm 2 và nhóm 1. Khi thực hiện giữa phản ứng tế bào T CD4+ hoặc T CD8+ tiết IFN-y với
kiểm tra sgRNA, chỉ 20% động vật ở nhóm 3 và 60% động RNA tổng số hoặc sgRNA virus trong dịch mũi.
vật ở nhóm 2 được phát hiện có tải lượng virus, trong khi - Phản ứng của tế bào T CD4+ tiết IFN-y tỷ lệ thuận
toàn bộ 100% động vật không chủng ngừa đều phát hiện với lượng RNA tổng số trong dịch rửa phế quản trong khi
có tải lượng virus. Với kết quả này, nhóm nghiên cứu đã không có mối liên hệ nào được quan sát thấy giữa phản
quan sát thấy tác động đáng kể của việc sử dụng RBD- ứng tế bào T CD8+ tiết IFN-y và lượng RNA tổng số trong
3M-052-alum trong việc giảm tải lượng virus ở đường hô dịch rửa phế quản.
hấp dưới. Tải lượng virus ở đường hô hấp trên thể hiện
trong dịch phết mũi cũng được kiểm tra, một lần nữa, kết Các kết quả trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
quả của nhóm được tiêm RBD+3M-052-alum hỗ trợ giả tạo các đáp ứng lâu dài của huyết thanh chứa kháng thể
thuyết rằng loại ứng viên vắc xin này có khả năng làm kháng RBD và kháng thể trong niêm mạc trong việc bảo
giảm áp lực về tải lượng virus ở đường hô hấp trên. vệ cơ thể chống lại SARS-CoV-2.
Ngoài kháng thể S2H97, 11 loại kháng thể còn lại Arinjay Banerjee, một nhà vi-rút học tại Đại học Sas-
có khả năng truy bắt nhiều loại vi-rút. Tuy nhiên, những katchewan ở Saskatoon, Canada, nhận định đây là một
kháng thể hiệu quả với các chủng SARS-CoV-2, ngăn cản tin tốt khi nhóm nghiên cứu đã xác định được các kháng
sự xâm nhập sớm của vi-rút lại thể hiện số lượng liên kết thể có thể liên kết với một loạt các vi-rút sarbeco. Tuy
hạn chế trong nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu cũng nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng “Câu hỏi lớn nhất còn
phát hiện rằng các kháng thể có thể trung hòa nhiều loại lại là lối đi nào cho những loại vi-rút mà chúng ta chưa
vi-rút, nhắm vào các đoạn có tính bảo tồn trên vùng RBD biết đến sự tồn tại của chúng?”. Mặc dù theo Banerjee,
khi vi-rút biến đổi. Nghiên cứu đã cung cấp thông tin về các nhà khoa học không thể khảo sát hoạt động của
khả năng kích thích miễn dịch của kháng thể pan-sarbe- kháng thể đối với những loại vi-rút chưa được phát hiện
covirus, đại diện là kháng thể S2H97, hướng đến trong nhưng phát hiện mới về liệu pháp điều trị và phòng vi-rút
tương lai phát triển các kháng thể và vắc-xin phản ứng sarbeco sẽ tạo tiền đề cho cuộc chiến chống lại sự lây lan
chéo với các dòng vi-rút sarbeco có khả năng lây lan của các chủng vi-rút Corona từ động vật hoang dã.
từ động vật sang người. Mặc dù các kháng thể giống
S2H97 hiếm gặp trong các huyết thanh mang kháng thể
đa dòng, nhưng khả năng bảo vệ và cách thức liên kết
đặc biệt của kháng thể S2H97 đã mở ra hướng mới để cải
thiện khả năng truy bắt vi-rút bằng cách nhắm vào các
vùng tiềm năng trên RBD.
1. Starr, T.N., et al., SARS-CoV-2 RBD antibodies that maximize breadth and resistance to escape. Nature,
2021. 597(7874): p. 97-102.
Dịch từ bài viết “Kwon, D., This ‘super antibody’ for COVID fights off multiple coronaviruses. Nature, 2021.
Retrieved from: https://www.nature.com/articles/d41586-021-01917-9”
Bùi Diệu Châu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học,
Trường ĐH Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM
PGS.TS Trần Văn Hiếu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Phòng thí nghiệm Cảm biến
Sinh học, Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường ĐH Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG-HCM
Có gì khác biệt trong hệ thống miễn dịch SARS-CoV-2 cũng như các loại virus khác, chúng
bẩm sinh của trẻ? tiến hóa không ngừng nhằm lẩn trốn, chống lại đáp
ứng miễn dịch bẩm sinh. Trước đây biến thể Alpha, một
Hàng rào biểu mô: Các lớp tế bào biểu mô được biến thể nguy hiểm tại nhiều quốc gia, đã biến đổi một
xem là phòng tuyến đầu tiên của hệ miễn dịch bẩm số đặc điểm để đào thoát miễn dịch bẩm sinh. Vì vậy,
sinh. Ở trẻ, những tế bào này biểu hiện lượng lớn các với mức độ nguy hiểm và lây lan của biến thể Delta
thụ thể nhận diện phân tử liên quan tới mầm bệnh hiện tại, tuy miễn dịch bẩm sinh vẫn đang là tấm
(Pathogen recognition receptor/PRR). Đặc biệt là sự
biểu hiện của các gen mã hóa MDA5, một thụ thể nhận
Lê Nguyễn Yến Vy, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF, Khoa Sinh học –
Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM
PGS.TS. Trần Văn Hiếu, Nhóm nghiên cứu Y Sinh học GMIF;
Phòng thí nghiệm Cảm biến Sinh học, Khoa Sinh học – Công nghệ Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM
Được xác định lần đầu vào tháng 12/2019 tại Trung Quốc, SARS-CoV-2 (virus co-
rona gây Hội chứng viêm đường hô hấp cấp tính 2) đã nhanh chóng lây lan trên
toàn cầu, trở thành đại dịch COVID-19 và kéo dài cho đến nay. Mặc dù quá trình
lây truyền từ khi khởi phát của SARS-CoV-2 được cho là từ người sang người,
đã xuất hiện một số báo cáo về sự lây nhiễm của chủng virus này trên các loài
vật nuôi trong nhà và một số loài động vật khác [1-3]. Điều này làm dấy lên lo
ngại về việc các loài động vật cũng có thể là một nhân tố lan truyền mầm bệnh
cũng như khả năng bị tổn thương của chúng nếu nhiễm chủng virus này. Trong
bài viết này, chúng tôi cung cấp một số thông tin tổng hợp được từ các nghiên
cứu về sự lây nhiễm của SARS-CoV-2 ở động vật, đặc biệt là những loài gần gũi
với con người là chó và mèo, bằng cách trả lời những câu hỏi xoay quanh vấn đề
đang được cộng đồng quan tâm.
Những nghiên cứu về lây nhiễm SARS-CoV-2 Ngoài chó và mèo, khả năng nhiễm SARS-
ở chó có kết quả như thế nào? CoV-2 ở các loài vật nuôi khác như thế nào?
Trong phòng thí nghiệm, hai trong số bốn con chó Kết quả lây nhiễm SARS-CoV-2 trong phòng thí ng-
được cho nhiễm SARS-CoV-2 qua đường mũi có khả năng hiệm cho thấy ở lợn và gà không có khả năng nhiễm
tạo kháng thể trung hòa với virus và RNA virus không chủng virus này khi các mẫu xét nghiệm đều âm tính sau
được tìm thấy ở mô của con vật bốn ngày sau khi chết. khi các con vật này được gây nhiễm qua đường mũi [19].
Ngoài ra, RNA virus không thường xuyên được tìm thấy Bên cạnh đó, vào tháng tư năm 2020, hai trang trại chồn
trong mẫu phân của các con vật này sau khi nhiễm virus hương tại Hà Lan đã được ghi nhận bùng phát sự lây
[12]. nhiễm SARS-CoV-2 [20]. Từ đó cho thấy, khả năng nhiễm
Ở môi trường tự nhiên, một nghiên cứu đã được thực chủng virus này là khác nhau ở những loài động vật khác
hiện tại miền Bắc nước Ý với số lượng mẫu là 603 con chó nhau. Các thông tin về sự lây nhiễm ở các loài vật nuôi
tại những khu vực thường xuyên xuất hiện các ca nhiễm trong nhà lẫn ở trang trại được tổng hợp trong Bảng 1.
mới ở người [13]. Kết quả PCR cho thấy không có con chó
nào dương tính với SARS-CoV-2 và có 3,3% số con chó Những loài động vật hoang dã nào có khả
được phát hiện có tồn tại kháng thể trung hòa virus trong năng nhiễm SARS-CoV-2?
huyết thanh ở mức đo được. Điều này được suy đoán là Chuột hamster, khỉ rhesus, khỉ đuôi dài, khỉ xanh châu
do chó có khả năng đào thải virus trong khoảng thời gian Phi là những loài có khả năng nhiễm SARS-CoV-2 trong
tương đối ngắn mặc dù chúng vẫn sinh kháng thể kháng môi trường phòng thí nghiệm [21]. Trong môi trường tự
virus. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận sự sinh nhiên, sự nhiễm chủng virus này đã được ghi nhận ở các
kháng thể chỉ xảy ra ở những con chó trưởng thành (trên cá thể hổ Malayan, sư tử châu Phi và hổ Siberia tại một
một tuổi) và những con chó sống trong gia đình có người vườn thú ở Mỹ [17]. Các thông tin về sự lây nhiễm ở các
nhiễm virus có nhiều khả năng sinh kháng thể hơn so với loài động vật hoang dã được nêu trong Bảng 1.
những con còn lại.
Bảng 1. Thông tin về khả năng lây nhiễm SARS-CoV-2 của các loài động vật
(dữ liệu từ Tổ chức Thú y Thế giới) [22].
[1] Abdel-Moneim A. S. et al. (2020), “Evidence for SARS-CoV-2 Infection of Animal Hosts”, Pathogens. 9 (7).
[2] Newman A. et al. (2020), “First Reported Cases of SARS-CoV-2 Infection in Companion Animals - New York,
March-April 2020”, MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 69 (23), pp. 710-713.
[3] Sit T. H. C. et al. (2020), “Infection of dogs with SARS-CoV-2”, Nature. 586 (7831), pp. 776-778.
[4] WHO (World Health Organization), “WHO Director-General’s Opening Remarks at the Media Briefing on
COVID-19” (17/3/2020), truy cập tại: https://www.who.int/director-general/speeches/detail/who-director-general-
s-opening-remarks-at-the-media-briefing-on-covid-19---11-march-2020.
[5] Zhou P. et al. (2020), “A pneumonia outbreak associated with a new coronavirus of probable bat origin”,
Nature. 579 (7798), pp. 270-273.
[6] Zhang T. et al. (2020), “Probable Pangolin Origin of SARS-CoV-2 Associated with the COVID-19 Outbreak”,
Curr Biol. 30 (7), pp. 1346-1351.e1342.
[7] de Morais H. A. et al. (2020), “Natural Infection by SARS-CoV-2 in Companion Animals: A Review of Case
Reports and Current Evidence of Their Role in the Epidemiology of COVID-19”, Frontiers in Veterinary Science. 7,
pp. 823.
[8] OIE (World Organization for Animal Health), “SARS-CoV-2 Positive Test Results in Dogs in Hong Kong:
Follow-Up Report No.1” (09/3/2020), truy cập tại: https://www.oie.int/wahis_2/public/wahid.php/Reviewreport/
Review?page_refer=MapFullEventReport&reportid=33546.
[9] OIE (World Organization for Animal Health), “Immediate Notification (Second H.K. Dog, 20-03-2020)”
(20/3/2020), truy cập tại: https://www.oie.int/wahis_2/public/wahid.php/Reviewreport/Review?reportid=33684.
[10] AVMA (American Veterinary Medical Association), “SARS-CoV-2 in Animals”, truy cập tại: https://www.avma.
org/resources-tools/animal-health-and-welfare/covid-19/sars-cov-2-animals-including-pets.
[11] “Exclusive: Buddy, First Dog to Test Positive for COVID-19 in the U.S.,Has Died”, truy cập tại: https://www.
nationalgeographic.com/animals/2020/07/first-dog-to-test-positive-for-covid-in-us-dies/.
[12] Shi J. et al. (2020), “Susceptibility of ferrets, cats, dogs, and other domesticated animals to SARS-coronavirus
2”, Science. 368 (6494), pp. 1016-1020.
[13] Patterson E. I. et al. (2020), “Evidence of exposure to SARS-CoV-2 in cats and dogs from households in Italy”,
Nature Communications. 11 (1), pp. 6231.
[14] OIE (World Organization for Animal Health), “Information Provided by the National Veterinary Services of
Belgium” (28/3/2020), truy cập.
[15] CDC (Centers for Disease Control and Prevention), “Confirmation of COVID 19 in Two Pet Cats in New York “
(2020), truy cập.
[16] Sailleau C. et al. (2020), “First detection and genome sequencing of SARS‐CoV‐2 in an infected cat in France”,
Transboundary and Emerging Diseases. 67.
[17] USDA APHIS, “Confirmed Cases of SARS-CoV-2 in Animals in the United States”, truy cập tại: https://www.
aphis.usda.gov/aphis/ourfocus/animalhealth/sa_one_health/sars-cov-2-animals-us
[18] Temmam S. et al. (2020), “Absence of SARS-CoV-2 infection in cats and dogs in close contact with a cluster of
COVID-19 patients in a veterinary campus”, One Health. 10, pp. 100164.
[19] Schlottau K. et al. (2020), “SARS-CoV-2 in fruit bats, ferrets, pigs, and chickens: an experimental transmission
study”, The Lancet Microbe. 1 (5), pp. e218-e225.
[20] Oreshkova N. et al. (2020), “SARS-CoV-2 infection in farmed minks, the Netherlands, April and May 2020”,
Euro Surveill. 25 (23).
[21] de Morais H. A. et al. (2020), “Natural Infection by SARS-CoV-2 in Companion Animals: A Review of Case
Reports and Current Evidence of Their Role in the Epidemiology of COVID-19”, Frontiers in Veterinary Science. 7
(823).
[22] OIE (World Organization for Animal Health), “Infection with SARS-CoV-2 in animals” (Cập nhật: 5/2021),
truy cập tại: https://www.oie.int/app/uploads/2021/05/en-factsheet-sars-cov-2.pdf.
vnuhcm.edu.vn | info@vnuhcm.edu.vn
vnuhcm.info | vnuhcm
Chuyên trang COVID-19
covid19.vnuhcm.edu.vn
covid19@vnuhcm.edu.vn
34 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 08 NGÀY 01/11/2021