You are on page 1of 46

COVID-19

NEWSLETTER
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021

Lão hóa tế bào do SARS- Lời kêu cứu từ đại dương


CoV-2 và hướng điều trị - Nước thải chứa SARS-
04
COVID-19 mới CoV-2 sẽ mang đại dịch đến
24
động vật có vú ở biển

Vaccine COVID-19 và Hậu quả tâm lý của việc


tâm lý do dự của người cách ly và làm thế nào
dân trên thế giới khi để giảm thiểu nó: Đánh giá
10
tiêm chủng
28
nhanh các bằng chứng

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 1


covid19.vnuhcm.edu.vn | covid19@vnuhcm.edu.vn | vnuhcm.info | vnuhcm
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021

COVID-19
NEWSLETTER

Chịu trách nhiệm xuất bản


PGS.TS Vũ Hải Quân - Giám đốc ĐHQG-HCM

Ban biên tập


GS.TS.BS Đặng Vạn Phước (Trưởng ban), PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (Phó ban), 
GS.TS.BS Trương Phi Hùng, PGS.TS Hoàng Công Gia Khánh, GS.TS Trần Linh Thước,
GS.TS Huỳnh Văn Sơn, PGS.TS Nguyễn Văn Thuận, PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, 
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hoài, PGS.TS Trần Văn Hiếu, TS Đinh Bá Tiến, TS Lê Minh Công, 
PGS.TS Lâm Quang Vinh, PGS.TS Nguyễn Đình Tứ, TS Trương Minh Huy Vũ,
TS.BS Nguyễn Hoan Phú, ThS.BS Nguyễn Hoàng Thiên Hương, ThS Phạm Ngọc Trung Hiếu.

Bài viết vui lòng gửi về email: covid19@vnuhcm.edu.vn

2 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


vnuhcm
04 16

Nghiên cứu
Lão hóa tế bào kháng thể chống
do SARS-CoV-2 COVID-19 từ máy

28
và hướng điều trị tính của bạn, tại sao
COVID-19 mới không?
Hậu quả tâm lý
của việc cách ly

07 21
và làm thế nào
để giảm thiểu nó:
Đánh giá nhanh
các bằng chứng

36 Hội chứng COVID Sinh viên Trường


Đại học Bách khoa
Xử lý hành vi kéo dài, mối quan
chống người tâm đến hồi phục ĐHQG-HCM chế tạo
thi hành công sức khỏe hậu máy rửa tay tự động
COVID-19 kết hợp IoT
vụ trong phòng
chống dịch bệnh
COVID-19

40 10 24
Xin lỗi ba mẹ,
nhưng đó là cách
sống của con!
Vaccine COVID-19 Lời kêu cứu từ đại

42
dương - Nước thải chứa
và tâm lý do dự của
SARS-CoV-2 sẽ mang
người dân trên thế
đại dịch đến động vật
Biến thể Delta - giới khi tiêm chủng có vú ở biển
Góc nhìn về đại
dịch COVID-19
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 3
LÃO HÓA TẾ BÀO DO SARS-CoV-2
VÀ HƯỚNG ĐIỀU TRỊ COVID-19 MỚI
Dương Bảo Châu, Nguyễn Thị Thu Hoài
Nhóm nghiên cứu Vi sinh Y, Khoa Công nghệ sinh học,
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM

Trong quá trình nghiên cứu cơ chế gây bệnh của SARS-CoV-2, các nhà khoa học đã chứng minh “cơn bão cytokine” (the
cytokine storm) có liên quan mật thiết đến sự tổn thương các cơ quan và các biến chứng nặng của COVID-19. Những
hiểu biết về cơ chế gây ra các triệu chứng này là tiền đề để phát triển liệu pháp điều trị hiệu quả, từ đó ứng phó với đại
dịch và giảm sức ép lên ngành y tế.

Gần đây, một nghiên cứu thuộc Khoa Y tế Huyết học, Ung thư và Miễn dịch khối U – Viện Y tế Berlin, Đức (VIB) đã chứng
minh “cơn bão cytokine” là một hệ quả của quá trình lão hóa tế bào gây ra do vi-rút (virus-induced senescene (VIS)),
cùng với các phản ứng khác liên quan đến lão hóa gọi tắt là SASP (kiểu hình sinh tổng hợp lão hóa – a senescene-as-
sociated secretory phenotype) bao gồm các cytokine tiền viêm (pro-inflammatory cytokines), các yếu tố hoạt động nền
ngoại bào (extracellular matrix-active factors) và các chất trung gian tiền đông máu (pro-coagulatory mediators). Các
tế bào biểu hiện SASP thường tích tụ trong mô, gây viêm và tổn thương các tế bào xung quanh. Nghiên cứu đã nhấn
mạnh mối liên quan mật thiết giữa VIS và quá trình sinh bệnh COVID-19 thông qua các triệu chứng bao gồm sự gia tăng
chuỗi kích thích miễn dịch và các phản ứng tiền đông máu diễn ra ở tế bào nhiễm vi-rút SARS-CoV-2 có dấu hiệu của
VIS. Đồng thời, Lee và cộng sự cũng chứng minh can thiệp sớm bằng nhóm thuốc senolytic có tác dụng loại bỏ tế bào
VIS như Dasatinib, Quercetin, Fisetin hay Navitoclax có thể là một hướng điều trị mới chống lại vi-rút SARS-CoV-2 [1].

Nghiên cứu in vitro trên tế bào sợi lưỡng bội của người (human diploid fibroblast) với liều cao Retrovirus đã ghi nhận
các dấu hiệu và chỉ số sinh học của sự lão hóa tế bào như là hình thái trương dẹt điển hình, giá trị dương tính của be-
ta-galactosidase và các ổ dị nhiễm sắc liên quan đến lão hóa (senescence-associated heterochromatin foci), song song
đó là sự biểu hiện quá mức của p16INK4a – chất ức chế chu trình kinase phụ thuộc cyclin (CDK) 4 và 6. Phân tích các bộ
gen tăng sinh (gene set enrichment analyses) và giải trình tự ARN của các ổ dị nhiễm sắc đã cho thấy các gen liên quan
đến SASP và quá trình lão hóa tập trung chủ yếu về VIS, đồng thời trùng với quá trình kích hoạt gene ung thư (activated
oncogenes – OIS) (diễn ra ở cùng loại tế bào được kích hoạt lão hóa bởi Ras), từ đó cho thấy phản ứng của tế bào khi
nhiễm vi-rút có liên quan đến quá trình kích hoạt gen ung thư. Kỹ thuật định lượng real time PCR (qRT – PCR) cũng cho

4 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


thấy những thay đổi về phiên mã liên quan đến quá trình thiếu đi những dấu hiệu lão hóa tiêu biểu của tế bào VIS
lão hóa. Đặc biệt, vi-rút liều thấp không thể gây ra sự đình như tiết ra nhiều tác nhân SASP. Có thể nói rằng, sự tấn
chỉ chu kỳ tế bào lão hóa (senescent cell cycle arrest). Tiếp công của vi-rút kích thích phản ứng của tế bào chủ dựa
đó, các phân tích đa protein cho thấy quá trình lão hóa tế trên các yếu tố di truyền đã được quy định liên quan đến
bào phụ thuộc vào các gen gây lão hóa như JMJD2C và lão hóa tế bào và tập hợp các phần tử được giải phóng
p53. Nếu thiếu các gen này, tế bào không biểu hiện VIS và của quá trình này.

Hình 1. Trình tự các sự kiện trong quá trình nhiễm SARS-CoV-2 dẫn đến tế bào bước vào VIS và gia tăng các phản ứng
miễn dịch gây suy giảm chức năng, trong sự so sánh với các phản ứng miễn dịch khỏe mạnh. (Chú giải: Pyroptosis là
quá trình gây chết tế bào do quá trình tiền viêm, cụ thể ở đây do kích thích bệnh lý từ vi-rút.) (Nguồn hình ảnh: Dịch
từ bài báo “Tay, M.Z., Poh, C.M., Rénia, L. et al. The trinity of COVID-19: immunity, inflammation and intervention. Nat
Rev Immunol 20, 363–374 (2020). https://doi.org/10.1038/s41577-020-0311-8”)

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 5


Đáng chú ý hơn, những khảo sát trên các tế bào khối u ở các tế bào này bằng nhóm thuốc senolytic bao gồm Bafi-
phổi người và tế bào niêm mạc không có khối u nhiễm các lomycin, hệ chất ức chế BCL-2 ABT-263 (Navitoclax) và hợp
vi-rút như lentivirus, adenovirus, herpesvirus và coronavirus chất D/Q bao gồm chất flavonoid ức chế kinase Fisetin &
alpha giảm độc tính NL-63 cũng cho thấy sự hiện diện của Quercetin và tyrosine ức chế kinase Dasatinib. Các thử ng-
VIS. Các thí nghiệm trên các tế bào khác như tế bào biểu mô hiệm in vitro và in vivo đều mang đến hiệu quả khả quan
phế nang, tế bào biểu mô phế quản của người khỏe mạnh khi so sánh với phương pháp loại bỏ p53 hoặc các phương
và dòng tế bào ung thư phổi cũng cho những kết quả tương pháp dùng thuốc khác. Đặc biệt, khi áp dụng D/Q lên các
tự về sự gia tăng của tế bào VIS và SASP, góp phần củng cố trường hợp chuột nhiễm SARS-CoV-2 liều cao, kết quả thu
thêm khả năng nhiễm vi-rút nói chung và SARS-CoV-2 của được đáng ngạc nhiên khi sau 6 ngày, những chỉ số tế bào
tế bào biểu mô đường hô hấp nói riêng kích thích quá trình lão hóa giảm đáng kể, 5/5 trường hợp sống mà hoàn toàn
lão hóa tế bào toàn vẹn. Lee và cộng sự cũng rút ra kết luận không có dấu hiệu bệnh, sụt cân nhẹ hoặc không sụt cân.
về việc sử dụng chất ức chế ARN polymerase của vi-rút là Đáng chú ý hơn, những chỉ số tiền viêm liên quan đến SASP
Remdesivir để ngăn cản quá trình nhân lên của vi-rút và loại giảm đáng kể, được chứng minh gần như không có sự sai
bỏ p53 như là một phương pháp để ngăn cản quá trình tế khác so với các tế bào không nhiễm vi-rút.
bào tiến vào VIS.
Trên thực tế, hợp chất kháng viêm Quercetin đã được
Để chứng minh rõ hơn mối liên quan mật thiết giữa lão nghiên cứu dùng theo đường uống (cùng với lecithin từ
hóa tế bào với các bệnh nhân được chẩn đoán tử vong do hoa hướng dương) trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
COVID-19, các mẫu bệnh phẩm từ mũi và phổi đã được (NCT04578158 và NCT04861298) ở 154 bệnh nhân đã xác
phân tích bằng các phương pháp như phân tích hóa mô nhận nhiễm SARS-CoV-2 và 42 bệnh nhân có triệu chứng
miễn dịch (immunohistochemistry), giải trình tự ARN tế bào nhẹ liên quan đến COVID-19 [2, 3]. Những phân tích liên
đơn và phân tích biểu hiện gen. Kết quả đã cho thấy sự thể quan đến hai thử nghiệm lâm sàng trên đã cho thấy sự cải
hiện của các chỉ số sinh học liên quan đến SASP và đặc biệt thiện các triệu chứng bệnh nhờ can thiệp bằng thuốc seno-
là sự gia tăng mức độ phiên mã của p16INK4a và một vài tác lytic, nguy cơ phải nhập viện và điều trị oxy cho nhóm sử
nhân SASP khác không chỉ trong các tế bào niêm mạc nhiễm dụng Quercetin cũng giảm đáng kể so với quá trình điều trị
SARS-CoV-2 mà còn trong các đại thực bào (macrophage), thông thường, cả về thời gian nhập viện, chuyển viện đến
chứng tỏ có các tín hiệu pararine lão hóa truyền đi giữa phòng chăm sóc đặc biệt và số ca tử vong. Từ đó cho thấy,
các tế bào và thu hút đại thực bào, dẫn đến sự leo thang sự can thiệp sớm bằng thuốc senolytic đã góp phần giảm
hội chứng kích thích đại thực bào (macrophage activation các triệu chứng COVID-19 liên quan đến bệnh phổi và quá
syndrome – MAS) ở tế bào niêm mạc đường hô hấp trên. trình viêm gây tổn hại lên các cơ quan.
Phân tích biểu hiện gen cũng chỉ ra sự gia tăng phiên mã
của các cytokine gợi nhớ SASP, tô đậm thêm giả thuyết VIS Tóm lại, sự xâm nhập của vi-rút ở đường hô hấp trên
gây nên những đặc tính điển hình ở bệnh nhân COVID-19. đã kích thích quá trình lão hóa tế bào bao gồm chuỗi phản
Ngoài ra, nghiên cứu phân tích mẫu huyết tương của các ứng miễn dịch leo thang bắt đầu với làn sóng lão hóa đầu
ca nhiễm vi-rút cho thấy sự hiện diện ưu thế của các mẫu tiên dẫn đến sự sản sinh một lượng lớn các cytokine tiền
peptide SASP. Sự gia tăng của các nhân tố gây đông máu viêm, theo sau là sự khuếch đại quá trình lão hóa do các tác
cũng được ghi nhận bằng phương pháp khối phổ thông nhân SASP ở hệ thống hô hấp dưới mà hệ quả là hội chứng
lượng cao (ultrahigh-throughput mass spectrometry), như tăng sinh đại thực bào MAS. Giai đoạn lão hóa thứ ba diễn
là CD62+, gây nên khuynh hướng sinh huyết khối. Đáng ra mật thiết với đặc điểm bệnh học và triệu chứng nặng
chú ý rằng, những triệu chứng trên thường được chẩn đoán của COVID-19 diễn ra ở tế bào niêm mạc phổi do các tác
trong những ca bệnh COVID-19 nghiêm trọng. Có một mối nhân SASP hỗ trợ đông máu và kích hoạt bổ thể gây nên.
liên quan mật thiết giữa các dấu ấn sinh học lão hóa và Nghiên cứu này cũng chứng minh phương pháp can thiệp
chứng huyết khối nhỏ (microthrombosis) trong phổi của sớm bằng thuốc senolytic nhằm loại bỏ các tế bào lão hóa
bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2. Từ đó cho thấy rằng, những hiệu quả trong giảm thiểu mức độ nguy hiểm của đại dịch
ảnh hưởng của SASP có liên quan đến các triệu chứng tiền COVID-19 và hứa hẹn là một liệu pháp lâm sàng để giảm
viêm, sự tổn thương mô và quá trình tiền sinh huyết khối ở nhẹ các di chứng do vi-rút SARS-CoV-2 gây ra.
bệnh nhân nhiễm vi-rút.

Trong những thí nghiệm tiếp theo nhằm làm rõ hơn mối
liên hệ giữa triệu chứng COVID-19 và VIS, Lee và cộng sự TÀI LIỆU THAM KHẢO
đã thành công chứng minh dịch chiết từ tế bào VIS (super- 1. Lee, S., et al., Virus-induced senescence is driver
natant from VIS cells - SNVIS) có thể kích thích đại thực bào and therapeutic target in COVID-19. Nature,
của người chuyển sang trạng thái CD86+ hoặc CD13+M1, 2021.
cũng như tín hiệu paracrine và sự gia tăng cytokine giống 2. Di Pierro, F., et al., Possible Therapeutic Effects
với trạng thái quan sát được ở tế bào phổi của bệnh nhân of Adjuvant Quercetin Supplementation Against
nhiễm vi-rút. SNVIS cũng được chứng minh có khả năng Early-Stage COVID-19 Infection: A Prospective,
tạo ra các đặc điểm huyết khối vi lượng (microangiopathic Randomized, Controlled, and Open-Label Study.
thrombosis) tương đồng với bệnh nhân nhiễm COVID-19 Int J Gen Med, 2021. 14: p. 2359-2366.
nặng, cũng như làm tăng các yếu tố hoạt hóa bổ thể trong
các mẫu bệnh phẩm. Về bản chất, cơ chế sinh bệnh của 3. Di Pierro, F., et al., Potential Clinical Benefits of
COVID-19 dường như có liên quan chặt chẽ với sự leo thang Quercetin in the Early Stage of COVID-19: Re-
miễn dịch do VIS và tác động tiền huyết khối. sults of a Second, Pilot, Randomized, Controlled
and Open-Label Clinical Trial. Int J Gen Med,
Từ những phát hiện trên, tế bào VIS trở thành mục tiêu 2021. 14: p. 2807-2816.
điều trị chính của COVID-19, nổi trội là phương pháp loại bỏ
6 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021
Hội chứng COVID kéo dài,
mối quan tâm đến hồi phục
sức khỏe hậu COVID-19

Nội dung bài viết: Tóm tắt ấn phẩm nghiên cứu hội chứng COVID kéo dài

Coronavirus thường là nguyên nhân gây ra các dịch cúm mùa, với tỷ lệ tử vong ít hơn 1%, và không xảy ra bất kỳ ảnh
hưởng lâu dài đến sức khoẻ. Riêng với SARS-CoV-2, các trường hợp được báo cáo tử vong cho đến thời điểm hiện tại tỷ
lệ khoảng 3,4%. Bên cạnh các chương trình tiêm chủng đã giảm tỷ lệ nhập viện nặng và giảm tỷ lệ tử vong do COVID-19,
nhưng những công bố gần đây trên Lancet và Nature Medicine cho thấy có những lo ngại rằng số người sau khi mắc
bệnh COVID-19 đã khỏi, hoặc người mắc COVID-19 nhẹ, hoặc không có triệu chứng vẫn có thể đối mặt với một loạt
những vấn đề sức khỏe mạn tính kéo dài hàng tuần hoặc thậm chí hàng tháng. Trên thực tế, chúng ta không thể tiên
lượng hết các hậu quả của COVID-19 gây ra đến sức khoẻ lâu dài như thế nào, do đó cần đặt ra những câu hỏi chiến lược
hành động tuyên truyền và vận động cộng đồng ý thức tự theo dõi chăm sóc chính bản thân.

Hội chứng “COVID kéo dài” tiếng Anh là “long COVID syndrome” được định nghĩa là những người sống sót sau nhiễm
COVID-19, những người dương tính với COVID- 19 nhưng không có biểu hiện triệu chứng, hoặc triệu chứng nhẹ thì sẽ
đối mặt với hàng loạt vấn đề sức khỏe không hồi phục hoàn toàn, cùng với xuất hiện những biến chứng mạn tính, kéo
dài. Các triệu chứng bao gồm (1) mệt mỏi, (2) khó thở, (3) “sương mù não”, (4) rối loạn giấc ngủ, (5) sốt, (6) các triệu
chứng tiêu hóa, (7) lo lắng và trầm cảm, có thể tồn tại trong nhiều tháng và có thể từ nhẹ đến cần phải được điều trị
chuyên khoa (Hình 1). Jennifer Minhas từng có lối sống rèn luyện sức khỏe năng động, chơi quần vợt và đi bộ đường
dài. Nhưng tháng 3/2020, Cô dương tính với COVID-19, sau đó Cô bị hội chứng COVID kéo dài khi nhận thấy cơ thể đi
bộ vài trăm thước cũng khiến Cô bị kiệt sức. Một tình trạng khác, cô Minhas, 54 tuổi cho biết Cô vẫn bị khó thở đau nửa
đầu, rối loạn nhịp tim và các triệu chứng suy nhược khác. Mỗi người trải qua COVID kéo dài theo nhiều cách khác nhau,
hiện không có xét nghiệm nào cụ thể cho tình trạng này. Thay vào đó, nếu bác sĩ nghi ngờ bạn bị COVID kéo dài, bạn
có thể phải thực hiện một số các xét nghiệm để loại trừ các tình trạng khác có thể gây ra các triệu chứng COVID kéo dài
hay không. Ví dụ, bạn có thể được kiểm tra tình trạng thiếu máu, điều này cũng có thể gây ra mệt mỏi.

TS. Bùi Chí Bảo


Khoa Y ĐHQG-HCM

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 7


Hình 1. Định nghĩa COVID kéo dài là các triệu chứng dai dẳng hoặc có các biến chứng
chậm hoặc dài sau bốn tuần kể từ khi bắt đầu khởi phát mắc COVID-19

Hội chứng này ghi nhận đầu tiên đợt COVID-19 trước khi mắc COVID-19, cho thấy rằng các phản ứng
năm 2020 từ kết quả nghiên cứu được báo cáo dưới miễn dịch có thể góp phần vào cơ chế kéo dài tình
dạng bản in trước trên medRxiv và dựa trên kết quả trạng này. Sức khỏe thể chất hoặc tinh thần kém trước
khảo sát hơn 3.700 COVID tự mô tả là “COVID kéo dài” khi bị nhiễm COVID-19 cũng làm tăng nguy cơ phát
ở 56 quốc gia [1]. Sau đó, hệ thống phân tích dữ liệu triển các ảnh hưởng COVID kéo dài. Một nhóm ng-
từ 2,6 triệu người dùng ứng dụng từ Anh và Mỹ được hiên cứu khác cũng chỉ rằng, những người được tiêm
nhóm dẫn đầu bởi Claire Steves và Tim Spector, ở chủng đầy đủ cũng ít có nguy cơ mắc Hội chứng
trường đại học King’s College London, đăng trên Na- COVID kéo dài, và điều đó đúng ở mọi nhóm tuổi [3].
ture Medicine về Hội chứng COVID kéo dài [2], trong Ứng dụng của nghiên cứu này đã cho phép công dân
đó mọi người trải qua một loạt các triệu chứng trong Vương quốc Anh và Mỹ tải xuống ứng dụng điện thoại
thời gian dài mà họ đã hồi phục trong giai đoạn đầu thông minh, tự báo cáo dữ liệu về tình trạng nhiễm,
của COVID-19. Những người phát hiện mắc COVID-19 triệu chứng và tiêm chủng của họ trong một thời gian
phần lớn đều trở lại bình thường trong vòng chưa đầy dài hậu COVID-19. Từ đó có các kênh hỗ trợ tư vấn từ
hai tuần, nhưng dữ liệu cho thấy tỷ lệ 1 trong 20 người các chuyên gia sức khoẻ kịp thời (Hình 2).
mắc COVID-19 có khả năng bị các triệu chứng của
COVID kéo dài trong tám tuần hoặc hơn. Khoảng 1
trong số 50 người tiếp tục có các triệu chứng trong
12 tuần hoặc hơn. Các phân tích đã chỉ ra rằng COVID
kéo dài phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Hội chứng
phổ biến hơn ở những người có tiền sử bị hen suyễn

8 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Hình 2: Apps theo dõi sức khoẻ giúp người dùng quản lý các hội chứng COVID kéo dài
tại Anh và Mỹ, nguồn https://covid.joinzoe.com/us-2

Từ những dữ liệu ban đầu, các nhà nghiên cứu đã phát hội cho chúng ta có thể tìm hiểu thêm những kiến thức có
triển một mô hình máy học để đưa kết quả dự đoán những được về các triệu chứng bệnh như “sốt tuyến” (glandular
cá nhân nào có nhiều khả năng phát triển COVID kéo dài. fever) hoặc “hội chứng mệt mỏi mạn tính” (chronic fatigue
Thuật toán dựa trên độ tuổi, giới tính và số lượng các triệu syndrome) liên quan khó thở, mệt mỏi khi thở gắng sức, rối
chứng ban đầu đã dự đoán chính xác gần 70 phần trăm loạn nhịp tim, các rối loạn trầm cảm liên quan COVID-19,
các trường hợp COVID kéo dài. hoặc các ảnh hưởng hậu COVID-19 đến tâm lý, kinh tế xã
hội. Từ đó có thể xây dựng nghiên cứu ở các bệnh nhiễm,
Phát hiện này được xem là một lời nhắc nhở quan bệnh mạn tính khác để giúp chúng ta xác định các chiến
trọng khác về tác động sâu sắc của đại dịch COVID-19 đối lược điều trị sức khỏe tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn.
với sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu này cũng mở ra cơ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Characterizing Long COVID in an international cohort: 7 months of symptoms and their impact . David
HE et al. Medrxiv. 27 December 27 2020.
2. Real-time tracking of self-reported symptoms to predict potential COVID-19. Menni C, Valdes AM, Frei-
din MB, Sudre CH, Nguyen LH, Drew DA, Ganesh S, Varsavsky T, Cardoso MJ, El-Sayed Moustafa JS,
Visconti A, Hysi P, Bowyer RCE, Mangino M, Falchi M, Wolf J, Ourselin S, Chan AT, Steves CJ, Spector
TD. Nat Med. 2020 Jul;26(7):1037-1040. doi: 10.1038/s41591-020- 0916-2. Epub 2020 May 11.
3. Risk factors and disease profile of post-vaccination SARS-CoV-2 infection in UK users of the COVID
Symptom Study app: a prospective, community-based, nested, case-control study. Antonelli M, Penfold
RS, Merino J, Sudre CH, Molteni E, Berry S, Canas LS, Graham MS, Klaser K, Modat M, Murray B, Ker-
foot E, Chen L, Deng J, Österdahl MF, Cheetham NJ, Drew DA, Nguyen LH, Pujol JC, Hu C, Selvachan-
dran S, Polidori L, May A, Wolf J, Chan AT, Hammers A, Duncan EL, Spector TD, Ourselin S, Steves CJ.
Lancet Infect Dis. 2021 Sep 1:S1473-3099(21)00460-6.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 9


VACCINE COVID-19
VÀ TÂM LÝ DO DỰ CỦA NGƯỜI DÂN
TRÊN THẾ GIỚI KHI TIÊM CHỦNG

Tình hình phát triển, thử nghiệm vaccine trên


Nguyễn Thị Thu Hà, thế giới
Lê Hoàng Nhật Nam,
Vì COVID-19 là một cuộc khủng hoảng đang diễn
TS. Vòng Bính Long ra với quy mô toàn cầu nên cuộc thảo luận về vaccine
Khoa Kỹ thuật Y sinh, cũng mang tính toàn cầu. Đại dịch đã cho thấy đây là
Trường Đại học Quốc tế, vấn đề chung của thế giới, không phải của riêng bất kỳ
quốc gia nào, do đó tiêm chủng đã trở thành một vấn
ĐHQG-HCM
đề toàn cầu. Nếu một quốc gia không thể đạt một mức
độ tiêm chủng nhất định cho dân số của mình thì quốc
Đặt vấn đề gia đó có nguy cơ lây nhiễm và đột biến virus cao; do
đó, đất nước khó có thể trở lại vai trò của mình trong
Sự bùng phát nghiêm trọng với tốc độ lây lan nền kinh tế toàn cầu và cần có sự hợp tác toàn cầu để
nhanh chóng của dịch bệnh hô hấp cấp tính do chủng đánh bại căn bệnh này một cách triệt để. Vì vậy, các tác
coronavirus mới (CoV) gây ra vào tháng 12/2019 ở Vũ động kinh tế của đại dịch và sự phát triển của vaccine
Hán, Trung Quốc đã khiến cả thế giới phải lâm vào tình là những vấn đề nổi cộm hiện nay.
trạng khủng hoảng chưa từng có. Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) đã đặt tên cho bệnh lý này là bệnh coronavirus Sự tập trung của nghiên cứu phát triển vaccine ở
2019 (viết tắt là COVID-19) và tuyên bố đây là một đại các châu lục không giống nhau có thể do liên quan
dịch toàn cầu vào ngày 30/01/2020. Căn bệnh này đã đến năng lực nghiên cứu khoa học, nhu cầu chăm sóc
lây lan sang hơn 200 quốc gia với hơn 202 triệu ca sức khỏe, tỷ lệ nhiễm và số ca tử vong do COVID-19
mắc, hơn 4,2 triệu ca tử vong trên toàn thế giới (tính gây ra ở các quốc gia. Trong số tất cả 428 thử nghiệm
đến ngày 8/7/2021 theo Worldometer) và những con lâm sàng trên thế giới, 162 thử nghiệm lâm sàng và
số này đang tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Cuộc sống 82 sản phẩm vaccine đã được nghiên cứu hoặc phát
bình thường đã bị gián đoạn do các đợt phong tỏa, triển ở châu Á, chiếm một tỷ lệ lớn (38% và 44%) của
cách ly, các chỉ thị đề ra nhằm để đối phó với đại dịch tất cả các thử nghiệm và sản phẩm. Các châu lục có
COVID-19 đã đặt ra những thách thức nghiêm trọng nhiều thử nghiệm và sản phẩm đứng thứ hai và thứ ba
đối với hệ thống y tế và nền kinh tế toàn cầu. Corona- là châu Âu và Bắc Mỹ, với 103 (24%) và 87 (20%) đang
virus đại diện cho một mối đe dọa liên tục cũng như thử nghiệm và 53 (29%) và 58 (31%) đang phát triển
trong tương lai đối với sức khỏe con người vì khả năng vaccine. Đáng chú ý là nền tảng công nghệ được sử
phát tán ở diện rộng, tỷ lệ lây lan rất cao với tiềm năng dụng trên vaccine COVID-19 rất phong phú và có thể
tái tổ hợp bộ gen, đa dạng di truyền và có sự tương tác được phân thành 11 loại. Trong số tất cả các thử ng-
cao với người và động vật. Hội nghị lần thứ 75 về sức hiệm vaccine, nền tảng công nghệ phổ biến nhất (theo
khoẻ thế giới được tổ chức vào tháng 5/2020 đã ban thứ tự tần số giảm dần) là vaccine protein tiểu đơn
hành một nghị quyết công nhận vai trò của tiêm chủng vị (Protein subunit - PS), vaccine mRNA, vaccine vectơ
vaccine mở rộng như là một mục tiêu của y tế cộng virus dạng không sao chép (Viral vector non-replicat-
đồng toàn cầu, nhằm phòng ngừa và ngăn chặn sự lây ing - VVNR), vaccine virus bất hoạt (Inactivated virus
lan của virus SARS-CoV-2. Thế giới tính đến nay đã có - IV), vaccine DNA, vaccine hạt giống virus (Virus-like
125 loại vaccine đang được phát triển và trong số đó particle - VLP), vaccine vectơ virus dạng sao chép (Viral
đã có 18 loại vaccine ngăn ngừa COVID-19 được công vector replicating - VVR), vaccine vectơ virus dạng sao
nhận bởi ít nhất một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. chép kết hợp với tế bào trình diện kháng nguyên (Viral
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự lo ngại về tính an vector replicating combined with antigen presenting
toàn của các vaccine chính là một nguyên nhân hàng cell - VVR+APC), vaccine virus sống giảm độc lực (Live
đầu dẫn đến sự do dự trong cộng đồng, khiến tỷ lệ attenuated virus - LAV), vaccine tế bào tua (Dendritic
tiêm chủng không đạt như yêu cầu. Chính điều này cell vaccine - DCV) và vaccine dựa trên tế bào T (T cell-
đang dần trở thành một trở ngại trong tiến trình chống based vaccine - TCV). Một số vaccine COVID-19 được
lại đại dịch. phê duyệt trên thế giới được trình bày tóm tắt trong
Bảng 1.

10 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Bảng 1. Tổng quan về vaccine COVID-19 trên toàn thế giới

* Vaccine có dấu hoa thị được phê duyệt có điều kiện ở Trung Quốc và những
vaccine khác chỉ được chấp thuận cho phép sử dụng khẩn cấp.

Theo quan điểm của quy trình nghiên cứu và phát Thật đáng mừng là đã có hai vaccine mRNA, hai vaccine
triển, các loại vaccine bao gồm vaccine dựa trên tế bào protein tiểu đơn vị, bốn vaccine vectơ virus dạng không
T, vaccine virus sống giảm độc lực, vaccine tế bào tua và sao chép và bảy vaccine virus bất hoạt được phép sử dụng
vaccine vectơ virus dạng sao chép kết hợp với tế bào trình trong trường hợp khẩn cấp. Trong số đó, Gam-COVID-Vac
diện kháng nguyên, vẫn còn trong giai đoạn đầu, ít sản Lyo (Sputnik V) là vaccine đầu tiên được phê duyệt trong
phẩm được thiết kế cho từng loại và chưa có sản phẩm khi BNT162b2 (Pfizer), hiện được 84 quốc gia ủy quyền,
nào được xác nhận là có đủ độ an toàn cho đến nay. Mặc là vaccine được cấp phép rộng rãi nhất. Trong số các sản
dù không có hiệu quả được xác nhận rõ ràng, vaccine phẩm mới nhất được phê duyệt, có vaccine vectơ virus
vectơ virus dạng sao chép, vaccine hạt giống virus và vac- dạng không sao chép với một liều sử dụng và một vac-
cine DNA có nhiều sản phẩm hơn và một phần của các sản cine protein tiểu đơn vị với ba liều sử dụng. Đối với các
phẩm liên quan đã bước vào giai đoạn xác nhận hiệu quả. vaccine chưa được chấp thuận sử dụng trong trường hợp
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 11
khẩn cấp phần lớn đều chưa có đầy đủ các minh chứng hòa cao hơn và khả năng bảo vệ hoàn thiện hơn so với
về tính an toàn và hiệu quả. Tính an toàn và hiệu quả của vaccine dựa trên axit nucleic bao gồm DNA hoặc mRNA.
ba loại vaccine virus bất hoạt (Cronavac, QAZCOVID-IN và Những lợi thế tiềm năng của vaccine mRNA bao gồm khả
KCONVAC), hai vaccine vectơ virus dạng không sao chép năng bắt chước sự lây nhiễm tự nhiên để kích thích phản
(Ad5-nCoV và Ad26.COV2.S) và hai vaccine protein tiểu ứng miễn dịch mạnh hơn cũng như khả năng kết hợp
đơn vị (EpiVacCorona và ZF2001) vẫn chưa được xác nhận nhiều mRNA vào một vaccine duy nhất. Một ưu điểm của
trên các thử nghiệm. Nhìn chung, so với tiêu chí thành vaccine dựa trên công nghệ nucleic acid bao gồm DNA
công thống kê và mục tiêu hiệu quả 50% được đặt ra cho hoặc mRNA là các vaccine này có thể có hiệu quả ngay cả
thử nghiệm vaccine có đối chứng với giả dược của FDA, trên chủng virus đột biến, điều này giải thích tại sao đây
hiệu quả của bảy loại vaccine với các thử nghiệm được là một trong những vaccine COVID-19 đầu tiên được đưa
báo cáo đều có thể chấp nhận được, nằm trong khoảng từ vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, vaccine mRNA cũng
51% đến 95%. Ngoài ra, các tác dụng phụ nghiêm trọng có những vấn đề riêng như: mặc dù chúng đã được phê
và cần có sự hỗ trợ của y tế của các loại vaccine này xảy ra duyệt và đã qua sử dụng, vaccine dựa trên mRNA tương
ở mức độ thấp (dưới 0,5%). đối khó bảo quản và phân phối vì nó đòi hỏi phải được
bảo quản ở nhiệt độ thấp, điều này không thể dễ dàng
Trong năm qua, đã có những bước đột phá lớn trong thực hiện được với ngân sách hạn chế.
cuộc chiến toàn cầu chống lại dịch bệnh. Tuy nhiên, tốc
độ phát triển nhanh chóng đã làm dấy lên những lo ngại Tình hình phát triển và thử nghiệm vaccine ở Việt
tiềm tàng của công chúng về tính an toàn và hiệu quả của Nam
các loại vaccine đang được phát triển và sử dụng. Mặc dù
các bằng chứng khẳng định hiệu quả đã được tìm thấy Tính đến ngày 21/9/2021, có 5 loại vaccine phòng
trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III nhưng cần COVID-19 đang được nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam,
chú ý hơn đến việc thu thập dữ liệu thực tế để xác định trong đó 2 loại vaccine do chính Việt Nam nghiên cứu
tính an toàn và hiệu quả lâu dài của các sản phẩm vaccine phát triển (Nano Covax và Covivac), 2 loại vaccine khác
này. Cho đến nay, chỉ có vaccine BNT162b2 có dữ liệu được chuyển giao công nghệ từ nước ngoài (Vaccine VBC-
thực tế đánh giá hiệu quả trong cơ sở tiêm chủng đại trà COV19-154 và Recombinant SARS-CoV-2 Spike Protein)
trên toàn quốc ở Israel. và 1 loại được gia công đóng ống tại Việt Nam (Vaccine
COVID-19 Sputnik V).
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng điểm cuối chính (the
primary endpoint) của các thử nghiệm nghiên cứu và phát Nano Covax
triển các loại vaccine là không nhất quán, mặc dù các thử
nghiệm đều dựa trên hướng dẫn quy định từ FDA. Điểm Nano Covax do các nhà khoa học của Công ty Nano-
cuối chính là kết quả chính được đo vào cuối một nghiên gen và Học viện Quân y nghiên cứu, phát triển với 2 liều
cứu để xem liệu một phương pháp điều trị nhất định có sử dụng cách nhau 28 ngày. Vaccine Nano Covax là loại
hiệu quả hay không (ví dụ: số ca tử vong hoặc sự khác vaccine tiểu đơn vị (sử dụng protein gai tái tổ hợp của
biệt về khả năng sống sót giữa nhóm điều trị và nhóm SARS-CoV-2 kết hợp với tá dược là các hạt nhôm) được
chứng) và là mục tiêu trong các thử nghiệm nghiên cứu sản xuất dựa trên công nghệ tái tổ hợp, tức là sử dụng
lâm sàng. Nó trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất trong các những kháng nguyên – protein gai của nCoV để kích thích
thử nghiệm. Điểm cuối chính chia thành 3 nhóm: nhóm tạo đáp ứng miễn dịch phù hợp. Hiện tại, Nano Covax đã
đánh giá dựa trên tỷ lệ thành công; nhóm đánh giá dựa thử nghiệm giai đoạn 3 và được Hội đồng đạo đức trong
trên tỷ lệ thất bại (ví dụ đối với nghiên cứu vaccine là kết nghiên cứu y sinh học quốc gia xác nhận đạt yêu cầu về
quả dương tính, biểu hiện triệu chứng bệnh và tử vong,…); tính an toàn và tính sinh miễn dịch. Với những kết quả khả
nhóm đánh giá dựa trên các mục đo lường (ví dụ như các quan về hiệu quả, hy vọng Nano Covax sẽ hoàn tất ng-
tác dụng phụ, hiệu quả của vaccine, độ an toàn,…). Một hiên cứu về tính sinh miễn dịch trên các biến chủng mới,
ví dụ làm rõ hơn quan điểm về tính không nhất quán của để được cấp giấy phép lưu hành và có thể cung ứng cho
điểm cuối chính dựa trên tỷ lệ thất bại trong các thử ng- cộng đồng cho thời gian sắp tới.
hiệm vaccine là trường hợp có kết quả dương tính trong
xét nghiệm COVID-19 của vaccine Gam-COVID-Vac Lyo Vaccine COVIVAC
và BNT162b2 (bao gồm cả trường hợp người bị nhiễm có
triệu chứng, người bị nhiễm không triệu chứng), trong khi Vaccine COVIVAC cũng dựa trên protein S tái tổ hợp
đối với AZD-1222 (Astra Zeneca), mRNA-1273 và COVAX- của virus SARS-CoV-2 biểu hiện trên bề mặt virus News-
IN là trường hợp biểu hiện 1 hoặc 2 triệu chứng đặc trưng castle bất hoạt. Công nghệ vaccine COVIVAC là viral vec-
của bệnh. Điều này cho thấy, sự thành công cơ bản của tor, được sản xuất trên trứng gà có phôi, độ tinh khiết đạt
vaccine là khả năng tăng cường miễn dịch của cơ thể đối 99%. Dự án nghiên cứu thử nghiệm vaccine COVIVAC của
với virus Sar-Cov2 trên bất kỳ đối tượng nào nhằm giảm Viện Vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC) trực thuộc Bộ Y tế
tỷ lệ mắc phải, tỷ lệ bệnh nặng cũng như tỷ lệ tử vong. được nghiên cứu từ tháng 5/2020, trên cơ sở hợp tác với
các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc
Chính vì vậy, một loại vaccine lý tưởng sẽ bao gồm 3 tế sản xuất. Trong đó, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương là
yếu tố quan trọng là độ an toàn, độ hiệu quả và chi phí đơn vị nhận thử nghiệm, Trường Đại học Y Hà Nội là đơn
hợp lý. Trong đó, nó phải có khả năng đáp ứng miễn dịch vị triển khai thử nghiệm. Vào ngày 3/8/2021, Hội đồng
tốt, có thể tạo ra kháng thể trung hòa kéo dài và có độ đạo đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia chứng
ổn định nhiệt cao, để có tính khả thi trong việc bảo quản nhận vaccine COVIVAC an toàn và có tính sinh miễn dịch,
và vận chuyển toàn cầu. Theo các báo cáo gần đây, vac- đủ điều kiện để chuyển sang giai đoạn 2.
cine protein tiểu đơn vị tạo ra hiệu quả kháng thể trung

12 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Vaccine Sputnik V AstraZeneca, Gam-COVID-Vac (tên khác là SPUTNIK V),
Vero Cell, Comirnaty của Pfizer/BioNTech, vaccine Spikev-
Vào ngày 21/7/2021, Quỹ Đầu tư Trực tiếp Nga (RDIF) ax (Tên khác là Moderna), vaccine Janssen, vaccine Ha-
thông báo Việt Nam đã sản xuất lô vaccine COVID-19 yat-Vax và vaccine Abdala. Trong đó, theo thông tin từ
Sputnik-V thử nghiệm đầu tiên do Nga nghiên cứu phát Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP.HCM tổng hợp, vaccine
triển. Cụ thể công ty công ty đối tác VABIOTECH bên phía AstraZeneca hiện đang có số lượng sử dụng nhiều nhất
Việt Nam đảm nhận gia công vaccine COVID-19 Sputnik tại Việt Nam, vaccine Gam-COVID-Vac, Vero Cell, Comir-
V. Công ty VABIOTECH sẽ bắt đầu phụ trách gia công, naty, Spikevax đã được Bộ Y tế phê duyệt có điều kiện
đóng ống, đóng gói bao bì vaccine Sputnik V. Tất cả các vaccine cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch
mẫu xác nhận đầu tiên được lấy từ lô sản xuất thử nghiệm COVID-19. Việt Nam chưa tiếp nhận vaccine Janssen
sẽ được chuyển đến Trung tâm Gamaleya (Nga) để kiểm nhưng Bộ Y tế đã phê duyệt có điều kiện cho nhu cầu
tra chất lượng. Tuy nhiên, vaccine thành phẩm sẽ do Nga cấp bách trong phòng, chống dịch COVID-19 đối với loại
quyết định xem có được giữ lại Việt Nam một phần hay vaccine này vào 15/7/2021 và sử dụng 1 liều duy nhất.
chuyển toàn bộ về quốc gia này để họ phân phối. Đối với hai loại vaccine còn lại là vaccine vaccine Hayat và
vaccine Abdala, Bộ Y tế đã phê duyệt có điều kiện 2 loại
Vaccine VBC-COV19-154 vaccine này cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống
dịch bệnh COVID-19, tuy nhiên liều tiêm đang chờ Bộ Y tế
Arcturus Therapeutics (Mỹ) là đơn vị nghiên cứu phát cập nhật hướng dẫn.
triển vaccine phòng COVID-19 theo công nghệ mRNA.
Theo thoả thuận Arcturus sẽ cấp giấy phép độc quyền và Tình hình và lý do không sẵn sàng tiêm vaccine
Công ty CP Công nghệ Sinh học VinBioCare (công ty thành COVID-19 của người dân
viên của Vingroup) sẽ tiến hành sản xuất vaccine phòng
COVID-19 có tên VBC-COV19-154. VBC-COV19-154 được Như đã trình bày trước đó, nếu một quốc gia không
phát triển theo công nghệ tân tiến nhất hiện nay là saR- thể đạt được một mức độ tiêm chủng nhất định cho dân
NA (self-amplifying mRNA – mRNA tự nhân bản). Đây là số của mình, thì quốc gia đó có nguy cơ lây nhiễm và
công nghệ mới, cho phép sử dụng liều vaccine thấp hơn, đột biến virus cao, gây ảnh hưởng nghiêm trọng không
trong khi kích thích miễn dịch kéo dài hơn. Công nghệ chỉ với nền kinh tế của quốc gia đó mà còn ảnh hưởng
vaccine mRNA thích hợp để đáp ứng nhanh với các biến chung đến nền kinh tế thế giới. Trong một nghiên cứu
thể nCoV nhờ đặc tính hóa học, vật lý của mRNA vẫn giữ vào tháng 4/2020 trên 7.664 người đến từ bảy quốc gia
nguyên, ngay cả với những thay đổi trình tự nhỏ cần thiết châu Âu (Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Bồ Đào Nha, Hà Lan
để phù hợp với các đột biến của virus. Nhờ vậy, việc phát và Anh), 18,9% người cho biết rằng họ ‘không chắc chắn’
triển vaccine mRNA cho hiệu quả phòng ngừa biến thể về việc tiêm phòng vaccine COVID-19, trong khi có thêm
nCoV nhanh chóng và đơn giản, có khả năng chống lại 7,2% cho biết rằng họ không muốn tiêm chủng. Xác định,
các biến chủng mới nguy hiểm như Alpha, Beta, Delta, hiểu và giải quyết việc chấp nhận vaccine (nghĩa là từ việc
Gamma,… Đặc biệt, VBC-COV19-154 có dạng đông khô, chấp nhận thụ động đến việc chấp nhận chủ động theo
vận chuyển thuận tiện ở nhiệt độ từ 2 – 8 oC, mang đến nhu cầu) và việc do dự, không chấp nhận vaccine (tức là
ưu thế vượt trội về khả năng phổ cập và tối ưu chi phí. việc không chắc chắn và việc hoàn toàn chống lại sử dụng
Theo lộ trình, VinBioCare sẽ phối hợp với Cục Khoa học vaccine) là một bước tiến quan trọng nhằm đảm bảo tiến
Công nghệ và Đào tạo của Bộ Y tế Việt Nam đưa vaccine trình đẩy lùi đại dịch. “Sự do dự tiêm chủng” có thể hiểu
VCB-COV19-154 vào thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 tại là sự miễn cưỡng của một số cá nhân trong việc tiếp nhận
Việt Nam trên quy mô 20.000 người. Tháng 12/2021, Vin- các loại vaccine có sẵn và đã được kiểm chứng an toàn;
BioCare dự kiến sẽ hoàn thiện hồ sơ và gửi Bộ Y tế xin cấp vốn là một vấn đề nhận được sự quan tâm từ lâu trước
phép khẩn cấp có điều kiện để sử dụng VCB-COV19-154 khi đại dịch COVID-19 hoành hành. Sự do dự diễn ra từ 5
tại Việt Nam. Dự kiến, lô vaccine đầu tiên sẽ được xuất yếu tố mang tính cá nhân, hay còn được gọi là “mô hình
xưởng vào đầu năm 2022. 5C” (được đúc kết từ những nghiên cứu tại các quốc gia
phát triển), bao gồm: sự tin cậy (Confidence), sự hài lòng
Vaccine tái tổ hợp Recombinant SARS-CoV-2 (Complacency), sự tiện lợi (Convenience or Constraints),
Spike Protein sự đánh giá về rủi ro (Risk Calculation) và sự trách nhiệm
với cộng đồng (Collective Responsibility). Để tăng tỷ lệ
Công ty Nhật Bản Shionogi đã ký thỏa thuận chuyển tiếp nhận cũng như tỷ lệ tiêm chủng (đặc biệt với đại dịch
giao công nghệ sản xuất vaccine COVID-19 với hai công COVID-19), cần phải yêu cầu hiểu rõ liệu mọi người có sẵn
ty của Việt Nam là công ty MTV Vaccine và sinh phẩm số sàng tiêm chủng, lý do tại sao họ sẵn sàng hoặc không
1 (Vabiotech) và công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC). muốn làm như vậy, cộng với việc nắm bắt được nguồn
Công nghệ chuyển giao là công nghệ sản xuất vaccine thông tin mà người dân sẽ tin tưởng khi đưa ra quyết
tái tổ hợp (Recombinant SARS-CoV-2 Spike Protein). Dự định. Trong một bài báo trên tạp chí Nature của Solis
kiến đến tháng 6/2022 sẽ hoàn tất mọi hoạt động và đưa Arce và cộng sự, một cuộc khảo sát lớn, kéo dài từ tháng
vaccine ra thị trường. 6/2020 đến tháng 01/2021 và qua 15 cuộc nghiên cứu tại
các châu lục trên khắp thế giới (châu Phi, châu Mỹ Latinh,
Vaccine phòng COVID-19 được phê duyệt có điều Nam Á), cũng như tại Hoa Kỳ và Liên bang Nga. Các tác
kiện tại Việt Nam giả tìm ra được rằng tỷ lệ tiếp nhận vaccine trung bình
tại các nước LMIC trong các châu lục trên là 80,3%, cao
Đến thời điểm ngày 17/9/2021, tại Việt Nam đã có hơn khá nhiều so với các nước HIC như Hoa Kỳ (64,6%) và
8 loại vaccine phòng COVID-19 được Bộ Y tế cấp phép Liên Bang Nga (30,4%). Dữ liệu cho thấy rằng việc chấp
sử dụng. Các loại vaccine được phê duyệt sử dụng gồm: nhận vaccine được giải thích chủ yếu là do sự quan tâm

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 13


đến việc bảo vệ cá nhân trước đại dịch COVID-19, trong có rất nhiều điều không chắc chắn, nhiều nguồn thông
khi lo ngại về tác dụng phụ là lý do phổ biến nhất cho sự tin mà công chúng phải đối mặt. Những điều không chắc
chần chừ. chắn này đã khuyến khích mọi người tìm kiếm và chia sẻ
thông tin về vaccine, chẳng hạn như các thông tin khoa
Một khảo sát khác được thực hiện bởi Trung tâm Kiểm học phía sau vaccine (đáp ứng miễn dịch và đột biến), các
soát Bệnh tật châu Phi phối hợp với trường Đại học Y kỹ thuật được sử dụng và kết quả của các thử nghiệm
học Nhiệt đới London trong một khoảng thời gian ngắn lâm sàng. Tuy nhiên, một trong những thách thức đối với
hơn (quý IV năm 2020) và tại 15 quốc gia châu Phi (Burki- việc tiếp nhận thông tin đó là việc những thông tin khoa
na Faso, Bờ Biển Ngà, Cộng hoà Congo, Ethiopia, Gabon, học chính thống thường khó tiếp cận với đại đa số độc
Kenya, Malawi, Morocco, Niger, Nigeria, Senegal, Nam giả đại chúng. Với việc điện thoại thông minh đã trở nên
Phi, Sudan, Tunisia và Uganda). Một lần nữa, người ta thấy vô cùng phổ biến trên toàn thế giới, việc truy cập vào các
rằng phần lớn người tham gia khảo sát ở châu Phi (79%) nền tảng mạng xã hội đã trở nên một cách dễ dàng. Tuy
cho biết họ sẽ tiêm vaccine nếu loại vaccine đó được đây là một bước tiến lớn trong việc truyền bá, tiếp nhận
chứng minh an toàn và hiệu quả. Điều này có thể bắt thông tin và là một yếu tố then chốt ảnh hưởng đến quyết
nguồn từ việc hàng năm đất nước của họ phải đối mặt với định tiêm chủng nhưng việc này cũng tạo ra những thách
hàng ngàn ca bệnh tử vong do những dịch bệnh đúng ra thức không hề nhỏ vì có thể đưa đến các thông tin sai
có thể phòng ngừa được bởi vaccine. Do đó, những người lệch. Điều này có nghĩa là thông tin người dân tiếp nhận
dân châu Phi sẽ có nhu cầu cao hơn, cũng như đánh giá trên các nền tảng mạng xã hội chưa chắc đã chính thống
cao hơn về các loại vaccine. Ngược lại, chính từ việc các và đúng sự thật, thông tin có thể bị che giấu chưa kể
quốc gia thu nhập cao gần như đã loại bỏ hoàn toàn một đến việc bị thêm thắt, bóp méo dẫn đến tình trạng hoang
vài dịch bệnh nhờ vaccine, người dân ở các quốc gia này mang và hiểu lầm.
(kể cả một số y bác sĩ) hầu như chưa nhận thức được các
hậu quả của các căn bệnh đáng sợ này. Điều này dẫn đến Nhìn chung, những nguyên do dẫn đến việc tiếp nhận
việc mọi người sẽ có tâm lý chủ quan, không nhận thức hay do dự vaccine sẽ luôn rất phức tạp và khó để xác định
hết được những rủi ro tiềm ẩn cũng như là làm nhẹ đi chính xác, đặc biệt trong thời điểm mà các biến thể virus
trách nhiệm đối với cộng đồng khi đưa ra quyết định về mới đang liên tục xuất hiện, cũng như sự xuất hiện của
việc từ chối tiêm chủng. hàng loạt loại vaccine khác nhau từ cách thức chế tạo,
nguồn gốc, quốc gia sản xuất,... Điều quan trọng là phải
Ở Việt Nam, nhờ vào công tác tuyên truyền và chiến duy trì sự cân bằng trong việc truyền đạt những thông
dịch tiêm chủng mở rộng được nhà nước phát động từ tin xác thực và truyền đạt nhận thức về các nguồn thông
ngày 10/7/2021 trên phạm vi toàn quốc. Tính đến nay, số tin chưa chính thức. Các tạp chí khoa học quốc tế không
liệu tiêm chủng vaccine ở Việt Nam khá khả quan. Theo nên hấp tấp, vội vàng trong khâu kiểm duyệt bài đăng,
số liệu tiêm chủng cập nhật đến ngày 1/10/2021, tổng số nhất là với những nghiên cứu then chốt trong các lĩnh
người đã tiêm là 33,5 triệu người (chiếm 34,8% trên tổng vực liên quan đến vaccine, đặc biệt về tính an toàn và độ
96,5 triệu dân số) và số người tiêm đủ liều là 10,1 triệu hiệu quả của vaccine. Các cơ quan chính phủ cần phải
người (chiếm 10,5% dân số). Tuy nhiên, nhìn chung tốc độ minh bạch trong chiến dịch phòng chống dịch bệnh và
tiêm chủng vaccine COVID-19 của Việt Nam vẫn đang khá tiêm chủng, minh bạch trong các khâu đưa ra quyết định.
chậm và không đồng đều ở các địa phương. Với tốc độ Tuy việc báo cáo những biến chuyển xấu của bệnh nhân
tiêm chủng trung bình đạt 100.000 mũi/ngày, thì cần đến sau khi tiêm là rất cần thiết cho việc theo dõi quá trình
khoảng 20 tháng nữa mới có thể đạt được độ phủ vaccine tiêm vaccine nhưng việc đăng tải những thông tin như
70% dân số cả nước. Phần lớn, người dân Việt Nam lo ngại vậy một cách tràn lan và ồ ạt sẽ khiến cho người dân
về tác dụng phụ của vaccine, đặc biệt là các vaccine công càng trở nên do dự hơn trong việc tiêm chủng. Do đó,
nghệ mới sử dụng mRNA và DNA vì chưa được đánh giá các phương tiện truyền thông đại chúng cần phải đưa tin
toàn diện tác dụng phụ lâu dài. Chất lượng của vaccine do một cách có trách nhiệm, rõ ràng, tránh việc thiên vị và
các nước sản xuất cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự do dự đưa ý kiến cá nhân trong từng bài đăng. Sau cùng, đó là
của người dân khi lựa chọn các vaccine khác nhau đang trách nhiệm chung của toàn thể cộng đồng về hành vi và
được sử dụng ở Việt Nam. Nếu những khó khăn khi triển lời nói trên các nền tảng mạng xã hội, tuyệt đối không lan
khai tiêm vaccine COVID-19 không sớm được khắc phục, truyền thông tin sai lệch khi chưa kiểm chứng và cần tránh
tiến độ tiêm chủng không được đẩy nhanh hơn, Việt Nam những cách diễn đạt mập mờ dễ gây hiểu lầm vì tất cả
có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ hoang phí vaccine những điều này sẽ càng gia tăng thêm tâm lý ngần ngại
COVID-19 vì vaccine có thời hạn sử dụng rất ngắn. Vì vậy, trong nhân dân đối với vaccine.
việc triển khai các kế hoạch nhằm đốc thúc tốc độ tiêm
chủng đang trở nên cấp thiết đối với cộng đồng. Kết luận

Vai trò của phổ biến thông tin để khắc phục tâm lý Tính đến ngày 1/10/2021, số liệu tiêm chủng vaccine
do dự trong tiêm phòng ở Việt Nam và thế giới khá khả quan, nhưng chưa đạt
được sự đồng bộ. Để đạt được tỷ lệ tiêm chủng lý tưởng
Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu này, nhu cầu tìm 60-75%, việc phân bổ nguồn vaccine sao cho hợp lý vẫn
kiếm thông tin tăng lên, đặc biệt là khi vaccine trở nên còn là một thách thức lớn và đang rất cần một lời giải
phổ biến hơn, mọi người cần thông tin hướng dẫn liên thích hợp, đây cũng là cơ hội tốt để tận dụng và giải quyết
quan đến việc triển khai vaccine, nhận vaccine và sử dụng vấn đề liên quan đến “sự do dự tiêm chủng”. Các kết quả
vaccine. Vì COVID-19 là một căn bệnh mới vẫn đang được nghiên cứu trên đã cho thấy rằng việc ưu tiên vaccine cho
nghiên cứu và các loại vaccine này cũng đã được cung các nước có thu nhập thấp hơn trung bình (LMICs), trong
cấp sau một thời gian ngắn nghiên cứu và phát triển, nên đó có Việt Nam, không chỉ hợp lý trên phương diện bình

14 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


đẳng mà còn thúc đẩy được quá trình miễn dịch cộng bá thông tin và khiến chúng trở nên thuyết phục hơn. Từ
đồng trên toàn cầu trở nên nhanh hơn. Chiến đấu với đại đó, niềm tin mới được tạo ra sẽ giúp tỷ lệ người dân muốn
dịch là trách nhiệm chung của toàn thế giới. Do đó, việc tiêm vaccine và tỷ lệ tiêm chủng thực sự sẽ gia tăng trong
gia tăng những nghiên cứu về xu hướng tiếp nhận vac- cộng đồng, góp phần thúc đẩy miễn dịch cộng đồng và
cine nên là một trong những ưu tiên hàng đầu. Kết quả từ đẩy lùi dịch bệnh COVID-19 trong tương lai.
những nghiên cứu đó sẽ mở rộng các chiến dịch truyền

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Begum, Jubeda, et al. “Challenges and prospects of COVID‐19 vaccine development based on the
progress made in SARS and MERS vaccine development.” Transboundary and emerging diseases
68.3 (2021): 1111-1124.
[2] Ghandi, M. “Can people spread the coronavirus if they don’t have symptoms? 5 questions an-
swered about asymptomatic COVID-19.” The Conversation 23 (2020).
[3] Huang, Hui-Yao, et al. “Landscape and progress of global COVID-19 vaccine development.” Hu-
man Vaccines & Immunotherapeutics (2021): 1-5.
[4] Hui, David S., et al. “The continuing 2019-nCoV epidemic threat of novel coronaviruses to global
health—The latest 2019 novel coronavirus outbreak in Wuhan, China.” International journal of
infectious diseases 91 (2020): 264-266.
[5] Machingaidze, Shingai, and Charles Shey Wiysonge. “Understanding COVID-19 vaccine hesitan-
cy.” Nature Medicine (2021): 1-2.
[6] Morse, Jared S., et al. “Learning from the past: possible urgent prevention and treatment options
for severe acute respiratory infections caused by 2019‐nCoV.” Chembiochem 21.5 (2020): 730.
[7] Mehrotra, Devan V., et al. “Clinical endpoints for evaluating efficacy in COVID-19 vaccine trials.”
Annals of internal medicine 174.2 (2021): 221-228.
[8] Murphy, Jamie, et al. “Psychological characteristics associated with COVID-19 vaccine hesitancy
and resistance in Ireland and the United Kingdom.” Nature communications 12.1 (2021): 1-15.
[9] Reese, Heather, et al. “Estimated incidence of coronavirus disease 2019 (COVID-19) illness and
hospitalization—United States, February–September 2020.” Clinical Infectious Diseases 72.12 (2021):
e1010-e1017.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 15


Huỳnh Lê Ngọc Long, Đinh Thuận Thiên,
Học viên Cao học Lê Đào Hoàng Anh, PGS.TS. Trần Văn Hiếu
Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF; PTN. Cảm biến sinh học, Khoa Sinh học-
Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

Nghiên cứu kháng thể chống


COVID-19 từ máy tính của bạn,
tại sao không?
Hội chứng suy đường hô hấp cấp tính nghiêm trọng chất di truyền của nó; bên cạnh đó, chúng còn lẩn trốn hệ
do virus SARS-CoV-2, có tên gọi chính thức là COVID-19, miễn dịch bằng cách bao phủ bề mặt protein S bằng các
được ghi nhận xuất hiện lần đầu tiên ở Vũ Hán, Trung glycans có nguồn gốc từ tế bào chủ. Đồng thời, virus còn
Quốc vào tháng 12/2019 và ca nhiễm đầu tiên được ghi ngăn các tế bào bị xâm nhiễm truyền tín hiệu nhằm tạo
nhận ở Việt Nam vào ngày 24/01/2020. Do sự lây lan thời gian để virus có thể nhân bản và lây nhiễm những tế
nhanh chóng của virus trên toàn cầu, Tổ chức Y tế thế giới bào lân cận. Các cơ chế này giúp virus SARS-CoV-2 vẫn
(World Health Organization-WHO) vào ngày 11/3/2020 có thể nhân bản và lây nhiễm trong cơ thể vật chủ chưa
đã tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu [1]. Đến nay, có biểu hiện bệnh. Ngoài ra, thụ thể ACE2 không chỉ có ở
số ca nhiễm COVID-19 lên tới hơn 200.000.000 và tử phổi mà còn ở các cơ quan khác như tim, thận, mạch máu,
vong hơn 4.000.000 ca; trong đó, Việt Nam ghi nhận hơn gan và hệ thần kinh trung ương; do đó, virus sau khi xâm
200.000 ca nhiễm và hơn 3.000 ca tử vong (được cập nhật nhiễm vào cơ thể thông qua đường hô hấp, chúng có thể
vào ngày 10/8/2021) [2, 3]. Do hiện nay vẫn chưa có thuốc tấn công vào bất kỳ cơ quan nào.
đặc trị COVID-19 nên vaccine vẫn là phương pháp chủng
ngừa tiềm năng để khống chế đại dịch này. Các nghiên Các nhà khoa học hiện nay đang hướng đến việc thiết
cứu về cơ chế xâm nhiễm của virus SARS-CoV-2 vào cơ kế dạng vaccine chỉ là một phần cấu trúc của phân tử
thể vật chủ là nền tảng để nghiên cứu và phát triển vac- protein S chứa các epitope có thể kích hoạt được đáp ứng
cine phòng ngừa COVID-19. miễn dịch hiệu quả ở người. Tuy nhiên, điều đó không
dễ dàng vì cấu trúc của protein S không chỉ toàn là ami-
Vỏ virus SARS-CoV-2 có các protein S đính vỏ, bao no acid mà chúng còn được đính thêm các nhóm đường
gồm hai tiểu phần là S1 và S2; trong đó, tiểu phần S1 (glycosylated) hoặc các nhóm acid béo (pamitoylated) [7].
có vùng RBD (receptor binding domain - vùng gắn thụ Vì vậy, không phải bất cứ phần cấu trúc nào của protein
thể) có chức năng tương tác với thụ thể ACE2 (angioten- S đều có thể được chọn để phát triển vaccine vì sự gắn
sin-converting enzyme 2 - ACE2) để xâm nhiễm vào cơ của kháng thể có thể bị cản trở bởi các nhóm đường hoặc
thể chủ; do vậy ACE2 ở người được coi là cánh cửa để nhóm acid béo này. Để giải quyết bài toán này, Sikora và
virus xâm nhập vào tế bào (Hình 1) [4, 5]. Các nghiên cứu cộng sự (2021) đã sử dụng máy tính để mô phỏng chuyển
so sánh giữa virus SARS-CoV-2 và SARS-CoV (gây bệnh động phân tử trên mô hình gồm bốn phân tử protein S
SARS) cho thấy sự liên kết ái lực cao hơn giữa virus SARS- có gắn các nhóm đường (glycosylated) được đính trên vỏ
CoV-2 và thụ thể ACE2 giúp virus SARS-CoV-2 dễ dàng của virus trong môi trường nước nhằm tìm ra các vùng
nhập bào hơn so với SARS-CoV. Sau khi xâm nhiễm vào epitope tiềm năng cho việc thiết kế vaccine [2].
tế bào, virus sẽ sử dụng tế bào chủ để sản xuất các vật

16 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Hình 1: Cơ chế xâm nhiễm của virus SARS-CoV-2 [6].

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 17


Các nhà khoa học sử dụng bốn tham số để đánh giá số phần cấu trúc của protein S (chẳng hạn như phần thân
các vùng cấu trúc mà kháng thể có thể bám được bao protein S và phần cấu trúc xuyên màng) có độ phân giải
gồm: khả năng tiếp cận của kháng thể (accessibility), sự thấp do sự giới hạn của công nghệ giải cấu trúc hiện tại.
bền vững của cấu trúc protein S (rigidity), sự bảo tồn của Do đó, Sikora và các cộng sự đã dự đoán mô hình phân tử
trình tự (sequence conservation) và tính sinh miễn dịch hoàn chỉnh protein S của SARS-CoV-2 dựa trên cơ sở dữ
của trình tự amino acid (sequence-based immunogenici- liệu cấu trúc sẵn có (Hình 2).
ty). Mặc dù các dữ liệu cấu trúc của protein S hiện nay có
rất nhiều trên các ngân hàng dữ liệu cấu trúc, nhưng một

Hình 2: Mô hình dự đoán cấu trúc hoàn chỉnh của protein S ở vỏ virus SARS-CoV-2 [8].

Sau khi đã có mô hình dự đoán hoàn chỉnh của pro- đó, mô phỏng chiếu chùm tia phân tán (diffuse ray) lên
tein S, các nhà khoa học sẽ kiểm tra sự bền vững cấu mô hình nhằm tìm ra các vị trí mà kháng thể có thể bám
trúc (rigidity) của mô hình và phân tích khả năng tiếp cận được. Cả hai mô hình có và không có nhóm đường đều
không gian của kháng thể (accessibility) từ việc mô phỏng được sử dụng trong quá trình mô phỏng này nhằm đánh
tương tác bám (docking) của protein S và vùng liên kết giá ảnh hưởng của các nhóm đường đến khả năng bám
với kháng nguyên (Fab/antigen-binding fragment). Sau của kháng thể.

18 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Kết quả cho thấy rằng ở mô hình có nhóm đường có dự đoán bằng tin sinh học là epitope đã được biết từ các
thể làm giảm khả năng tiếp cận của kháng thể đến từ 34% báo cáo thực nghiệm và lâm sàng. Điều này cho thấy
đến 80%. Tuy nhiên, các nhóm đường này không phải là phương pháp mô phỏng trên máy tính này có hiệu quả và
nguyên nhân duy nhất làm giảm khả năng bám của kháng đáng tin cậy trong việc dự đoán các epitope ứng cử viên
thể. Báo cáo thực nghiệm cho thấy rằng các protein S cho thiết kế vaccine và phương pháp này có thể ứng dụng
không chỉ phân bố rải rác trên vỏ virus mà chúng có thể lên các cấu trúc protein S ở các virus gây bệnh khác.
kết nhóm và tương tác bám lẫn nhau [3]. Hiện tượng này
có thể làm giảm khả năng bám của kháng thể đến khoảng Một nghiên cứu cho thấy rằng hầu hết các kháng thể
từ 39% đến 86%. đơn dòng (monoclonal antibodies - mAbs) tiềm năng có
khả năng gắn tốt với vùng RBD trên protein S, qua đó
Ngoài việc cho thấy ảnh hưởng của các nhóm đường ngăn cản sự gắn của protein S lên ACE2. Do đó, để tạo ra
lên khả năng bám của kháng thể, kết quả mô phỏng còn các kháng thể gắn RBD của protein S và trung hòa SARS-
phát hiện ra các epitope sáng giá cho việc thiết kế vaccine. CoV-2, việc lập bản đồ các vị trí trên RBD tương tác với
Tuy nhiên, một số epitope có thể chứa trình tự amino acid ACE2 là vô cùng quan trọng. Một nghiên cứu đã phân tích
dễ đột biến hoặc không có khả năng sinh miễn dịch; nếu các vị trí gắn của kháng thể kháng SARS-CoV-2 bằng cách
các vùng cấu trúc này được lựa chọn để thiết kế vaccine sử dụng các mô hình cấu trúc từ các cơ sở dữ liệu và 377
thì vaccine có nguy cơ sẽ không hiệu quả do virus có cơ kháng thể đơn dòng thu được từ các bệnh nhân nhiễm
hội đột biến ngay tại vùng cấu trúc tương ứng đó nhằm bệnh. Kết quả cho thấy, 80 kháng thể được đánh giá là
đào thoát miễn dịch. Vì vậy, Sikora và cộng sự kiểm tra gắn được với vùng RBD và chỉ 19 trong số đó là có tiềm
sự bảo tồn của trình tự (sequence conservation) và tính năng trung hòa virus SARS-CoV-2. Nếu mô tả cấu trúc
sinh miễn dịch của trình tự amino acid (sequence-based vùng RBD như “phần thân người” thì các vị trí gắn thành
immunogenicity) bằng các phần mềm ứng dụng tin sinh có ở năm cụm: vai trái, cổ, vai phải đến sườn phải và một
học. Sau khi tổng hợp các dữ liệu kết quả, nhóm nghiên phần phân tán ở sườn trái (Hình 3). Khả năng trung hòa
cứu trên đã xác định được chín epitope nằm phần đỉnh kháng thể từ epitope ở vùng cổ và vùng vai phải được
của protein S. Đáng lưu ý, bốn trong số chín epitope được đánh giá là cao nhất [9].

Hình 3: Phân
bố năm cụm
epitope trên
vùng RBD của
protein S (cụm
ở vai trái bị che
khuất) và hiệu
lực trung hòa bởi
kháng thể từ các
epitope [9].

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nhờ có các nghiên cứu tin-sinh học trên máy [1] W. H. Organization, “WHO Director-General’s
tính đến thực nghiệm, chúng ta có thể dễ dàng opening remarks at the media briefing on COVID-19 “
thiết kế các kháng thể vừa có khả năng gắn vừa 2020.
có khả năng trung hòa virus SARS-CoV-2 để ngăn
[2] W. H. Organization, “COVID-19 in Vietnam,” 2021.
chặn xâm nhiễm. Ngoài ra, các kết quả còn gợi ý
đến chiến lược phối hợp nhiều kháng thể trung [3] “COVID-19 CORONAVIRUS PANDEMIC,” 2021.
hòa gắn ở nhiều cụm khác nhau để có thể bám
[4] C. O. Barnes et al., “Structures of Human Antibodies
các epitope trên protein S của vỏ virus ngăn cản
sự tương tác với thụ thể ACE2. Đây có thể là liệu Bound to SARS-CoV-2 Spike Reveal Common Epi-
pháp miễn dịch với khả năng bảo vệ và chống topes and Recurrent Features of Antibodies,” Cell, vol.
lại tốt hơn với các biến thể của virus SARS-CoV-2 182, no. 4, pp. 828-842.e16, 2020/08/20/ 2020.
hiện nay. Từ đó cũng cho thấy sự hữu ích của [5] J. Shang et al., “Cell entry mechanisms of SARS-
phương pháp nghiên cứu trên máy tính (in silico) CoV-2,” Proc Natl Acad Sci U S A, vol. 117, no. 21, pp.
giúp phát triển vaccine chống lại đại dịch hiện nay
11727-11734, May 26 2020.
và các bệnh khác trong tương lai.
[6] S. Boopathi, A. B. Poma, and P. Kolandaivel, “Novel
2019 coronavirus structure, mechanism of action,
antiviral drug promises and rule out against its treat-
ment,” J Biomol Struct Dyn, vol. 39, no. 9, pp. 3409-
3418, Jun 2021.
[7] Y. Watanabe, J. D. Allen, D. Wrapp, J. S. McLellan, and
M. Crispin, “Site-specific glycan analysis of the SARS-
CoV-2 spike,” Science, vol. 369, no. 6501, pp. 330-333,
Jul 17 2020.
[8] M. Sikora, S. von Bulow, F. E. C. Blanc, M. Gecht, R.
Covino, and G. Hummer, “Computational epitope
map of SARS-CoV-2 spike protein,” PLoS Comput Biol,
vol. 17, no. 4, p. e1008790, Apr 2021.
[9] W. Dejnirattisai et al., “The antigenic anatomy of
SARS-CoV-2 receptor binding domain,” Cell, vol. 184,
no. 8, pp. 2183-2200.e22, 2021/04/15/ 2021.

20 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Sinh viên
Trường Đại học
Hình 2: Bản thử nghiệm
lần 1 của Máy rửa tay tự
động kết hợp IoT. Ảnh:

Bách khoa,
NVCC

ĐHQG-HCM
chế tạo máy
rửa tay tự động
kết hợp IoT

Trước diễn biến phức tạp


của đại dịch COVID-19,
nhóm sinh viên năm nhất
Trường ĐH Bách khoa đã
chế tạo thành công sản phẩm
“Máy rửa tay tự động kết
hợp IoT” nhằm phục vụ
công tác phòng chống dịch
bệnh tại các trường đại học.

Trần Bình Phương Anh,


Hoàng Thị Thu Thảo
Cộng tác viên Trung tâm Sở hữu trí tuệ và
Chuyển giao công nghệ ĐHQG-HCM

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 21


Máy rửa tay đa năng, giá thành rẻ cũng được trường cấp kinh phí để phát triển sản phẩm
thông qua Đề tài Nghiên cứu khoa học sinh viên.
Dự án này do 8 sinh viên năm nhất đến từ nhiều khoa
của Trường ĐH Bách khoa cùng thực hiện gồm: Chu Minh 27 Tết vẫn ở lại trường
Nhân, Nguyễn Thế Bình, Cao Khánh Gia Hy, Hồ Huỳnh Gia
Quá trình thực hiện chiếc máy là “cuộc chiến cam go”
Bảo, Trần Duy Khang, Nguyễn Duy, Ngô Hà Gia Bảo và
khi tất cả thành viên trong nhóm đều chỉ là những sinh
Mai Hoàng Kim Sơn.
viên năm nhất vì kiến thức và kinh nghiệm chế tạo còn
hạn chế. TS Võ Thanh Hằng cho hay: “Thời điểm bắt tay
Ý tưởng của dự án xuất phát từ bài tập lớn của môn
vào dự án, các bạn đều chưa tiếp xúc các môn học chuyên
Kỹ năng mềm với yêu cầu thực hiện một dự án đem lại
ngành. Do đó, vấn đề về kỹ thuật, thi công luôn là câu hỏi
giá trị cho cộng đồng trong đại dịch COVID-19. Nhóm đã
nan giải cho cả cô và trò khi chế tạo máy rửa tay đa năng
quyết định tạo ra sản phẩm có thể giảm sự tiếp xúc giữa
này”.
người với người.
Nhóm đã liên hệ và được các giảng viên đang công
Thế Bình, đại diện nhóm, cho biết: “Thay vì phải cử tình
tác tại Trường hỗ trợ. Ban cố vấn dự án gồm PGS.TS Quản
nguyện viên đi bấm đo thân nhiệt và xịt nước rửa tay sát
Thành Thơ - Phó Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy
khuẩn, tụi em đã lên ý tưởng cho một hệ thống tự động
tính - giữ vai trò cố vấn kỹ thuật trí tuệ nhân tạo AI; TS
thay thế”. Theo Thế Bình, nhóm đã tham khảo các loại
Lê Thanh Long - Giảng viên Khoa Cơ khí - hỗ trợ thi công
máy tương tự sản phẩm của nhóm trên thị trường. Đa số
và TS Võ Thanh Hằng giúp quản lý dự án. Ngoài ra, nhiều
những sản phẩm này chỉ có thể thực hiện một chức năng
sinh viên các khóa trước đã hỗ trợ nhóm nhiệt tình.
là rửa tay sát khuẩn hoặc đo nhiệt độ, nhất là vẫn chưa
tích hợp AI giúp nhận diện việc đeo khẩu trang và tạo dữ
Do đến từ nhiều khoa, lịch học, lịch sinh hoạt đều khác
liệu thông tin về người sử dụng.
nhau nên thời gian làm việc của nhóm rất eo hẹp. TS Võ
Thanh Hằng kể: “Tuy bắt đầu gia công từ tháng 12/2020
“Vì vậy, nhóm quyết định tự thiết kế toàn bộ chiếc máy
nhưng để gấp rút hoàn thành bản thử nghiệm lần 1 của
đa năng, giá thành rẻ để giúp các tổ chức có thể tiếp cận
máy, cả nhóm cùng các thầy cô cố vấn đã phải ở lại trường
đến sản phẩm một cách dễ dàng hơn” - Thế Bình chia sẻ.
đến ngày 27 Tết”.
Ban đầu, nhóm định tự thực hiện toàn bộ các công
Để làm ra bản thử nghiệm đầu tiên của chiếc máy rửa
đoạn. Tuy nhiên, khi nhìn thấy được tiềm năng của dự
tay, nhóm đã phải trải qua 4 công đoạn chính là: thiết kế,
án, TS Võ Thanh Hằng - Giảng viên Khoa Môi trường và
gia công, lập trình điều khiển và thử nghiệm. Thiết kế và
Tài nguyên, đã liên hệ Phòng Khoa học Công nghệ và Dự
gia công tuy là 2 bước đầu của quá trình nhưng lại là trở
án để xin hỗ trợ. Nhà trường đã tạo điều kiện cho nhóm
ngại lớn nhất.
sử dụng nhà xưởng, phòng thí nghiệm để nhóm chế tạo,
lắp ráp và vận hành sản phẩm tại trường. Ngoài ra, nhóm

Hình 1: Máy rửa tay tự động kết hợp IoT


và nhóm sinh viên Trường ĐH Bách Khoa ĐHQG-HCM. Ảnh: NVCC

22 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Thế Bình cho biết: “Khi bắt tay vào gia công, tụi em Máy rửa tay hoạt động theo 4 bước. Bước đầu tiên là
mới phát hiện ra nhiều điểm bất hợp lý trong thiết kế ban xác định danh tính của người sử dụng. Camera nối bộ xử
đầu. Vì vậy, cả nhóm buộc phải vừa chỉnh sửa thiết kế vừa lý thông tin sẽ đọc mã vạch trên thẻ sinh viên hoặc thẻ
gia công”. Mỗi khi thiết kế thay đổi, nhóm cần phải gia giảng viên, cán bộ để định danh đối tượng sử dụng máy.
công lại toàn bộ khung máy để đảm bảo máy rửa tay tích Nếu là khách vãng lai đến trường, họ cần liên hệ trước với
hợp IoT này hoạt động ổn định. nhà trường để đăng ký và được cấp mã tạm thời với đầy
đủ thông tin cá nhân gồm tên, địa chỉ, số điện thoại. Sau
Theo PGS.TS Quản Thành Thơ, cả nhóm đã làm việc đó, camera sẽ nhận diện khuôn mặt và phân tích việc đeo
rất nhiệt tình và sáng tạo để tạo ra một giải pháp hoàn khẩu trang của người sử dụng. Cùng lúc, thanh nhiệt kế sẽ
chỉnh với kiến thức và tài nguyên mà các sinh viên năm đo thân nhiệt. Những thông tin mà máy thu thập sẽ được
nhất có thể có được. Nhờ tính kỷ luật, chăm chỉ và phối hiển thị trên màn hình led. Máy sẽ phát ra tiếng kêu cảnh
hợp hiệu quả, nhóm đã hoàn thành sản phẩm trong một báo nếu phát hiện người dùng không đeo khẩu trang
thời gian ngắn. hoặc đeo khẩu trang sai cách. Cuối cùng, máy rửa tay sẽ
tự động phun dung dịch rửa tay. Hiện tại, mất khoảng 18
Thay con người kiểm tra phòng dịch ở mức cơ bản giây để máy hoàn thành 4 bước trên.

Sau 6 tháng thực hiện, sửa chữa và cải tiến, bản dùng Các thông tin về danh tính, kết quả đo thân nhiệt, đối
thử lần 3 cũng là bản hoàn thiện nhất. Về hình dáng, máy tượng tiếp xúc gần được lưu trữ lại tại cơ sở dữ liệu trung
cao 2m, chân đế có kích thước là 0,6m x 0,53m. Kết cấu tâm của máy từ 30-45 ngày đối với khách vãng lai và 21-
của máy gồm 2 phần. Bên dưới là một thùng chứa mạch 30 ngày đối với cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường
và dây điện. Phía trên là bảng trắng được gắn thanh đo để tiện cho việc truy vết khi cần.
thân nhiệt cảm biến có thể thay đổi theo chiều cao của
người sử dụng, một màn hình led, camera AI thông minh Sau quá trình đồng hành cùng nhóm, PGS.TS Quản
và vòi phun khử khuẩn tự động. Thành Thơ đánh giá cao về tiềm năng phát triển của máy
rửa tay tự động kết hợp IoT. Ông nhấn mạnh: “Điểm nổi
bật của sản phẩm là được phát triển
từ các thiết bị không quá phức tạp,
dễ chế tạo, hoạt động tốt và đáp
ứng các nhu cầu kiểm tra phòng
dịch cơ bản. Nhờ vậy có thể sản xuất
đại trà. Đồng thời, sản phẩm có thể
hoàn toàn thay thế được con người
trong công tác kiểm tra phòng dịch
ở mức độ cơ bản”.

Hiện tại, Trường ĐH Bách khoa


đã cho phép vận hành thử nghiệm
3 máy rửa tay IoT tại 3 cổng trường
(cơ sở quận 10) khi sản phẩm hoàn
thiện. Do làm theo đơn đặt hàng
của nhà trường nên khi nghiệm thu,
Trường ĐH Bách khoa toàn quyền
sử dụng công nghệ của máy rửa tay
này để nhân rộng ra quy mô lớn. Sau
khi hoàn thành, ước tính giá thành
của mỗi chiếc máy rửa tay IoT sẽ dao
động từ 9-10 triệu đồng.

Hình 3: Bản
thiết kế 3D hoàn
thiện của “Máy
rửa tay tự động
kết hợp IoT”.
Ảnh: NVCC

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 23


LỜI KÊU CỨU TỪ ĐẠI DƯƠNG
- NƯỚC THẢI CHỨA SARS-CoV-2
SẼ MANG ĐẠI DỊCH
ĐẾN ĐỘNG VẬT CÓ VÚ Ở BIỂN

Học viên Cao học Mai Quốc Gia, PGS.TS Trần Văn Hiếu,
Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF; PTN Cảm biến sinh học
PGS.TS Hoàng Đức Huy, PTN Động vật,
Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
ĐHQG-HCM

COVID-19 là một bệnh lây nhiễm đường hô hấp Quốc. Tóm lại, SARS-CoV-2 từ chất thải người bệnh có thể
do SARS-CoV-2, xuất hiện lần đầu tại Trung Quốc vào tồn tại lâu trong nước thải và biến nước thải không được
12/2019. Do khả năng lây lan nhanh chóng, Tổ chức Y tế xử lý thành nguồn lây truyền đại dịch.
Thế giới (WHO) đã tuyên bố COVID-19 là một đại dịch.
Đại dịch này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, Việc xử lý nước thải, loại bỏ mầm bệnh là hết sức cần
tác động xấu đến kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Ngoài thiết. Hiện nay, việc xử lý nước thải được thực hiện qua ba
ra, SARS-CoV-2 cũng đã xâm nhập vào môi trường sống công đoạn: cấp I, cấp II và cấp III. Xử lý cấp I là tiến hành
và tác động đến các loài động vật khác. lắng đọng các chất rắn có thể lắng. Ở xử lý cấp II, các hợp
chất hữu cơ hòa tan và lơ lửng trong nước sẽ được loại bỏ.
SARS-CoV-2 lây truyền qua đường hệ hô hấp nhưng Trong xử lý cấp III, nhiều quy trình được thực hiện để loại
gần đây, nhiều bằng chứng cho thấy chủng này đã xâm bỏ các chất dinh dưỡng và mầm bệnh. Các nghiên cứu
nhập và gây nhiễm trùng đường ruột, viêm dạ dày. Điều cho thấy, sau ba quá trình xử lý, vi-rút có thể được loại ra
này dẫn đến sự tồn tại của SARS-CoV-2 trong phân và khỏi nước thải; tuy nhiên, nước chưa xử lý, hoặc xử lý cấp
nước tiểu của người bệnh. Theo các nghiên cứu, khoảng I tiềm ẩn nguy cơ lây bệnh rất cao.
pH của vi-rút corona rất rộng (3-10) và thời gian sống
trong nước thải lên đến vài tuần, thậm chí là 25 ngày. Nhiều nơi trên thế giới, có hay không qua xử lý, các
Vi-rút trong chất thải sẽ nhiễm vào nước thải, trở thành loại nước thải vẫn được thải ra kênh rạch, sông ngòi, cuối
nguồn lây lan tiềm tàng. Trên thực tế, Ý, Pháp, Úc đã ghi cùng ra đại dương, làm ảnh hưởng đến nhiều động vật
nhận SARS-CoV-2 trong nước thải sinh hoạt chưa qua xử hoang dã. Chúng dễ bị tổn thương bởi chất thải rắn, chất
lý. Ở Ecuador, vi-rút này được phát hiện ở cả trong nước hóa học, hạt nano và sự xâm nhiễm của mầm bệnh từ
sông. Gần đây, nước thải đường phố chứa vi-rút đã trở người. Sự truyền vi-rút từ người sang động vật gây ra
thành nguồn lây ở một khu vực thuộc Quảng Châu, Trung những hậu quả nghiêm trọng. Ebola ở người đã từng lây

24 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Bảng 1. Tỷ lệ phát hiện vi-rút trong nước thải sau xử lý.

Cấp xử lý (I) (II) (III)

Tỷ lệ 83% (35/45) 11% (2/18) 0% (0/12)

và giết chết hơn 5.000 con khỉ. Gần đây, ở New York, một thụ thể ACE2, nơi tương tác giữa vi-rút và tế bào chủ. Các
con hổ Malay đã nhiễm SARS-CoV-2 từ người, sau đó đột biến gen thuộc trình tự mã hóa ACE2 có thể thay đổi
lây sang một số động vật khác. Thật không may, một số sự mẫn cảm với SARS-CoV-2. Dựa vào đây, các nhà khoa
thú cưng như mèo cũng có hiện tượng này. Ở động vật, học đã phân tích, so sánh trình tự gen mã hóa ACE2 ở
SARS-CoV-2 gây nhiễm trùng đa tạng, dẫn đến tử vong. 35 loài động vật có vú ở biển, thuộc bốn nhóm chính:
Tuy nhiên, không phải loài nào cũng có thể nhiễm bệnh. Cetacea (cá voi), Pinnepidia (hải cẩu), Sirenia (bò biển) và
Điều này phụ thuộc vào thụ thể ACE2 và động vật có vú Fissipedia (gấu trắng, rái cá), sau đó xác định các trình tự
được dự đoán là có nguy cơ nhiễm cao. Động vật có vú đột biến có nguy cơ, cuối cùng mô phỏng và đánh giá
trên cạn, sống ở nơi ít dấu chân người sẽ khó bị tác động. protein ACE2 đột biến. Vi-rút sử dụng protein gai (Spike)
Tuy nhiên, động vật có vú ở biển có thể chịu ảnh hưởng để gắn lên ACE2, do đó protein này được dùng để thử
lớn từ SARS-CoV-2. Để bảo vệ chúng, điều cần làm là xác tương tác với ACE2 đột biến và MutaBind2 là phầm mềm
định loài có thể nhiễm và khu vực phân bố có gần với được sử dụng để đánh giá tương tác. Tương tác giữa các
vùng nguy hiểm hay không. ACE2 khác nhau với protein gai được sử dụng làm chuẩn,
tương tác càng mạnh (giá trị ΔΔGbind càng thấp), thì sự
Đầu tiên, chúng ra cần tìm hiểu và xác định loài có mẫn cảm với vi-rút càng cao.
nguy cơ. Để làm điều này, các nhà khoa học sẽ dựa vào

Hình 1. Các mức độ nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 dựa trên phần mềm MutaBind2.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 25


Qua các kết quả (Hình 2), ta thấy có đến 31/35 loài có nguy cơ nhiễm vi-rút. Chỉ hai loài thuộc nhóm
trung bình-thấp, trong khi có đến 15 loài ở mức nguy cơ cực cao (cao hơn cả người). Mười lăm loài này
gần như sẽ mắc bệnh nếu tiếp xúc trực tiếp SARS-CoV-2.

Hình 2. Nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 ở động vật có vú ở biển.

26 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Phần lớn các loài cá voi (18/21) được dự đoán là có Sau khi xác định các loài có nguy cơ, các nhà khoa học
nguy cơ nhiễm bệnh, ACE2 của chúng gần giống với ACE2 kiểm tra xem chúng có thuộc vào Sách Đỏ của Hiệp hội
của người nhất. Những loài này có tập tính bầy đàn cao, Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) không. Sách Đỏ được
dẫn đến khả năng cả quần thể sẽ bệnh nếu một cá thể chia thành bốn cấp độ: bị đe dọa, sắp nguy cấp, nguy cấp
tiếp xúc vi-rút. Giống cá voi, hầu hết các loài hải cẩu (8/9) và cực nguy cấp. Thật đáng quan ngại là có đến 15 loài
mẫn cảm với SARS-CoV-2, ngoại lệ duy nhất là Zalophus mẫn cảm với SARS-CoV-2 xuất hiện trong Sách Đỏ. Nếu
californianus. Trong nhóm rái cá, Enhydra lutris rất nhạy bị nhiễm SARS-CoV-2, số lượng quần thể ít ỏi của chúng
cảm với vi-rút. Bò biển là nhóm duy nhất không ghi nhận sẽ ngày càng suy kiệt.
sự tương tác, do đó chúng an toàn tuyệt đối trước SARS-
CoV-2.

Hình 3. Động vật có vú ở biển thuộc Sách Đỏ có nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2.

Cuối cùng, một khảo sát được thực hiện tại Alaska xử lý. Tuy nhiên, một số khu vực vẫn chuyển nước trực
nhằm xác định các khu vực nguy hiểm đối với động vật tiếp ra đầm phá, hình thành các “điểm nóng” bùng dịch
có vú thuộc vùng biển này, bao gồm: hải cẩu phương bắc, như Cold Bay, Naknek, Dillingham và Palmer. Đặc biệt, cá
sư tử biển Stellar, rái cá biển bắc, hải cẩu Harbor, cá voi voi Beluga ở Palmer là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Nếu
Beluga, cá heo Harbor và cá voi lưng gù. Tại Alaska, đến nhiễm SARS-CoV-2, loài này hoàn toàn có thể biến mất
7/8/2020, đã có 4.221 người nhiễm COVID-19 và đang khỏi hệ sinh thái.
tiếp tục tăng. Việc xác định và đánh giá hiệu quả xử lý
nước thải có thể giúp dự đoán các vị trí tiềm ẩn nguy cơ. Khi xâu chuỗi các thông tin trên, ta thấy rằng từ chất
Kết hợp các vị trí này với bản đồ phân bố quần thể sẽ giúp thải người bệnh, qua hệ thống nước thải, SARS-CoV-2 có
xác định “điểm nóng”, nơi dịch bệnh có thể bùng phát. thể xuất hiện và tác động đến các loài động vật có vú ở
Ở đây, nước thải được đổ ra đầm phá, hoặc đến các nhà biển, đặc biệt là những loài đang đối mặt với nguy cơ
máy xử lý. Nước trong các đầm phá không được xử lý và tuyệt chủng. Điều này có thể dẫn đến một đại dịch mới ở
có thể trở thành nguồn lây. Ở phía bắc, nước thải được xử biển cả, nó có thể là COVID-21, COVID-22, hay COVID-23,
lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên điều này không hoặc sẽ không có thêm một đại dịch tương tự COVID-19
xảy ra ở phía tây. Ba loài hải cẩu Phoca hispida, Erignathus nào nữa nếu chúng ta hành động ngay bây giờ.
barbatus và Phoca largha ở bờ biển phía tây đang đối
mặt với nguy cơ nhiễm bệnh. Hầu hết các loài mẫn cảm
được tìm thấy ở phía nam, nơi phần lớn nước thải đã được

Từ khóa: ACE2, COVID-19, động vật có vú ở biển, quản lý nước thải, SARS-CoV-2.

Lược dịch từ:


Mathavarajah, Sabateeshan et al. 2021. Pandemic danger to the deep: The risk of ma-
rine mammals contracting SARS-CoV-2 from wastewater. The Science of the total en-
vironment, vol. 760: 143346.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 27


TS Lê Minh Công
Nguyễn Thị Kim Ngân
Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, ĐHQG HCM

(Lược dịch từ: Brooks, S. K., Webster, R. K., Smith, L. E., Woodland, L., Wessely, S., Greenberg, N., &
Rubin, G. J. (2020). The psychological impact of quarantine and how to reduce it: rapid review of the
evidence. The lancet, 395(10227), 912-920)

HẬU QUẢ TÂM LÝ CỦA VIỆC BỊ CÁCH LY


VÀ LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẢM THIỂU NHỮNG HẬU QUẢ ĐÓ:
ĐÁNH GIÁ NHANH TỪ CÁC BẰNG CHỨNG

Tóm tắt

Xuất hiện lần đầu vào năm 2019 tại Vũ Hán, đến nay đại dịch COVID-19 đã có 4 đợt bùng phát và ảnh
hưởng sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia đã có những quyết định về
việc giãn cách xã hội và cách ly y tế với những người dương tính hoặc tiếp xúc gần với người dương tính
COVID-19 tại các cơ sở cách ly tập trung hoặc tại nhà. Trên cơ sở nghiên cứu 3 nguồn dữ liệu internet
với 3.166 bài báo đã công bố, có 24 bài phù hợp để đưa vào phân tích những tác động tâm lý của đại dịch
COVID-19. Hầu hết các nghiên cứu đều báo cáo các tác động tiêu cực bao gồm các triệu chứng stress hậu
sang chấn, lo âu và cảm xúc tiêu cực. Các yếu tố gây căng thẳng gồm thời gian cách ly kéo dài hơn, lo sợ
lây nhiễm, thất vọng, buồn chán, nguồn cung cấp và thông tin không đầy đủ, tổn thất về tài chính và sự kỳ
thị. Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất các ảnh hưởng lâu dài cần quan tâm của việc giãn cách xã hội và
cách ly y tế. Trong những tình huống mà việc cách ly là cần thiết để đảm bảo an toàn, cần chú ý đến thời
gian cách ly không quá dài, cung cấp rõ ràng về các yêu cầu và thông tin cách ly, đảm bảo nguồn cung cấp
đầy đủ (nhu yếu phẩm và y tế). Đồng thời cần truyền thông nâng cao nhận thức về lòng trắc ẩn, vị tha, yêu
thương thông qua thông điệp về lợi ích của việc cách ly y tế và giãn cách xã hội. Trên cơ sở của nghiên cứu
này, chúng tôi cũng đã cập nhật và kiến nghị một số giải pháp cho Việt Nam trong chiến lược giãn cách,
cách ly y tế và điều trị bệnh nhân COVID-19. Các giải pháp tập trung vào việc xây dựng lại chiến lược giãn
cách xã hội và cách ly y tế; xây dựng hệ thống thông tin truyền thông tập trung, hiệu quả; cung cấp đầy đủ
nhu cầu y tế và nhu yếu phẩm cho người trong vùng cách ly; cần phải có các dịch vụ hỗ trợ về sức khoẻ tâm
thần theo nhiều cấp độ cho những người bị cách ly và bệnh nhân COVID-19 bởi nhóm chuyên gia đa ngành;
chú ý nhiều hơn đến đời sống tinh thần của nhân viên y tế, những người bị tổn thương nhất trong bối cảnh
COVID-19; cần có một nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần và các yếu tố ảnh hưởng để có một hệ thống giải
pháp tích cực, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.

28 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Giới thiệu 2012; Sprang G, và cs, 2013; Taylor MR và cs, 2008; Wu P,
2009). Một nghiên cứu về nhân viên y tế có tiếp xúc gần
Cách ly là việc ngăn cách và hạn chế di chuyển của với bệnh nhân dương tính SARS được triển khai ngay sau
những người có khả năng tiếp xúc với bệnh nhân dương thời gian kết thúc cách ly (9 ngày), kết quả các nghiên cứu
tính COVID-19 để xác định xem họ có nhiễm bệnh hay này cho thấy việc cách ly là yếu tố dự báo nhiều nhất các
không và giảm nguy cơ họ lây bệnh cho người khác (CDC, triệu chứng của rối loạn stress hậu sang chấn (Bai Y, Lin C
2017). Định nghĩa này khác với việc cô lập và tách biệt ¬C, Lin C ¬Y, Chen J¬ Y, Chue C ¬M, Chou P., 2004). Trong
những người được chẩn đoán là mắc COVID-19 khỏi những một nghiên cứu tương tự, nhân viên y tế bị cách ly có nhiều
người không mắc bệnh, tuy nhiên, hai thuật ngữ thường dấu hiệu đặc hiệu hơn về tình trạng kiệt sức, cô lập, lo âu
được sử dụng thay thế cho nhau, đặc biệt là trong giao tiếp khi tiếp xúc gần với bệnh nhân có triệu chứng dương tính,
cộng đồng (Manuell M¬E, Cukor J. Mother, 2011). Thuật cáu gắt, mất ngủ, kém tập trung và thiếu quyết đoán, giảm
ngữ cách ly đã được sử dụng lần đầu trên thế giới vào năm hiệu suất công việc, miễn cưỡng làm việc và giảm khả năng
1127 tại Venice, Ý, liên quan đến dịch bệnh phong và sau đó kiên trì trong công việc. Trong một nghiên cứu khác, ảnh
được sử dụng rộng rãi, mặc dù vậy, phải đến 300 năm sau hưởng của việc cách ly với nhân viên y tế có thể tiên lượng
đó Vương quốc Anh mới bắt đầu áp đặt cách ly để đối phó các triệu chứng stress hậu sang chấn sau 3 năm kể từ khi
với bệnh dịch (CDC, 2017). Gần đây nhất, cách ly đã được kết thúc cách ly (Wu P, Fang Y, Guan Z và cs, 2009). Khoảng
sử dụng khi bùng phát bệnh virus corona 2019 (COVID-19). 34% (938 trong số 2.760) những người nuôi ngựa bị cách
Sự bùng phát này đã chứng kiến toàn bộ các thành phố của ly trong vài tuần đã báo cáo các triệu chứng khủng hoảng
Trung Quốc bị cách ly hàng loạt, khi hàng ngàn công dân tâm lý trầm trọng trong suốt thời gian dịch bùng phát, tỷ
của Trung Quốc từ nước ngoài trở về và đã được yêu cầu tự lệ này ở dân số nói chung tại Úc là khoảng 12% (Taylor MR,
cách ly tại nhà hoặc trong các cơ sở cách ly tập trung (Public Agho KE, Stevens GJ, Raphael B, 2008). Một nghiên cứu so
Health England, 2019). Trước đó, cũng đã có những tiền lệ sánh các triệu chứng stress hậu sang chấn ở những cha mẹ
tương tự khi vào năm 2003, tại Trung Quốc và Canada đã và con cái bị cách ly với những người không bị cách ly cho
có những thành phố bị giãn cách xã hội (cách ly) trong đợt thấy điểm số stress hậu sang chấn ở trẻ bị cách ly cao hơn
bùng phát hội chứng hô hấp cấp tính (SARS) nghiêm trọng. gấp bốn lần ở trẻ không bị cách ly, trong khi đó 28% (27
trên 98) cha mẹ bị cách ly có đầy đủ các triệu chứng rối loạn
Tại sao cần có nghiên cứu này? tâm thần liên quan đến sang chấn và chỉ có 6% (17 trong số
299) cha mẹ không bị cách ly có dấu hiệu rối loạn tâm thần
Cách ly thường là một trải nghiệm khó khăn đối với (Sprang G, Silman M, 2013). Một nghiên cứu khác cho thấy,
con người. Việc phải tách biệt khỏi những người thân yêu, nhân viên y tế có các triệu chứng trầm cảm sau 3 năm bị
mất đi sự tự do, không chắc chắn về tình trạng bệnh tật cách ly và trong đó có khoảng 9% (48 trong số 549) có triệu
và buồn chán có thể là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến cá chứng trầm cảm nặng. Ở nhóm trầm cảm nặng có gần 60%
nhân. Những báo cáo cho thấy, gia tăng tự sát (Barbisch (29 trong số 48) đã từng bị cách ly, trong khi đó chỉ có 15%
D, Koenig KL, Shih FY, 2015), tức giận và kiện cáo (Public (63 trong số 424) ở nhóm có triệu chứng trầm cảm nhẹ đã
Health England, 2019) sau khi áp dụng những biện pháp từng bị cách ly (Liu X, Kakade M, Fuller CJ và cs, 2012).
cách ly trong các đợt bùng phát trước đây. Chính vì thế, việc
cách ly cần phải được xem xét một cách thận trọng để tránh Tất cả các nghiên cứu định lượng khác với nhóm cộng
những tổn thương về mặt tinh thần và xã hội có thể xảy ra đồng đã được cách ly cho thấy một tỷ lệ cao các triệu chứng
tức thời hoặc xa hơn (Rubin GJ, Wessely S, 2020). Tổ chức khủng hoảng tâm lý và rối loạn tâm thần. Các vấn đề được
thành công chiến lược cách ly như một biện pháp y tế cộng báo cáo nói chung bao gồm các triệu chứng khủng hoảng
đồng đòi hỏi chúng ta phải giảm thiểu càng nhiều càng tốt tâm lý (Mihashi M, 2009), rối loạn cảm xúc (Wu P, Fang Y,
các tác động tiêu cực đến con người. Guan Z, và cs, 2016), trầm cảm (Hawryluck L, và cs, 2004),
stress bệnh lý (DiGiovanni C, và cs, 2004), rối loạn khí sắc
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang gia tăng, việc (Lee S và vs, 2005), rối loạn giấc ngủ (Lee S và cs, 2005), các
xây dựng chính sách cần phải rất khẩn trương và cần phải triệu chứng stress hậu sang chấn (Reynolds DL và cs, 2008;
dựa vào các bằng chứng nghiên cứu. Tổ chức Y tế thế giới Weiss DS, Marmar CR, 1997), cảm xúc tiêu cực (Marjanovic
(WHO) khuyến cáo rằng, trong bối cảnh khủng hoảng y tế Z và cs, 2007; Maunder R và cs, 2003).
toàn cầu như hiện nay, việc đánh giá nhanh và tổng hợp
cần được khuyến khích. Vì thế, nhóm nghiên cứu đã triển Những người bị cách ly do phải tiếp xúc gần với những
khai một đánh giá nhanh về các ảnh hưởng đến tâm lý và bệnh nhân dương tính với SARS có những phản ứng tiêu
sức khoẻ tâm thần của việc cách ly, giãn cách xã hội, từ đó cực trong suốt thời gian cách ly, gồm trên 20% (230 trong
khuyến nghị các giải pháp giúp làm nhẹ các tác động này. số 1.057) hoảng sợ, 18% (187) lo âu, 18% (186) trầm cảm và
Trong số 3.166 bài báo được tìm thấy trên 3 nguồn dữ liệu 10% (101) cảm giác tội lỗi. Một số ít báo cáo về cảm nhận
là MEDLINE, PsycINFO và Web of Science, có 24 bài được tích cực của người bị cách ly, gồm 5% (48) cho biết có cảm
đưa vào phân tích/ đánh giá và những nghiên cứu này được nhận hạnh phúc và 4% (43) cảm thấy nhẹ nhõm. Nhiều ng-
thực hiện trên 10 quốc gia với các cá nhân bị SARS (11 ng- hiên cứu định tính cũng cho thấy những phản ứng tiêu cực
hiên cứu), Ebola (5 nghiên cứu), đại dịch cúm H1N1 năm khi bị cách ly như bối rối, sợ hãi, tức giận, đau buồn và mất
2009, 2010 (3 nghiên cứu), hội chứng hô hấp Trung Đông (2 ngủ do lo lắng (Reynolds DL và cs, 2008; Braunack ¬May-
nghiên cứu) và dịch cúm ngựa (01 nghiên cứu). Một trong er A và cs 2013; Cava MA và cs, 2005; Pan PJD và cs 2005;
các nghiên cứu này liên quan đến cả H1N1 và SARS. Caleo G và cs, 2018; DiGiovanni C và cs, 2003; Pan P. J. D và
cs 2005; Pellecchia U và cs 2015; Caleo G và cs, 2018; Cava
Tác động tâm lý của việc cách ly MA và cs, 2005; Wang Y và cs, 2011; Desclaux A và cs, 2017).

Năm nghiên cứu so sánh kết quả tâm lý của người cách Một nghiên cứu trên hai nhóm sinh viên đã từng bị cách
ly với người không bị cách ly (Bai Y và cs, 2004; Liu X và cs, ly và không bị cách ly cho thấy không có sự khác biệt gì
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 29
đáng kể về triệu chứng stress hậu sang chấn hoặc các vấn (Hawryluck L và cs, 2004; Jeong H, Yim HW và cs, 2016;
đề về sức khỏe tâm thần tổng quát. Tuy nhiên, nghiên cứu Reynolds DL và cs, 2004).
này chưa đủ mẫu đại diện cho toàn bộ học sinh, sinh viên
nên có lẽ chưa khái quát hết và những kết luận này là chưa Các yếu tố gây căng thẳng khi cách ly
đầy đủ (Jeong H và cs, 2016; Wang Y và cs, 2009).
Kéo dài thời hạn cách ly
Chỉ có một nghiên cứu so sánh những hậu quả về tâm Các nghiên cứu cho thấy rằng thời gian cách ly kéo dài
lý trong suốt thời gian cách ly và một thời gian sau đó, có thể dẫn tới các vấn đề sức khoẻ tâm thần trầm trọng
kết quả chỉ ra rằng trong suốt thời gian cách ly có khoảng hơn và gia tăng các triệu chứng stress hậu sang chấn, các
7% (126 trong số 1.656) có triệu chứng rối loạn lo âu, hành vi né tránh xã hội và cảm xúc âm tính. Một số nghiên
17% (275) cảm thấy tức giận, trong khi 4 đến 6 tháng sau cứu đã chỉ ra rằng những người cách ly hơn 10 ngày sẽ
cách ly các triệu chứng này đã giảm xuống 3% (lo âu) và có các triệu chứng stress hậu sang chấn cao hơn so với
6% (tức giận). Hai nghiên cứu báo cáo những hậu quả lâu những người bị cách ly ít hơn 10 ngày (Hawryluck L và cs,
dài của việc cách ly. Sau 3 năm bùng phát dịch SARS, lạm 2004; Marjanovic Z và cs, 2007; Reynolds DL và cs, 2008).
dụng rượu hoặc các triệu chứng lệ thuộc chất có mối liên
hệ với việc bị cách ly ở những nhân viên y tế. Trong một Lo sợ lây nhiễm
phân tích đa biến, sau khi kiểm soát các biến nhân khẩu, Trong tám nghiên cứu cho rằng những người cách ly
hai yếu tố cách ly và đã từng làm việc trong môi trường thường luôn sợ hãi về sức khoẻ của bản thân và sợ lây
nguy cơ cao là hai biến có liên quan đáng kể với những nhiễm cho người khác, nhất là các thành viên trong gia
hậu quả về tâm lý (Wu P, Liu X, Fang Y, và cs, 2008). đình. Đặc biệt, họ lo lắng nhiều hơn khi bản thân có bất kỳ
triệu chứng cơ thể nào có liên quan đến lây nhiễm, sợ các
Sau cách ly, nhiều người tiếp tục gia tăng các hành vi triệu chứng có thể kéo dài và điều này có liên quan đến
né tránh. Đối với các nhân viên y tế, kể từ ngay khi bị cách các hậu quả tâm lý sau đó nhiều tháng. Các nhóm nhiều
ly đã có những dấu hiệu của hành vi né tránh, như giảm lo âu hơn cả là nhóm phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi
thiểu tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân và trì hoãn báo con nhỏ (Blendon RJ và cs, 2004; Braunack¬Mayer A và cs,
cáo công việc với đồng nghiệp/cấp trên. Một nghiên cứu 2004; Jeong H và cs, 2016; Desclaux A và cs, 2017).
khác cho thấy, người bị cách ly bởi nguy cơ mắc SARS ghi
nhận có khoảng 54% (524 trong số 1.057) tránh né những Thất vọng và chán nản
người có triệu chứng của SARS, 26% (255) tránh những Một số nghiên cứu cho thấy, việc bị cách ly có thể gây
chỗ đông người, nơi khép kín và 21% (204) tránh mọi nên sự buồn chán, thất vọng và cảm giác cô lập, đau khổ.
không gian công cộng sau thời gian cách ly. Một nghiên Những cảm xúc và tâm trạng ngày càng trầm trọng do
cứu định tính cho thấy, những người bị cách ly có nhiều người bị cách ly không thể tham gia các sinh hoạt thường
thay đổi về hành vi dài lâu về sau như rửa tay kỹ lưỡng ngày, như đi mua sắm các nhu yếu phẩm hoặc tham gia
và tránh đám đông, nhiều người trở lại trạng thái bình vào các kết nối xã hội thông qua điện thoại hoặc internet
thường phải mất rất nhiều tháng sau đó (Marjanovic Z và (Blendon RJ và cs, 2004; Braunack¬Mayer A và cs, 2013;
cs, 2007; Reynolds DL và cs, 2008; Cava MA và cs, 2005). Cava MA và cs, 2017; Hawryluck L và cs, 2004; Jeong H và
cs, 2016; Reynolds DL và cs, 2008; Robertson E và cs, 2004;
Các dự báo tiền cách ly về tác động tâm lý Wilken JA và cs, 2017).

Liệu rằng các đặc trưng và yếu tố nhân khẩu của người Nguồn cung cấp không đầy đủ
bị cách ly có phải là các yếu tố dự báo về hậu quả tâm lý Không có đủ các nhu yếu phẩm cơ bản như thực phẩm,
hay không? Một nghiên cứu trên nhóm những người nuôi nước uống, quần áo, chỗ ở trong thời gian cách ly gây ra
ngựa bị cách ly bởi dịch cúm ngựa đã xác định các đặc sự thất vọng lớn cho cá nhân (Blendon RJ và cs, 2004;
điểm liên quan đến các hậu quả tâm lý tiêu cực như lứa Wilken JA và cs, 2017) và những cảm xúc này có thể kéo
tuổi (16-24 tuổi), trình độ học vấn thấp, giới nữ, có một dài kể cả sau 4 đến 6 tháng sau khi hết cách ly (Jeong H và
con. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cho rằng các yếu tố cs, 2016). Đồng thời, việc không được cung cấp các dịch
nhân khẩu như tình trạng hôn nhân, tuổi tác, trình độ học vụ y tế thường xuyên cũng là vấn đề lớn đối với người bị
vấn, sinh sống cùng người khác và có con đều không liên cách ly (Blendon RJ và cs, 2004). Có bốn nghiên cứu cho
quan đến các hậu quả về tâm lý (Hawryluck L và cs, 2004; thấy, đa số người cách ly cho rằng họ không được cung
Taylor MR và cs, 2008). cấp đầy đủ về vật tư y tế, thực phẩm, nước uống và điều
này làm gia tăng các cảm xúc tiêu cực/ âm tính (DiGiovan-
Người có tiền sử bệnh tâm thần có khả năng sẽ trải ni C và cs, 2004; Cava MA và cs, 2005; Pellecchia U và cs,
qua lo âu sau 4 đến 6 tháng sau khi kết thúc cách ly. Các 2015; Caleo G và cs, 2018).
nhân viên y tế bị cách ly có nhiều triệu chứng stress hậu
sang chấn trầm trọng hơn các nhóm cộng đồng khác Thông tin không đầy đủ
cũng bị cách ly. Các nhân viên y tế cũng cảm thấy mình Nhiều người bị cách ly cho rằng, các thông tin từ cơ
bị định kiến bởi việc nhiễm bệnh cao hơn các nhóm cộng quan y tế rất ít làm cho họ căng thẳng, lo lắng, nhiều
đồng khác. Họ cũng gia tăng các hành vi né tránh xã hội, người thì cho rằng, các thông tin không rõ ràng cũng làm
mất thu nhập hơn và có nhiều hậu quả hơn về mặt tâm họ hoang mang, nhất là khi họ không hiểu rõ mục đích
lý như tức giận nhiều hơn, khó chịu, sợ hãi, thất vọng, tội của việc cách ly (Braunack¬Mayer A và cs, 2013; Cava MA
lỗi, bất lực, cô lập, cô đơn, hồi hộp, buồn chán, lo âu, cảm và cs, 2005; DiGiovanni C và cs, 2003; Pellecchia U và cs,
nhận hạnh phúc kém. Các nhân viên y tế cũng lo lắng việc 2015; Robertson E và cs, 2004). Sau dịch SARS ở Canada,
mình bị mắc SARS có thể nhiễm cho người khác, nhất là những nhà nghiên cứu thấy rằng, sự hoang mang lo lắng
những người thân trong gia đình và bệnh nhân của họ của những người bị cách ly có nguyên nhân từ việc khác

30 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


biệt về phong cách, cách tiếp cận và nội dung của các thông cho rằng, sự kỳ thị có thể dẫn đến việc tước quyền của các
điệp về sức khoẻ rất khác nhau từ các cơ quan y tế, các cơ nhóm thiểu số trong cộng đồng vì họ cũng thường thuộc
quan chính phủ (DiGiovanni C, Conley J, Chiu D, Zaborski J, về các nhóm dân tộc, bộ lạc hoặc tôn giáo khác và bị coi
2004). Nhiều người bị cách ly cho rằng, việc thiếu hoặc hiểu là nguy hiểm vì sự khác biệt của họ. Có thể, vì sự kỳ thị mà
không rõ ràng về các cấp độ nguy cơ của dịch bệnh dẫn những người mắc Ebola thường giữ bí mật và tự điều trị,
tới sự lo sợ những điều tồi tệ dẫn đến cho họ.14 Việc thiếu hoặc tự tìm sự giúp đỡ cá nhân chứ không tìm đến các cơ
minh bạch và không hướng dẫn rõ ràng từ các cơ quan y tế sở y tế (Pellecchia U, Crestani R, Decroo T, Van den Bergh R,
và chính phủ về tính nghiêm trọng của đại dịch cũng làm gia Al¬Kourdi Y, 2015).
tăng khủng hoảng (Braunack¬Mayer A và cs, 2013; Reynolds
DL và cs, 2008). Việc xây dựng chiến lược giáo dục tổng quát để cung cấp
thông tin y tế công cộng và cách thức cách ly hợp lý có thể
Các yếu tố gây căng thẳng hậu cách ly giảm sự kỳ thị. Các cơ quan y tế công cộng cần phải cung
cấp thông tin dịch bệnh một cách nhanh chóng, rõ ràng và
Tài chính truyền thông hiệu quả đến toàn bộ cộng đồng thúc đẩy sự
Khủng hoảng về tài chính có thể là một vấn đề lớn với hiểu biết chính xác về tình hình dịch bệnh (Person B, Sy F,
nhiều người khi mà bị cách ly đồng nghĩa với việc phải dừng Holton K, và cs, 2004).
lại các công việc có thu nhập và việc này có thể là vấn đề
lâu dài. Trong những nghiên cứu được xem xét, việc cách Có thể làm gì để giảm nhẹ hậu quả cách ly?
ly dài ngày làm gia tăng tình trạng thất nghiệp và tạo ra sự
khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, đây được coi Khi dịch bệnh bùng phát và lây nhiễm cộng đồng lớn
là yếu tố nguy cơ đối với các triệu chứng rối loạn tâm thần thì việc cách ly có thể là biện pháp ngăn ngừa hiệu quả.
sau nhiều tháng kết thúc cách ly (Mihashi M và cs, 2009; Tuy nhiên, nghiên cứu tổng hợp này cho thấy, việc cách ly
Pellecchia U và cs, 2015; Jeong H và cs, 2016). Trong một thường dẫn tới các hậu quả tâm lý tiêu cực. Ngoài những
nghiên cứu cho thấy những người chủ nuôi ngựa bị cách ly ảnh hưởng ngay trong thời gian cách ly thì những hậu quả
vì bệnh cúm ngựa có khả năng khủng hoảng cao hơn gấp 2 lâu dài cũng có thể ảnh hưởng sau vài tháng hay vài năm
lần so với những người không làm trong ngành. Phát hiện (Liu X và cs, 2012; Jeong H và cs, 2016). Những tác động lâu
này có lẽ liên quan đến các tác động về kinh tế nhưng cũng dài này dẫn tới sự khó khăn trong hỗ trợ và rất phức tạp, vì
có thể liên quan đến sự gián đoạn các kết nối xã hội và các thế cần phải đảm bảo các biện pháp giảm nhẹ có hiệu quả
hoạt động giải trí của ngành (Taylor MR, Agho KE, Stevens ngay tại thời điểm cách ly. Nghiên cứu trên đây đã tổng hợp
GJ, Raphael B., 2008). các bằng chứng rõ ràng về hậu quả tâm lý của việc cách ly,
tuy nhiên các yếu tố của bối cảnh này chỉ được coi như yếu
Một nghiên cứu khác trên những người bị cách ly khi tiếp tố ảnh hưởng đến các rối loạn tâm thần chứ không phải
xúc với bệnh nhân Ebola cho rằng họ đã nhận được hỗ trợ nguyên nhân chắc chắn. Hơn thế, nhiều cá nhân có thể có
tài chính nhưng không đủ và nguồn hỗ trợ đến khá trễ và các rối loạn tâm thần từ trước đó và việc cách ly chỉ như một
không đủ trang trải chi phí khi phải nghỉ làm vì cách ly. Trong yếu tố kích hoạt, làm gia tăng tình trạng của họ mà thôi (Cu-
một nghiên cứu tương tự cho thấy, những người bị cách ly kor J và cs, 2011). Nghiên cứu tổng hợp cũng cho thấy một
tại Toronto trong thời gian dịch bệnh SARS được hỗ trợ về tỷ lệ không nhỏ nhân viên y tế có các hậu quả tiêu cực về
tài chính nhưng nguồn hỗ trợ đến trễ cũng làm họ rất khó tâm lý và nhóm đối tượng này cần phải được hỗ trợ từ các
khăn. Các nghiên cứu khác nhau đều cho thấy, việc tổn thất nhà quản lý để có thể trở lại công việc một cách an toàn nhất
tài chính kéo dài có liên quan đến triệu chứng trầm cảm và (Brooks SK, Dunn R, Amlôt R, Rubin GJ, Greenberg N., 2018).
stress hậu sang chấn (Hawryluck L và cs, 2004; Cava MA và
cs, 2005; Desclaux A và cs, 2017). Kiểm tra và hỗ trợ sức khoẻ tâm thần với những người bị
cách ly
Kỳ thị Cần đánh giá tình trạng sức khoẻ tâm thần, thậm chí
Sự kỳ thị và định kiến với những người bị cách ly là chủ đề kiểm tra tình trạng rối loạn tâm thần của những người cách
xuyên suốt các nghiên cứu và thường tiếp tục kéo dài ngay ly y tế (kể cả nhân viên y tế) để có thể có sự hỗ trợ đặc biệt.
cả sau khi họ dừng cách ly và bùng phát dịch kết thúc. Trong Điều này được lý giải là những người có vấn đề sức khoẻ tâm
một nghiên cứu giữa nhân viên y tế bị cách ly và những thần thường có nguy cơ khủng hoảng cao hơn những người
người không bị cách ly cho thấy, nhân viên y tế bị cách ly có không có vấn đề sức khoẻ tâm thần khi cách ly. Vì thế, cũng
khả năng cao bị kỳ thị và sau đó, họ bị bệnh nhân từ chối các cần phải có các chuyên gia trong lĩnh vực sức khoẻ tâm thần
dịch vụ hoặc sợ hãi khi tiếp túc trực tiếp (Bai Y và cs, 2004; trong các khu vực cách ly hoặc các khu phong toả hay kiểm
Cava MA và cs, 2005; Hawryluck L và cs, 2004; Lee S, và cs, soát dịch bệnh.
2005; Maunder R và cs, 2003; Pan PJD và cs, 2005; Robertson
E và cs, 2004; Wester M và cs, 2019; Wilken JA và cs, 2017). Cách ly càng ngắn càng tốt
Việc hạn chế kéo dài thời gian cách ly (nhưng phải phù
Nhiều nhân viên y tế liên quan đến sự bùng phát dịch hợp với các khuyến cáo khoa học về thời gian có thể ủ bệnh)
Ebola ở Senegal báo cáo rằng cách ly đã dẫn đến việc gia giúp phòng ngừa các hậu quả tâm lý tiêu cực cũng như các
đình nhìn nhận công việc của họ là quá rủi ro, tạo ra sự căng hạn chế khác. Việc kéo dài thời gian cách ly hay giãn cách
thẳng trong gia đình. Ba nhân viên y tế trong nghiên cứu xã hội có thể làm gia tăng sự thất vọng hoặc khủng hoảng
trên cho rằng, họ phải nghỉ hẳn công việc của mình do bệnh tinh thần (Rona RJ, Fear NT, Hull L và cs, 2007). Hơn thế, việc
nhân của họ sợ bị lây nhiễm dịch bệnh từ họ (Desclaux A, giãn cách xã hội toàn thành phố mà không có giới hạn thời
Badji D, Ndione AG, Sow K., 2017). gian rõ ràng (như đã thấy ở Vũ Hán, Trung Quốc) có thể gây
khủng hoảng nhiều hơn các biện pháp cách ly nghiêm ngặt
Những người bị cách ly trong đợt dịch Ebola ở Liberia với những người có nguy cơ (F1, F2).

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 31


Cung cấp thông tin cho mọi người chính xác nhất có căng thẳng và thấy tích cực hơn. Trong suốt các đợt bùng
thể phát bệnh dịch lây nhiễm, sự hỗ trợ của tổ chức cho thấy
Những người đang cách ly thường sợ bị lây nhiễm hoặc có tác dụng bảo vệ sức khỏe tâm thần cho nhân viên y tế
lây nhiễm cho người khác, họ cũng thường có các đánh nói chung. Các nhà quản lý nên thực hiện các bước nhằm
giá tiêu cực với bất cứ triệu chứng thể chất nào trong suốt giúp cho các cộng sự/ nhân viên của mình ủng hộ, hỗ trợ
thời gian cách ly. Sự lo sợ này là khá phổ biến với tất cả các đồng nghiệp đang bị cách ly. Đồng thời, có thể kết
những người có nguy cơ (tiếp xúc gần) với người dương nối với các tổ chức hay các tình nguyện viên để có các mô
tính và sự lo sợ này trở nên nghiêm trọng do thông tin hình/ chiến lược chăm sóc sức khoẻ tâm thần, cảm xúc xã
không đầy đủ từ các cơ quan y tế công cộng. Vì thế, việc hội cho đội ngũ nhân viên y tế, những người đang trong
đảm bảo những thông tin một cách rõ ràng, nhanh chóng tuyến đầu chống dịch.
về tình hình dịch bệnh và bệnh lý cần phải được đảm bảo
và ưu tiên. Lòng vị tha tốt hơn ép buộc
Chưa có một nghiên cứu nào so sánh việc cách ly bắt
Cung cấp vật dụng đầy đủ buộc và tự nguyện có những khác biệt gì. Tuy nhiên, trong
Các cơ quan chức năng cần bảo đảm về việc cung cấp bối cảnh dịch bệnh gia tăng, cảm nhận được giúp đỡ/
các vật dụng đầy đủ cho người/ hoặc gia đình bị cách ly, hay mang lại lợi ích cho người khác nếu mình đi cách ly
đặc biệt các vật dụng cơ bản và phải càng nhanh càng tốt. (tự nguyện) có thể làm người cách ly giảm căng thẳng và
Xây dựng kế hoạch đảm bảo nhu cầu cần thiết cho người điều này có thể đúng với những trường hợp cách ly tại
dân phải đồng thời với kế hoạch cách ly và phải bảo đảm nhà. Nâng cao nhận thức rằng, cách ly sẽ giúp an toàn
sự phân bố lâu dài không bị cạn kiệt. Việc cung cấp đủ cho người khác, kể cả những người dễ tổn thương (như
về các nhu yếu phẩm và các vật tư y tế cũng như dịch vụ trẻ em, người già hoặc người có bệnh nền) và ngành y tế
y tế đảm bảo giúp cá nhân tốt hơn (Manuell M¬E, Cukor thực sự mang ơn họ vì đã giúp giảm tác động của việc
J., 2011). cách ly đến hậu quả tâm thần cũng như việc tuân thủ
hành động cách ly. Tuy nhiên, nếu việc cách ly tự nguyện
Giảm sự nhàm chán và cải thiện giao tiếp nhưng người cách ly lại không nhận được sự hỗ trợ thích
Sự nhàm chán và cô lập sẽ gây ra đau khổ. Vì thế, đáng và giúp họ an toàn thì cũng có thể làm họ gia tăng
người cách ly cần được hướng dẫn các hoạt động và lịch những cảm nhận tiêu cực (Liu X, Kakade M, Fuller CJ và cs,
trình làm giảm sự nhàm chán, đồng thời cung cấp các 2012; Wu P, Fang Y, Guan Z và cs, 2009).
chiến lược giúp họ có kỹ thuật ứng phó và quản lý căng
thẳng. Việc kích hoạt các hoạt động kết nối xã hội, mặc Những điều cần nghiên cứu thêm
dù thông qua trực tuyến hay điện thoại là rất quan trọng,
không chỉ giúp phòng ngừa các khủng hoảng tức thời mà Cách ly y tế có lẽ là một biện pháp y tế công cộng
còn phòng ngừa các tổn thương xa hơn. Một nghiên cứu ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh một cách hiệu quả, tuy
đã chỉ ra rằng nếu có một đường dây hỗ trợ được cung nhiên nó lại mang lại nhiều hậu quả tâm lý tiêu cực. Vì
cấp bởi các nhân viên chăm sóc sức khoẻ tâm thần cho thế, liệu có một biện pháp y tế công cộng hiệu quả nào
những người cách ly có thể mang lại rất nhiều hiệu quả khác hơn việc phải cách ly hay không? Điều này cần được
cho họ (Manuell M¬E, Cukor J., 2011; Jeong H và cs, 2016; nghiên cứu trong tương lai.
Maunder R và cs, 2003; Rubin GJ và cs, 2005).
Mặc dù nghiên cứu này có sự cố gắng rất lớn nhưng vì
Việc tương tác với gia đình và bạn bè của người bị được thực hiện trong thời gian bùng phát dịch COVID-19
cách ly cũng rất cần thiết, việc kết nối này giúp cho họ nên các dữ liệu nghiên cứu có thể chưa đầy đủ. Các khu-
được giao tiếp với những người ở xa, cho phép họ cập yến nghị đưa ra chủ yếu áp dụng cho những nhóm dân cư
nhật về người thân và hoàn cảnh ở nhà, điều này giúp họ nhỏ hoặc mở rộng cho một số cá nhân tự cách ly tại nhà,
được an tâm. Do đó, cung cấp cho những người bị cách ly vì thế việc mở rộng ra quy mô lớn cũng cần xem xét thêm.
điện thoại di động và kết nối wifi để truy cập internet có Hơn thế, sự khác biệt về văn hoá nên có thể chưa phù
thể giúp họ giảm cảm giác bị cô lập, căng thẳng và hoảng hợp với nhiều bối cảnh, chúng tôi chỉ đưa ra các khuyến
sợ (Manuell M¬E, Cukor J., 2011). nghị chung nhất và cần được xem xét một cách cụ thể cho
từng vùng văn hoá khác nhau.
Điều quan trọng nữa là các nhân viên y tế công cộng
cần duy trì đường dây liên lạc rõ ràng với người cách ly Nghiên cứu này cũng có nhiều trở ngại khi tiếp cận
và hướng dẫn họ về những việc phải làm nếu gặp bất kỳ với thời gian, cỡ mẫu, phương pháp chưa đồng nhất cho
triệu chứng nào. Đường dây thiết lập này và những hướng nên có những khó khăn trong thống nhất các dữ liệu và
dẫn cụ thể của nhân viên y tế giúp người bị cách ly có khuyến nghị. Nhiều nghiên cứu sử dụng các thang đánh
được sự trấn an, họ thấy mình được quan tâm và không giá stress hậu sang chấn chưa đảm bảo theo tiêu chuẩn
bị lãng quên. của DSM5 (chưa được cập nhật).

Nhân viên chăm sóc y tế xứng đáng được quan tâm Kết luận
đặc biệt
Nhân viên y tế là đối tượng có nguy cơ bị cách ly rất Nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu này cho rằng có
cao và nghiên cứu này cho thấy họ cũng như cộng đồng những tác động đến tâm lý một cách tiêu cực của những
phải chịu sự kỳ thị từ những người xung quan khi mà bị người bị cách ly trên diện rộng và có thể kéo dài. Tuy
cách ly y tế. Việc bị tách khỏi môi trường làm việc quen nhiên, điều này không có nghĩa là cách ly không được sử
thuộc có thể làm cho họ gia tăng cảm giác bị cô lập, do dụng, vì hậu quả của việc không sử dụng phương pháp
đó việc được hỗ trợ từ các đồng nghiệp sẽ giúp họ giảm cách ly làm cho dịch bệnh lây lan có thể nguy hiểm hơn

32 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


(Hull HF., 2005). Việc tước bỏ quyền tự do của con người và cách ly y tế; b) Cần phải bố trí đảm bảo các nguồn
vì lợi ích của cộng đồng thường gây ra tranh cãi và cần cung cấp về y tế và thực phẩm, nhu yếu phẩm đầy đủ cho
được xử lý cẩn thận. Nếu cách ly là cần thiết, thì nghiên người bệnh và người bị cách ly; c) Cần chú ý đến đời sống
cứu của chúng tôi cho rằng chính phủ nên thực hiện mọi văn hoá - tinh thần của người bệnh và người bị cách ly,
biện pháp để đảm bảo trải nghiệm này có thể chấp nhận đồng thời tổ chức các hoạt động xã hội giúp người bệnh,
được đối với người bị cách ly. Việc này có thể thực hiện người bị cách ly thấy cân bằng, duy trì lối sống tích cực
được bằng cách: cho người bị cách ly hiểu được chuyện và chống đỡ khủng hoảng/lo lắng; d) Tạo điều kiện cho
gì đang xảy ra và tại sao, việc cách ly có thể kéo dài bao những người cách ly và bệnh nhân cơ hội kết nối xã hội
lâu, cung cấp cho họ các hoạt động có ý nghĩa để họ làm với người thân, bạn bè, đồng nghiệp ở bên ngoài thông
khi cách ly, truyền thông một cách rõ ràng; các vật dụng qua công nghệ. Thậm chí nhiều người khoẻ mạnh vẫn có
cơ bản (như thực phẩm, nước uống và vật tư y tế) phải có thể làm việc từ xa.
sẵn và củng cố cảm nhận lòng vị tha ở người bị cách ly.
Cũng cần chú ý đến việc làm cho người bị cách ly sau khi Thứ ba, ngành y tế công cộng cần xây dựng hệ thống
kết thúc dịch bệnh và chú ý đến các hậu quả dài hạn mà cung cấp thông tin một cách hệ thống và chuyên nghiệp
họ có thể gặp phải. Hệ thống y tế và chính phủ cần chú ý hơn. Theo chúng tôi cần cụ thể hoá qua các hình thức: a)
đến những khía cạnh này nhiều hơn. Có một tổng đài tiếp nhận các thông tin từ các khu cách
ly và khu điều trị bệnh nhân dương tính. Tổng đài này sẽ
Một vài khuyến nghị trong bối cảnh Việt Nam do các nhân viên y tế công cộng đa ngành tiếp nhận và
tư vấn; b) Phát triển các sổ tay hoặc kênh youtube, Face-
Thứ nhất, chúng tôi cho rằng các địa phương cần phải book,… dành cho bệnh nhân dương tính và người cách ly
tính toán kỹ hơn trước khi ra quyết định thực hiện giãn y tế. Trên các nền tảng này cung cấp thông tin một cách
cách xã hội, nhất là giãn cách xã hội dài ngày. Việc giãn cơ bản và dễ hiểu nhất để người dân có thể tiếp cận, đồng
cách không xác định rõ thời gian và với phạm vi rộng sẽ thời hướng dẫn các kỹ thuật chống đỡ với khủng hoảng/
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội và tinh thần của stress một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
cộng đồng.
Thứ tư, cần chú ý đến các nguồn lực y tế để họ có thể
Thứ hai, việc cách ly y tế có thể là cần thiết với một số giảm bớt các khủng hoảng và tình trạng kiệt sức. Hơn
trường hợp để có thể bóc tách nhóm nguy cơ nhiễm ra thế, đã đến lúc cần hướng đến việc giúp họ cảm nhận sự
khỏi cộng đồng. Tuy nhiên, việc cách ly cũng cần phải cân hài lòng trong công việc thông qua chính sách phân bổ
nhắc và có thể tính đến việc cách ly y tế tại nhà với các nguồn lực y tế hợp lý, hỗ trợ tài chính và giúp họ yên tâm
trường hợp phù hợp. Cần phải xây dựng nhiều mô hình trong công việc của mình. Trong lúc chúng ta đang dành
cách ly y tế với các mức độ khác nhau, điều này làm giảm nhiều nguồn lực cho các nhóm cộng đồng khác nhau thì
gánh nặng tài chính và nguồn lực của nhà nước, đồng thời nhân viên y tế càng phải được quan tâm chăm sóc hàng
giúp cho người dân có các cơ hội tiếp cận nhiều sự hỗ trợ đầu. Các vấn đề có thể làm họ gia tăng căng thẳng bao
đa dạng. Trong các cơ sở cách ly và điều trị bệnh nhân gồm lo sợ bị nhiễm COVID-19, kiệt sức nghề nghiệp, cảm
dương tính cần chú ý đến các khía cạnh sau: a) Ngoài bố nhận sự thất bại và gia tăng sự không hài lòng, lo âu cho
trí đủ nguồn lực y tế thì cũng cần phải bố trí nguồn nhân người thân ở nhà,…
sự chăm sóc sức khoẻ tâm thần đầy đủ (bác sĩ tâm thần,
nhà tâm lý trong chăm sóc sức khoẻ tâm thần ban đầu Thứ năm, cần phải có một nghiên cứu về sức khoẻ tâm
và chăm sóc chuyên sâu, nhân viên công tác xã hội lâm thần, các yếu tố ảnh hưởng của các nhóm cộng đồng như
sàng). Trong bối cảnh ở Việt Nam thì cần huy động tình người bị cách ly, người bệnh nhân dương tính COVID-19,
nguyện viên, có thể các tình nguyện viên là những người nhân viên y tế để có thể có các chiến lược hỗ trợ một cách
ở trình độ cử nhân và phải được đào tạo, giám sát trước phù hợp, tích cực trong bối cảnh của Việt Nam.
khi thực hành cung cấp dịch vụ trong các cơ sở điều trị

TÀI LIỆU THAM KHẢO


American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders: DSM¬5. Arlington, VA:
American Psychiatric Association.
Alvarez J, Hunt M. Risk and resilience in canine search and rescue handlers after 9/11. J Trauma Stress 2005; 18: 497–505.
Barbisch D, Koenig KL, Shih FY (2015). Is there a case for quarantine? Perspectives from SARS to Ebola. Disaster Med
Public Health Prep; 9: 547–53.
Bai Y, Lin C¬C, Lin C¬Y, Chen J¬Y, Chue C¬M, Chou P (2004). Survey of stress reactions among health care workers
involved with the SARS outbreak. Psychiatr Serv; 55: 1055–57.
Blendon RJ, Benson JM, DesRoches CM, Raleigh E, Taylor¬Clark K (2004). The public’s response to severe acute respira-
tory syndrome in Toronto and the United States. Clin Infect Dis; 38: 925–31.
Braunack¬Mayer A, Tooher R, Collins JE, Street JM, Marshall H (2013). Understanding the school community’s response
to school closures during the H1N1 2009 in uenza pandemic. BMC Public Health; 13: 344.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 33


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Brooks SK, Dunn R, Amlôt R, Rubin GJ, Greenberg N (2018). A systematic, thematic review of social and occupational fac-
tors associated with psychological outcomes in healthcare employees during an infectious disease outbreak. J Occup
Environ Med ; 60: 248–57.
Caleo G, Duncombe J, Jephcott F, et al (2018). The factors a ecting household transmission dynamics and communi-
ty compliance with Ebola control measures: a mixed¬methods study in a rural village in Sierra Leone. BMC Public
Health; 18: 248.
Cava MA, Fay KE, Beanlands HJ, McCay EA, Wignall R (2005). The experience of quarantine for individuals a ected by
SARS in Toronto. Public Health Nurs; 22: 398–406.
Centers for Disease Control and Prevention (CDC, 2017). Quarantine and isolation. 2017. https://www.cdc.gov/quaran-
tine/index.html (accessed Jan 30, 2020).
Cukor J, Wyka K, Jayasinghe N, et al (2011). Prevalence and predictors of posttraumatic stress symptoms in utility workers
deployed to the World Trade Center following the attacks of September 11, 2001. Depress Anxiety; 28: 210–17.
Desclaux A, Badji D, Ndione AG, Sow K (2017). Accepted monitoring or endured quarantine? Ebola contacts’ perceptions
in Senegal. Soc Sci Med; 178: 38–45.
DiGiovanni C, Conley J, Chiu D, Zaborski J (2004). Factors in uencing compliance with quarantine in Toronto during the
2003 SARS outbreak. Biosecur Bioterror; 2: 265–72.
Jeong H, Yim HW, Song Y¬J, et al (2016). Mental health status of people isolated due to Middle East respiratory syn-
drome. Epidemiol Health; 38: e2016048.
Hawryluck L, Gold WL, Robinson S, Pogorski S, Galea S, Styra R. (2004). SARS control and psychological e ects of quar-
antine, Toronto, Canada. Emerg Infect Dis; 10: 1206–12.
Newman K (2012). Shutt up: bubonic plague and quarantine in early modern England. J Sol Hist; 45: 809–34.
Manuell M¬E, Cukor J., (2011). Mother Nature versus human nature: public compliance with evacuation and quarantine.
Disasters; 35: 417–42.
Miles SH (2020). Kaci Hickox: public health and the politics of fear. 2014. http://www.bioethics.net/2014/11/kaci¬hickox¬-
public¬health¬and¬the¬ politics¬of¬fear/ (accessed Jan 31, 2020).
Lee S, Chan LY, Chau AM, Kwok KP, Kleinman A (2005). The experience of SARS¬related stigma at Amoy Gardens. Soc Sci
Med; 61: 2038–46.
Liu X, Kakade M, Fuller CJ, et al (2012). Depression after exposure to stressful events: lessons learned from the severe
acute respiratory syndrome epidemic. Compr Psychiatry; 53: 15–23.
Marjanovic Z, Greenglass ER, Coey S (2007). The relevance of psychosocial variables and working conditions in predicting
nurses’ coping strategies during the SARS crisis: an online questionnaire survey. Int J Nurs Stud 2007; 44: 991–98.
Maunder R, Hunter J, Vincent L, et al. The immediate psychological and occupational impact of the 2003 SARS outbreak
in a teaching hospital. CMAJ 2003; 168: 1245–51.
Mihashi M, Otsubo Y, Yinjuan X, Nagatomi K, Hoshiko M, Ishitake T. Predictive factors of psychological disorder devel-
opment during recovery following SARS outbreak. Health Psychol 2009; 28: 91–100.
Pan PJD, Chang S¬H, Yu Y¬Y (2005). A support group for home¬ quarantined college students exposed to SARS: learning
from practice. J Spec Group Work ; 30: 363–74.
Pellecchia U, Crestani R, Decroo T, Van den Bergh R, Al¬Kourdi Y (2015). Social consequences of Ebola containment mea-
sures in Liberia. PLoS One; 10: e0143036.
Person B, Sy F, Holton K, et al (2004). Fear and stigma: the epidemic within the SARS outbreak. Emerg Infect Dis; 10:
358–63.
Public Health England. Novel coronavirus (2019¬nCoV) – what you need to know. 2020. https://publichealthmatters.blog.
gov.uk/ 2020/01/23/wuhan¬novel¬coronavirus¬what-you¬need¬to¬know/ (accessed Jan 31, 2020).
Rona RJ, Fear NT, Hull L, et al (2007). Mental health consequences of overstretch in the UK armed forces: rst phase of a
cohort study. BMJ; 335: 603.
Rubin GJ, Brewin CR, Greenberg N, Simpson J, Wessely S (2005). Psychological and behavioural reactions to the bomb-
ings in London on 7 July 2005: cross sectional survey of a representative sample of Londoners. BMJ; 331: 606.

34 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Rubin GJ, Harper S, Williams PD, et al (2016). How to support sta deploying on overseas humanitarian work: a qualitative
analysis of responder views about the 2014/15 West African Ebola outbreak. Eur J Psychotraumatol; 7: 30933.
Rubin GJ, Wessely S (2020). The psychological e ects of quarantining a city. BMJ; 368: m313.
Reynolds DL, Garay JR, Deamond SL, Moran MK, Gold W, Styra R (2008). Understanding, compliance and psychological
impact of the SARS quarantine experience. Epidemiol Infect; 136: 997–1007.
Robertson E, Hershen eld K, Grace SL, Stewart DE (2004).The psychosocial e ects of being quarantined following expo-
sure to SARS: a qualitative study of Toronto health care workers. Can J Psychiatry; 49: 403–07.
Sprang G, Silman M (2013). Posttraumatic stress disorder in parents and youth after health-related disasters. Disaster Med
Public Health Prep; 7: 105–10.
Taylor MR, Agho KE, Stevens GJ, Raphael B (2008). Factors in uencing psychological distress during a disease epidemic:
data from Australia’s rst outbreak of equine in uenza. BMC Public Health; 8: 347.
Wang Y, Xu B, Zhao G, Cao R, He X, Fu S (2011). Is quarantine related to immediate negative psychological consequences
during the 2009 H1N1 epidemic? Gen Hosp Psychiatry; 33: 75–77.
Wester M, Giesecke J (2019). Ebola and healthcare worker stigma. Scand J Public Health; 47: 99–104. Wilken JA, Pordell
P, Goode B, et al (2017). Knowledge, attitudes, and practices among members of households actively monitored or
quarantined to prevent transmission of Ebola virus disease–Margibi County, Liberia: February–March 2015. Prehosp
Disaster Med 32: 673–78.
Wu P, Liu X, Fang Y, et al (2008). Alcohol abuse/dependence symptoms among hospital employees exposed to a SARS
outbreak. Alcohol Alcohol; 43: 706–12.
Wu P, Fang Y, Guan Z, et al (2009). The psychological impact of the SARS epidemic on hospital employees in China: expo-
sure, risk perception, and altruistic acceptance of risk. Can J Psychiatry; 54: 302–11.
Weiss DS, Marmar CR (1997). The impact of event scale – revised. In: Wilson JP, Keane TM, eds. Assessing psychological
trauma and PTSD. New York: Guildford Press, 399–411.
WHO (2020). Rapid reviews to strengthen health policy and systems: a practical guide. 2017. https://www.who.int/alli-
ance¬hpsr/resources/ publications/rapid¬review¬guide/en/ (accessed Jan 31, 2020).
Yoon MK, Kim SY, Ko HS, Lee MS (2016). System e ectiveness of detection, brief intervention and refer to treatment for
the people with post¬traumatic emotional distress by MERS: a case report of community¬based proactive interven-
tion in South Korea. Int J Ment Health Syst; 10: 51.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 35


ThS. Nguyễn Thị Thu Sương
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh
Phó Trưởng phòng Phòng Pháp lý Công ty Luật
TNHH MTV Ta Pha

XỬ LÝ HÀNH VI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ


TRONG PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH COVID-19

Đặt vấn đề

Bên cạnh những tín hiệu và kết quả tích cực trong công tác phòng,
chống dịch bệnh COVID-19 của nhà nước và quần chúng nhân dân, vẫn
còn đó là “những mảng tối” để lại nhiều nhức nhối, đơn cử như tình
trạng chống người thực hiện công vụ. Điều này gây nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động phòng chống dịch bệnh. Qua bài nghiên cứu
này, tác giả muốn mang đến cho độc giả một cái nhìn có chiều sâu hơn
về nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh phát sinh hành vi vi phạm, chế tài
và một số giải pháp, trao đổi liên quan.

Từ khóa: COVID-19, chế tài xử lý, chống người thi hành công vụ.

36 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


1. Quy định của pháp luật về xử lý hành vi chống không ra ngoài khi không thật sự cần thiết, đeo khẩu
người thi hành công vụ trong phòng chống dịch trang và cấm tụ tập quá hai người…). Ông Gia không
bệnh COVID-19 phải là công chức, viên chức,… nhưng được giao nhiệm
vụ phòng chống dịch, cho nên được xem là chủ thể đang
1.1. Nhận diện hành vi thi hành công vụ. Quan điểm thứ hai cho rằng, xét về
hiệu lực văn bản pháp luật thì Nghị định 208, Công văn
Về người thi hành công vụ 45 không thể quy định trái luật... Do đó, chỉ những người
Liên quan đến các chủ thể được xác định là “người thi được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật TNBTNN mới được
hành công vụ (NTHCV)”, pháp luật hiện hành quy định coi là NTHCV, vì vậy, ông Gia không phải là NTHCV. Theo
trong hai văn bản là Luật Trách nhiệm bồi thường nhà quan điểm của tác giả, mặc dù có sự thiếu thống nhất
nước 2007 (Luật TNBTNN) và Nghị định số 208/2013/ giữa các văn bản khi xác định chủ thể thi hành công vụ
NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy định các và cả Nghị định 208 cũng như Luật TNBTNN đều không
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi điều chỉnh một cách minh thị những chủ thể khác thực
chống NTHCV (Nghị định 208). Tuy nhiên, hai văn bản hiện công vụ theo yêu cầu, chỉ đạo của cá nhân, cơ quan
này không có sự thống nhất. Theo đó, khoản 2 Điều 3 có thẩm quyền có được được xem là NTHCV hay không?
Luật TNBTNN quy định NTHCV là người được bầu cử, Tuy nhiên, trong vụ án trên nói riêng và việc xác định
phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định NTHCV trong bối cảnh thực hiện công tác phòng, chống
của pháp luật vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để dịch bệnh COVID-19 hiện nay nói chung, việc xác định
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc như các cơ quan tố tụng quận 7 là hợp lý. Ngoài ra, nếu
thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có áp dụng cứng nhắc theo quan điểm thứ hai nêu trên là
thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến không thuyết phục, bởi lẽ phạm vi điều chỉnh của Luật
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành TNBTNN là quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà
án. Trong khi đó, khoản 1 Điều 3 Nghị định 208 quy nước đối với chủ thể bị thiệt hại do người thi hành công
định NTHCV là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng
hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, ng-
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Cho nên, ý kiến
hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhằm phục vụ lợi ích của Nhà cho rằng cần phải áp dụng Luật TNBTNN để xác định về
nước, nhân dân và xã hội. NTHCV vì văn bản này có hiệu lực cao hơn Nghị định
208, Công văn 45 là không có cơ sở.
Căn cứ vào các quy định trên, xét thấy pháp luật hiện
hành chưa có sự thống nhất trong việc xác định NTHCV Về hành vi chống NTHCV
bao gồm những chủ thể nào? Do đó, việc áp dụng các Khoản 2 Điều 3 Nghị định 208 quy định hành vi chống
quy định vào từng trường hợp cụ thể để làm căn cứ xử NTHCV là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
lý hành vi vi phạm liên quan đến chống NTHCV trong không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu của NTHCV hoặc có
phòng chống dịch bệnh COVID-19 gặp một số khó khăn, hành vi khác nhằm cản trở NTHCV thực hiện nhiệm vụ
nhiều trường hợp còn gây tranh cãi. Cạnh đó, trong được giao hoặc ép buộc NTHCV không thực hiện nhiệm
công tác phòng, chống COVID-19, ngoài các chủ thể là vụ được giao. Khoản 3 Điều 5 Nghị định 208 quy định
cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến các hành vi bị nghiêm cấm đối với tổ chức, cá nhân như:
sĩ lực lượng vũ trang nhân dân,… thì hiện nay, còn rất không chấp hành sự điều hành, hướng dẫn, yêu cầu của
nhiều chủ thể khác tham gia hoạt động phòng, chống NTHCV; chống đối hoặc cản trở NTHCV thực hiện nhiệm
dịch bệnh tại địa phương, như tổ công tác hỗ trợ phòng, vụ; Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của NTHCV;…
chống dịch, tình nguyện viên, người tham gia công tác
bảo vệ tại các tòa nhà, khu chung cư,… Như vậy, việc Như vậy, đối với hành vi chống NTHCV trong phòng
những chủ thể này có thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan chống dịch bệnh COVID-19, pháp luật hiện hành không
có thẩm quyền giao để đảm bảo lợi ích nhà nước, nhân có quy định điều chỉnh chuyên biệt, tuy nhiên căn cứ vào
dân, thì có được xem là NTHCV trong phòng chống dịch những quy định có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn
bệnh COVID-19 hay không? Nếu căn cứ vào quy định của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng
hiện hành, câu trả lời là không. Thực tế, có trường hợp cơ chống dịch bệnh truyền nhiễm nói chung, phòng chống
quan tố tụng xác định bảo vệ chung cư cũng được xem dịch bệnh COVID-19 nói riêng được đề cập trong một số
là NTHCV, song vụ việc cũng để lại nhiều quan điểm trái văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn,
chiều. Theo đó, Tòa án nhân dân (TAND) quận 7 xét xử chỉ đạo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì hành vi
và tuyên phạt bị cáo Bùi Anh Huân về tội “Chống người chống NTHCV trong phòng chống dịch bệnh COVID-19
thi hành công vụ”, do ông Huân đánh vào mặt người có thể được nhận diện là hành vi dùng vũ lực, đe dọa
bảo vệ là ông Hà Ngọc Gia – nhân viên bảo vệ Công ty dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu cầu
24h sau khi bị nhắc nhở đeo khẩu trang. Có quan điểm của NTHCV hoặc có hành vi khác nhằm cản trở NTH-
căn cứ theo hướng dẫn của Công văn số 45/TANDTC- CV thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc NTHCV
PC của TAND Tối cao về việc xét xử tội phạm liên quan không thực hiện nhiệm vụ được giao trong phòng chống
đến phòng, chống dịch bệnh COVID -19 (Công văn 45), dịch bệnh COVID-19 (quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám
Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung sát, xử lý hành vi vi phạm trong phòng chống dịch bệnh).
năm 2017 (BLHS), cho rằng ông Gia đang thi hành các Các hành vi vi phạm trong phòng, chống dịch COVID-19
nhiệm vụ được ủy ban nhân dân phường, ban điều hành có thể kể đến như: không thực hiện xét nghiệm theo yêu
khu phố và công ty chủ quản giao (nhắc nhở người dân cầu của cơ quan có thẩm quyền; từ chối hoặc trốn tránh

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 37


việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cuỡng chế cách ly thể vi phạm. Trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật
y tế;... hình sự, chủ thể vi phạm còn bị kiến nghị khởi tố, truy cứu
TNHS, và thực tế, nhiều vụ án đã được khởi tố, đưa ra xét
1.2. Xử lý hành vi xử nhanh chóng, kịp thời, thể hiện tính nghiêm minh của
luật pháp, góp phần quan trọng trong công tác giáo dục,
Tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả gây ra mà chủ phòng ngừa tội phạm, nâng cao ý thức cộng đồng.
thể vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính (VPHC)
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS). Mặc dù cho đến thời điểm thực hiện bài nghiên cứu
này, chưa có những số liệu thống kê chính xác về số lượng
Về chế tài hành chính: Việc xử lý hành vi chống NTH- hành vi chống NTHCV trong phòng, chống COVID-19, tuy
CV trong phòng, chống COVID-19 được thực hiện theo nhiên, thông qua những cảnh báo, phóng sự, ý kiến đánh
sự điều chỉnh của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày giá từ những chủ thể có thẩm quyền trên một số phương
12/11/2013 của Chính phủ (Nghị định 167). Theo đó, tiện truyền thông (antv.gov.vn, thanhtra.com.vn, ncov.
người có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực vnanet.vn), có thể thấy rằng số lượng hành vi chống NTH-
chống NTHCV trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19, CV, đặc biệt là chống đối lực lượng cảnh sát giao thông,
mà chưa đến mức phải truy cứu TNHS, thì bị xử phạt VPHC các tổ công tác tại các chốt kiểm dịch, lực lượng y tế vẫn
theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 20 Nghị định 167, chưa có dấu hiệu “nguội lạnh”, thậm chí, hành vi có tính
với mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. chất manh động, mức độ nguy hiểm, hậu quả ngày càng
nghiêm trọng. Như vậy, vấn đề được đặt ra là tại sao pháp
Về chế tài hình sự: Chế tài hình sự được áp dụng theo luật hiện hành đã có quy định điều chỉnh nhưng thực tiễn
quy định của BLHS và Công văn 45. Điểm 1.9 mục 1 Công lại không được tuân thủ một cách đầy đủ, đồng thời đã có
văn 45 nêu rõ người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng những chế tài pháp lý mang tính cưỡng chế, trừng phạt
vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở NTHCV trong phòng, nhưng tình trạng vi phạm vẫn tiếp diễn. Điều này được lý
chống COVID-19 thì bị xử lý về tội chống NTHCV theo quy giải như sau:
định tại Điều 330 BLHS.
Một, dịch bệnh COVID-19 bùng phát và âm ỉ trong thời
Điều 330 BLHS quy định: gian dài đã chi phối, thậm chí đảo lộn cuộc sống sinh hoạt
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bình thường của mỗi người dân, đặc biệt ở những địa
dùng thủ đoạn khác cản trở NTHCV thực hiện công vụ của phương là tâm dịch, khi chính quyền phải tăng cường áp
họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị dụng nhiều biện pháp kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt,
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Rõ ràng, dịch
06 tháng đến 03 năm. bệnh xảy ra là điều mà không ai trong chúng ta mong
muốn, song thay vì học cách chấp nhận, sống chung để
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì thay đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, một bộ
bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: phận người dân còn cố chấp, thậm chí vì vị kỉ cá nhân mà
a) Có tổ chức; “bỏ quên” quyền lợi chung của toàn xã hội, dẫn đến khi
b) Phạm tội 02 lần trở lên; nhu cầu không được đáp ứng thì cố tình chống đối lực
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; lượng chức năng, sử dụng vũ lực, hung khí nguy hiểm để
d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên; thực hiện hành vi phạm pháp. Ở đây, tác giả không đánh
đ) Tái phạm nguy hiểm.” đồng tất cả hành vi chống NTHCV đều xuất phát từ vị kỷ,
bởi lẽ, có một số trường hợp vì chưa am hiểu hết quy định
Như vậy, trường hợp người có hành vi dùng vũ lực, pháp luật, các chính sách, chỉ thị đưa ra, chưa nhận thực rõ
đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở NTHCV hành vi của mình là vi phạm, nên khi bị kiểm tra, xử lý lại
trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 nếu đủ yếu tố tìm cách kháng cự, chống đối, song phải thừa nhận một
cấu thành tội phạm sẽ bị xem xét truy cứu TNHS về tội cách nghiêm túc rằng: dù bất cứ lý do gì thì các hành vi
chống NTHCV. chống NTHCV đều khó chấp nhận và không có lý do nào
để dung túng.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, có thể thấy rằng,
mặc dù hiện nay hành lang pháp lý điều chỉnh hành vi, chế Hai, Nghị định 167 đã được áp dụng trong thực tiễn
tài xử lý hành vi chống NTHCV trong phòng, chống dịch hơn 7 năm, đánh giá trong bối cảnh hiện nay, chế tài, mức
bệnh COVID-19 đã được quy định, hướng dẫn tương đối xử phạt đã không còn phù hợp, biện pháp xử phạt chỉ bao
đầy đủ, rõ ràng, song cũng còn một số vướng mắc nhất gồm hình thức xử phạt chính mà không có bất kỳ một
định, gây khó khăn cho công tác xử lý cũng như việc bảo hình thức xử phạt bổ sung nào liên quan, cho nên chưa
đảm quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan. đủ sức răn đe. Hơn nữa, đánh giá tương quan giữa điểm
a khoản 3 Điều 20 Nghị định 167 so với khoản 1 Điều 330
2. Thực tiễn xử lý hành vi chống người thi hành BLHS (cấu thành tội phạm cơ bản), có thể thấy chưa có lằn
công vụ trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19, ranh rõ ràng giữa trách nhiệm hành chính và TNHS. Bởi
đánh giá ở góc độ nguyên nhân, điều kiện, hoàn lẽ, theo như các quy định trên có thể thấy hành vi chống
cảnh thực hiện hành vi vi phạm NTHCV bị xử phạt VPHC hay bị truy cứu TNHS là tương tự
nhau. Điểm phân biệt giữa việc xử phạt VPHC hay truy cứu
Xét trên bình diện thực tiễn, trong thời gian vừa qua, TNHS nên chăng chỉ nằm ở mức độ nguy hiểm, hậu quả
đi đôi với công tác vận động, tuyên truyền, nâng cao nhận xảy ra. Tuy nhiên, cả hai quy định đều không làm rõ được
thức cho người dân thì chính quyền đã rất quyết liệt trong hành vi ở mức độ nào sẽ bị xử phạt VPHC và mức độ nào
việc rà soát, thanh tra và xử phạt VPHC đối với các chủ thì bị truy cứu TNHS. Do vậy, trong nhiều trường hợp, sẽ

38 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


gây khó khăn cho việc xác định hành vi vi phạm đã đến họ cần làm gì để đảm bảo quyền lợi cho mình? Cạnh đó,
mức bị truy cứu TNHS hay chưa? hiện nay đã có cẩm nang hướng dẫn về biện pháp bảo
đảm sức khỏe trước COVID -19 là sách điện tử Cẩm nang
Ba, một số văn bản, chỉ thị được đưa ra cấp bách, phòng, chống COVID-19 trong đảm bảo an toàn, vệ sinh
nhưng chưa có hướng dẫn kịp thời; các cấp chính quyền, lao động, có thể thấy đây là tài liệu quý giá dành cho sức
đoàn thể ở một số nơi còn bị động, thiếu giải pháp hiệu khỏe của người dân. Tuy nhiên, cuốn cẩm nang này sẽ
quả để phổ biến, giáo dục pháp luật, tuyên truyền; các cơ hoàn thiện hơn nếu tích hợp thêm nội dung về pháp lý
quan chức năng khi xử lý còn bị chi phối và phụ thuộc vào liên quan; hoặc cần thiết xây dựng thêm một cẩm nang
ý chí chủ quan, đây cũng là nguyên nhân gây nên tâm lý chuyên biệt về pháp lý, thể hiện những nội dung cốt lõi
“bất tuân”, chống đối. và cơ bản nhất để mọi người dân dễ dàng tiếp cận, hiểu
và điều chỉnh hành vi cho phù hợp.
Bốn, lý do xuất phát từ chính những NTHCV thực hiện
công tác phòng, chống dịch bệnh. Từ những vụ việc vi Hai, trong công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, xử lý
phạm, cần phải thừa nhận một thực tế rằng, trong một số hành vi vi phạm: đại dịch COVID -19 được xem như là
trường hợp, các biện pháp được áp dụng đối với người “chưa từng có tiền lệ” trong lịch sử Việt Nam, do vậy, mọi
dân (những người đang trong thời gian thực hiện cách ly, giải pháp, phương án giải quyết cần thiết phải có sự linh
những người ra đường không có lý do chính đáng, những động, phù hợp, trước khi quyết định xử phạt bất kỳ chủ
chủ thể có dấu hiệu bị nhiễm bệnh và phải áp dụng biện thể nào, phải giải thích cho họ hiểu, đây cũng là một cách
pháp đưa đi cách ly) còn rập khuôn, máy móc, thậm chí tuyên truyền để người dân hiểu rõ mà không tái phạm
cực đoan, thái quá, đã vô hình trung xâm phạm đến quyền trong những lần sau, tuyệt đối “không áp dụng các biện
và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tâm lý ức chế. Đơn pháp cực đoan, thái quá”. Hơn nữa, việc giải thích rõ ràng
cử như vụ việc ông Trần Tô Ân Châu ở Cà Mau không chấp sẽ có ý nghĩa hơn, thay vì chỉ nêu chung chung, dùng thiết
hành chiến dịch tầm soát COVID-19 mà bị cưỡng chế đưa bị thông minh để quay lại quá trình xử phạt sẽ dễ dẫn đến
đi cách ly tập trung, hay mới đây nhất là vụ việc xảy ra tâm lý bức xúc cho người dân. Đối với những chủ thể có
ở Bình Dương sau nhiều lần vận động một người phụ thái độ manh động, các cá nhân, cơ quan xử lý cần phối
nữ ra lấy mẫu xét nghiệm COVID-19 nhưng không được, hợp chặt chẽ với nhau, sử dụng công cụ, phương tiện hỗ
cơ quan chức năng đã phá khóa cửa, ập vào cưỡng chế, trợ khi cần thiết nhằm hạn chế thấp nhất những thiệt hại
đưa người này ra sân chung cư, khóa tay để lấy mẫu (rất có thể xảy ra.
may là vụ việc nay đã nhanh chóng được giải quyết hài
hòa). Trong các vụ việc này, vấn đề khá nhức nhối được Ba, như đã phân tích, một số quy định điều chỉnh về
đặt ra, là liệu rằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế của “người thi hành công vụ”, chế tài xử lý hiện nay còn có
chính quyền địa phương đã phù hợp hay chưa? Tác giả điểm chênh không nhỏ về hành vi vi phạm nào sẽ bị xử
cho rằng, xét ở góc độ pháp lý, việc áp dụng biện pháp lý hành chính, hành vi vi phạm nào sẽ bị xử lý hình sự; về
cưỡng chế khi một người từ chối xét nghiệm COVID-19 một số chủ thể có tham gia công tác phòng chống dịch
hoàn toàn không đúng và trái luật, bởi lẽ hành vi không bệnh tại các địa phương theo sự chỉ đạo của cơ quan,
hợp tác với cán bộ y tế để lấy mẫu test COVID-19 là hành cá nhân có thẩm quyền như đội ngũ tình nguyện viên,
vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 7 Nghị định các tổ công tác hỗ trợ phòng, chống dịch COVID-19 tại
117. Tuy nhiên, hành vi này chỉ có thể bị xử lý bởi hình địa phương, người tham gia công tác bảo vệ tại các tòa
thức xử phạt chính là phạt tiền, mà không bao gồm hình nhà, khu chung cư,… trong trường hợp họ bị chống đối,
thức xử phạt bổ sung, cho nên việc cưỡng chế là không khống chế thì các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm
có cơ sở. Cạnh đó, thay vì quá cứng nhắc, chủ thể có thẩm có thuộc trường hợp chống NTHCV hay không? Do vậy,
quyền hoàn toàn có thể thực hiện phương án mềm dẻo, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, có hướng dẫn cụ
linh hoạt hơn, chẳng hạn như áp dụng biện pháp cách ly thể hơn về đường lối xử lý hành vi chống NTHCV trong
tại nhà - vừa chống dịch hiệu quả, giảm tốn kém cho nhân phòng, chống dịch bệnh COVID -19, về các chủ thể thực
lực và ngân sách vừa bảo vệ quyền tự do con người trong hiện công vụ trong phòng, chống dịch bệnh COVID -19.
vụ việc ở Cà Mau, hoặc tiến hành test COVID-19 tại nơi
người phụ nữ ở trong vụ việc ở Bình Dương. Bốn, yếu tố cốt lõi góp phần quan trọng nhất vào hiệu
quả của các biện pháp phòng chống dịch bệnh COVID-19
3. Giải pháp mà tác giả muốn đề cập trước khi khép lại bài nghiên
cứu, đó là ý thức của người dân. Một chính sách, một quy
Để hạn chế tình trạng vi phạm, góp phần quan trọng định dù hoàn hảo như thế nào đi chăng nữa trên văn bản,
vào công cuộc phòng chống dịch bệnh COVID-19, thiết cũng chỉ thực sự có ý nghĩa, giá trị thực thi khi được người
nghĩ phải áp dụng tổng hòa nhiều biện pháp với tôn chỉ dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, nếu người dân sẵn sàng chấp
vừa đảm bảo ôn hòa, mềm dẻo nhưng phải nghiêm khắc nhận thay đổi lối sống, sinh hoạt bình thường, để thích
và cứng rắn. Cụ thể: nghi hơn với điều kiện, hoàn cảnh thay đổi do tác động
của đại dịch COVID-19; đặt mình vào vị trí của người khác,
Một, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp để hiểu hơn những khó khăn của cá nhân, cơ quan có
luật trong quần chúng nhân dân, phải để mọi người dân thẩm quyền khi phòng, chống dịch bệnh; qua đó đánh
đều được tiếp cận, hiểu rõ các chính sách, quy định cơ bản giá, nhìn nhận và điều chỉnh hành vi của mình cho phù
liên quan đến phòng, chống dịch bệnh COVID-19, đặc hợp; đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, đồng thời
biệt là những hành vi được làm, hành vi không được làm, có ý thức chấp hành quy định của cơ quan chức năng và
nếu vi phạm thì sẽ bị xử lý như thế nào? Trường hợp người pháp luật hiện hành thì công tác phòng, chống dịch bệnh
dân không đồng ý với quyết định, hành vi của NTHCV thì COVID-19 sẽ đảm bảo hiệu quả và sớm thành công.

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 39


Nguyễn Huỳnh Phương Thanh
Khoa Y, ĐHQG-HCM

Công Minh và các tình nguyện viên phân


loại mẫu sau khi hoàn tất công tác lấy mẫu
tại Khu chế xuất Linh Trung.

X in lỗi Ba Mẹ
nhưng đó là
cách sống của con!
Hành trình của những trái tim ngành y
Đôi mắt Nguyễn Công Minh, chàng sinh viên
năm cuối ngành Dược (Khoa Y ĐHQG-HCM) Trước đây, khi dịch chưa bùng phát, những sinh viên
thoáng chút trầm ngâm nhưng ẩn chứa như Minh đi học từ thứ 2 đến thứ 6 nhưng khi bước vào
đằng sau cảm xúc xáo trộn ấy là chút gì đó chiến dịch, mọi định nghĩa về thời gian đều không còn.
rất tự hào khi nói về hành trình hơn 30 ngày Minh phải dậy sớm mỗi ngày, tự kiểm tra, sắp xếp dụng
sát cánh cùng bạn bè, thầy cô chống dịch cụ rồi theo xe đến nơi làm việc đến tối mịt. Mỗi ngày làm
Covid-19. việc của Minh đều bắt đầu lúc 6 giờ sáng, với công việc
chính là lấy mẫu xét nghiệm tại cộng đồng. Điểm lấy mẫu
có khi là đoạn phong tỏa, vùng cách ly, có khi là khu công
Xuất phát điểm khác biệt nghiệp, nhà xưởng, khu chung cư tại địa bàn TP. Thủ Đức
với vài chục ngàn mẫu mỗi ngày. Hành trang của Minh
Từ khi đại dịch bùng phát tại TP.HCM, cũng như nhiều là đồng đội, là lời dặn dò của chỉ huy trưởng, là đồ “tác
sinh viên trường bạn, Công Minh cùng các thầy cô, bạn chiến” gồm kính chống giọt bắn, găng tay, đồ bảo hộ,
bè tại Khoa Y đã hăng hái đăng ký tham gia ngay khi khoa dụng cụ lấy mẫu, giấy tờ, sổ sách,…
phát động chiến dịch hỗ trợ thành phố. Mỗi người một
cảm xúc, mỗi người một hoàn cảnh, thế nhưng có lẽ Công Minh tâm sự: “Tham gia vào guồng quay này, trong
Minh có một khởi điểm hơi khác so các bạn của mình. đầu em không có khái niệm thời gian là gì nữa. Vì có khi
em đi từ sáng sớm đến 6 giờ sáng hôm sau em mới về
Mong ước trở thành một bác sĩ chữa bệnh cứu người tới nhà. Hôm nào sớm thì cũng quá nửa đêm. Mặc đồ
nhưng vì một số lý do mà Minh rẽ hướng sang học ngành bảo hộ cả ngày kín mít thật sự rất nóng, tới mức chừng 5
Dược. Và trong khi các bạn của mình khá suôn sẻ khi xin phút thôi là quần áo ướt sũng và để đảm bảo nguyên tắc
phép gia đình để tham gia tuyến đầu chống dịch thì nỗi an toàn, chúng em không dám sử dụng cả quạt máy vì sợ
lo lắng tột độ của cha mẹ khiến Minh buộc phải giấu phát tán các giọt bắn. Cố gắng chịu đựng thì cũng quen
gia đình đang ở quê nhà. Minh âm thầm chịu đựng cuộc thôi. Cứ nghĩ đến những người bệnh bị nhiễm Covid-19
chiến đang giằng xé trong thâm tâm lại vừa phải đối mặt họ cũng mệt mỏi, khó chịu, nhiều gia đình khốn cùng, kiệt
với cuộc chiến đúng nghĩa - đối đầu với giặc Covid-19 vô quệ thì một chút khó khăn của mình có đáng là bao. Thậm
hình. Thế nhưng đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ chí em càng thêm trân trọng khoảng thời gian này vì đã
hội, là dấu ấn trong sự nghiệp của Minh. cho em có cảm giác như một nhân viên y tế thực thụ”.
40 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021
Theo lời kể của Minh, sinh viên Khoa Y ĐHQG-HCM Chỉ còn hơn 10 ngày nữa, Minh sẽ tốt nghiệp. Sau một
đều mong muốn được xông pha đến tuyến đầu chống ngày làm việc vất vả, khi mọi người chuẩn bị chìm vào
dịch, ai cũng khát khao cống hiến sức lực của bản thân, giấc ngủ là lúc Minh mở laptop, viết luận văn. Mệt, vất vả,
góp phần đẩy lùi dịch bệnh. Nhiều bạn năm cuối sắp phải thiếu ngủ,… nhưng trái tim của Minh luôn tràn đầy nhuệ
nộp đề tài tốt nghiệp vẫn nhiệt tình đăng ký. Bên cạnh đội khí. Minh kể, có nhiều điều mà cậu đã học được bên ngoài
hình lấy mẫu, các bạn của Minh trong đội hình sinh viên thực địa, có những cảm xúc khi mà ở trong cuộc mới cảm
tình nguyện Khoa Y ngày đêm hỗ trợ thành phố các công nhận rõ và trân quý hơn những việc đã làm.
tác khác như: tiêm phòng vaccine, trực chốt kiểm soát
Chợ đầu mối Tam Bình, nhập liệu quản lý ca bệnh tại KTX Minh nói: “Lấy mẫu xuyên trưa, hay nửa đêm tập hợp
ĐHQG-HCM,... đội hình đi lấy mẫu là bình thường. Chúng em cứ như lực
lượng cơ động, điện thoại reo là xách đồ chạy ngay. Thật
“Lần đầu tiên nghe nhiệm vụ, em rất lo vì không biết sự mệt thì rất mệt, thế nhưng bù lại, chúng em lại có niềm
mình có làm tốt được không nhưng sau khi được thầy cô vui làm động lực đó là sự quan tâm chăm lo của ban chỉ
tập huấn kỹ càng, được các bạn ngành Y hướng dẫn tận huy, sự yêu thương của người dân, có cô chú còn cho tụi
tình cộng thêm sự cố gắng, bây giờ những công việc này em nước, sữa, cà phê, hỏi han, chỉ bấy nhiêu đó thôi tụi
em thực hiện khá thuần thục từ việc mặc và cởi đồ bảo em cũng cảm thấy ấm lòng. Nếu hỏi tụi em đi chống dịch
hộ ra sao cho an toàn, hướng dẫn người dân thả lỏng cơ có sợ không. Đúng là sợ chứ! Sợ mình không đủ kỹ năng,
mặt, đút tăm bông sao cho tránh chạm các vách ngăn để sợ mình trở thành nguồn lây, sợ gia đình lo lắng. Nhưng
họ không cảm giác đau”, Minh chia sẻ. trên hết, chúng em là những nhân viên y tế tương lai,
không mình thì ai?”
Ngôi nhà thứ hai
Điều ý nghĩa nhất!
Ở Sài Gòn để đi học, Minh ở trọ cùng nhiều người bạn
khác. Nhưng từ ngày tham gia chống dịch, Minh dọn hẳn Sinh nhật Minh năm nay trùng vào đợt chống dịch.
lên Trung tâm Y tế TP.Thủ Đức để sinh hoạt vì lo sợ rủi ro Ngày đặc biệt này, cậu phải đi lấy mẫu trên khắp địa bàn
lây nhiễm cho những người xung quanh. TP.Thủ Đức. Cuối ngày, trở về trung tâm, các anh chị đã
chuẩn bị sẵn bánh kem, nến khiến Minh vô
cùng xúc động. Trên trang cá nhân, Minh
đã chia sẻ cảm xúc vỡ òa này. Giờ đây,
Trung tâm Y tế TP.Thủ Đức đã trở thành
mái nhà thứ hai. Và những việc Minh làm
không chỉ cho bản thân Minh nữa mà đó
chính là sứ mệnh của người đã trót gánh
trên vai cái nghiệp cứu người.

“Con biết, ba mẹ nào mà không


thương con, mà không lo lắng cho con
mình. Nhưng mơ ước từ nhỏ của con là
có thể cứu người. Hiện tại điều con có thể
khiến ba mẹ tự hào là “cách sống” của
con. Biết bao người dân, bao y bác sĩ đã
và đang quên mình để đem lại sự bình yên
cho mọi người. Là một cán bộ y tế tương
lai, tham gia tình nguyện chống dịch là
việc con đã quyết định, là con đường con
đang đi! Con sẽ tuân thủ mọi biện pháp
an toàn khi làm nhiệm vụ! Ba mẹ yên tâm
nhé! Đây là món quà mà con muốn dành
tặng cho ba mẹ nhân ngày ba mẹ sinh
con ra đời!”, Công Minh trải lòng.

Giấu gia đình tham gia chống dịch,


nhưng những “lời thú tội ngọt ngào” của
Minh với ba mẹ chắc chắn sẽ khiến những
bậc sinh thành không khỏi hãnh diện và
tin tưởng bởi con trai mình đã trưởng
thành và sẵn sàng để trở thành những cán
bộ y tế tương lai.

Công Minh (nón


vàng) đang hỗ trợ
SỐ 07 NGÀYnhập liệu. | COVID-19 NEWSLETTER |
18/10/2021 41
Biến thể Delta - Góc nhìn về đại dịch COVID-19
Phụ đề: Những thách thức và giải pháp trước sự xuất hiện của biến thể Del-
ta và nguy cơ của các biến thể nguy hiểm khác.

Lê Nguyễn Lam Ngọc & Lê Minh Khôi, Khoa Công nghệ Sinh học,
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM
PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Khoa Công nghệ Sinh học, Trường
Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM

Các biến thể SARS-CoV-2 được hình thành như trò kích hoạt miền liên kết thụ thể (receptor binding
thế nào? domain) và giúp virus xâm nhập vào tế bào (4,5). Ở
biến thể Delta, rất nhiều đột biến ở protein gai làm
Biến thể là một nhóm virus có cùng những đột tăng khả năng kết nối với thụ thể trên bề mặt tế bào
biến đặc trưng trong mã di truyền. Khi nhân đôi, đột và lẩn trốn hệ miễn dịch (5,6).
biến có thể xảy ra mà không phải khi nào cơ chế sửa
chữa diễn ra hiệu quả, từ đó làm virus mất khả năng Biến thể Delta còn sở hữu đột biến khiến những
nhân đôi và không tồn tại được. Một vài trường hợp protein gai, được tổng hợp trong cơ thể người nhiễm,
đột biến khác không làm thay đổi đặc tính virus, hoặc tham gia quá trình biến đổi hiệu quả hơn (75% pro-
khiến virus có khả năng lây nhiễm và gây bệnh cao tein gai ở biến thể Delta được biến đổi so với 50% ở
hơn (1). chủng Alpha và 20% ở chủng SARS-CoV-2 gốc); từ đó
đóng vai trò quan trọng trong việc xâm nhập vào tế
Theo thông tin của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) bào phổi (7). Wendy Barclay, nhà virus học tại Imperial
cập nhật đến ngày 2/9/2021, có nhiều biến thể của College London, giả thuyết rằng đây chính là cơ chế
SARS-CoV-2 được ghi nhận, bao gồm biến thể “đáng giúp virus lan truyền tốt hơn (5).
lo ngại” (variants of concern) như Alpha, Beta, Gam-
ma, Delta và biến thể “đáng quan tâm” (variants of Trong một nghiên cứu thực hiện tại Quảng Châu,
interest) như Eta, Iota, Kappa, Lambda, Mu (2). Trung Quốc, các nhà khoa học phát hiện biến thể Del-
ta có thời gian ủ bệnh ngắn (4 ngày kể từ thời điểm
Điều gì khiến biến thể Delta chiếm ưu thế hơn phơi nhiễm, so với thời gian trung bình là 6 ngày ở
các biến thể khác? chủng gốc) và tải lượng virus cao hơn tới 1.260 lần so
với chủng gốc (8). Theo chuyên gia dịch tễ Benjamin
Những protein gai trên bề mặt của SARS-CoV-2 Cowling tại Đại học Hong Kong, sự kết hợp của tải
(thành phần giúp virus bám vào tế bào người và xâm lượng virus cao và thời gian ủ bệnh ngắn là lời giải
nhập) cực kỳ linh động (3), giúp chúng dễ dàng liên thích hợp lí cho khả năng lây nhiễm cao ở biến thể
kết với thụ thể. Ở biến thể Alpha, khoảng 10 đột biến Delta (9).
tại vùng mã hóa protein gai được phát hiện đóng vai

42 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


Bằng cách nào mà quy tắc “2 mét - 15 phút” được (15). Tuy nhiên, theo bác sĩ Roberta DeBiasi từ Bệnh viện
áp dụng với biến thể Delta? Nhi Quốc gia Hoa Kỳ, biến thể Delta khiến số ca nhiễm
tăng cao, dẫn đến số trẻ em phải nhập viện sẽ tăng cao,
Quy tắc “2 mét - 15 phút” (trong đó 2 mét là khoảng đặc biệt trẻ em dưới 12 tuổi chưa phải là nhóm đối tượng
cách giữa hai người và 15 phút là tổng thời gian tiếp xúc được tiêm chủng (16). Vì vậy, nâng cao tỉ lệ tiêm chủng là
tối đa) đã sớm được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa biện pháp bảo vệ con em của mỗi gia đình và bảo vệ cộng
dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đề ra trong giai đoạn đầu của đồng nói chung.
dịch COVID-19 nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm từ người
khác. Những con số ước tính này dựa trên nghiên cứu Biến thể Delta ảnh hưởng đến phụ nữ mang thai và
vào những năm 1800 nhằm đánh giá khả năng phát tán trẻ sơ sinh như thế nào?
của giọt bắn trong không khí trước khi rơi xuống đất (10).
Hiện tại có rất ít thông tin về ảnh hưởng của biến thể
Tuy nhiên, CDC nhận định SARS-CoV-2 có thể lây nhiễm
Delta lên đối tượng này; trong đó số liệu của UK Obstretic
ở khoảng cách lớn hơn 2 mét khi ở trong không gian kín
Surveillance System (UKOSS) cho thấy phụ nữ mang thai
với hệ thống thông khí kém, khi tăng lượng dịch thở ra
nhiễm biến thể Delta có triệu chứng vừa và nặng nghiêm
đối với người nhiễm lúc vận động hoặc nói chuyện, và khi
trọng hơn so với Alpha và chủng ban đầu tại Anh (45%
tiếp xúc lâu dài trong những điều kiện trên (11). Bên cạnh
so với 35.8% và 24.4%) (17). Theo nghiên cứu của Villar
đó, tiến sĩ Abraar Karan - nghiên cứu viên bệnh truyền
và cộng sự được đăng trên JAMA Pediatrics vào tháng
nhiễm tại Đại học Stanford - cho rằng chúng ta có thể
4/2021, phụ nữ mang thai dương tính với COVID-19 có chỉ
phơi nhiễm một lượng lớn virus trong thời gian ngắn,
số bệnh tật và tử vong cao hơn so với đối tượng không
điển hình là biến thể Delta (tải lượng gấp 1.260 lần so với
bị nhiễm (18).
chủng ban đầu ở người nhiễm) (8,10).
Thai nhi và trẻ sơ sinh cũng bị ảnh hưởng bởi COVID-19.
Tiến sĩ Karan cũng chia sẻ thêm: “Sự lây nhiễm là một
Trong buổi họp báo tại thành phố Austin, Texas, tiến sĩ
quá trình phức tạp, không có một con số nào về mặt
Jessica Ehrig - Trưởng khoa sản tại Bayer Scott & White
khoảng cách hoặc thời gian có thể nắm bắt đầy đủ”. Do
Medical Center, Temple - cho biết số lượng phụ nữ mang
đó, thay vì áp dụng một cách tuyệt đối quy tắc “2 mét - 15
thai nhập viện và đặt nội ống quản ngày càng tăng. Một
phút”, chúng ta cần đánh giá khách quan hơn về nguy cơ
số ca đã không qua khỏi, và một số trường hợp khác gây
lây nhiễm nhiều hay ít khi tiếp xúc với người khác. Mỗi
nguy hiểm đến tính mạng thai nhi. Bà cũng cho rằng đối
người cũng có thể thực hiện các biện pháp khác để giảm
tượng nhiễm SARS-CoV-2 có thể dẫn đến các biến chứng
sự lây nhiễm như: tiêm vaccine, đeo khẩu trang, rửa tay, và
như sinh non và thai chết lưu (19). Đối với trẻ được sinh ra
giữ khoảng cách với người bệnh. Bên cạnh đó, việc nâng
khi người mẹ nhiễm bệnh, Villar và cộng sự nhận thấy tỉ lệ
cao cảnh giác giúp bảo vệ sức khỏe bản thân cũng như
cao mắc các bệnh nghiêm trọng và tử vong từ giai đoạn
giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh và lây nhiễm, theo Leane
thai nhi đến khoảng 1 tháng sau khi sinh so với thai sản
Wen - bác sĩ cấp cứu và giáo sư sức khỏe cộng đồng của
không mắc bệnh (18). Ngoài ra, hệ miễn dịch của trẻ sơ
Đại học George Washington (10).
sinh chưa hoàn thiện cho đến khoảng 6 tháng tuổi. Điều
Tại sao cần quan tâm vấn đề thông khí đối với này càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiêm vac-
không gian trong nhà khi biến thể Delta đang lây cine cho phụ nữ mang thai để hình thành hàng rào miễn
lan mạnh? dịch trong giai đoạn thai nhi hoặc cho con bú (1).

SARS-CoV-2 lây truyền thông qua các vi giọt bắn trong Sau Delta, liệu có biến thể nào đáng quan tâm?
không khí. Bên cạnh việc áp dụng giãn cách và quy tắc “2
mét - 15 phút”, người dân cần chú ý đến vấn đề thông Mu là biến thể mới nhất được ghi nhận ở hơn 39 quốc
khí ở không gian trong nhà vì lượng virus thở ra từ người gia, bao gồm: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ecuador, Canada
bệnh có thể tích tụ và lây nhiễm cho những người xung và một số nước châu Âu. Dựa trên dữ liệu ban đầu của Vi-
quanh, kể cả khi không có tiếp xúc trực tiếp (12). Điều này rus Evolution Working Group, biến thể Mu làm giảm hiệu
càng được quan tâm hơn khi biến thể Delta đang lây lan quả trung hòa huyết thanh ở nhóm đang hồi phục sau khi
tại Việt Nam với tải lượng virus, khả năng gây bệnh và hệ nhiễm và nhóm sau khi tiêm vaccine tương tự biến thể
số lây nhiễm cao hơn nhiều so với chủng gốc (8,13). Beta (20). Ngoài ra, Mu dường như dễ lây nhiễm hơn biến
thể gốc dựa trên các bằng chứng hiện nay, theo giáo sư
Vào tháng 3/2021, WHO đã công bố hướng dẫn nhằm Paul Cárdenas từ Đại học San Francisco de Quito, Ecuador
đảm bảo thông khí tốt trong bối cảnh dịch COVID-19. (21).
Hướng dẫn bao gồm các lộ trình thông khí tự nhiên (mở
cửa sổ, dùng quạt) và cơ học (sử dụng máy lọc khí) tại Tuy nhiên, Mu vẫn đang là biến thể “đáng quan tâm”,
ba khu vực: cơ sở chăm sóc sức khỏe, nơi công cộng và chưa được WHO đưa vào danh sách biến thể “đáng lo
trường học, và nhà ở (14). Ngoài ra, việc đeo khẩu trang ngại” như Delta, Alpha, Beta và Gamma. Phần lớn virus
trong nhà khi có người thân nghi nhiễm COVID-19 là biện đều thay đổi theo thời gian, một số đột biến không có ảnh
pháp hiệu quả để ngăn chặn phát tán giọt bắn. hưởng đáng kể, một số khác có thể thay đổi cách virus lan
truyền, mức độ nguy hiểm, hiệu quả vaccine và thuốc điều
Biến thể Delta ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào? trị. WHO khẳng định cần nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ
Phần lớn trẻ em khi nhiễm COVID-19 có triệu chứng đặc tính của biến thể Mu, và cách chúng có thể tương tác
nhẹ hoặc không có triệu chứng. Trong khi biến thể Delta với biến thể Delta đang phổ biến hiện nay (21).
có khả năng lây nhiễm mạnh hơn, chưa có bằng chứng chỉ
ra rằng chúng sẽ khiến trẻ em có triệu chứng nặng hơn

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 43


Làm thế nào để ngăn chặn sự hình thành của các thành biến thể mới giảm (1). Theo Hiệp hội Bệnh truyền
biến thể mới? nhiễm Hoa Kỳ, Delta có thể đẩy mức tiêm chủng cần thiết
để đạt miễn dịch cộng đồng đến hơn 80%, thậm chí có
Cách quan trọng nhất để ngăn chặn những biến thể thể tới 90% (22). Ngoài ra, chúng ta cần phải đeo khẩu
hình thành trong tương lai là đạt miễn dịch cộng đồng trang, thực hiện giãn cách, tránh đến những nơi đông
thông qua tiêm chủng diện rộng. Khi mức độ lan truyền người và không gian kín, và rửa tay thường xuyên (1).
của virus giảm xuống, khả năng xảy ra đột biến và hình

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mullane K. What do we know about the Delta variant of SARS-CoV-2? [Internet]. Illinois: University of Chicago News.
2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://news.uchicago.edu/story/what-do-we-know-about-sars-cov-2-
variants?
2. World Health Organization (WHO). Tracking SARS-CoV-2 variants [Internet]. Geneva: World Health Organization
(WHO). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.who.int/en/activities/tracking-SARS-CoV-2-vari-
ants/
3. Turoňová B, Sikora M, Schürmann C, Hagen WJ, Welsch S, Blanc FE, von Bülow S, Gecht M, Bagola K, Hörner C, van
Zandbergen G. In situ structural analysis of SARS-CoV-2 spike reveals flexibility mediated by three hinges. Science.
2020;370(6513):203-208.
4. Gobeil S, Janowska K, McDowell S, Mansouri K, Parks R, Stalls V et al. Effect of natural mutations of SARS-CoV-2 on
spike structure, conformation, and antigenicity. Science. 2021;373(6555):eabi6226.
5. Scudellari M. How the coronavirus infects cells — and why Delta is so dangerous. Nature. 2021;595(7869):640-644.
6. Khateeb J, Li Y, Zhang H. Emerging SARS-CoV-2 variants of concern and potential intervention approaches. Critical
Care. 2021;25(1):1-8.
7. Hoffmann M, Kleine-Weber H, Pöhlmann S. A multibasic cleavage site in the spike protein of SARS-CoV-2 is essential
for infection of human lung cells. Molecular Cell. 2020;78(4):779-784.
8. Li B, Deng A, Li K, Hu Y, Li Z, Xiong Q, Liu Z, Guo Q, Zou L, Zhang H, Zhang M. Viral infection and transmission in
a large well-traced outbreak caused by the Delta SARS-CoV-2 variant. medRxiv:21260122v2 [Preprint]. 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.07.07.21260122v2
9. Reardon S. How the Delta variant achieves its ultrafast spread. Nature. 2021;d41586-021-01986-w.
10. Eldred S. Coronavirus FAQ: How Do The Rules of 6 Feet And 15 Minutes Apply To The Delta Variant? [Internet].
Washington D.C.: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.npr.org/
sections/goatsandsoda/2021/08/27/1031753581/coronavirus-faq-how-does-the-6-feet-15-minutes-rule-apply-to-the-del-
ta-variant?
11. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Scientific Brief: SARS-CoV-2 Transmission [Internet]. Georgia:
Centers for Disease Control and Prevention (CDC). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.cdc.
gov/coronavirus/2019-ncov/science/science-briefs/sars-cov-2-transmission.html
12. Lewis D. Why indoor spaces are still prime COVID hotspots. Nature. 2021;592(7852):22-25.
13. Liu Y, Rocklöv J. The reproductive number of the Delta variant of SARS-CoV-2 is far higher compared to the ancestral
SARS-CoV-2 virus. Journal of Travel Medicine. 2021;taab124.
14. World Health Organization (WHO). Roadmap to improve and ensure good indoor ventilation in the context of
COVID-19. Geneva: World Health Organization (WHO); 2021. Licence: CC BY-NC-SA 3.0 IGO.
15. Alana C. How will the delta variant affect kids? Experts explain what we know and what we don’t [Internet]. Ontario:
Canadian Broadcasting Corporation (CBC). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.cbc.ca/news/
canada/manitoba/manitoba-delta-variant-affect-kids-experts-explain-1.6134110
16. Ari S. How The Delta Variant Affects Children [Internet]. Washington D.C: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.npr.org/2021/08/23/1030430471/how-the-delta-variant-affects-children
17. Vousden N, Ramakrishnan R, Bunch K, Morris E, Simpson N, Gale C et al. Impact of SARS-CoV-2 variant on the se-
verity of maternal infection and perinatal outcomes: Data from the UK Obstetric Surveillance System national cohort.
medRxiv:21261000v1 [Preprint]. 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.medrxiv.org/content/10.11
01/2021.07.22.21261000v1

44 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021


TÀI LIỆU THAM KHẢO

18. Villar J, Ariff S, Gunier R, Thiruvengadam R, Rauch S, Kholin A et al. Maternal and Neonatal Morbidity and Mortality
Among Pregnant Women With and Without COVID-19 Infection. JAMA Pediatrics. 2021;175(8):817–826.
19. Lopez A. Vaccinating During Pregnancy Has Become Even More Urgent As ICU Beds Fill Upent and Choices [Inter-
net]. Washington D.C.: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.npr.
org/sections/health-shots/2021/08/11/1026555595/pregnant-cdc-urges-covid-vaccination-icus-fill-unvaccinated-delta
20. World Health Organization (WHO). Weekly epidemiological update on COVID-19 - 31 August 2021. Edition 55. [Inter-
net]. Geneva: World Health Organization (WHO). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.who.
int/publications/m/item/weekly-epidemiological-update-on-covid-19---31-august-2021
21. Adela S. Here’s what we know about the mu variant [Internet]. Washington D.C: The Washington Post. 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.washingtonpost.com/world/2021/09/03/mu-coronavirus-variant-ex-
plained/
22. Ezekiel JE, Diane vSL, Robert ML, Ricardo F, Barbara DA. IDSA media briefing: Vaccines, the delta variant, and chas-
ing herd immunity [Internet]. Texas: Infectious Diseases Society of America. 2021. [cited 16 September 2021]. Avail-
able from: https://www.idsociety.org/multimedia/videos/idsa-media-briefing-vaccines-the-delta-variant-and-chas-
ing-herd-immunity/

SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 45


COVID-19
NEWSLETTER
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021

vnuhcm.edu.vn | info@vnuhcm.edu.vn
vnuhcm.info | vnuhcm
Chuyên trang COVID-19
covid19.vnuhcm.edu.vn
covid19@vnuhcm.edu.vn
46 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021

You might also like