Professional Documents
Culture Documents
Covid Newsletter So 7 - 18102021
Covid Newsletter So 7 - 18102021
NEWSLETTER
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021
COVID-19
NEWSLETTER
Nghiên cứu
Lão hóa tế bào kháng thể chống
do SARS-CoV-2 COVID-19 từ máy
28
và hướng điều trị tính của bạn, tại sao
COVID-19 mới không?
Hậu quả tâm lý
của việc cách ly
07 21
và làm thế nào
để giảm thiểu nó:
Đánh giá nhanh
các bằng chứng
40 10 24
Xin lỗi ba mẹ,
nhưng đó là cách
sống của con!
Vaccine COVID-19 Lời kêu cứu từ đại
42
dương - Nước thải chứa
và tâm lý do dự của
SARS-CoV-2 sẽ mang
người dân trên thế
đại dịch đến động vật
Biến thể Delta - giới khi tiêm chủng có vú ở biển
Góc nhìn về đại
dịch COVID-19
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 3
LÃO HÓA TẾ BÀO DO SARS-CoV-2
VÀ HƯỚNG ĐIỀU TRỊ COVID-19 MỚI
Dương Bảo Châu, Nguyễn Thị Thu Hoài
Nhóm nghiên cứu Vi sinh Y, Khoa Công nghệ sinh học,
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM
Trong quá trình nghiên cứu cơ chế gây bệnh của SARS-CoV-2, các nhà khoa học đã chứng minh “cơn bão cytokine” (the
cytokine storm) có liên quan mật thiết đến sự tổn thương các cơ quan và các biến chứng nặng của COVID-19. Những
hiểu biết về cơ chế gây ra các triệu chứng này là tiền đề để phát triển liệu pháp điều trị hiệu quả, từ đó ứng phó với đại
dịch và giảm sức ép lên ngành y tế.
Gần đây, một nghiên cứu thuộc Khoa Y tế Huyết học, Ung thư và Miễn dịch khối U – Viện Y tế Berlin, Đức (VIB) đã chứng
minh “cơn bão cytokine” là một hệ quả của quá trình lão hóa tế bào gây ra do vi-rút (virus-induced senescene (VIS)),
cùng với các phản ứng khác liên quan đến lão hóa gọi tắt là SASP (kiểu hình sinh tổng hợp lão hóa – a senescene-as-
sociated secretory phenotype) bao gồm các cytokine tiền viêm (pro-inflammatory cytokines), các yếu tố hoạt động nền
ngoại bào (extracellular matrix-active factors) và các chất trung gian tiền đông máu (pro-coagulatory mediators). Các
tế bào biểu hiện SASP thường tích tụ trong mô, gây viêm và tổn thương các tế bào xung quanh. Nghiên cứu đã nhấn
mạnh mối liên quan mật thiết giữa VIS và quá trình sinh bệnh COVID-19 thông qua các triệu chứng bao gồm sự gia tăng
chuỗi kích thích miễn dịch và các phản ứng tiền đông máu diễn ra ở tế bào nhiễm vi-rút SARS-CoV-2 có dấu hiệu của
VIS. Đồng thời, Lee và cộng sự cũng chứng minh can thiệp sớm bằng nhóm thuốc senolytic có tác dụng loại bỏ tế bào
VIS như Dasatinib, Quercetin, Fisetin hay Navitoclax có thể là một hướng điều trị mới chống lại vi-rút SARS-CoV-2 [1].
Nghiên cứu in vitro trên tế bào sợi lưỡng bội của người (human diploid fibroblast) với liều cao Retrovirus đã ghi nhận
các dấu hiệu và chỉ số sinh học của sự lão hóa tế bào như là hình thái trương dẹt điển hình, giá trị dương tính của be-
ta-galactosidase và các ổ dị nhiễm sắc liên quan đến lão hóa (senescence-associated heterochromatin foci), song song
đó là sự biểu hiện quá mức của p16INK4a – chất ức chế chu trình kinase phụ thuộc cyclin (CDK) 4 và 6. Phân tích các bộ
gen tăng sinh (gene set enrichment analyses) và giải trình tự ARN của các ổ dị nhiễm sắc đã cho thấy các gen liên quan
đến SASP và quá trình lão hóa tập trung chủ yếu về VIS, đồng thời trùng với quá trình kích hoạt gene ung thư (activated
oncogenes – OIS) (diễn ra ở cùng loại tế bào được kích hoạt lão hóa bởi Ras), từ đó cho thấy phản ứng của tế bào khi
nhiễm vi-rút có liên quan đến quá trình kích hoạt gen ung thư. Kỹ thuật định lượng real time PCR (qRT – PCR) cũng cho
Hình 1. Trình tự các sự kiện trong quá trình nhiễm SARS-CoV-2 dẫn đến tế bào bước vào VIS và gia tăng các phản ứng
miễn dịch gây suy giảm chức năng, trong sự so sánh với các phản ứng miễn dịch khỏe mạnh. (Chú giải: Pyroptosis là
quá trình gây chết tế bào do quá trình tiền viêm, cụ thể ở đây do kích thích bệnh lý từ vi-rút.) (Nguồn hình ảnh: Dịch
từ bài báo “Tay, M.Z., Poh, C.M., Rénia, L. et al. The trinity of COVID-19: immunity, inflammation and intervention. Nat
Rev Immunol 20, 363–374 (2020). https://doi.org/10.1038/s41577-020-0311-8”)
Trong những thí nghiệm tiếp theo nhằm làm rõ hơn mối
liên hệ giữa triệu chứng COVID-19 và VIS, Lee và cộng sự TÀI LIỆU THAM KHẢO
đã thành công chứng minh dịch chiết từ tế bào VIS (super- 1. Lee, S., et al., Virus-induced senescence is driver
natant from VIS cells - SNVIS) có thể kích thích đại thực bào and therapeutic target in COVID-19. Nature,
của người chuyển sang trạng thái CD86+ hoặc CD13+M1, 2021.
cũng như tín hiệu paracrine và sự gia tăng cytokine giống 2. Di Pierro, F., et al., Possible Therapeutic Effects
với trạng thái quan sát được ở tế bào phổi của bệnh nhân of Adjuvant Quercetin Supplementation Against
nhiễm vi-rút. SNVIS cũng được chứng minh có khả năng Early-Stage COVID-19 Infection: A Prospective,
tạo ra các đặc điểm huyết khối vi lượng (microangiopathic Randomized, Controlled, and Open-Label Study.
thrombosis) tương đồng với bệnh nhân nhiễm COVID-19 Int J Gen Med, 2021. 14: p. 2359-2366.
nặng, cũng như làm tăng các yếu tố hoạt hóa bổ thể trong
các mẫu bệnh phẩm. Về bản chất, cơ chế sinh bệnh của 3. Di Pierro, F., et al., Potential Clinical Benefits of
COVID-19 dường như có liên quan chặt chẽ với sự leo thang Quercetin in the Early Stage of COVID-19: Re-
miễn dịch do VIS và tác động tiền huyết khối. sults of a Second, Pilot, Randomized, Controlled
and Open-Label Clinical Trial. Int J Gen Med,
Từ những phát hiện trên, tế bào VIS trở thành mục tiêu 2021. 14: p. 2807-2816.
điều trị chính của COVID-19, nổi trội là phương pháp loại bỏ
6 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021
Hội chứng COVID kéo dài,
mối quan tâm đến hồi phục
sức khỏe hậu COVID-19
Nội dung bài viết: Tóm tắt ấn phẩm nghiên cứu hội chứng COVID kéo dài
Coronavirus thường là nguyên nhân gây ra các dịch cúm mùa, với tỷ lệ tử vong ít hơn 1%, và không xảy ra bất kỳ ảnh
hưởng lâu dài đến sức khoẻ. Riêng với SARS-CoV-2, các trường hợp được báo cáo tử vong cho đến thời điểm hiện tại tỷ
lệ khoảng 3,4%. Bên cạnh các chương trình tiêm chủng đã giảm tỷ lệ nhập viện nặng và giảm tỷ lệ tử vong do COVID-19,
nhưng những công bố gần đây trên Lancet và Nature Medicine cho thấy có những lo ngại rằng số người sau khi mắc
bệnh COVID-19 đã khỏi, hoặc người mắc COVID-19 nhẹ, hoặc không có triệu chứng vẫn có thể đối mặt với một loạt
những vấn đề sức khỏe mạn tính kéo dài hàng tuần hoặc thậm chí hàng tháng. Trên thực tế, chúng ta không thể tiên
lượng hết các hậu quả của COVID-19 gây ra đến sức khoẻ lâu dài như thế nào, do đó cần đặt ra những câu hỏi chiến lược
hành động tuyên truyền và vận động cộng đồng ý thức tự theo dõi chăm sóc chính bản thân.
Hội chứng “COVID kéo dài” tiếng Anh là “long COVID syndrome” được định nghĩa là những người sống sót sau nhiễm
COVID-19, những người dương tính với COVID- 19 nhưng không có biểu hiện triệu chứng, hoặc triệu chứng nhẹ thì sẽ
đối mặt với hàng loạt vấn đề sức khỏe không hồi phục hoàn toàn, cùng với xuất hiện những biến chứng mạn tính, kéo
dài. Các triệu chứng bao gồm (1) mệt mỏi, (2) khó thở, (3) “sương mù não”, (4) rối loạn giấc ngủ, (5) sốt, (6) các triệu
chứng tiêu hóa, (7) lo lắng và trầm cảm, có thể tồn tại trong nhiều tháng và có thể từ nhẹ đến cần phải được điều trị
chuyên khoa (Hình 1). Jennifer Minhas từng có lối sống rèn luyện sức khỏe năng động, chơi quần vợt và đi bộ đường
dài. Nhưng tháng 3/2020, Cô dương tính với COVID-19, sau đó Cô bị hội chứng COVID kéo dài khi nhận thấy cơ thể đi
bộ vài trăm thước cũng khiến Cô bị kiệt sức. Một tình trạng khác, cô Minhas, 54 tuổi cho biết Cô vẫn bị khó thở đau nửa
đầu, rối loạn nhịp tim và các triệu chứng suy nhược khác. Mỗi người trải qua COVID kéo dài theo nhiều cách khác nhau,
hiện không có xét nghiệm nào cụ thể cho tình trạng này. Thay vào đó, nếu bác sĩ nghi ngờ bạn bị COVID kéo dài, bạn
có thể phải thực hiện một số các xét nghiệm để loại trừ các tình trạng khác có thể gây ra các triệu chứng COVID kéo dài
hay không. Ví dụ, bạn có thể được kiểm tra tình trạng thiếu máu, điều này cũng có thể gây ra mệt mỏi.
Hội chứng này ghi nhận đầu tiên đợt COVID-19 trước khi mắc COVID-19, cho thấy rằng các phản ứng
năm 2020 từ kết quả nghiên cứu được báo cáo dưới miễn dịch có thể góp phần vào cơ chế kéo dài tình
dạng bản in trước trên medRxiv và dựa trên kết quả trạng này. Sức khỏe thể chất hoặc tinh thần kém trước
khảo sát hơn 3.700 COVID tự mô tả là “COVID kéo dài” khi bị nhiễm COVID-19 cũng làm tăng nguy cơ phát
ở 56 quốc gia [1]. Sau đó, hệ thống phân tích dữ liệu triển các ảnh hưởng COVID kéo dài. Một nhóm ng-
từ 2,6 triệu người dùng ứng dụng từ Anh và Mỹ được hiên cứu khác cũng chỉ rằng, những người được tiêm
nhóm dẫn đầu bởi Claire Steves và Tim Spector, ở chủng đầy đủ cũng ít có nguy cơ mắc Hội chứng
trường đại học King’s College London, đăng trên Na- COVID kéo dài, và điều đó đúng ở mọi nhóm tuổi [3].
ture Medicine về Hội chứng COVID kéo dài [2], trong Ứng dụng của nghiên cứu này đã cho phép công dân
đó mọi người trải qua một loạt các triệu chứng trong Vương quốc Anh và Mỹ tải xuống ứng dụng điện thoại
thời gian dài mà họ đã hồi phục trong giai đoạn đầu thông minh, tự báo cáo dữ liệu về tình trạng nhiễm,
của COVID-19. Những người phát hiện mắc COVID-19 triệu chứng và tiêm chủng của họ trong một thời gian
phần lớn đều trở lại bình thường trong vòng chưa đầy dài hậu COVID-19. Từ đó có các kênh hỗ trợ tư vấn từ
hai tuần, nhưng dữ liệu cho thấy tỷ lệ 1 trong 20 người các chuyên gia sức khoẻ kịp thời (Hình 2).
mắc COVID-19 có khả năng bị các triệu chứng của
COVID kéo dài trong tám tuần hoặc hơn. Khoảng 1
trong số 50 người tiếp tục có các triệu chứng trong
12 tuần hoặc hơn. Các phân tích đã chỉ ra rằng COVID
kéo dài phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Hội chứng
phổ biến hơn ở những người có tiền sử bị hen suyễn
Từ những dữ liệu ban đầu, các nhà nghiên cứu đã phát hội cho chúng ta có thể tìm hiểu thêm những kiến thức có
triển một mô hình máy học để đưa kết quả dự đoán những được về các triệu chứng bệnh như “sốt tuyến” (glandular
cá nhân nào có nhiều khả năng phát triển COVID kéo dài. fever) hoặc “hội chứng mệt mỏi mạn tính” (chronic fatigue
Thuật toán dựa trên độ tuổi, giới tính và số lượng các triệu syndrome) liên quan khó thở, mệt mỏi khi thở gắng sức, rối
chứng ban đầu đã dự đoán chính xác gần 70 phần trăm loạn nhịp tim, các rối loạn trầm cảm liên quan COVID-19,
các trường hợp COVID kéo dài. hoặc các ảnh hưởng hậu COVID-19 đến tâm lý, kinh tế xã
hội. Từ đó có thể xây dựng nghiên cứu ở các bệnh nhiễm,
Phát hiện này được xem là một lời nhắc nhở quan bệnh mạn tính khác để giúp chúng ta xác định các chiến
trọng khác về tác động sâu sắc của đại dịch COVID-19 đối lược điều trị sức khỏe tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn.
với sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu này cũng mở ra cơ
1. Characterizing Long COVID in an international cohort: 7 months of symptoms and their impact . David
HE et al. Medrxiv. 27 December 27 2020.
2. Real-time tracking of self-reported symptoms to predict potential COVID-19. Menni C, Valdes AM, Frei-
din MB, Sudre CH, Nguyen LH, Drew DA, Ganesh S, Varsavsky T, Cardoso MJ, El-Sayed Moustafa JS,
Visconti A, Hysi P, Bowyer RCE, Mangino M, Falchi M, Wolf J, Ourselin S, Chan AT, Steves CJ, Spector
TD. Nat Med. 2020 Jul;26(7):1037-1040. doi: 10.1038/s41591-020- 0916-2. Epub 2020 May 11.
3. Risk factors and disease profile of post-vaccination SARS-CoV-2 infection in UK users of the COVID
Symptom Study app: a prospective, community-based, nested, case-control study. Antonelli M, Penfold
RS, Merino J, Sudre CH, Molteni E, Berry S, Canas LS, Graham MS, Klaser K, Modat M, Murray B, Ker-
foot E, Chen L, Deng J, Österdahl MF, Cheetham NJ, Drew DA, Nguyen LH, Pujol JC, Hu C, Selvachan-
dran S, Polidori L, May A, Wolf J, Chan AT, Hammers A, Duncan EL, Spector TD, Ourselin S, Steves CJ.
Lancet Infect Dis. 2021 Sep 1:S1473-3099(21)00460-6.
* Vaccine có dấu hoa thị được phê duyệt có điều kiện ở Trung Quốc và những
vaccine khác chỉ được chấp thuận cho phép sử dụng khẩn cấp.
Theo quan điểm của quy trình nghiên cứu và phát Thật đáng mừng là đã có hai vaccine mRNA, hai vaccine
triển, các loại vaccine bao gồm vaccine dựa trên tế bào protein tiểu đơn vị, bốn vaccine vectơ virus dạng không
T, vaccine virus sống giảm độc lực, vaccine tế bào tua và sao chép và bảy vaccine virus bất hoạt được phép sử dụng
vaccine vectơ virus dạng sao chép kết hợp với tế bào trình trong trường hợp khẩn cấp. Trong số đó, Gam-COVID-Vac
diện kháng nguyên, vẫn còn trong giai đoạn đầu, ít sản Lyo (Sputnik V) là vaccine đầu tiên được phê duyệt trong
phẩm được thiết kế cho từng loại và chưa có sản phẩm khi BNT162b2 (Pfizer), hiện được 84 quốc gia ủy quyền,
nào được xác nhận là có đủ độ an toàn cho đến nay. Mặc là vaccine được cấp phép rộng rãi nhất. Trong số các sản
dù không có hiệu quả được xác nhận rõ ràng, vaccine phẩm mới nhất được phê duyệt, có vaccine vectơ virus
vectơ virus dạng sao chép, vaccine hạt giống virus và vac- dạng không sao chép với một liều sử dụng và một vac-
cine DNA có nhiều sản phẩm hơn và một phần của các sản cine protein tiểu đơn vị với ba liều sử dụng. Đối với các
phẩm liên quan đã bước vào giai đoạn xác nhận hiệu quả. vaccine chưa được chấp thuận sử dụng trong trường hợp
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 11
khẩn cấp phần lớn đều chưa có đầy đủ các minh chứng hòa cao hơn và khả năng bảo vệ hoàn thiện hơn so với
về tính an toàn và hiệu quả. Tính an toàn và hiệu quả của vaccine dựa trên axit nucleic bao gồm DNA hoặc mRNA.
ba loại vaccine virus bất hoạt (Cronavac, QAZCOVID-IN và Những lợi thế tiềm năng của vaccine mRNA bao gồm khả
KCONVAC), hai vaccine vectơ virus dạng không sao chép năng bắt chước sự lây nhiễm tự nhiên để kích thích phản
(Ad5-nCoV và Ad26.COV2.S) và hai vaccine protein tiểu ứng miễn dịch mạnh hơn cũng như khả năng kết hợp
đơn vị (EpiVacCorona và ZF2001) vẫn chưa được xác nhận nhiều mRNA vào một vaccine duy nhất. Một ưu điểm của
trên các thử nghiệm. Nhìn chung, so với tiêu chí thành vaccine dựa trên công nghệ nucleic acid bao gồm DNA
công thống kê và mục tiêu hiệu quả 50% được đặt ra cho hoặc mRNA là các vaccine này có thể có hiệu quả ngay cả
thử nghiệm vaccine có đối chứng với giả dược của FDA, trên chủng virus đột biến, điều này giải thích tại sao đây
hiệu quả của bảy loại vaccine với các thử nghiệm được là một trong những vaccine COVID-19 đầu tiên được đưa
báo cáo đều có thể chấp nhận được, nằm trong khoảng từ vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, vaccine mRNA cũng
51% đến 95%. Ngoài ra, các tác dụng phụ nghiêm trọng có những vấn đề riêng như: mặc dù chúng đã được phê
và cần có sự hỗ trợ của y tế của các loại vaccine này xảy ra duyệt và đã qua sử dụng, vaccine dựa trên mRNA tương
ở mức độ thấp (dưới 0,5%). đối khó bảo quản và phân phối vì nó đòi hỏi phải được
bảo quản ở nhiệt độ thấp, điều này không thể dễ dàng
Trong năm qua, đã có những bước đột phá lớn trong thực hiện được với ngân sách hạn chế.
cuộc chiến toàn cầu chống lại dịch bệnh. Tuy nhiên, tốc
độ phát triển nhanh chóng đã làm dấy lên những lo ngại Tình hình phát triển và thử nghiệm vaccine ở Việt
tiềm tàng của công chúng về tính an toàn và hiệu quả của Nam
các loại vaccine đang được phát triển và sử dụng. Mặc dù
các bằng chứng khẳng định hiệu quả đã được tìm thấy Tính đến ngày 21/9/2021, có 5 loại vaccine phòng
trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III nhưng cần COVID-19 đang được nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam,
chú ý hơn đến việc thu thập dữ liệu thực tế để xác định trong đó 2 loại vaccine do chính Việt Nam nghiên cứu
tính an toàn và hiệu quả lâu dài của các sản phẩm vaccine phát triển (Nano Covax và Covivac), 2 loại vaccine khác
này. Cho đến nay, chỉ có vaccine BNT162b2 có dữ liệu được chuyển giao công nghệ từ nước ngoài (Vaccine VBC-
thực tế đánh giá hiệu quả trong cơ sở tiêm chủng đại trà COV19-154 và Recombinant SARS-CoV-2 Spike Protein)
trên toàn quốc ở Israel. và 1 loại được gia công đóng ống tại Việt Nam (Vaccine
COVID-19 Sputnik V).
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng điểm cuối chính (the
primary endpoint) của các thử nghiệm nghiên cứu và phát Nano Covax
triển các loại vaccine là không nhất quán, mặc dù các thử
nghiệm đều dựa trên hướng dẫn quy định từ FDA. Điểm Nano Covax do các nhà khoa học của Công ty Nano-
cuối chính là kết quả chính được đo vào cuối một nghiên gen và Học viện Quân y nghiên cứu, phát triển với 2 liều
cứu để xem liệu một phương pháp điều trị nhất định có sử dụng cách nhau 28 ngày. Vaccine Nano Covax là loại
hiệu quả hay không (ví dụ: số ca tử vong hoặc sự khác vaccine tiểu đơn vị (sử dụng protein gai tái tổ hợp của
biệt về khả năng sống sót giữa nhóm điều trị và nhóm SARS-CoV-2 kết hợp với tá dược là các hạt nhôm) được
chứng) và là mục tiêu trong các thử nghiệm nghiên cứu sản xuất dựa trên công nghệ tái tổ hợp, tức là sử dụng
lâm sàng. Nó trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất trong các những kháng nguyên – protein gai của nCoV để kích thích
thử nghiệm. Điểm cuối chính chia thành 3 nhóm: nhóm tạo đáp ứng miễn dịch phù hợp. Hiện tại, Nano Covax đã
đánh giá dựa trên tỷ lệ thành công; nhóm đánh giá dựa thử nghiệm giai đoạn 3 và được Hội đồng đạo đức trong
trên tỷ lệ thất bại (ví dụ đối với nghiên cứu vaccine là kết nghiên cứu y sinh học quốc gia xác nhận đạt yêu cầu về
quả dương tính, biểu hiện triệu chứng bệnh và tử vong,…); tính an toàn và tính sinh miễn dịch. Với những kết quả khả
nhóm đánh giá dựa trên các mục đo lường (ví dụ như các quan về hiệu quả, hy vọng Nano Covax sẽ hoàn tất ng-
tác dụng phụ, hiệu quả của vaccine, độ an toàn,…). Một hiên cứu về tính sinh miễn dịch trên các biến chủng mới,
ví dụ làm rõ hơn quan điểm về tính không nhất quán của để được cấp giấy phép lưu hành và có thể cung ứng cho
điểm cuối chính dựa trên tỷ lệ thất bại trong các thử ng- cộng đồng cho thời gian sắp tới.
hiệm vaccine là trường hợp có kết quả dương tính trong
xét nghiệm COVID-19 của vaccine Gam-COVID-Vac Lyo Vaccine COVIVAC
và BNT162b2 (bao gồm cả trường hợp người bị nhiễm có
triệu chứng, người bị nhiễm không triệu chứng), trong khi Vaccine COVIVAC cũng dựa trên protein S tái tổ hợp
đối với AZD-1222 (Astra Zeneca), mRNA-1273 và COVAX- của virus SARS-CoV-2 biểu hiện trên bề mặt virus News-
IN là trường hợp biểu hiện 1 hoặc 2 triệu chứng đặc trưng castle bất hoạt. Công nghệ vaccine COVIVAC là viral vec-
của bệnh. Điều này cho thấy, sự thành công cơ bản của tor, được sản xuất trên trứng gà có phôi, độ tinh khiết đạt
vaccine là khả năng tăng cường miễn dịch của cơ thể đối 99%. Dự án nghiên cứu thử nghiệm vaccine COVIVAC của
với virus Sar-Cov2 trên bất kỳ đối tượng nào nhằm giảm Viện Vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC) trực thuộc Bộ Y tế
tỷ lệ mắc phải, tỷ lệ bệnh nặng cũng như tỷ lệ tử vong. được nghiên cứu từ tháng 5/2020, trên cơ sở hợp tác với
các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức quốc
Chính vì vậy, một loại vaccine lý tưởng sẽ bao gồm 3 tế sản xuất. Trong đó, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương là
yếu tố quan trọng là độ an toàn, độ hiệu quả và chi phí đơn vị nhận thử nghiệm, Trường Đại học Y Hà Nội là đơn
hợp lý. Trong đó, nó phải có khả năng đáp ứng miễn dịch vị triển khai thử nghiệm. Vào ngày 3/8/2021, Hội đồng
tốt, có thể tạo ra kháng thể trung hòa kéo dài và có độ đạo đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia chứng
ổn định nhiệt cao, để có tính khả thi trong việc bảo quản nhận vaccine COVIVAC an toàn và có tính sinh miễn dịch,
và vận chuyển toàn cầu. Theo các báo cáo gần đây, vac- đủ điều kiện để chuyển sang giai đoạn 2.
cine protein tiểu đơn vị tạo ra hiệu quả kháng thể trung
Vai trò của phổ biến thông tin để khắc phục tâm lý Tính đến ngày 1/10/2021, số liệu tiêm chủng vaccine
do dự trong tiêm phòng ở Việt Nam và thế giới khá khả quan, nhưng chưa đạt
được sự đồng bộ. Để đạt được tỷ lệ tiêm chủng lý tưởng
Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu này, nhu cầu tìm 60-75%, việc phân bổ nguồn vaccine sao cho hợp lý vẫn
kiếm thông tin tăng lên, đặc biệt là khi vaccine trở nên còn là một thách thức lớn và đang rất cần một lời giải
phổ biến hơn, mọi người cần thông tin hướng dẫn liên thích hợp, đây cũng là cơ hội tốt để tận dụng và giải quyết
quan đến việc triển khai vaccine, nhận vaccine và sử dụng vấn đề liên quan đến “sự do dự tiêm chủng”. Các kết quả
vaccine. Vì COVID-19 là một căn bệnh mới vẫn đang được nghiên cứu trên đã cho thấy rằng việc ưu tiên vaccine cho
nghiên cứu và các loại vaccine này cũng đã được cung các nước có thu nhập thấp hơn trung bình (LMICs), trong
cấp sau một thời gian ngắn nghiên cứu và phát triển, nên đó có Việt Nam, không chỉ hợp lý trên phương diện bình
[1] Begum, Jubeda, et al. “Challenges and prospects of COVID‐19 vaccine development based on the
progress made in SARS and MERS vaccine development.” Transboundary and emerging diseases
68.3 (2021): 1111-1124.
[2] Ghandi, M. “Can people spread the coronavirus if they don’t have symptoms? 5 questions an-
swered about asymptomatic COVID-19.” The Conversation 23 (2020).
[3] Huang, Hui-Yao, et al. “Landscape and progress of global COVID-19 vaccine development.” Hu-
man Vaccines & Immunotherapeutics (2021): 1-5.
[4] Hui, David S., et al. “The continuing 2019-nCoV epidemic threat of novel coronaviruses to global
health—The latest 2019 novel coronavirus outbreak in Wuhan, China.” International journal of
infectious diseases 91 (2020): 264-266.
[5] Machingaidze, Shingai, and Charles Shey Wiysonge. “Understanding COVID-19 vaccine hesitan-
cy.” Nature Medicine (2021): 1-2.
[6] Morse, Jared S., et al. “Learning from the past: possible urgent prevention and treatment options
for severe acute respiratory infections caused by 2019‐nCoV.” Chembiochem 21.5 (2020): 730.
[7] Mehrotra, Devan V., et al. “Clinical endpoints for evaluating efficacy in COVID-19 vaccine trials.”
Annals of internal medicine 174.2 (2021): 221-228.
[8] Murphy, Jamie, et al. “Psychological characteristics associated with COVID-19 vaccine hesitancy
and resistance in Ireland and the United Kingdom.” Nature communications 12.1 (2021): 1-15.
[9] Reese, Heather, et al. “Estimated incidence of coronavirus disease 2019 (COVID-19) illness and
hospitalization—United States, February–September 2020.” Clinical Infectious Diseases 72.12 (2021):
e1010-e1017.
Hình 2: Mô hình dự đoán cấu trúc hoàn chỉnh của protein S ở vỏ virus SARS-CoV-2 [8].
Sau khi đã có mô hình dự đoán hoàn chỉnh của pro- đó, mô phỏng chiếu chùm tia phân tán (diffuse ray) lên
tein S, các nhà khoa học sẽ kiểm tra sự bền vững cấu mô hình nhằm tìm ra các vị trí mà kháng thể có thể bám
trúc (rigidity) của mô hình và phân tích khả năng tiếp cận được. Cả hai mô hình có và không có nhóm đường đều
không gian của kháng thể (accessibility) từ việc mô phỏng được sử dụng trong quá trình mô phỏng này nhằm đánh
tương tác bám (docking) của protein S và vùng liên kết giá ảnh hưởng của các nhóm đường đến khả năng bám
với kháng nguyên (Fab/antigen-binding fragment). Sau của kháng thể.
Hình 3: Phân
bố năm cụm
epitope trên
vùng RBD của
protein S (cụm
ở vai trái bị che
khuất) và hiệu
lực trung hòa bởi
kháng thể từ các
epitope [9].
Nhờ có các nghiên cứu tin-sinh học trên máy [1] W. H. Organization, “WHO Director-General’s
tính đến thực nghiệm, chúng ta có thể dễ dàng opening remarks at the media briefing on COVID-19 “
thiết kế các kháng thể vừa có khả năng gắn vừa 2020.
có khả năng trung hòa virus SARS-CoV-2 để ngăn
[2] W. H. Organization, “COVID-19 in Vietnam,” 2021.
chặn xâm nhiễm. Ngoài ra, các kết quả còn gợi ý
đến chiến lược phối hợp nhiều kháng thể trung [3] “COVID-19 CORONAVIRUS PANDEMIC,” 2021.
hòa gắn ở nhiều cụm khác nhau để có thể bám
[4] C. O. Barnes et al., “Structures of Human Antibodies
các epitope trên protein S của vỏ virus ngăn cản
sự tương tác với thụ thể ACE2. Đây có thể là liệu Bound to SARS-CoV-2 Spike Reveal Common Epi-
pháp miễn dịch với khả năng bảo vệ và chống topes and Recurrent Features of Antibodies,” Cell, vol.
lại tốt hơn với các biến thể của virus SARS-CoV-2 182, no. 4, pp. 828-842.e16, 2020/08/20/ 2020.
hiện nay. Từ đó cũng cho thấy sự hữu ích của [5] J. Shang et al., “Cell entry mechanisms of SARS-
phương pháp nghiên cứu trên máy tính (in silico) CoV-2,” Proc Natl Acad Sci U S A, vol. 117, no. 21, pp.
giúp phát triển vaccine chống lại đại dịch hiện nay
11727-11734, May 26 2020.
và các bệnh khác trong tương lai.
[6] S. Boopathi, A. B. Poma, and P. Kolandaivel, “Novel
2019 coronavirus structure, mechanism of action,
antiviral drug promises and rule out against its treat-
ment,” J Biomol Struct Dyn, vol. 39, no. 9, pp. 3409-
3418, Jun 2021.
[7] Y. Watanabe, J. D. Allen, D. Wrapp, J. S. McLellan, and
M. Crispin, “Site-specific glycan analysis of the SARS-
CoV-2 spike,” Science, vol. 369, no. 6501, pp. 330-333,
Jul 17 2020.
[8] M. Sikora, S. von Bulow, F. E. C. Blanc, M. Gecht, R.
Covino, and G. Hummer, “Computational epitope
map of SARS-CoV-2 spike protein,” PLoS Comput Biol,
vol. 17, no. 4, p. e1008790, Apr 2021.
[9] W. Dejnirattisai et al., “The antigenic anatomy of
SARS-CoV-2 receptor binding domain,” Cell, vol. 184,
no. 8, pp. 2183-2200.e22, 2021/04/15/ 2021.
Bách khoa,
NVCC
ĐHQG-HCM
chế tạo máy
rửa tay tự động
kết hợp IoT
Sau 6 tháng thực hiện, sửa chữa và cải tiến, bản dùng Các thông tin về danh tính, kết quả đo thân nhiệt, đối
thử lần 3 cũng là bản hoàn thiện nhất. Về hình dáng, máy tượng tiếp xúc gần được lưu trữ lại tại cơ sở dữ liệu trung
cao 2m, chân đế có kích thước là 0,6m x 0,53m. Kết cấu tâm của máy từ 30-45 ngày đối với khách vãng lai và 21-
của máy gồm 2 phần. Bên dưới là một thùng chứa mạch 30 ngày đối với cán bộ, giảng viên, sinh viên của trường
và dây điện. Phía trên là bảng trắng được gắn thanh đo để tiện cho việc truy vết khi cần.
thân nhiệt cảm biến có thể thay đổi theo chiều cao của
người sử dụng, một màn hình led, camera AI thông minh Sau quá trình đồng hành cùng nhóm, PGS.TS Quản
và vòi phun khử khuẩn tự động. Thành Thơ đánh giá cao về tiềm năng phát triển của máy
rửa tay tự động kết hợp IoT. Ông nhấn mạnh: “Điểm nổi
bật của sản phẩm là được phát triển
từ các thiết bị không quá phức tạp,
dễ chế tạo, hoạt động tốt và đáp
ứng các nhu cầu kiểm tra phòng
dịch cơ bản. Nhờ vậy có thể sản xuất
đại trà. Đồng thời, sản phẩm có thể
hoàn toàn thay thế được con người
trong công tác kiểm tra phòng dịch
ở mức độ cơ bản”.
Hình 3: Bản
thiết kế 3D hoàn
thiện của “Máy
rửa tay tự động
kết hợp IoT”.
Ảnh: NVCC
Học viên Cao học Mai Quốc Gia, PGS.TS Trần Văn Hiếu,
Nhóm nghiên cứu Y sinh học GMIF; PTN Cảm biến sinh học
PGS.TS Hoàng Đức Huy, PTN Động vật,
Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
ĐHQG-HCM
COVID-19 là một bệnh lây nhiễm đường hô hấp Quốc. Tóm lại, SARS-CoV-2 từ chất thải người bệnh có thể
do SARS-CoV-2, xuất hiện lần đầu tại Trung Quốc vào tồn tại lâu trong nước thải và biến nước thải không được
12/2019. Do khả năng lây lan nhanh chóng, Tổ chức Y tế xử lý thành nguồn lây truyền đại dịch.
Thế giới (WHO) đã tuyên bố COVID-19 là một đại dịch.
Đại dịch này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, Việc xử lý nước thải, loại bỏ mầm bệnh là hết sức cần
tác động xấu đến kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Ngoài thiết. Hiện nay, việc xử lý nước thải được thực hiện qua ba
ra, SARS-CoV-2 cũng đã xâm nhập vào môi trường sống công đoạn: cấp I, cấp II và cấp III. Xử lý cấp I là tiến hành
và tác động đến các loài động vật khác. lắng đọng các chất rắn có thể lắng. Ở xử lý cấp II, các hợp
chất hữu cơ hòa tan và lơ lửng trong nước sẽ được loại bỏ.
SARS-CoV-2 lây truyền qua đường hệ hô hấp nhưng Trong xử lý cấp III, nhiều quy trình được thực hiện để loại
gần đây, nhiều bằng chứng cho thấy chủng này đã xâm bỏ các chất dinh dưỡng và mầm bệnh. Các nghiên cứu
nhập và gây nhiễm trùng đường ruột, viêm dạ dày. Điều cho thấy, sau ba quá trình xử lý, vi-rút có thể được loại ra
này dẫn đến sự tồn tại của SARS-CoV-2 trong phân và khỏi nước thải; tuy nhiên, nước chưa xử lý, hoặc xử lý cấp
nước tiểu của người bệnh. Theo các nghiên cứu, khoảng I tiềm ẩn nguy cơ lây bệnh rất cao.
pH của vi-rút corona rất rộng (3-10) và thời gian sống
trong nước thải lên đến vài tuần, thậm chí là 25 ngày. Nhiều nơi trên thế giới, có hay không qua xử lý, các
Vi-rút trong chất thải sẽ nhiễm vào nước thải, trở thành loại nước thải vẫn được thải ra kênh rạch, sông ngòi, cuối
nguồn lây lan tiềm tàng. Trên thực tế, Ý, Pháp, Úc đã ghi cùng ra đại dương, làm ảnh hưởng đến nhiều động vật
nhận SARS-CoV-2 trong nước thải sinh hoạt chưa qua xử hoang dã. Chúng dễ bị tổn thương bởi chất thải rắn, chất
lý. Ở Ecuador, vi-rút này được phát hiện ở cả trong nước hóa học, hạt nano và sự xâm nhiễm của mầm bệnh từ
sông. Gần đây, nước thải đường phố chứa vi-rút đã trở người. Sự truyền vi-rút từ người sang động vật gây ra
thành nguồn lây ở một khu vực thuộc Quảng Châu, Trung những hậu quả nghiêm trọng. Ebola ở người đã từng lây
và giết chết hơn 5.000 con khỉ. Gần đây, ở New York, một thụ thể ACE2, nơi tương tác giữa vi-rút và tế bào chủ. Các
con hổ Malay đã nhiễm SARS-CoV-2 từ người, sau đó đột biến gen thuộc trình tự mã hóa ACE2 có thể thay đổi
lây sang một số động vật khác. Thật không may, một số sự mẫn cảm với SARS-CoV-2. Dựa vào đây, các nhà khoa
thú cưng như mèo cũng có hiện tượng này. Ở động vật, học đã phân tích, so sánh trình tự gen mã hóa ACE2 ở
SARS-CoV-2 gây nhiễm trùng đa tạng, dẫn đến tử vong. 35 loài động vật có vú ở biển, thuộc bốn nhóm chính:
Tuy nhiên, không phải loài nào cũng có thể nhiễm bệnh. Cetacea (cá voi), Pinnepidia (hải cẩu), Sirenia (bò biển) và
Điều này phụ thuộc vào thụ thể ACE2 và động vật có vú Fissipedia (gấu trắng, rái cá), sau đó xác định các trình tự
được dự đoán là có nguy cơ nhiễm cao. Động vật có vú đột biến có nguy cơ, cuối cùng mô phỏng và đánh giá
trên cạn, sống ở nơi ít dấu chân người sẽ khó bị tác động. protein ACE2 đột biến. Vi-rút sử dụng protein gai (Spike)
Tuy nhiên, động vật có vú ở biển có thể chịu ảnh hưởng để gắn lên ACE2, do đó protein này được dùng để thử
lớn từ SARS-CoV-2. Để bảo vệ chúng, điều cần làm là xác tương tác với ACE2 đột biến và MutaBind2 là phầm mềm
định loài có thể nhiễm và khu vực phân bố có gần với được sử dụng để đánh giá tương tác. Tương tác giữa các
vùng nguy hiểm hay không. ACE2 khác nhau với protein gai được sử dụng làm chuẩn,
tương tác càng mạnh (giá trị ΔΔGbind càng thấp), thì sự
Đầu tiên, chúng ra cần tìm hiểu và xác định loài có mẫn cảm với vi-rút càng cao.
nguy cơ. Để làm điều này, các nhà khoa học sẽ dựa vào
Hình 1. Các mức độ nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 dựa trên phần mềm MutaBind2.
Cuối cùng, một khảo sát được thực hiện tại Alaska xử lý. Tuy nhiên, một số khu vực vẫn chuyển nước trực
nhằm xác định các khu vực nguy hiểm đối với động vật tiếp ra đầm phá, hình thành các “điểm nóng” bùng dịch
có vú thuộc vùng biển này, bao gồm: hải cẩu phương bắc, như Cold Bay, Naknek, Dillingham và Palmer. Đặc biệt, cá
sư tử biển Stellar, rái cá biển bắc, hải cẩu Harbor, cá voi voi Beluga ở Palmer là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Nếu
Beluga, cá heo Harbor và cá voi lưng gù. Tại Alaska, đến nhiễm SARS-CoV-2, loài này hoàn toàn có thể biến mất
7/8/2020, đã có 4.221 người nhiễm COVID-19 và đang khỏi hệ sinh thái.
tiếp tục tăng. Việc xác định và đánh giá hiệu quả xử lý
nước thải có thể giúp dự đoán các vị trí tiềm ẩn nguy cơ. Khi xâu chuỗi các thông tin trên, ta thấy rằng từ chất
Kết hợp các vị trí này với bản đồ phân bố quần thể sẽ giúp thải người bệnh, qua hệ thống nước thải, SARS-CoV-2 có
xác định “điểm nóng”, nơi dịch bệnh có thể bùng phát. thể xuất hiện và tác động đến các loài động vật có vú ở
Ở đây, nước thải được đổ ra đầm phá, hoặc đến các nhà biển, đặc biệt là những loài đang đối mặt với nguy cơ
máy xử lý. Nước trong các đầm phá không được xử lý và tuyệt chủng. Điều này có thể dẫn đến một đại dịch mới ở
có thể trở thành nguồn lây. Ở phía bắc, nước thải được xử biển cả, nó có thể là COVID-21, COVID-22, hay COVID-23,
lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên điều này không hoặc sẽ không có thêm một đại dịch tương tự COVID-19
xảy ra ở phía tây. Ba loài hải cẩu Phoca hispida, Erignathus nào nữa nếu chúng ta hành động ngay bây giờ.
barbatus và Phoca largha ở bờ biển phía tây đang đối
mặt với nguy cơ nhiễm bệnh. Hầu hết các loài mẫn cảm
được tìm thấy ở phía nam, nơi phần lớn nước thải đã được
Từ khóa: ACE2, COVID-19, động vật có vú ở biển, quản lý nước thải, SARS-CoV-2.
(Lược dịch từ: Brooks, S. K., Webster, R. K., Smith, L. E., Woodland, L., Wessely, S., Greenberg, N., &
Rubin, G. J. (2020). The psychological impact of quarantine and how to reduce it: rapid review of the
evidence. The lancet, 395(10227), 912-920)
Tóm tắt
Xuất hiện lần đầu vào năm 2019 tại Vũ Hán, đến nay đại dịch COVID-19 đã có 4 đợt bùng phát và ảnh
hưởng sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia đã có những quyết định về
việc giãn cách xã hội và cách ly y tế với những người dương tính hoặc tiếp xúc gần với người dương tính
COVID-19 tại các cơ sở cách ly tập trung hoặc tại nhà. Trên cơ sở nghiên cứu 3 nguồn dữ liệu internet
với 3.166 bài báo đã công bố, có 24 bài phù hợp để đưa vào phân tích những tác động tâm lý của đại dịch
COVID-19. Hầu hết các nghiên cứu đều báo cáo các tác động tiêu cực bao gồm các triệu chứng stress hậu
sang chấn, lo âu và cảm xúc tiêu cực. Các yếu tố gây căng thẳng gồm thời gian cách ly kéo dài hơn, lo sợ
lây nhiễm, thất vọng, buồn chán, nguồn cung cấp và thông tin không đầy đủ, tổn thất về tài chính và sự kỳ
thị. Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất các ảnh hưởng lâu dài cần quan tâm của việc giãn cách xã hội và
cách ly y tế. Trong những tình huống mà việc cách ly là cần thiết để đảm bảo an toàn, cần chú ý đến thời
gian cách ly không quá dài, cung cấp rõ ràng về các yêu cầu và thông tin cách ly, đảm bảo nguồn cung cấp
đầy đủ (nhu yếu phẩm và y tế). Đồng thời cần truyền thông nâng cao nhận thức về lòng trắc ẩn, vị tha, yêu
thương thông qua thông điệp về lợi ích của việc cách ly y tế và giãn cách xã hội. Trên cơ sở của nghiên cứu
này, chúng tôi cũng đã cập nhật và kiến nghị một số giải pháp cho Việt Nam trong chiến lược giãn cách,
cách ly y tế và điều trị bệnh nhân COVID-19. Các giải pháp tập trung vào việc xây dựng lại chiến lược giãn
cách xã hội và cách ly y tế; xây dựng hệ thống thông tin truyền thông tập trung, hiệu quả; cung cấp đầy đủ
nhu cầu y tế và nhu yếu phẩm cho người trong vùng cách ly; cần phải có các dịch vụ hỗ trợ về sức khoẻ tâm
thần theo nhiều cấp độ cho những người bị cách ly và bệnh nhân COVID-19 bởi nhóm chuyên gia đa ngành;
chú ý nhiều hơn đến đời sống tinh thần của nhân viên y tế, những người bị tổn thương nhất trong bối cảnh
COVID-19; cần có một nghiên cứu về sức khoẻ tâm thần và các yếu tố ảnh hưởng để có một hệ thống giải
pháp tích cực, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
Năm nghiên cứu so sánh kết quả tâm lý của người cách Một nghiên cứu trên hai nhóm sinh viên đã từng bị cách
ly với người không bị cách ly (Bai Y và cs, 2004; Liu X và cs, ly và không bị cách ly cho thấy không có sự khác biệt gì
SỐ 07 NGÀY 18/10/2021 | COVID-19 NEWSLETTER | 29
đáng kể về triệu chứng stress hậu sang chấn hoặc các vấn (Hawryluck L và cs, 2004; Jeong H, Yim HW và cs, 2016;
đề về sức khỏe tâm thần tổng quát. Tuy nhiên, nghiên cứu Reynolds DL và cs, 2004).
này chưa đủ mẫu đại diện cho toàn bộ học sinh, sinh viên
nên có lẽ chưa khái quát hết và những kết luận này là chưa Các yếu tố gây căng thẳng khi cách ly
đầy đủ (Jeong H và cs, 2016; Wang Y và cs, 2009).
Kéo dài thời hạn cách ly
Chỉ có một nghiên cứu so sánh những hậu quả về tâm Các nghiên cứu cho thấy rằng thời gian cách ly kéo dài
lý trong suốt thời gian cách ly và một thời gian sau đó, có thể dẫn tới các vấn đề sức khoẻ tâm thần trầm trọng
kết quả chỉ ra rằng trong suốt thời gian cách ly có khoảng hơn và gia tăng các triệu chứng stress hậu sang chấn, các
7% (126 trong số 1.656) có triệu chứng rối loạn lo âu, hành vi né tránh xã hội và cảm xúc âm tính. Một số nghiên
17% (275) cảm thấy tức giận, trong khi 4 đến 6 tháng sau cứu đã chỉ ra rằng những người cách ly hơn 10 ngày sẽ
cách ly các triệu chứng này đã giảm xuống 3% (lo âu) và có các triệu chứng stress hậu sang chấn cao hơn so với
6% (tức giận). Hai nghiên cứu báo cáo những hậu quả lâu những người bị cách ly ít hơn 10 ngày (Hawryluck L và cs,
dài của việc cách ly. Sau 3 năm bùng phát dịch SARS, lạm 2004; Marjanovic Z và cs, 2007; Reynolds DL và cs, 2008).
dụng rượu hoặc các triệu chứng lệ thuộc chất có mối liên
hệ với việc bị cách ly ở những nhân viên y tế. Trong một Lo sợ lây nhiễm
phân tích đa biến, sau khi kiểm soát các biến nhân khẩu, Trong tám nghiên cứu cho rằng những người cách ly
hai yếu tố cách ly và đã từng làm việc trong môi trường thường luôn sợ hãi về sức khoẻ của bản thân và sợ lây
nguy cơ cao là hai biến có liên quan đáng kể với những nhiễm cho người khác, nhất là các thành viên trong gia
hậu quả về tâm lý (Wu P, Liu X, Fang Y, và cs, 2008). đình. Đặc biệt, họ lo lắng nhiều hơn khi bản thân có bất kỳ
triệu chứng cơ thể nào có liên quan đến lây nhiễm, sợ các
Sau cách ly, nhiều người tiếp tục gia tăng các hành vi triệu chứng có thể kéo dài và điều này có liên quan đến
né tránh. Đối với các nhân viên y tế, kể từ ngay khi bị cách các hậu quả tâm lý sau đó nhiều tháng. Các nhóm nhiều
ly đã có những dấu hiệu của hành vi né tránh, như giảm lo âu hơn cả là nhóm phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi
thiểu tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân và trì hoãn báo con nhỏ (Blendon RJ và cs, 2004; Braunack¬Mayer A và cs,
cáo công việc với đồng nghiệp/cấp trên. Một nghiên cứu 2004; Jeong H và cs, 2016; Desclaux A và cs, 2017).
khác cho thấy, người bị cách ly bởi nguy cơ mắc SARS ghi
nhận có khoảng 54% (524 trong số 1.057) tránh né những Thất vọng và chán nản
người có triệu chứng của SARS, 26% (255) tránh những Một số nghiên cứu cho thấy, việc bị cách ly có thể gây
chỗ đông người, nơi khép kín và 21% (204) tránh mọi nên sự buồn chán, thất vọng và cảm giác cô lập, đau khổ.
không gian công cộng sau thời gian cách ly. Một nghiên Những cảm xúc và tâm trạng ngày càng trầm trọng do
cứu định tính cho thấy, những người bị cách ly có nhiều người bị cách ly không thể tham gia các sinh hoạt thường
thay đổi về hành vi dài lâu về sau như rửa tay kỹ lưỡng ngày, như đi mua sắm các nhu yếu phẩm hoặc tham gia
và tránh đám đông, nhiều người trở lại trạng thái bình vào các kết nối xã hội thông qua điện thoại hoặc internet
thường phải mất rất nhiều tháng sau đó (Marjanovic Z và (Blendon RJ và cs, 2004; Braunack¬Mayer A và cs, 2013;
cs, 2007; Reynolds DL và cs, 2008; Cava MA và cs, 2005). Cava MA và cs, 2017; Hawryluck L và cs, 2004; Jeong H và
cs, 2016; Reynolds DL và cs, 2008; Robertson E và cs, 2004;
Các dự báo tiền cách ly về tác động tâm lý Wilken JA và cs, 2017).
Liệu rằng các đặc trưng và yếu tố nhân khẩu của người Nguồn cung cấp không đầy đủ
bị cách ly có phải là các yếu tố dự báo về hậu quả tâm lý Không có đủ các nhu yếu phẩm cơ bản như thực phẩm,
hay không? Một nghiên cứu trên nhóm những người nuôi nước uống, quần áo, chỗ ở trong thời gian cách ly gây ra
ngựa bị cách ly bởi dịch cúm ngựa đã xác định các đặc sự thất vọng lớn cho cá nhân (Blendon RJ và cs, 2004;
điểm liên quan đến các hậu quả tâm lý tiêu cực như lứa Wilken JA và cs, 2017) và những cảm xúc này có thể kéo
tuổi (16-24 tuổi), trình độ học vấn thấp, giới nữ, có một dài kể cả sau 4 đến 6 tháng sau khi hết cách ly (Jeong H và
con. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cho rằng các yếu tố cs, 2016). Đồng thời, việc không được cung cấp các dịch
nhân khẩu như tình trạng hôn nhân, tuổi tác, trình độ học vụ y tế thường xuyên cũng là vấn đề lớn đối với người bị
vấn, sinh sống cùng người khác và có con đều không liên cách ly (Blendon RJ và cs, 2004). Có bốn nghiên cứu cho
quan đến các hậu quả về tâm lý (Hawryluck L và cs, 2004; thấy, đa số người cách ly cho rằng họ không được cung
Taylor MR và cs, 2008). cấp đầy đủ về vật tư y tế, thực phẩm, nước uống và điều
này làm gia tăng các cảm xúc tiêu cực/ âm tính (DiGiovan-
Người có tiền sử bệnh tâm thần có khả năng sẽ trải ni C và cs, 2004; Cava MA và cs, 2005; Pellecchia U và cs,
qua lo âu sau 4 đến 6 tháng sau khi kết thúc cách ly. Các 2015; Caleo G và cs, 2018).
nhân viên y tế bị cách ly có nhiều triệu chứng stress hậu
sang chấn trầm trọng hơn các nhóm cộng đồng khác Thông tin không đầy đủ
cũng bị cách ly. Các nhân viên y tế cũng cảm thấy mình Nhiều người bị cách ly cho rằng, các thông tin từ cơ
bị định kiến bởi việc nhiễm bệnh cao hơn các nhóm cộng quan y tế rất ít làm cho họ căng thẳng, lo lắng, nhiều
đồng khác. Họ cũng gia tăng các hành vi né tránh xã hội, người thì cho rằng, các thông tin không rõ ràng cũng làm
mất thu nhập hơn và có nhiều hậu quả hơn về mặt tâm họ hoang mang, nhất là khi họ không hiểu rõ mục đích
lý như tức giận nhiều hơn, khó chịu, sợ hãi, thất vọng, tội của việc cách ly (Braunack¬Mayer A và cs, 2013; Cava MA
lỗi, bất lực, cô lập, cô đơn, hồi hộp, buồn chán, lo âu, cảm và cs, 2005; DiGiovanni C và cs, 2003; Pellecchia U và cs,
nhận hạnh phúc kém. Các nhân viên y tế cũng lo lắng việc 2015; Robertson E và cs, 2004). Sau dịch SARS ở Canada,
mình bị mắc SARS có thể nhiễm cho người khác, nhất là những nhà nghiên cứu thấy rằng, sự hoang mang lo lắng
những người thân trong gia đình và bệnh nhân của họ của những người bị cách ly có nguyên nhân từ việc khác
Nhân viên chăm sóc y tế xứng đáng được quan tâm Kết luận
đặc biệt
Nhân viên y tế là đối tượng có nguy cơ bị cách ly rất Nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu này cho rằng có
cao và nghiên cứu này cho thấy họ cũng như cộng đồng những tác động đến tâm lý một cách tiêu cực của những
phải chịu sự kỳ thị từ những người xung quan khi mà bị người bị cách ly trên diện rộng và có thể kéo dài. Tuy
cách ly y tế. Việc bị tách khỏi môi trường làm việc quen nhiên, điều này không có nghĩa là cách ly không được sử
thuộc có thể làm cho họ gia tăng cảm giác bị cô lập, do dụng, vì hậu quả của việc không sử dụng phương pháp
đó việc được hỗ trợ từ các đồng nghiệp sẽ giúp họ giảm cách ly làm cho dịch bệnh lây lan có thể nguy hiểm hơn
Đặt vấn đề
Bên cạnh những tín hiệu và kết quả tích cực trong công tác phòng,
chống dịch bệnh COVID-19 của nhà nước và quần chúng nhân dân, vẫn
còn đó là “những mảng tối” để lại nhiều nhức nhối, đơn cử như tình
trạng chống người thực hiện công vụ. Điều này gây nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động phòng chống dịch bệnh. Qua bài nghiên cứu
này, tác giả muốn mang đến cho độc giả một cái nhìn có chiều sâu hơn
về nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh phát sinh hành vi vi phạm, chế tài
và một số giải pháp, trao đổi liên quan.
Từ khóa: COVID-19, chế tài xử lý, chống người thi hành công vụ.
X in lỗi Ba Mẹ
nhưng đó là
cách sống của con!
Hành trình của những trái tim ngành y
Đôi mắt Nguyễn Công Minh, chàng sinh viên
năm cuối ngành Dược (Khoa Y ĐHQG-HCM) Trước đây, khi dịch chưa bùng phát, những sinh viên
thoáng chút trầm ngâm nhưng ẩn chứa như Minh đi học từ thứ 2 đến thứ 6 nhưng khi bước vào
đằng sau cảm xúc xáo trộn ấy là chút gì đó chiến dịch, mọi định nghĩa về thời gian đều không còn.
rất tự hào khi nói về hành trình hơn 30 ngày Minh phải dậy sớm mỗi ngày, tự kiểm tra, sắp xếp dụng
sát cánh cùng bạn bè, thầy cô chống dịch cụ rồi theo xe đến nơi làm việc đến tối mịt. Mỗi ngày làm
Covid-19. việc của Minh đều bắt đầu lúc 6 giờ sáng, với công việc
chính là lấy mẫu xét nghiệm tại cộng đồng. Điểm lấy mẫu
có khi là đoạn phong tỏa, vùng cách ly, có khi là khu công
Xuất phát điểm khác biệt nghiệp, nhà xưởng, khu chung cư tại địa bàn TP. Thủ Đức
với vài chục ngàn mẫu mỗi ngày. Hành trang của Minh
Từ khi đại dịch bùng phát tại TP.HCM, cũng như nhiều là đồng đội, là lời dặn dò của chỉ huy trưởng, là đồ “tác
sinh viên trường bạn, Công Minh cùng các thầy cô, bạn chiến” gồm kính chống giọt bắn, găng tay, đồ bảo hộ,
bè tại Khoa Y đã hăng hái đăng ký tham gia ngay khi khoa dụng cụ lấy mẫu, giấy tờ, sổ sách,…
phát động chiến dịch hỗ trợ thành phố. Mỗi người một
cảm xúc, mỗi người một hoàn cảnh, thế nhưng có lẽ Công Minh tâm sự: “Tham gia vào guồng quay này, trong
Minh có một khởi điểm hơi khác so các bạn của mình. đầu em không có khái niệm thời gian là gì nữa. Vì có khi
em đi từ sáng sớm đến 6 giờ sáng hôm sau em mới về
Mong ước trở thành một bác sĩ chữa bệnh cứu người tới nhà. Hôm nào sớm thì cũng quá nửa đêm. Mặc đồ
nhưng vì một số lý do mà Minh rẽ hướng sang học ngành bảo hộ cả ngày kín mít thật sự rất nóng, tới mức chừng 5
Dược. Và trong khi các bạn của mình khá suôn sẻ khi xin phút thôi là quần áo ướt sũng và để đảm bảo nguyên tắc
phép gia đình để tham gia tuyến đầu chống dịch thì nỗi an toàn, chúng em không dám sử dụng cả quạt máy vì sợ
lo lắng tột độ của cha mẹ khiến Minh buộc phải giấu phát tán các giọt bắn. Cố gắng chịu đựng thì cũng quen
gia đình đang ở quê nhà. Minh âm thầm chịu đựng cuộc thôi. Cứ nghĩ đến những người bệnh bị nhiễm Covid-19
chiến đang giằng xé trong thâm tâm lại vừa phải đối mặt họ cũng mệt mỏi, khó chịu, nhiều gia đình khốn cùng, kiệt
với cuộc chiến đúng nghĩa - đối đầu với giặc Covid-19 vô quệ thì một chút khó khăn của mình có đáng là bao. Thậm
hình. Thế nhưng đây vừa là thách thức nhưng cũng là cơ chí em càng thêm trân trọng khoảng thời gian này vì đã
hội, là dấu ấn trong sự nghiệp của Minh. cho em có cảm giác như một nhân viên y tế thực thụ”.
40 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021
Theo lời kể của Minh, sinh viên Khoa Y ĐHQG-HCM Chỉ còn hơn 10 ngày nữa, Minh sẽ tốt nghiệp. Sau một
đều mong muốn được xông pha đến tuyến đầu chống ngày làm việc vất vả, khi mọi người chuẩn bị chìm vào
dịch, ai cũng khát khao cống hiến sức lực của bản thân, giấc ngủ là lúc Minh mở laptop, viết luận văn. Mệt, vất vả,
góp phần đẩy lùi dịch bệnh. Nhiều bạn năm cuối sắp phải thiếu ngủ,… nhưng trái tim của Minh luôn tràn đầy nhuệ
nộp đề tài tốt nghiệp vẫn nhiệt tình đăng ký. Bên cạnh đội khí. Minh kể, có nhiều điều mà cậu đã học được bên ngoài
hình lấy mẫu, các bạn của Minh trong đội hình sinh viên thực địa, có những cảm xúc khi mà ở trong cuộc mới cảm
tình nguyện Khoa Y ngày đêm hỗ trợ thành phố các công nhận rõ và trân quý hơn những việc đã làm.
tác khác như: tiêm phòng vaccine, trực chốt kiểm soát
Chợ đầu mối Tam Bình, nhập liệu quản lý ca bệnh tại KTX Minh nói: “Lấy mẫu xuyên trưa, hay nửa đêm tập hợp
ĐHQG-HCM,... đội hình đi lấy mẫu là bình thường. Chúng em cứ như lực
lượng cơ động, điện thoại reo là xách đồ chạy ngay. Thật
“Lần đầu tiên nghe nhiệm vụ, em rất lo vì không biết sự mệt thì rất mệt, thế nhưng bù lại, chúng em lại có niềm
mình có làm tốt được không nhưng sau khi được thầy cô vui làm động lực đó là sự quan tâm chăm lo của ban chỉ
tập huấn kỹ càng, được các bạn ngành Y hướng dẫn tận huy, sự yêu thương của người dân, có cô chú còn cho tụi
tình cộng thêm sự cố gắng, bây giờ những công việc này em nước, sữa, cà phê, hỏi han, chỉ bấy nhiêu đó thôi tụi
em thực hiện khá thuần thục từ việc mặc và cởi đồ bảo em cũng cảm thấy ấm lòng. Nếu hỏi tụi em đi chống dịch
hộ ra sao cho an toàn, hướng dẫn người dân thả lỏng cơ có sợ không. Đúng là sợ chứ! Sợ mình không đủ kỹ năng,
mặt, đút tăm bông sao cho tránh chạm các vách ngăn để sợ mình trở thành nguồn lây, sợ gia đình lo lắng. Nhưng
họ không cảm giác đau”, Minh chia sẻ. trên hết, chúng em là những nhân viên y tế tương lai,
không mình thì ai?”
Ngôi nhà thứ hai
Điều ý nghĩa nhất!
Ở Sài Gòn để đi học, Minh ở trọ cùng nhiều người bạn
khác. Nhưng từ ngày tham gia chống dịch, Minh dọn hẳn Sinh nhật Minh năm nay trùng vào đợt chống dịch.
lên Trung tâm Y tế TP.Thủ Đức để sinh hoạt vì lo sợ rủi ro Ngày đặc biệt này, cậu phải đi lấy mẫu trên khắp địa bàn
lây nhiễm cho những người xung quanh. TP.Thủ Đức. Cuối ngày, trở về trung tâm, các anh chị đã
chuẩn bị sẵn bánh kem, nến khiến Minh vô
cùng xúc động. Trên trang cá nhân, Minh
đã chia sẻ cảm xúc vỡ òa này. Giờ đây,
Trung tâm Y tế TP.Thủ Đức đã trở thành
mái nhà thứ hai. Và những việc Minh làm
không chỉ cho bản thân Minh nữa mà đó
chính là sứ mệnh của người đã trót gánh
trên vai cái nghiệp cứu người.
Lê Nguyễn Lam Ngọc & Lê Minh Khôi, Khoa Công nghệ Sinh học,
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM
PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Khoa Công nghệ Sinh học, Trường
Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM
Các biến thể SARS-CoV-2 được hình thành như trò kích hoạt miền liên kết thụ thể (receptor binding
thế nào? domain) và giúp virus xâm nhập vào tế bào (4,5). Ở
biến thể Delta, rất nhiều đột biến ở protein gai làm
Biến thể là một nhóm virus có cùng những đột tăng khả năng kết nối với thụ thể trên bề mặt tế bào
biến đặc trưng trong mã di truyền. Khi nhân đôi, đột và lẩn trốn hệ miễn dịch (5,6).
biến có thể xảy ra mà không phải khi nào cơ chế sửa
chữa diễn ra hiệu quả, từ đó làm virus mất khả năng Biến thể Delta còn sở hữu đột biến khiến những
nhân đôi và không tồn tại được. Một vài trường hợp protein gai, được tổng hợp trong cơ thể người nhiễm,
đột biến khác không làm thay đổi đặc tính virus, hoặc tham gia quá trình biến đổi hiệu quả hơn (75% pro-
khiến virus có khả năng lây nhiễm và gây bệnh cao tein gai ở biến thể Delta được biến đổi so với 50% ở
hơn (1). chủng Alpha và 20% ở chủng SARS-CoV-2 gốc); từ đó
đóng vai trò quan trọng trong việc xâm nhập vào tế
Theo thông tin của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) bào phổi (7). Wendy Barclay, nhà virus học tại Imperial
cập nhật đến ngày 2/9/2021, có nhiều biến thể của College London, giả thuyết rằng đây chính là cơ chế
SARS-CoV-2 được ghi nhận, bao gồm biến thể “đáng giúp virus lan truyền tốt hơn (5).
lo ngại” (variants of concern) như Alpha, Beta, Gam-
ma, Delta và biến thể “đáng quan tâm” (variants of Trong một nghiên cứu thực hiện tại Quảng Châu,
interest) như Eta, Iota, Kappa, Lambda, Mu (2). Trung Quốc, các nhà khoa học phát hiện biến thể Del-
ta có thời gian ủ bệnh ngắn (4 ngày kể từ thời điểm
Điều gì khiến biến thể Delta chiếm ưu thế hơn phơi nhiễm, so với thời gian trung bình là 6 ngày ở
các biến thể khác? chủng gốc) và tải lượng virus cao hơn tới 1.260 lần so
với chủng gốc (8). Theo chuyên gia dịch tễ Benjamin
Những protein gai trên bề mặt của SARS-CoV-2 Cowling tại Đại học Hong Kong, sự kết hợp của tải
(thành phần giúp virus bám vào tế bào người và xâm lượng virus cao và thời gian ủ bệnh ngắn là lời giải
nhập) cực kỳ linh động (3), giúp chúng dễ dàng liên thích hợp lí cho khả năng lây nhiễm cao ở biến thể
kết với thụ thể. Ở biến thể Alpha, khoảng 10 đột biến Delta (9).
tại vùng mã hóa protein gai được phát hiện đóng vai
SARS-CoV-2 lây truyền thông qua các vi giọt bắn trong Sau Delta, liệu có biến thể nào đáng quan tâm?
không khí. Bên cạnh việc áp dụng giãn cách và quy tắc “2
mét - 15 phút”, người dân cần chú ý đến vấn đề thông Mu là biến thể mới nhất được ghi nhận ở hơn 39 quốc
khí ở không gian trong nhà vì lượng virus thở ra từ người gia, bao gồm: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ecuador, Canada
bệnh có thể tích tụ và lây nhiễm cho những người xung và một số nước châu Âu. Dựa trên dữ liệu ban đầu của Vi-
quanh, kể cả khi không có tiếp xúc trực tiếp (12). Điều này rus Evolution Working Group, biến thể Mu làm giảm hiệu
càng được quan tâm hơn khi biến thể Delta đang lây lan quả trung hòa huyết thanh ở nhóm đang hồi phục sau khi
tại Việt Nam với tải lượng virus, khả năng gây bệnh và hệ nhiễm và nhóm sau khi tiêm vaccine tương tự biến thể
số lây nhiễm cao hơn nhiều so với chủng gốc (8,13). Beta (20). Ngoài ra, Mu dường như dễ lây nhiễm hơn biến
thể gốc dựa trên các bằng chứng hiện nay, theo giáo sư
Vào tháng 3/2021, WHO đã công bố hướng dẫn nhằm Paul Cárdenas từ Đại học San Francisco de Quito, Ecuador
đảm bảo thông khí tốt trong bối cảnh dịch COVID-19. (21).
Hướng dẫn bao gồm các lộ trình thông khí tự nhiên (mở
cửa sổ, dùng quạt) và cơ học (sử dụng máy lọc khí) tại Tuy nhiên, Mu vẫn đang là biến thể “đáng quan tâm”,
ba khu vực: cơ sở chăm sóc sức khỏe, nơi công cộng và chưa được WHO đưa vào danh sách biến thể “đáng lo
trường học, và nhà ở (14). Ngoài ra, việc đeo khẩu trang ngại” như Delta, Alpha, Beta và Gamma. Phần lớn virus
trong nhà khi có người thân nghi nhiễm COVID-19 là biện đều thay đổi theo thời gian, một số đột biến không có ảnh
pháp hiệu quả để ngăn chặn phát tán giọt bắn. hưởng đáng kể, một số khác có thể thay đổi cách virus lan
truyền, mức độ nguy hiểm, hiệu quả vaccine và thuốc điều
Biến thể Delta ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào? trị. WHO khẳng định cần nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ
Phần lớn trẻ em khi nhiễm COVID-19 có triệu chứng đặc tính của biến thể Mu, và cách chúng có thể tương tác
nhẹ hoặc không có triệu chứng. Trong khi biến thể Delta với biến thể Delta đang phổ biến hiện nay (21).
có khả năng lây nhiễm mạnh hơn, chưa có bằng chứng chỉ
ra rằng chúng sẽ khiến trẻ em có triệu chứng nặng hơn
1. Mullane K. What do we know about the Delta variant of SARS-CoV-2? [Internet]. Illinois: University of Chicago News.
2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://news.uchicago.edu/story/what-do-we-know-about-sars-cov-2-
variants?
2. World Health Organization (WHO). Tracking SARS-CoV-2 variants [Internet]. Geneva: World Health Organization
(WHO). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.who.int/en/activities/tracking-SARS-CoV-2-vari-
ants/
3. Turoňová B, Sikora M, Schürmann C, Hagen WJ, Welsch S, Blanc FE, von Bülow S, Gecht M, Bagola K, Hörner C, van
Zandbergen G. In situ structural analysis of SARS-CoV-2 spike reveals flexibility mediated by three hinges. Science.
2020;370(6513):203-208.
4. Gobeil S, Janowska K, McDowell S, Mansouri K, Parks R, Stalls V et al. Effect of natural mutations of SARS-CoV-2 on
spike structure, conformation, and antigenicity. Science. 2021;373(6555):eabi6226.
5. Scudellari M. How the coronavirus infects cells — and why Delta is so dangerous. Nature. 2021;595(7869):640-644.
6. Khateeb J, Li Y, Zhang H. Emerging SARS-CoV-2 variants of concern and potential intervention approaches. Critical
Care. 2021;25(1):1-8.
7. Hoffmann M, Kleine-Weber H, Pöhlmann S. A multibasic cleavage site in the spike protein of SARS-CoV-2 is essential
for infection of human lung cells. Molecular Cell. 2020;78(4):779-784.
8. Li B, Deng A, Li K, Hu Y, Li Z, Xiong Q, Liu Z, Guo Q, Zou L, Zhang H, Zhang M. Viral infection and transmission in
a large well-traced outbreak caused by the Delta SARS-CoV-2 variant. medRxiv:21260122v2 [Preprint]. 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.07.07.21260122v2
9. Reardon S. How the Delta variant achieves its ultrafast spread. Nature. 2021;d41586-021-01986-w.
10. Eldred S. Coronavirus FAQ: How Do The Rules of 6 Feet And 15 Minutes Apply To The Delta Variant? [Internet].
Washington D.C.: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.npr.org/
sections/goatsandsoda/2021/08/27/1031753581/coronavirus-faq-how-does-the-6-feet-15-minutes-rule-apply-to-the-del-
ta-variant?
11. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). Scientific Brief: SARS-CoV-2 Transmission [Internet]. Georgia:
Centers for Disease Control and Prevention (CDC). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.cdc.
gov/coronavirus/2019-ncov/science/science-briefs/sars-cov-2-transmission.html
12. Lewis D. Why indoor spaces are still prime COVID hotspots. Nature. 2021;592(7852):22-25.
13. Liu Y, Rocklöv J. The reproductive number of the Delta variant of SARS-CoV-2 is far higher compared to the ancestral
SARS-CoV-2 virus. Journal of Travel Medicine. 2021;taab124.
14. World Health Organization (WHO). Roadmap to improve and ensure good indoor ventilation in the context of
COVID-19. Geneva: World Health Organization (WHO); 2021. Licence: CC BY-NC-SA 3.0 IGO.
15. Alana C. How will the delta variant affect kids? Experts explain what we know and what we don’t [Internet]. Ontario:
Canadian Broadcasting Corporation (CBC). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.cbc.ca/news/
canada/manitoba/manitoba-delta-variant-affect-kids-experts-explain-1.6134110
16. Ari S. How The Delta Variant Affects Children [Internet]. Washington D.C: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.npr.org/2021/08/23/1030430471/how-the-delta-variant-affects-children
17. Vousden N, Ramakrishnan R, Bunch K, Morris E, Simpson N, Gale C et al. Impact of SARS-CoV-2 variant on the se-
verity of maternal infection and perinatal outcomes: Data from the UK Obstetric Surveillance System national cohort.
medRxiv:21261000v1 [Preprint]. 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.medrxiv.org/content/10.11
01/2021.07.22.21261000v1
18. Villar J, Ariff S, Gunier R, Thiruvengadam R, Rauch S, Kholin A et al. Maternal and Neonatal Morbidity and Mortality
Among Pregnant Women With and Without COVID-19 Infection. JAMA Pediatrics. 2021;175(8):817–826.
19. Lopez A. Vaccinating During Pregnancy Has Become Even More Urgent As ICU Beds Fill Upent and Choices [Inter-
net]. Washington D.C.: National Public Radio (NPR). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.npr.
org/sections/health-shots/2021/08/11/1026555595/pregnant-cdc-urges-covid-vaccination-icus-fill-unvaccinated-delta
20. World Health Organization (WHO). Weekly epidemiological update on COVID-19 - 31 August 2021. Edition 55. [Inter-
net]. Geneva: World Health Organization (WHO). 2021. [cited 16 September 2021]. Available from: https://www.who.
int/publications/m/item/weekly-epidemiological-update-on-covid-19---31-august-2021
21. Adela S. Here’s what we know about the mu variant [Internet]. Washington D.C: The Washington Post. 2021. [cited 16
September 2021]. Available from: https://www.washingtonpost.com/world/2021/09/03/mu-coronavirus-variant-ex-
plained/
22. Ezekiel JE, Diane vSL, Robert ML, Ricardo F, Barbara DA. IDSA media briefing: Vaccines, the delta variant, and chas-
ing herd immunity [Internet]. Texas: Infectious Diseases Society of America. 2021. [cited 16 September 2021]. Avail-
able from: https://www.idsociety.org/multimedia/videos/idsa-media-briefing-vaccines-the-delta-variant-and-chas-
ing-herd-immunity/
vnuhcm.edu.vn | info@vnuhcm.edu.vn
vnuhcm.info | vnuhcm
Chuyên trang COVID-19
covid19.vnuhcm.edu.vn
covid19@vnuhcm.edu.vn
46 | COVID-19 NEWSLETTER | SỐ 07 NGÀY 18/10/2021