You are on page 1of 52

Newsletter

COVID-19SỐ 05 NGÀY 20/9/2021


03
21 COVID-19 và các thuốc
Hiệu quả của vắc-xin trong việc chống lại kháng virus tiềm năng
các biến thể của virus SARS-CoV-2 và
những câu hỏi liên quan đến việc tiêm vắc-
xin cho bệnh nhân từng nhiễm COVID-19 10
Bệnh nhân tự nằm sấp kết hợp với
liệu pháp oxy lưu lượng cao qua
ống thông mũi giúp cải thiện sự
thiếu hụt oxy do COVID-19

41
Cảm xúc của người dân đối với
việc tiêm vắc-xin ngừa COVID-19
trong bối cảnh bùng nổ dịch bệnh
lần thứ tư tại Việt Nam

50
Tiêm đầy đủ vắc-xin có giúp ngừa
lây nhiễm SARS-CoV-2,
đặc biệt là với chủng Delta, hay không?
vnuhcm

COVID-19 NEWSLETTER
covid19.vnuhcm.edu.vn | covid19@vnuhcm.edu.vn | vnuhcm.info | vnuhcm
Số ngày 20/9/2021 1
COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Những điều cần biết về các
vaccine phòng COVID-19 được
WHO cấp phép sử dụng trên
25
thế giới và tại Việt Nam
3 COVID-19 và các thuốc
Ứng dụng tia far-UVC (222
kháng virus tiềm năng
nm) trong khống chế dịch 32
10 Bệnh nhân tự nằm sấp kết hợp
với liệu pháp oxy lưu lượng
Covid-19 ở nơi công cộng

cao qua ống thông mũi giúp


cải thiện sự thiếu hụt oxy do
Vè COVID-19 36
Phân tích tổn thất phúc lợi từ
sự trì hoãn, phân bổ sai và chủ 37
COVID-19

13 Đại dịch COVID-19:


Giải pháp nào cho sức khỏe
nghĩa dân tộc của vaccine
Cảm xúc của người dân đối
tinh thần
với việc tiêm vắc-xin ngừa 41
17 Xây dựng mô hình phát triển
hệ thống y tế từ sau đại dịch
COVID-19 trong bối cảnh dịch
bệnh lần thứ 4 ở Việt Nam
COVID-19
Thế hệ Z và thực phẩm hậu
21 Hiệu quả của vắc-xin trong COVID-19 47
việc chống lại các biến thể của
Tiêm đầy đủ vắc-xin có giúp
ngừa lây nhiễm SARS-CoV-2, 50
virus SARS-COV2 và Những
câu hỏi liên quan đến việc tiêm
vắc-xin cho bệnh nhân từng đặc biệt là với chủng Delta,
nhiễm Covid-19 hay không?

Chịu trách nhiệm xuất bản


PGS.TS Vũ Hải Quân - Giám đốc ĐHQG-HCM

Ban biên tập


GS.TS.BS Đặng Vạn Phước (Trưởng ban), PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (Phó ban), 
GS.TS.BS Trương Phi Hùng, PGS.TS Hoàng Công Gia Khánh, GS.TS Trần Linh Thước,
GS.TS Huỳnh Văn Sơn, PGS.TS Nguyễn Văn Thuận, PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, 
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hoài, PGS.TS Trần Văn Hiếu, TS Đinh Bá Tiến, TS Lê Minh Công, 
PGS.TS Lâm Quang Vinh, PGS.TS Nguyễn Đình Tứ, TS Trương Minh Huy Vũ, TS.BS Nguyễn Hoan Phú,
ThS.BS Nguyễn Hoàng Thiên Hương, ThS Phạm Ngọc Trung Hiếu.

Bài viết vui lòng gửi về email: covid19@vnuhcm.edu.vn

2 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
COVID-19
VÀ CÁC THUỐC
KHÁNG VIRUS
TIỀM NĂNG
TÓM TẮT

COVID-19 đã trở thành một đại dịch toàn cầu với


hàng triệu ca tử vong. Một số vaccinee an toàn và
hiệu quả đã được phê duyệt giúp giảm sự lây nhiễm,
giảm triệu chứng nặng hoặc tử vong. Mặc dù đã có
hơn 5 tỷ liều vaccinee đã được tiêm cho 33% dân số
toàn cầu, chỉ có 1,4% dân số ở các nước thu nhập
thấp nhận được ít nhất một liều vaccine. Hơn nữa, ở
các quốc gia tiêm chủng với tỷ lệ cao nhất thế giới,
biến chủng Delta của SARS-CoV-2 đã làm bùng phát
COVID-19 trở lại. Tại Việt Nam, TP.HCM và các tỉnh
phía Nam đang chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
bệnh. Vì vậy, nhu cầu về thuốc kháng virus là vô cùng
cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Molnupiravir, rem-
desivir và các thuốc kháng thể đơn dòng sẽ được giới
thiệu trong bài tổng quan này để xem xét quá trình
nghiên cứu và phát triển, cơ chế kháng virus, tính an
toàn và hiệu quả của thuốc.

Từ khóa: COVID-19, kháng virus, molnupiravir,


remdesivir, Regen-CoV

Mai Thành Tấn, Lâm Thừa Phong,


Thái Khắc Minh, Trần Thành Đạo,
Bộ môn Hóa Dược, Khoa Dược,
Trường Đại học Y Dược TP. HCM
Nguyễn Minh Hiền, Lê Xuân Lộc
Khoa Y, ĐHQG-HCM
PGS.TS Lê Minh Trí
Bộ môn Hóa Dược, Khoa Dược,
Trường Đại học Y Dược TP. HCM
Khoa Y, ĐHQG-HCM

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 3
1. GIỚI THIỆU hợp có tên NHC (Hình 1A), tức β-D-N4-hydroxycytidin
(mã phát triển EIDD-1931). Cấu trúc 2 chiều và cấu trúc
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tính không gian của molnupiravir được minh họa ở Hình 1B.
đến ngày 13/9/2021, thế giới đã có hơn 225.551.978 triệu Molnupiravir là một chất tương tự ribonucleosid kháng
ca mắc COVID-19 với hơn 4.465.679 triệu ca tử vong (1). virus bằng cách gây ra các lỗi sao chép trong quá trình
Cũng tính tới thời điểm này, Việt Nam hiện đã có 624.547 phiên mã ARN (6, 8). Hiện nay, thuốc này đang trong giai
ca nhiễm với 15.660 ca tử vong (2). COVID-19 là bệnh đoạn thử nghiệm lâm sàng pha III trên bệnh nhân ngoại
truyền nhiễm gây ra bởi một loại betacoronavirus có tên trú tại Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, molnupiravir cũng đang được
SARS-CoV-2. Bệnh nhân mắc COVID-19 phần lớn (80%) thử nghiệm lâm sàng cho điều trị bệnh nhân COVID-19
có triệu chứng hô hấp nhẹ đến trung bình và hồi phục tại nhà từ ngày 27/8/2021. Nếu kết quả khả quan thì đây
mà không cần đến những biện pháp điều trị đặc biệt. sẽ là thuốc giúp giảm được tỷ lệ chuyển nặng của bệnh
Trong đợt bùng phát đầu tiên, các triệu chứng đặc trưng nhân Covid và sẽ kéo giảm tỷ lệ tử vong xuống mức thấp.
của bệnh nhân nhiễm COVID-19 bao gồm sốt, ho, khó
thở, mất khứu giác, mất vị giác… Với biến chủng Delta
hiện nay, bệnh có những triệu chứng giống như cảm cúm
thông thường như sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, đau cơ. Một số
trường hợp có đau họng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, đau
đầu, ho có đờm, đau bụng, buồn nôn, nôn và tiêu chảy.
Những biểu hiện bệnh lý nặng như viêm phổi nặng, suy
hô hấp, sốc nhiễm trùng, suy chức năng đa cơ quan và
tử vong thường xảy ra ở những người cao tuổi, người có
bệnh mạn tính hay suy giảm miễn dịch (2, 3).

Cấu tạo của virus SARS-CoV-2 bao gồm một lõi ARN,
nang nucleocapsid, màng và phần vỏ với bề mặt có pro-
tein gai (protein S). Virus tấn công lên tế bào ký chủ bằng
cách sử dụng protein S để gắn kết với thụ thể ACE2. Sau Hình 1. Cấu trúc hóa học của
khi nhập bào, virus mở vỏ để phóng thích ARN và dịch (A) β-D-N4-hydroxycytidin và (B) molnupiravir
mã thành các chuỗi polypeptid. Các đại phân tử này sau
đó được enzymee 3-chymotrypsin like protase (3CLpro) EIDD-1931 được khám phá và phát triển từ năm 2013
và papain-like protease (PLpro) cắt thành những protein để kháng một loại Alphavirus gây viêm não ở châu Mỹ
cấu trúc và không cấu trúc. Các protein không cấu trúc có tên VEEV (Venezuelan equine encephalitis virus) lan
gồm những enzymee chức năng khác nhau, trong đó có truyền bởi loài muỗi Culex spp. Tác dụng của EIDD-1931
enzymee ARN polymerase phụ thuộc ARN (RdRp). RdRp trên VEEV gợi ý rằng nó cũng có thể ức chế các virus ARN
sẽ tổng hợp ARN cho virus, sau đó được đóng gói cùng khác. Hợp chất này nhắm đến mục tiêu là enzymee ARN
với các thành cấu trúc khác trở thành hạt virus hoàn chỉnh polymerase phụ thuộc ARN (RdRp) vốn có ở virus nhưng
và phóng thích ra ngoài để lây lan sang những tế bào mới không có ở động vật có vú và do đó thuốc có tác dụng
(4). chọn lọc cao. Các enzyme này có tính bảo tồn cao nhất
trong số các enzyme mã hóa của virus ARN, gợi ý hoạt phổ
Hiện nay, một số loại vaccine hiệu quả đã được chấp kháng virus rộng của hợp chất thử nghiệm. EIDD-1931 đã
thuận để phòng ngừa COVID-19. Tuy nhiên, hiện nay sự thể hiện hoạt tính kháng các virus ARN khác nhau như
tiếp cận với vaccine chậm hơn sự lây lan của dịch bệnh và virus cúm mùa, coronavirus, virus hợp bào hô hấp, virus
vaccine cũng không đảm bảo hoàn toàn khả năng miễn Chikungunya và virus Ebola. Sự chuyển hóa nhanh chóng
nhiễm khỏi SARS-CoV-2. Thậm chí, tại các quốc gia có tỷ của EIDD-1931 ở đường ruột dẫn đến sự ra đời của tiền
lệ tiêm vaccine cao nhất thế giới như Israel hay Ireland, số dược EIDD-2801 – hiện được đặt tên là molnupiravir – với
ca nhiễm vẫn tăng cao mỗi ngày. Do đó, nhu cầu về các khả năng thấm qua niêm mạc ruột và hấp thu vào tuần
thuốc kháng virus để điều trị và phòng ngừa COVID-19 hoàn hiệu quả hơn. Molnupiravir đã được đệ đơn xin thử
vẫn rất cấp thiết. Trong tổng quan này, các thuốc kháng nghiệm lâm sàng có tác dụng điều trị cúm mùa vào tháng
virus bao gồm phân tử nhỏ và kháng thể đơn dòng sẽ 3 năm 2020. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát dữ dội,
được giới thiệu về quá trình khám phá và phát triển, cơ đã có dữ liệu in vitro và in vivo chứng minh rằng EIDD-
chế tác dụng, các kết quả thử nghiệm lâm sàng và tình 1931/2801 đã hoạt động chống lại SARS-CoV ở người và
trạng phê duyệt. molnupiravir trở thành một liệu pháp tiềm năng cho việc
dự phòng và điều trị COVID-19. Để bổ sung nguồn lực
2. THUỐC KHÁNG VIRUS PHÂN TỬ NHỎ phát triển thuốc, DRIVE đã có một thỏa thuận hợp tác với
công ty công nghệ sinh học Ridgeback Biotherapeutics và
2.1. Molnupiravir một đơn xin thử nghiệm lâm sàng thứ hai được đệ trình
vào tháng 4 năm 2021 để điều trị COVID-19 (5).
Molnupiravir là hợp chất kháng virus phổ rộng có mã
số trong giai đoạn phát triển là EIDD-2801 và MK-4482. NHC ức chế SARS-CoV-2 trong tế bào Vero E6 với IC50
Từ năm 2013, hợp chất này được phát triển bởi Viện Phát = 0,30 μM và ở tế bào biểu mô phổi của người Calu-3 với
triển thuốc Emory và công ty đổi mới sáng tạo mang tên IC50 = 0,08 μM mà không có độc tính tế bào đáng kể.
Drug Innovation Ventures at Emory thuộc Đại học Emory NHC làm giảm sự sản xuất bộ gen ARN của virus được
(DRIVE), Georgia, Hoa Kỳ để điều trị Alphavirus (5). Khi đại định lượng bằng phương pháp qRT-PCR với IC50 = 0,09
dịch COVID-19 bắt đầu, molnupiravir được thử nghiệm μM. NHC cũng có hiệu quả kháng các chủng virus đề
tiền lâm sàng để điều trị cúm mùa trên mô hình động vật kháng remdesivir và các coronavirus khác nhau lây truyền
(6). Sau đó, dự án được mua lại bởi công ty Ridgeback Bio- từ động vật (9). Chất chuyển hóa NHC 5’-triphosphat hoạt
therapeutics và hiện công ty này đang hợp tác với hãng động như một cơ chất cạnh tranh thay thế trên enzyme
Merck & Co. để tiếp tục phát triển molnupiravir như một RdRp của virus, dẫn đến sự kết hợp của hợp chất này
thuốc điều trị và phòng ngừa COVID-19 (7). Molnupiravir vào ARN của virus và gây ra các đột biến dẫn đến một
là tiền dược isopropylester của hợp chất nucleosid tổng thảm họa lỗi (error catastrophe). Trong thử nghiệm điều
trị nhiễm SARS-CoV-2 in vivo, sử dụng molnupiravir làm

4 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
giảm số hạt virus lây nhiễm trong tế bào mô phổi người động của molnupiravir là NHC triphosphat để làm chất
trên 25.000 lần sau 24 giờ và giảm 96% sau 48 giờ điều nền thay cho cytidin triphosphat (CTP) hay uridin triphos-
trị. Bên cạnh đó, việc sử dụng molnupiravir để dự phòng phat (UTP) để tạo một sợi ARN lỗi. Khi RdRp tiếp tục sử
trước phơi nhiễm giúp giảm hiệu giá virus xuống hơn dụng đoạn ARN lỗi này làm khuôn mẫu, NHC sẽ bắt cặp
100.000 lần (10). với A hoặc G và tạo ra các sản phẩm ARN đột biến. Giả
thuyết này đã được chứng minh qua cấu trúc của phức
Cơ chế kháng virus của molnupiravir đang được dần hợp RdRp-ARN lỗi và sản phẩm ARN đột biến với sự hiện
làm rõ. Thuốc làm tăng tần số đột biến ARN của SARS- diện của NHC bắt cặp với adenin đã được chụp bằng kính
CoV-2 và làm giảm sự nhân lên của virus trên mô hình hiển vi điện tử nghiệm lạnh và minh họa ở Hình 2 (11).
động vật và ở người. Đầu tiên, RdRp sử dụng dạng hoạt

Hình 2. Cấu trúc của phức hợp RdRp (màu xanh lơ) và ARN đột biến (màu đỏ) với sự hiện diện của NHC
(chất chuyển hóa có hoạt tính của molnupiravir, minh họa bởi cấu trúc chứa các nguyên tử carbon màu
vàng) bắt cặp với adenin (minh họa bởi cấu trúc chứa các nguyên tử carbon màu xanh dương). Hình ảnh
được tạo từ protein mã PDB: 7OZU.

Do những lo ngại về khả năng gây đột biến, khả năng Trong thử nghiệm lâm sàng có mã số ClinicalTrials.gov
gây độc gen của molnupiravir đã được đánh giá in vitro NCT04746183 đối chứng ngẫu nhiên, nhãn mở được thực
và in vivo. Trong đó, molnupiravir âm tính với thử nghiệm hiện tại Cơ sở Nghiên cứu Lâm sàng Hoàng gia Liverpool
cảm ứng tổn thương nhiễm sắc thể in vitro và trên chuột. và Broadgreen (13). Người tham gia nghiên cứu là bệnh
Trong thử nghiệm được thực hiện với liều lượng và thời nhân người lớn được điều trị ngoại trú bị nhiễm SARS-
gian lớn hơn đáng kể so với sử dụng trên lâm sàng, tác CoV-2 (xác định bằng RT-PCR trong vòng 5 ngày kể từ khi
động của molnupiravir đối với tỷ lệ đột biến không khác khởi phát triệu chứng) được chia ngẫu nhiên theo tỷ lệ
biệt so với nhóm động vật đối chứng (5). 2:1 trong 6 nhóm tham gia (3 nhóm sử dụng molnupiravir
bằng đường uống 2 lần/ngày trong 5 ngày với liều lần
Trong thử nghiệm lâm sàng pha I (mã số ClinicalTri- lượt là 300, 600, 800 mg; và 3 nhóm đối chứng). Kết quả
als.gov: NCT04392219), molnupiravir liều đơn và đa liều của nghiên cứu này được đăng trên Medrxiv.org (chưa
đã được đánh giá bằng nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đơn, qua bình duyệt) báo cáo molnupiravir an toàn và dung
đối chứng với giả dược ở người tình nguyện khỏe mạnh. nạp tốt. Liều 800 mg x 2 lần/ngày trong 5 ngày được khu-
Chất chuyển hóa NHC xuất hiện nhanh chóng trong huyết yến cáo để thử nghiệm lâm sàng phase II (14).
tương với thời gian trung bình đạt nồng độ đỉnh là 1,00
đến 1,75 giờ. Nồng độ đỉnh (Cmax) và diện tích dưới Thử nghiệm lâm sàng pha IIa với mã số NCT04405570
đường cong nồng độ trong huyết tương so với thời gian được thiết kế mù đôi, đối chứng với giả dược, ngẫu nhiên
(AUC) tăng tỷ lệ thuận với liều lượng và không có sự tích cho viên nang molnupiravir dùng bằng uống 2 lần/ngày
lũy sau khi dùng nhiều liều. Molnupiravir được dung nạp x 5 ngày. Đây là thử nghiệm đa trung tâm được thực hiện
tốt và không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Dưới 50% tại Hoa Kỳ nhằm đánh giá tính an toàn, khả năng dung
người thử nghiệm báo cáo một tác dụng phụ, tỷ lệ các nạp và hiệu quả của molnupiravir trong việc loại trừ virus
tác dụng phụ cao hơn so với nhóm dùng giả dược, và ở bệnh nhân COVID-19 (15). Trong báo cáo được đăng tải
93,3% các tác dụng phụ là nhẹ. Một người tình nguyện đã sớm trên Medrxiv.org, 202 bệnh nhân ngoại trú được xác
ngừng thuốc sớm do phát ban. Không có phát hiện có ý nhận nhiễm SARS-CoV-2 và khởi phát triệu chứng trong
nghĩa lâm sàng nào về xét nghiệm, dấu hiệu sinh tồn hoặc vòng 7 ngày được chọn vào thử nghiệm. Người tham gia
điện tâm đồ (12). được chọn ngẫu nhiên với tỷ lệ 1:1 sử dụng molnupira-

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 5
vir 200 mg hoặc giả dược; tỷ lệ 3:1 sử dụng molnupiravir đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia đã xét duyệt đề
400/800 mg hoặc giả dược, 2 lần/ngày x 5 ngày. Hoạt tính cương và các tài liệu nghiên cứu “Thử nghiệm lâm sàng
kháng virus được đánh giá là thời gian để đạt được mức pha II/III, ngẫu nhiên, nhãn mở nhằm đánh giá tính an
độ ARN virus không thể phát hiện bằng RT-PCR và thời toàn và hiệu quả của viên nang molnupiravir kết hợp điều
gian để loại trừ virus phân lập từ bệnh phẩm dịch tỵ hầu. trị tiêu chuẩn so sánh với điều trị tiêu chuẩn đơn thuần ở
Kết quả, virus phân lập ở nhóm sử dụng molnupiravir 800 bệnh nhân nhiễm COVID-19 được xác định bằng RT-PCR,
mg thấp hơn đáng kể so với nhóm dùng giả dược ở ngày mức độ nhẹ và vừa (nghiên cứu tại bệnh viện); kết hợp
thứ 3 (1,9% so với 16,7%). Ở ngày thứ 5, virus không phân chương trình sử dụng thuốc có kiểm soát tại cộng đồng
lập được từ các bệnh nhân dùng molnupiravir 400 và 800 (nghiên cứu tại cộng đồng)” (20). Hiện nay một số bệnh
mg so với nhóm dùng giả dược (11,1%) (16). viện trung ương, các trạm y tế cũng như các bệnh viện dã
chiến và các trạm Y tế cơ sở đang theo dõi kết quả thử
Một thử nghiệm lâm sàng pha II khác đang được thực nghiệm với tổng số liều ban đầu dự kiến là hơn 100.000
hiện với mã số NCT04405739 để đánh giá tính an toàn và liều (800 mg x 2 lần/ ngày x 5 ngày) từ nguồn thuốc nhập
tác dụng của thuốc đối với sự phát tán của virus. Nghiên khẩu và các đơn vị sản xuất trong nước tài trợ.
cứu được thiết kế ngẫu nhiên, mù đôi với molnupiravir
dạng viên nén và giả dược (17). Bên cạnh đó, một thử 2.2. Remdesivir
nghiệm lâm sàng pha II/III được thiết kế ngẫu nhiên, đối
chứng với giả dược, mù đôi để đánh giá hiệu quả, tính Remdesivir (GS-5734) là một thuốc kháng virus phổ
an toàn và dược động học của molnupiravir ở bệnh nhân rộng và là tiền dược của dẫn xuất adenosin nucleotid với
người lớn mắc COVID-19 nhập viện (mã số NCT04575584) cấu trúc được minh họa ở Hình 3A. Thuốc được phát triển
(18) và không nhập viện (mã số NCT04575597) (19). Tuy bởi Gilead Sciences để điều trị bệnh do virus Ebola nhưng
nhiên, Merck và Ridgeback Biotherapeutics đã thông báo dự án bị dừng lại bởi sự xuất hiện của một kháng thể đơn
sẽ dừng thử nghiệm lâm sàng phase III trên bệnh nhân dòng có tác dụng tốt hơn remdesivir trong thử nghiệm
nhập viện. Tại Việt Nam, ngày 14/08/2021, Hội đồng đạo lâm sàng pha III (21).

Hình 3. (A) Cấu trúc hóa học của remdesivir. (B) Phức hợp của RdRp (màu xanh lơ) với đoạn ARN (màu đỏ)
có sự hiện diện của chất chuyển hóa remdesivir – một nucleotid triphosphat. Sau khi kết hợp remdesivir
vào ARN, RdRp chỉ có thể tiếp tục bổ sung 3 nucleotid và quá trình sao chép bị dừng lại. Hình ảnh được
tạo từ protein mã PDB: 7B3C.
Khi đại dịch COVID-19 bắt đầu, một thử nghiệm in vi- NCT04280705). Kết quả thử nghiệm trên 1062 bệnh nhân
tro trên tế bào Vero E6 cho thấy remdesivir là chất kháng từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2020 lại cho thấy remdesivir
virus SARS-CoV-2 tiềm năng nhất với nồng độ hiệu quả vượt trội hơn so với giả dược trong việc rút ngắn thời gian
50% EC50 = 0,77 μM (22). Thử nghiệm lâm sàng pha III hồi phục ở người lớn nhập viện với COVID-19 và có bằng
đối chứng ngẫu nhiên, mù bốn đã được thực hiện tại chứng nhiễm trùng đường hô hấp dưới (24). Dựa trên kết
Trung Quốc từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2020 (mã số quả này, remdesivir nhận được cấp phép khẩn cấp ở Hoa
NCT04257656) trên 237 bệnh nhân người lớn nhập viện Kỳ vào ngày 01/05/2020 và sự chấp thuận có điều kiện tại
vì mắc COVID-19 nặng. Kết quả cho thấy các bệnh nhân Đài Loan để sử dụng cho bệnh nhân COVID-19 nặng. Từ
dùng remdesivir có thời gian cải thiện về lâm sàng nhanh tháng 6 đến tháng 8 năm 2020, remdesivir lần lượt nhận
hơn so với nhóm dùng giả dược mặc dù không có ý ng- được sự chấp thuận có điều kiện tại các quốc gia khác
hĩa thống kê (23). Một thử nghiệm lâm sàng đối chứng như châu Âu, Canada, Singapore, Úc, Hàn Quốc, UAE và
ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm khác được thực hiện tại Ấn Độ. Ngày 10/08/2020, Gilead chính thức đệ đơn lên
Hoa Kỳ để đánh giá tính an toàn và hiệu quả remdesivir Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ
ở bệnh nhân người lớn nhập viện với COVID-19 (mã số xin cấp phép thuốc mới cho remdesivir. Remdesivir được

6 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
sử dụng ở dạng tiêm hoặc truyền tĩnh mạch với một liều tục được FDA bổ sung chỉ định phòng ngừa COVID-19
đơn 200 mg/ngày vào ngày thứ nhất và 100 mg/ngày từ sau khi tiếp xúc gần (sống cùng môi trường hoặc giao
ngày thứ hai trở đi trong thời gian ít nhất là 5 ngày và tiếp) với bệnh nhân đã được xác định mắc COVID 19 dựa
không quá 10 ngày (25). Hiện nay, có tới 42 thử nghiệm trên nghiên cứu COV-2069 (mã số NCT04452318). Chỉ
lâm sàng đã được đăng ký tại ClinicalTrials.gov để tiếp định trên được đưa ra sau khi REGEN-COV đã chứng minh
tục đánh giá tính an toàn và hiệu quả của remdesivir trên được khả năng giảm 81% số ca mắc bệnh sau khi tiếp
các đối tượng bệnh nhân khác nhau, ở các quốc gia khác xúc người bệnh, cũng như giảm khoảng thời gian có triệu
nhau, hoặc đánh giá hiệu quả khi sử dụng kết hợp với chứng (1,2 tuần so với 3,2 tuần ở nhóm chứng) (30). Cũng
các thuốc khác. Vào nửa đầu năm 2020, Gilead đã ký kết lưu ý rằng chỉ định này không được phép dùng để thay
các thỏa thuận cấp phép không độc quyền cho một số thế các vaccine hiện có trong việc phòng ngừa COVID-19.
công ty tại các quốc gia thu nhập thấp hoặc trung bình Bộ đôi kháng thể đơn dòng này có thể được sử dụng
như Ấn Độ, Ai Cập, Pakistan. Các giấy phép này sẽ miễn dưới dạng tiêm truyền hoặc tiêm dưới da. Trong đó, tiêm
phí cho đến khi Tổ chức Y tế Thế giới công bố kết thúc truyền được ưu tiên hơn khi điều trị COVID-19, còn chỉ
tình trạng khẩn cấp y tế công cộng quốc tế liên quan đến định phòng ngừa có thể sử dụng cả hai đường tiêm.
COVID-19 hoặc cho đến khi một thuốc hoặc vaccine khác
được chấp thuận để điều trị hoặc phòng ngừa COVID-19
(tùy theo điều kiện nào sớm hơn). Tại Việt Nam, Bộ Y tế
đã có công văn số 6573/BYT-KCB ngày 12/8/2021 hướng
dẫn tạm thời sử dụng remdesivir 100mg (5 mg/ml) theo
hướng dẫn của FDA Hoa Kỳ và Cơ quan quản lý Dược
phẩm châu Âu (EMA).

Remdesivir có cơ chế tác động trên quá trình sao chép


ARN bởi enzyme RdRp của SARS-CoV-2. Tuy nhiên, khác
với molnupiravir, remdesivir không gây đột biến mà làm
dừng quá trình sao chép ARN bởi RdRp. Chất chuyển hóa
của thuốc là một nucleotid triphosphat cạnh tranh với ad-
enosin triphosphat và sẽ được RdRp kết hợp vào đoạn
ARN đang được sao chép. Sự hiện diện của remdesivir Hình 4. (A) Cấu trúc của RBD của SARS-CoV-2 (đỏ)
trên đoạn ARN chỉ cho phép RdRp tiếp tục bổ sung thêm gắn kết với thụ thể ACE2 (xám) (mã PDB: 6M0J). (B) Cấu
3 nucleotid nữa trước khi quá trình sao chép bị dừng lại. trúc của RBD của SARS-CoV-2 (đỏ) bị ức chế bởi casiriv-
Cấu trúc của phức hợp RdRp và ARN với sự hiện diện của imab (chuỗi nặng: màu xanh dương; chuỗi nhẹ: màu
remdesivir triphosphat đã được chụp bằng kính hiển vi vàng) và imdevimab (chuỗi nặng: màu hồng; chuỗi nhẹ:
nghiệm lạnh và minh họa ở Hình 3B (26). màu cam) (mã PDB: 6XDG).

3. KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG KHÁNG VIRUS 3.2. Bamlanivimab và etesevimab

3.1. Casirivimab và imdevimab (REGEN-COV) Bộ đôi kháng thể đơn dòng được công ty Eli Lily phối
hợp với Viện Hàn lâm khoa học Trung Hoa về Vi sinh học
REGEN-COV (tên thương mại trước đây là REGN- (IMCAS) phân lập từ huyết tương của các bệnh nhân đã
COV2) là một chế phẩm phối hợp với tỷ lệ 1:1 của hai loại khỏi bệnh (31). Phối hợp này đã chứng tỏ lợi ích lâm sàng
kháng thể đơn dòng casirivimab và imdevimab thuộc sở ở người mắc COVID-19 từ nhẹ đến trung bình có nguy
hữu của công ty Regeneron. Hai kháng thể này được phân cơ tiến triển nặng hoặc nhập viện vì COVID-19, được thể
lập từ các cá thể chuột được biến đổi gen để sinh ra các hiện thông qua các thử nghiệm lâm sàng BLAZE-1 (mã
kháng thể người và từ huyết thanh của những người khỏi số NCT04427501) và BLAZE-4 (mã số NCT04634409) và
bệnh. Chúng đã được chứng minh có tác dụng ức chế được FDA cấp phép khẩn cấp sử dụng cho các bệnh nhân
protein gai (protein S) tại vùng gắn kết với thụ thể ACE2 ở điều trị ngoại trú từ 12 tuổi và nặng 40 kg trở lên từ tháng
người (receptor-binding domains - RBD) của virus SARS- 2 năm 2021 (32). Tuy nhiên từ ngày 15/6/2021, phác đồ
CoV-2. Hai loại kháng thể đơn dòng này sẽ gắn kết tại các điều trị COVID-19 của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) đã
epitop không chồng lấp lên nhau, do đó sẽ có tác động không còn khuyến cáo sử dụng phối hợp này do sự phát
hiệp lực trong điều trị COVID-19, bao gồm cả các biến thể triển đề kháng của các biến chủng Gamma và Beta (33).
B.1.617.2 (Delta), B.1.429 (Epsilon), hoặc P.1 (Gamma). Vị
trí gắn kết của bộ đôi kháng thể trên RBD đã được chụp 3.3. Sotrovimab
bằng kính hiển vi điện tử nghiệm lạnh và minh họa ở Hình
4 (27). Thử nghiệm lâm sàng pha III đối chứng ngẫu nhiên, Sotrovimab (tên trong giai đoạn phát triển là VIR-
mù đôi (mã số NCT04425629) cho thấy REGEN¬ COV có 7831) là một kháng thể đơn dòng được thu nhận và điều
hiệu quả giảm tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong do COVID-19 chỉnh từ huyết tương của người nhiễm SARS năm 2003
với tỷ lệ 70% so với giả dược. Ngoài ra, thử nghiệm còn thuộc sở hữu của công ty GlaxoSmithKline (GSK). Sotro-
cho thấy ở nhóm có sử dụng REGEN-COV, có sự giảm tải vimab là một kháng thể loại IgG1κ, gắn kết với RBD tại vị
lượng virus có ý nghĩa thống kê tại ngày 7, so với nhóm trí bảo tồn giữa SARS-CoV và SARS-CoV-2 với các biến
chứng (28). Ngày 21/11/2020, FDA Hoa Kỳ đã phê duyệt đổi tại vùng hằng định (Fc) giúp tăng thời gian bán huỷ
khẩn cấp REGEN-COV (casirivimab 600 mg và imdevimab và tồn tại lâu hơn trong huyết tương người. Khác với các
600 mg) cho chỉ định điều trị COVID-19 từ nhẹ đến trung phối hợp kháng thể kể trên, các epitop của sotrovimab lại
bình cho người lớn và trẻ em (từ 12 tuổi trở lên và nặng ít không cạnh tranh với ACE2 (34). FDA đã cấp phép khẩn
nhất 40 kg). Ngoài ra, thuốc còn được chỉ định cho các đối cấp cho việc sử dụng sotrovimab cho bệnh nhân ngoại
tượng có nguy cơ tiến triển nặng, bao gồm cả các bệnh trú từ 12 tuổi và từ 40 kg cân nặng trở lên trong điều trị
nhân trên 65 tuổi hoặc các bệnh nhân có kèm các bệnh lý COVID-19 từ nhẹ đến trung bình, có nguy cơ tiến triển
mãn tính. REGEN-COV bị chống chỉ định ở các bệnh nhân nặng vào ngày 26/5/2021 (35). Cơ sở của sự cấp phép này
đang điều trị COVID-19 bằng liệu pháp oxy hoặc phải là dựa trên nghiên cứu lâm sàng pha III COMET-ICE (mã
nhập viện vì COVID-19 (29). Gần đây, REGEN-COV tiếp số NCT04545060). Nghiên cứu cho thấy ở các bệnh nhân

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 7
sử dụng sotrovimab 500 mg tiêm truyền tĩnh mạch có sự thuốc được giới thiệu ở trên đã có những kết quả thử ng-
giảm 85% tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong do COVID-19. Kết hiệm lâm sàng pha II, pha III khả quan và được cấp phép
quả này cho thấy lợi ích mà thuốc mang lại lớn hơn các khẩn cấp. Các thử nghiệm lâm sàng vẫn đang được tiếp
nguy cơ hiện có (36). tục thực hiện để đánh giá hiệu quả và tính an toàn của
các thuốc kháng virus nói trên. Bên cạnh vaccine, sự thành
4. KẾT LUẬN công của các thuốc kháng virus sẽ là một chìa khóa quan
trọng để giảm diễn tiến nặng và tử vong của các bệnh
Thuốc kháng virus SARS-CoV-2 vẫn là một nhu cầu nhân nhiễm COVID-19 cũng như góp phần kiểm soát đại
cấp thiết trong phòng ngừa và điều trị COVID-19. Một số dịch trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. World Health Organization (2021), WHO Coronavirus (COVID-19) Dashboard, https://covid19.who.int/ (truy cập ngày
13/09/2021).
2. Bộ Y tế (2020), Trang tin về Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19, https://ncov.moh.gov.vn/ (truy cập ngày
13/09/2021).
3. Bộ Y tế (2021). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2).
4. Sanders J. M., Monogue M. L., Jodlowski T. Z., Cutrell J. B. (2020). Pharmacologic Treatments for Coronavirus Disease 2019
(COVID-19): A Review. JAMA.
5. Painter G. R., Natchus M. G., Cohen O., Holman W., Painter W. P. (2021). Developing a direct acting, orally available antiviral
agent in a pandemic: the evolution of molnupiravir as a potential treatment for COVID-19. Current Opinion in Virology,
50:17-22.
6. Toots M., Yoon J.-J., Hart M., Natchus M. G., Painter G. R., Plemper R. K. (2020). Quantitative efficacy paradigms of the influ-
enza clinical drug candidate EIDD-2801 in the ferret model. Translational Research, 218:16-28.
7. RidgebackBio (2021), Molnupiravir, https://ridgebackbio.com/pipeline/molnupiravir/ (truy cập ngày 24/08/2021).
8. Toots M., Yoon J.-J., Cox R. M., Hart M., Sticher Z. M., Makhsous N., Plesker R., Barrena A. H., Reddy P. G., Mitchell D. G., Shean
R. C., Bluemling G. R., Kolykhalov A. A., Greninger A. L., Natchus M. G., Painter G. R., Plemper R. K. (2019). Characterization
of orally efficacious influenza drug with high resistance barrier in ferrets and human airway epithelia. Science Translational
Medicine, 11(515):eaax5866.
9. Sheahan T. P., Sims A. C., Zhou S., Graham R. L., Pruijssers A. J., Agostini M. L., Leist S. R., Schäfer A., Dinnon K. H., Stevens
L. J., Chappell J. D., Lu X., Hughes T. M., George A. S., Hill C. S., Montgomery S. A., Brown A. J., Bluemling G. R., Natchus M.
G., Saindane M., Kolykhalov A. A., Painter G., Harcourt J., Tamin A., Thornburg N. J., Swanstrom R., Denison M. R., Baric R.
S. (2020). An orally bioavailable broad-spectrum antiviral inhibits SARS-CoV-2 in human airway epithelial cell cultures and
multiple coronaviruses in mice. Science Translational Medicine, 12(541):eabb5883.
10. Wahl A., Gralinski L. E., Johnson C. E., Yao W., Kovarova M., Dinnon K. H., Liu H., Madden V. J., Krzystek H. M., De C., White K.
K., Gully K., Schäfer A., Zaman T., Leist S. R., Grant P. O., Bluemling G. R., Kolykhalov A. A., Natchus M. G., Askin F. B., Painter G.,
Browne E. P., Jones C. D., Pickles R. J., Baric R. S., Garcia J. V. (2021). SARS-CoV-2 infection is effectively treated and prevented
by EIDD-2801. Nature, 591(7850):451-457.
11. Kabinger F., Stiller C., Schmitzová J., Dienemann C., Kokic G., Hillen H. S., Höbartner C., Cramer P. (2021). Mechanism of mol-
nupiravir-induced SARS-CoV-2 mutagenesis. Nature Structural & Molecular Biology.
12. Painter Wendy P., Holman W., Bush Jim A., Almazedi F., Malik H., Eraut Nicola C. J. E., Morin Merribeth J., Szewczyk Laura J.,
Painter George R. Human Safety, Tolerability, and Pharmacokinetics of Molnupiravir, a Novel Broad-Spectrum Oral Antiviral
Agent with Activity against SARS-CoV-2. Antimicrobial Agents and Chemotherapy, 65(5):e02428-02420.
13. AGILE (Early Phase Platform Trial for COVID-19), https://clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT04746183 (truy cập ngày 24/08/2021).
14. Khoo S. H., FitzGerald R., Fletcher T., Ewings S., Jaki T., Lyon R., Downs N., Walker L., Tansley-Hancock O., Greenhalf W., Woods
C., Reynolds H., Marwood E., Mozgunov P., Adams E., Bullock K., Holman W., Bula M. D., Gibney J. L., Saunders G., Corkhill A.,
Hale C., Thorne K., Chiong J., Condie S., Pertinez H., Painter W., Wrixon E., Johnson L., Yeats S., Mallard K., Radford M., Fines
K., Shaw V., Owen A., Lalloo D. G., Jacobs M., Griffiths G. (2021). Optimal dose and safety of molnupiravir in patients with
early SARS-CoV-2: a phase 1, dose-escalating, randomised controlled study. medRxiv:2021.2005.2003.21256309.
15. A Safety, Tolerability and Efficacy of Molnupiravir (EIDD-2801) to Eliminate Infectious Virus Detection in Persons With
COVID-19, https://clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT04405570 (truy cập ngày 24/08/2021).
16. Fischer W., Eron J. J., Holman W., Cohen M. S., Fang L., Szewczyk L. J., Sheahan T. P., Baric R., Mollan K. R., Wolfe C. R., Duke E.
R., Azizad M. M., Borroto-Esoda K., Wohl D. A., Loftis A. J., Alabanza P., Lipansky F., Painter W. P. (2021). Molnupiravir, an Oral
Antiviral Treatment for COVID-19. medRxiv:2021.2006.2017.21258639.
17. The Safety of Molnupiravir (EIDD-2801) and Its Effect on Viral Shedding of SARS-CoV-2 (END-COVID), https://clinicaltrials.
gov/ct2/show/NCT04405739 (truy cập ngày 24/08/2021).
18. Efficacy and Safety of Molnupiravir (MK-4482) in Hospitalized Adult Participants With COVID-19 (MK-4482-001), https://
clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT04575584 (truy cập ngày 24/08/2021).
19. Efficacy and Safety of Molnupiravir (MK-4482) in Non-Hospitalized Adult Participants With COVID-19 (MK-4482-002),
https://clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT04575597 (truy cập ngày 24/08/2021).
20. Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo - Bộ Y tế (2021), Thử nghiệm lâm sàng đánh giá tính an toàn và hiệu quả của viên nang
Molnupiravir, http://asttmoh.vn/ (truy cập ngày 25/08/2021).
21. Mulangu S., Dodd L. E., Davey R. T., Tshiani Mbaya O., Proschan M., Mukadi D., Lusakibanza Manzo M., Nzolo D., Tshomba
Oloma A., Ibanda A., Ali R., Coulibaly S., Levine A. C., Grais R., Diaz J., Lane H. C., Muyembe-Tamfum J.-J., the P. W. G. (2019).
A Randomized, Controlled Trial of Ebola Virus Disease Therapeutics. New England Journal of Medicine, 381(24):2293-2303.

8 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
TÀI LIỆU THAM KHẢO

22. Wang M., Cao R., Zhang L., Yang X., Liu J., Xu M., Shi Z., Hu Z., Zhong W., Xiao G. (2020). Remdesivir and chloroquine
effectively inhibit the recently emerged novel coronavirus (2019-nCoV) in vitro. Cell Research, 30(3):269-271.
23. Wang Y., Zhang D., Du G., Du R., Zhao J., Jin Y., Fu S., Gao L., Cheng Z., Lu Q., Hu Y., Luo G., Wang K., Lu Y., Li H., Wang
S., Ruan S., Yang C., Mei C., Wang Y., Ding D., Wu F., Tang X., Ye X., Ye Y., Liu B., Yang J., Yin W., Wang A., Fan G., Zhou
F., Liu Z., Gu X., Xu J., Shang L., Zhang Y., Cao L., Guo T., Wan Y., Qin H., Jiang Y., Jaki T., Hayden F. G., Horby P. W., Cao
B., Wang C. (2020). Remdesivir in adults with severe COVID-19: a randomised, double-blind, placebo-controlled, mul-
ticentre trial. The Lancet, 395(10236):1569-1578.
24. Beigel J. H., Tomashek K. M., Dodd L. E., Mehta A. K., Zingman B. S., Kalil A. C., Hohmann E., Chu H. Y., Luetkemeyer A.,
Kline S., Lopez de Castilla D., Finberg R. W., Dierberg K., Tapson V., Hsieh L., Patterson T. F., Paredes R., Sweeney D. A.,
Short W. R., Touloumi G., Lye D. C., Ohmagari N., Oh M.-d., Ruiz-Palacios G. M., Benfield T., Fätkenheuer G., Kortepeter
M. G., Atmar R. L., Creech C. B., Lundgren J., Babiker A. G., Pett S., Neaton J. D., Burgess T. H., Bonnett T., Green M.,
Makowski M., Osinusi A., Nayak S., Lane H. C. (2020). Remdesivir for the Treatment of Covid-19 — Final Report. New
England Journal of Medicine, 383(19):1813-1826.
25. Lamb Y. N. (2020). Remdesivir: First Approval. Drugs, 80(13):1355-1363.
26. Kokic G., Hillen H. S., Tegunov D., Dienemann C., Seitz F., Schmitzova J., Farnung L., Siewert A., Höbartner C., Cramer P.
(2021). Mechanism of SARS-CoV-2 polymerase stalling by remdesivir. Nature Communications, 12(1):279.
27. Baum A., Fulton B. O., Wloga E., Copin R., Pascal K. E., Russo V., Giordano S., Lanza K., Negron N., Ni M. J. S. (2020).
Antibody cocktail to SARS-CoV-2 spike protein prevents rapid mutational escape seen with individual antibodies.
369(6506):1014-1018, Hansen J., Baum A., Pascal K. E., Russo V., Giordano S., Wloga E., Fulton B. O., Yan Y., Koon K.,
Patel K., Chung K. M., Hermann A., Ullman E., Cruz J., Rafique A., Huang T., Fairhurst J., Libertiny C., Malbec M., Lee
W.-y., Welsh R., Farr G., Pennington S., Deshpande D., Cheng J., Watty A., Bouffard P., Babb R., Levenkova N., Chen C.,
Zhang B., Romero Hernandez A., Saotome K., Zhou Y., Franklin M., Sivapalasingam S., Lye D. C., Weston S., Logue J.,
Haupt R., Frieman M., Chen G., Olson W., Murphy A. J., Stahl N., Yancopoulos G. D., Kyratsous C. A. (2020). Studies in
humanized mice and convalescent humans yield a SARS-CoV-2 antibody cocktail. Science, 369(6506):1010.
28. Boraschia D., Tagliabue A. (2013). The interleukin-1 receptor family. Seminars in Immunology, 25:394-407.
29. (21/11/2020), Coronavirus (COVID-19) Update: FDA Authorizes Monoclonal Antibodies for Treatment of COVID-19,
https://www.fda.gov/news-events/press-announcements/coronavirus-covid-19-update-fda-authorizes-monoclo-
nal-antibodies-treatment-covid-19 (truy cập ngày 25/08/2021).
30. Palmer G., Gabay C. (2011). Interleukin-33 biology with potential insights into human diseases. Nature Reviews Rheu-
matology, 7:321-329, Pei C., Barbour M., Fairlie-Clarke K. J., Allan D., Mu R., Jiang H.-R. (2013). Emerging role of in-
terleukin-33 in autoimmune diseases. Immunology, 141:9-17, O’Brien M. P., Forleo-Neto E., Musser B. J., Isa F., Chan
K.-C., Sarkar N., Bar K. J., Barnabas R. V., Barouch D. H., Cohen M. S. J. N. E. J. o. M. (2021). Subcutaneous REGEN-COV
antibody combination to prevent COVID-19.
31. Dougan M., Nirula A., Azizad M., Mocherla B., Gottlieb R. L., Chen P., Hebert C., Perry R., Boscia J., Heller B. J. N. E. J. o.
M. (2021). Bamlanivimab plus etesevimab in mild or moderate COVID-19.
32. (25/02/2021), Coronavirus (COVID-19) Update: FDA Authorizes Monoclonal Antibodies for Treatment of COVID-19,
https://www.fda.gov/news-events/press-announcements/coronavirus-covid-19-update-fda-authorizes-monoclo-
nal-antibodies-treatment-covid-19-0 (truy cập ngày 26/08/2021).
33. COVID-19 Treatment Guidelines Panel (2021), Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) Treatment Guidelines, https://
www.covid19treatmentguidelines.nih.gov/ (truy cập ngày 26/08/2021), Liu C., Ginn H. M., Dejnirattisai W., Supasa
P., Wang B., Tuekprakhon A., Nutalai R., Zhou D., Mentzer A. J., Zhao Y., Duyvesteyn H. M. E., López-Camacho C.,
Slon-Campos J., Walter T. S., Skelly D., Johnson S. A., Ritter T. G., Mason C., Costa Clemens S. A., Gomes Naveca F.,
Nascimento V., Nascimento F., Fernandes da Costa C., Resende P. C., Pauvolid-Correa A., Siqueira M. M., Dold C.,
Temperton N., Dong T., Pollard A. J., Knight J. C., Crook D., Lambe T., Clutterbuck E., Bibi S., Flaxman A., Bittaye M.,
Belij-Rammerstorfer S., Gilbert S. C., Malik T., Carroll M. W., Klenerman P., Barnes E., Dunachie S. J., Baillie V., Serafin
N., Ditse Z., Da Silva K., Paterson N. G., Williams M. A., Hall D. R., Madhi S., Nunes M. C., Goulder P., Fry E. E., Mong-
kolsapaya J., Ren J., Stuart D. I., Screaton G. R. (2021). Reduced neutralization of SARS-CoV-2 B.1.617 by vaccinee and
convalescent serum. Cell, 184(16):4220-4236.e4213.
34. Gupta A., Gonzalez-Rojas Y., Juarez E., Casal M. C., Moya J., Falci D. R., Sarkis E., Solis J., Zheng H., Scott N., Cathcart A.
L., Hebner C. M., Sager J., Mogalian E., Tipple C., Peppercorn A., Alexander E., Pang P. S., Free A., Brinson C., Aldinger
M., Shapiro A. E., for the C.-I. C. E. I. (2021). Early Covid-19 Treatment With SARS-CoV-2 Neutralizing Antibody Sotro-
vimab. medRxiv:2021.2005.2027.21257096.
35. (26/05/2021), Coronavirus (COVID-19) Update: FDA Authorizes Additional Monoclonal Antibody for Treatment of
COVID-19, https://www.fda.gov/news-events/press-announcements/coronavirus-covid-19-update-fda-authoriz-
es-additional-monoclonal-antibody-treatment-covid-19 (truy cập ngày 26/08/2021).
36. (09/07/2021), Fact sheet for healthcare providers Emergency Use Authorization (EUA) of Sotrovimab, https://www.
fda.gov/media/149534/download (truy cập ngày 26/08/2021).

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 9
BỆNH NHÂN TỰ NẰM SẤP
KẾT HỢP VỚI LIỆU PHÁP OXY LƯU LƯỢNG CAO
QUA ỐNG THÔNG MŨI
GIÚP CẢI THIỆN SỰ THIẾU HỤT OXY DO

COVID-19

ThS.BS Nguyễn Hữu Đức Minh, Khoa Y học Cổ truyền, Trường Đại học Y dược TP.HCM
Nguyễn Thị Minh Tuyền, Khoa Y tế Công cộng , Trường Đại học Y dược TP.HCM
Phan Thụy Minh Ngân, Khoa Y học Cổ truyền, Trường Đại học Y dược TP.HCM
Bùi Đặng Đăng Khoa, Khoa Kỹ thuật Hóa học, Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG-HCM

Liệu pháp oxy lưu lượng cao qua ống thông mũi vào ICU làm che khuất mức độ nghiêm trọng thực sự của
(HFNC) thường được dùng trong điều trị suy hô hấp do bệnh và làm sai lệch mô hình đại dịch.
thiếu oxy, và có liên quan đến những ngày không thở máy
nhiều hơn và tỷ lệ tử vong thấp hơn so với liệu pháp oxy Bằng chứng mới hiện ra cho thấy bệnh nhân mắc
tiêu chuẩn hay thông khí không xâm lấn [1]. Tuy nhiên, tác COVID-19 phát triển hội chứng suy hô hấp cấp không
dụng của liệu pháp này trên bệnh nhân mắc COVID-19 rất điển hình (ARDS) với cơ học phổi tương đối được bảo tồn
phức tạp do sự gia tăng nguy cơ phát tán các tiểu phần tử mặc dù giảm oxy máu nghiêm trọng do phân đoạn shunt
(đặc biệt là khi ho) [2], khả năng cạn kiệt nguồn cung cấp [5]. Ngoài ra, được biết rằng đặt tư thế nằm sấp có thể cải
oxy [3] và có những lo ngại rằng nó có thể sẽ không thay thiện tình trạng thiếu oxy và giảm phân đoạn shunt [6].
đổi được tiến trình tự nhiên của bệnh viêm phổi do vi-rút
gây ra. Các yếu tố này đã dẫn đến những lời kêu gọi từ Đối với những bệnh nhân không phải thở nhiều,
bỏ việc sử dụng nó để chuyển sang đặt nội khí quản sớm chúng tôi đề xuất rằng HFNC có thể đáp ứng nhu cầu oxy
hơn [4]. Mặc dù những lo ngại này là hợp lý, nhưng chúng đồng thời cho phép bệnh nhân điều khiển vị trí cơ thể của
có thể gây ra những hậu quả khôn lường trong thời kỳ họ một cách độc lập thông qua việc tự thay đổi tư thế.
đại dịch hiện nay. Các chính sách của bệnh viện chỉ đạo Những lo lắng liên quan đến việc tạo thêm khí dung qua
đặt nội khí quản sớm hơn cho bệnh nhân mắc COVID-19 trung gian HFNC có thể được giảm thiểu thông qua bất
sẽ làm thúc đẩy việc tiêu hao các nguồn lực của đơn vị kỳ hay tất cả các điều sau đây: khẩu trang y tế được mang
chăm sóc tích cực (ICU) bao gồm máy thở, thuốc an thần trên người bệnh nhân để hạn chế sự phát tán hạt nhỏ,
và nhân lực. Cuối cùng, việc tạo ra một rào cản yếu hơn tăng cường thiết bị bảo hộ cá nhân cho nhân viên, phân
đối với việc đặt nội khí quản và việc tiếp nhận bệnh nhân nhóm bệnh nhân và môi trường áp lực âm.

10 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Gần đây, chúng tôi đã dùng phương pháp này để điều kỳ trong việc trao đổi oxy của ông (Hình 1.C). Trong quá
trị cho một bệnh nhân COVID-19 68 tuổi (đã đồng ý bằng trình điều trị, bệnh nhân bị nghẹt mũi và tụ máu đông ở
văn bản cho bài báo cáo này). Bệnh nhân có biểu hiện hốc mũi sau, dẫn đến tình trạng thiếu oxy ngày càng ng-
xuất hiện vết mờ ở cả hai bên phổi gợi ý về bệnh viêm hiêm trọng. Mặc dù thời gian thông khí nhân tạo qua tư
phổi nhanh chóng trở nên tồi tệ sau hai ngày nhập viện thế nằm sấp ngắn hơn so với những bệnh nhân thở máy
(Hình 1.A). Bệnh nhân được nằm trong phòng áp lực âm, thông thường, nhưng tác động sinh lý quan sát được của
áp dụng HFNC (ban đầu ở mức 60 L/phút và spO2 ở mức việc nằm sấp đối với quá trình oxy hoá là rất rõ ràng và có
90%) và được hướng dẫn qua điện thoại cách tự nằm sấp thể tái lập được. Trong thời gian điều trị, bệnh nhân của
bằng cách nằm úp ngực càng lâu càng tốt (Hình 1.B). chúng tôi duy trì dinh dưỡng bằng đường uống, liên lạc
Bệnh nhân cũng được cung cấp gối để tạo nên sự thoải với gia đình qua điện thoại di động và tham gia vật lý trị
mái và việc này giúp cải thiện sự thiếu hụt oxy. Tổng thời liệu tự hướng dẫn. Khi y tá truyền đạt các hướng dẫn cho
gian nằm sấp khoảng 16 - 18 tiếng mỗi ngày (bao gồm bệnh nhân qua điện thoại và bệnh nhân tự điều chỉnh, sự
8 - 10 tiếng ngủ vào buổi tối), bị gián đoạn ở các bữa ăn chăm sóc của điều dưỡng trực tiếp và chuyên viên điều trị
và khoảng thời gian đi vật lý trị liệu. Trong khi đó, bệnh hô hấp thực sự ít hơn mong đợi đối với một bệnh nhân
nhân không bao giờ than phiền về chứng khó thở nghiêm đặt nội khí quản cần thăm khám. Bệnh nhân được xuất
trọng của mình, ông nói rằng ông cảm thấy tốt hơn khi viện về khu COVID-19 chuyên dụng sau 4 ngày mà không
nằm sấp. Nằm sấp đã mang đến sự cải thiện theo chu cần đặt nội khí quản.

Hình 1
A) Chụp X-quang phổi trước và sau ở thời điểm hai ngày sau khi nhập viện vào ICU cho thấy vết mờ ở
hai bên phổi.
B) Bệnh nhân ở tư thế tự nằm sấp khi mang máy thở oxy lưu lượng cao.
C) Những thay đổi trong quá trình oxy hoá được biểu thị bằng tỷ lệ của áp suất riêng phần của oxy trong
động mạch với nồng độ oxy trong khí hít vào (P:F) so với thời gian từ khi vào ICU. Khởi đầu của các buổi
tự điều trị được đánh dấu bằng các mũi tên màu đỏ. Càng tới buổi tự điều trị cuối cùng, tỷ lệ P:F không
thể cải thiện được. Bệnh nhân sau đó không được điều trị bằng việc nằm sấp nữa, điều này làm cho quá
trình oxy hoá không được cải thiện. Nhóm chăm sóc sau đó đã nhận ra bệnh nhân bị nghẹt mũi (do cục
máu đông) ở hốc mũi sau. Khi chúng được làm sạch, tình trạng thiếu oxy của bệnh nhân một lần nữa
được cải thiện và bệnh nhân được xuất viện từ ICU đến một khu COVID-19 chuyên dụng.

Một báo cáo gần đây của Ý đã mô tả về hai loại phổi ở lưng có nhiều mô phổi hơn, mạch máu dày đặc
kiểu hình liên quan đến thời gian viêm phổi của bệnh hơn dẫn đến sức cản vùng phổi thấp hơn và bởi vì biểu
COVID-19 [7]. Ban đầu, nhiều bệnh nhân có những biểu hiện nội mô của oxit nitric cao hơn nên sự co mạch phổi
hiện của việc giảm thiểu oxy trong máu nghiêm trọng do thiếu oxy yếu hơn [8]. Vị trí nằm sấp tạo nên sự phân
trong các trường hợp không khó thở và độ giãn nỡ của bố mô phổi đồng đều hơn giữa mặt phẳng lưng và bụng
phổi được bảo toàn, trọng lượng phổi thấp, tỷ lệ thông dẫn đến cấu trúc các phế nang đều hơn. Hơn thế nữa, nó
khí - tưới máu (V/Q) thấp và chức năng huy động của phổi còn dẫn đến việc tưới máu phổi được phân bố đồng đều
thấp (được định nghĩa là kiểu hình L). Theo thời gian, một hơn [8]. Tất cả những thay đổi trên đều có thể giảm thiểu
số bệnh nhân này tiến triển thành loại kiểu hình ARDS cổ sự không đồng nhất ở khu vực V/Q và cải thiện quá trình
điển hơn, được đặc trưng bởi độ giãn nở thấp của phổi, oxy hóa ở tư thế nằm sấp. Sự cải thiện oxy này có thể phục
trọng lượng phổi cao, shunt từ phải qua trái cao và chức hồi sự co mạch ở phổi do tình trạng thiếu oxy mà nó vốn
năng huy động của phổi cao (được định nghĩa là kiểu hình đã bị làm giảm xuống tới nồng độ oxy thấp hơn và hơn
H). Mặc dù, chúng tôi không có hình ảnh chụp cắt lớp thế nữa là cải thiện sự không phù hợp V/Q [9]. Cuối cùng,
vi tính để ước tính được trọng lượng phổi của các bệnh điều này là hoàn toàn khả thi khi việc cải thiện quá trình
nhân nhưng họ có thể sẽ phù hợp với kiểu hình L do tình oxy hóa sẽ ngăn ngừa tình trạng trở nặng do khó thở,
trạng thiếu oxy máu trầm trọng và tương đối không khó trong khi đó các mô phổi sẽ tái phân phối cùng với khả
thở, mặc cho sự tiến triển của thâm nhiễm phổi trên phim năng tự điều trị làm thay đổi mối quan hệ giữa ứng suất -
chụp X-quang ngực sau hai ngày nhập viện (Hình A) có biến dạng của phổi và các lực trong lồng ngực, làm chậm
thể chỉ ra giai đoạn đầu của kiểu hình H. lại quá trình hình thành chứng phù phổi và sự tiến triển
của căn bệnh đi từ kiểu hình L sang kiểu hình H.
Lý do được đề xuất cho việc thiếu oxy trong máu của
kiểu hình L là do rối loạn điều hòa tưới máu phổi và sự Các nghiên cứu trong tương lai nên xác định xem liệu
mất đi khả năng co mạch do tình trạng thiếu oxy [7]. Vùng việc sử dụng thường xuyên HFNC kết hợp với việc các
COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 11
bệnh nhân tự điều trị có thể được áp dụng rộng rãi ở các phù hợp cho những người mắc bệnh tim bởi nó có thể
bệnh nhân COVID-19 với lượng oxy máu bị giảm thiểu và làm gia tăng áp lực cho hệ thống tim mạch. Ngoài ra,
hô hấp bình thường hay không. Ngoài việc duy trì công việc gia tăng sức ép lên vùng cổ cũng như tăng áp lực
suất của máy thở trong môi trường có đầy đủ nguồn lực, lên khoảng trống giữa đốt sống khi nằm sấp sẽ gây nhiều
phương pháp chăm sóc này sẽ có các ứng dụng quan tác động lớn đến các bệnh nhân có vấn đề về cột sống
trọng đối với các quốc gia có nguồn lực hạn chế, nơi mà [10]. Hơn thế nữa, đối với bệnh nhân cao tuổi (trên 65
các kĩ thuật ICU phức tạp có thể không có sẵn. tuổi) mắc viêm phổi do COVID-19 khi thở máy không xâm
nhập, việc sử dụng thuốc Redemsivir trong quá trình điều
Đề xuất thêm thông tin từ nhóm: trị có tác dụng giảm nồng độ vi-rút SARS-CoV-2 nhằm
Trong hình 2, việc kết hợp chêm lót khăn/gối ở vùng giảm nguy cơ bệnh nhân trở nặng, giảm tỉ lệ tử vong [11].
đầu cổ, vùng hông và dưới ống
chân giúp tránh đau lưng, tạo
cảm giác thoải mái khi nằm sấp.
Mặc dù, nằm sấp mang lại rất
nhiều hiệu quả trong việc cải
thiện độ bão hòa oxy trong máu
cũng như giúp bệnh nhân dễ thở
nhưng phương pháp này không

Hình 2. Tư thế
nằm sấp kết
hợp kê gối giúp
cải thiện cảm
giác dễ chịu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Frat JP, Thille AW, Mercat A, et al. High-flow oxygen through nasal cannula in acute hypoxemic respiratory failure.
N Engl J Med 2015; 372: 2185-96.
[2] Will Loh NH, Tan Y, Taculod J, et al. The impact of high-flow nasal cannula (HFNC) on coughing distance: impli-
cations on its use during the novel coronavirus disease outbreak. Can J Anesth 2020; DOI: https://doi.org/10.1007/
s12630-020-01634-3.
[3] The Guardian. Coronavirus: London hospital almost runs out of oxygen for Covid-19 patients - 2020 April 2; Avail-
able from URL: https://www.theguardian.com/society/2020/apr/02/londonhospital-almost-runs-out-oxygen-corona-
virus-patients (accessed April 2020).
[4] N˜amendys-Silva SA. Respiratory support for patients with COVID19 infection. Lancet Respir Med 2020; DOI:
https://doi.org/10. 1016/S2213-2600(20)30110-7.
[5] Gattinoni L, Coppola S, Cressoni M, Busana M, Rossi M, Chiumello D. Covid-19 does not lead to a ‘‘typical’’ acute
respiratory distress syndrome. Am J Respir Crit Care Med 2020; DOI: https://doi.org/10.1164/rccm.202003-0817LE.
[6] Matthay MA, Aldrich JM, Gotts JE. Treatment for severe acute respiratory distress syndrome from COVID-19.
Lancet Respir Med 2020; DOI: https://doi.org/10.1016/S2213-2600(20)30127-2.
[7] Gattinoni L, Chiumello D, Caironi P, et al. COVID-19 pneumonia: different respiratory treatment for different phe-
notypes? Intensive Care Med 2020; DOI: https://doi.org/10.1007/s00134-020-06033- 2.
[8] Kallet RH. A Comprehensive review of prone position in ARDS. Respir Care 2015; 60: 1660-87.
[9] Starr IR, Lamm WJ, Neradilek B, Polissar N, Glenny RW, Hlastala MP. Regional hypoxic pulmonary vasoconstric-
tion in prone pigs. J Appl Physiol 2005; 99: 363-70.
[10] COVID-19 Proning for Self care, Ministry of Health and Family Welfare, Government of India, 2021.
[11] Lin, H.X.J., Cho, S., Meyyur Aravamudan, V. et al. Remdesivir in Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) treatment:
a review of evidence. Infection 49, 401–410 (2021). https://doi.org/10.1007/s15010-020-01557-7

Lược dịch từ: Slessarev, M., Cheng, J., Ondrejicka, M. et al. Patient self-proning with high-flow nasal cannula improves ox-
ygenation in COVID-19 pneumonia. Can J Anesth/J Can Anesth 67, 1288–1290 (2020). https://doi.org/10.1007/s12630-
020-01661-0

12 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
ĐẠIDỊCH
ĐẠI
ĐẠI DỊCHCOVID
DỊCH COVID---19:
COVID 19:
19:
GIẢIPHÁP
GIẢI
GIẢI PHÁPNÀO
PHÁP NÀO
NÀO
CHOSỨC
CHO
CHO SỨCKHỎE
SỨC KHỎE
KHỎE
TINHTHẦN
TINH
TINH THẦN
THẦN
ThS.BSCK1. Nguyễn Trung Nghĩa, Nhóm nghiên cứu Sức khỏe não bộ,
Khoa Kỹ thuật Y Sinh, Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM
- Bác sĩ chuyên khoa Tâm thần tại Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn.
Hoàng Lê Gia Huy, Khưu Đoàn Đức Quang, Võ Quốc Hoàng Quyên,
Nhóm nghiên cứu Sức khỏe não bộ,
Khoa Kỹ thuật Y Sinh, Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM

Tóm tắt
Đại dịch COVID-19 không chỉ tạo nên những gánh nặng cho hệ thống y tế và kinh tế, mà đã, đang và sẽ còn
để lại những hậu quả lên sức khỏe tinh thần trên cả bình diện cộng đồng và cá nhân. Bài viết này trình bày một
cái nhìn tổng quan về các giải pháp giúp giảm thiểu các tác động về tâm lý - xã hội của đại dịch với nỗ lực từ cả 2
phía: chính quyền và hệ thống y tế. Về phía chính quyền, việc cung cấp đầy đủ và minh bạch thông tin, đảm bảo
an sinh xã hội là những nỗ lực cần thiết. Về phía hệ thống y tế, việc duy trì và mở rộng sự sẵn có của hệ thống
chăm sóc sức khỏe tinh thần (bao gồm việc triển khai thăm khám y tế từ xa) là các giải pháp hữu ích.

Từ khóa:
Sức khỏe tâm thần, Sức khỏe tinh thần, Đại dịch COVID-19, giải pháp, cộng đồng, y tế từ xa, quản lý xã hội,
hệ thống y tế.

Đằng sau con số tử vong trực tiếp do COVID-19 bệnh nhân COVID-19 cần được cấp cứu và hồi sức tích
Điều đang được quan tâm nhiều nhất hiện nay trên cực, làn sóng thứ hai và thứ ba tác động đến người bệnh
các phương tiện truyền thông đại chúng có lẽ là số ca tử có vấn đề cấp cứu khác nhưng không được cứu chữa kịp
vong và tác động nặng nề của COVID-19 lên người nhiễm. thời hoặc người mắc bệnh mạn tính nhưng không được
Nhưng có lẽ đó chưa phải là toàn bộ bức tranh đầy đủ về
thăm khám đầy đủ do các nguồn lực đã được dành ưu
tác động của đại dịch lên sức khỏe của cộng đồng. Mô
hình 4 làn sóng do tiến sĩ Tseng (Đại học Atlanta, Hoa Kỳ) tiên cho điều trị COVID-19. Điển hình, ở Bình Dương vừa
giới thiệu từ tháng 3/2020 dựa trên các quan sát từ các qua có trường hợp bệnh nhân bị đột quỵ đã tử vong sau
đại dịch trước đó, cho thấy ngoài vấn đề ở “tuyến đầu” khi qua 5 bệnh viện mà không được tiếp nhận cấp cứu
chống dịch, chúng ta cần phải cẩn trọng với các hậu quả (2). Các nghiên cứu ở các nước trải qua đại dịch cũng cho
khác ẩn khuất ở “hậu phương” (hình 1) (1). thấy tỉ lệ tử vong ngoại viện và tỉ lệ tử vong chung do các
bệnh COVID-19 cũng tăng cao hơn đường trung bình của
Bên cạnh làn sóng thứ nhất ảnh hưởng đến những thời gian trước đại dịch (3, 4).

Hình 1: Mô hình 4
làn sóng về tác động
của COVID-19 lên sức
khỏe cộng đồng (1).

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 13
Làn sóng thứ tư bắt đầu từ rất sớm trong đại dịch và lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các mặt
sẽ còn kéo dài hơn ở giai đoạn hậu đại dịch, đó chính là hàng thiết yếu khác. Người lao động mất việc, neo
làn sóng tác động về sức khỏe tinh thần. Thật vậy, một đơn không tự chăm sóc được sẽ cần được hỗ trợ
nghiên cứu trên 9 quốc gia cho thấy những con số đáng về cả kinh tế và xã hội. Để thực hiện được điều này,
quan ngại về tình trạng sức khỏe tinh thần, khi có thể có
nhà nước cần có cơ chế khuyến khích sự chung tay
đến 48,3% dân số có các triệu chứng trầm cảm, 50,9%
có các triệu chứng lo âu sợ hãi, 53,8% trải nghiệm stress từ các nguồn lực cộng đồng. Trong thời gian qua,
sau sang chấn và đến 81,9% trải nghiệm căng thẳng (5). nhiều nhóm thiện nguyện cá nhân, tập thể đã hỗ
Những nhóm đối tượng nguy cơ cao gồm có phụ nữ, trợ về nhu yếu phẩm, oxy, các phương tiện cấp cứu.
người dưới 40 tuổi, đã và đang có các rối loạn tâm thần Các nền tảng công nghệ đã có nhiều hành động hỗ
hay các bệnh mạn tính khác, học sinh sinh viên, người thất trợ kết nối người cần và người có khả năng giúp đỡ,
nghiệp, hay người thường xuyên tiếp xúc với mạng xã hội cũng như tham gia vào khâu hậu cần và vận chuyển
và các tin tức liên quan đến Covid-19. hàng hóa.
Diễn tiến xấu đi của sức khỏe tinh thần trong đại dịch Nhóm giải pháp hành động của hệ thống y tế
đã rõ ràng. Vậy liệu rằng có những giải pháp nào có thể
được thực hiện để cải thiện tình hình? Chúng tôi sẽ tiếp Các rối loạn tâm thần là bệnh lý mạn tính cần
cận câu hỏi trên theo hai bình diện: hệ thống quản lý xã được thăm khám theo dõi định kỳ, trong một số
hội và hệ thống y tế. trường hợp cũng là tình trạng cần xử trí cấp cứu.
Việc đứt gãy “chuỗi cung ứng” khám chữa bệnh có
Nhóm giải pháp hành động của hệ thống quản thể khiến tình trạng sức khỏe tinh thần của bệnh
lý xã hội nhân trở nên tệ hơn. Trong đại dịch, các vấn đề của
Những giải pháp đồng bộ, nhất quán, có cấu trúc của bệnh nhân có rối loạn sức khỏe tâm thần bao gồm:
chính quyền, với sự hỗ trợ của cơ quan y tế quốc tế và không được phát hiện, không được thăm khám điều
cộng đồng khoa học có thể góp phần làm giảm những trị và tăng nguy cơ tự sát (10). Vì vậy, có 4 nhóm giải
ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch lên sức khỏe tinh thần pháp được đề nghị nhằm tăng khả năng người dân
của cộng đồng (6). Hai nhóm giải pháp chính có thể được có các vấn đề sức khỏe tinh thần được tiếp cận kịp
cân nhắc áp dụng có liên quan đến vấn đề cung cấp thông thời với chăm sóc y tế:
tin truyền thông và đảm bảo an sinh xã hội.
1. Duy trì các dịch vụ y tế cơ bản. Hệ thống chăm
Đầu tiên, chính phủ cần cung cấp cho những người sóc sức khỏe tinh thần sẵn có - gồm các bệnh viện
dân thông tin chính xác, minh bạch, được cập nhật mới và phòng khám chuyên khoa Tâm thần, các khoa /
nhất về tình hình của dịch bệnh và những quyết định liên phòng Tâm thần/Tâm lý/Tâm thể tại các bệnh viện và
quan trong công tác phòng, chống dịch. Việc thông tin rõ phòng khám đa khoa - cần được tiếp tục hoạt động
ràng và dễ tiếp cận sẽ giúp nâng cao nhận thức của người và cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân.
dân về các vấn đề y tế, giúp họ cảm thấy an tâm và hợp Người dân cần được cho phép lưu thông để đến
tác với các quyết sách phòng, chống dịch. Bên cạnh đó, sự thăm khám các vấn đề sức khỏe tinh thần như bất kỳ
quá tải thông tin và sự tràn lan của tin giả gây căng thẳng,
sợ hãi, giận dữ và làm tăng nguy cơ của các rối loạn tâm
vấn đề sức khỏe thể chất nào khác.
thần (5). Các nghiên cứu chỉ ra rằng truyền thông rõ ràng
và đầy đủ trong đại dịch góp phần ngăn chặn vấn nạn tin 2. Thăm khám từ xa. Trong điều kiện dịch bệnh
giả và sự quá tải thông tin, từ đó cải thiện sức khỏe tinh truyền nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp, hoạt động thăm
thần (7). khám trực tuyến là một lựa chọn an toàn. Phương án
này đặc biệt hữu ích đối với các trường hợp bị hạn
chế đi lại như đang ở trong khu cách ly, phong tỏa,
gặp khó khăn trong việc di chuyển đến nơi thăm
khám trực tiếp, hoặc không đảm bảo an toàn phòng
chống dịch. Cùng với sự phổ biến của email, điện
thoại, các cuộc gọi video và các phần mềm họp trực
tuyến, thăm khám từ xa đang dần trở nên quen thuộc
hơn bao giờ hết. Các nghiên cứu cho thấy rằng điều
trị tâm lý – tâm thần từ xa đặc biệt có hiệu quả trên
các vấn đề trầm cảm, lo âu và căng thẳng sau sang
chấn (11). Trong đợt bùng phát dịch thứ tư tại Việt
Nam, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe tinh thần và
các hội nhóm chuyên nghiệp đã thích ứng đủ nhanh
trong việc triển khai tham vấn tâm lý và điều trị các
vấn đề sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, việc tiếp cận
thăm khám từ xa vẫn còn là một thách thức đối với
Hình 2: Các nguồn tin chính thống để tham khảo những người lớn tuổi và những người không quen
các thông tin về COVID-19. sử dụng công nghệ. Vì vậy, các cơ sở triển khai thăm
khám từ xa cần dự trù trước tình huống và có nhân
sự để hỗ trợ các bệnh nhân đặc biệt này. Đồng hành
Thứ hai, các vấn đề an sinh xã hội cần được đảm với thăm khám từ xa, mô hình kê đơn trực tuyến
bảo vì đây là điều kiện tiên quyết để người dân ổn và giao thuốc tận nhà hoàn chỉnh một hệ sinh thái
định về sức khỏe tinh thần (9). Nhà nước cần có các chăm sóc sức khỏe để giúp người tiếp cận được các
giải pháp đồng bộ để cung cấp đầy đủ và kịp thời thuốc chuyên khoa cần thiết.

14 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
3. Nhận diện sớm và can thiệp khẩn các vấn đề
sức khỏe tinh thần. Chiến lược tập huấn cho nhân 4. Giảm kỳ thị đối với các vấn đề sức khỏe tinh thần/
viên y tế không phải chuyên khoa tâm thần, đặc biệt các rối loạn tâm thần. Việc tồn tại các quan điểm kỳ thị về
là các bác sĩ chăm sóc ban đầu, cách nhận diện và các rối loạn tâm thần sẽ góp phần ngăn cản người bệnh
tìm kiếm sự hỗ trợ khi cần thiết, khiến họ mất đi cơ hội
chẩn đoán các rối loạn tâm thần được triển khai tại
được can thiệp từ sớm, tăng nguy cơ tự sát và diễn tiến
Singapore và mang lại hiệu quả tích cực (8). Điều này nặng của bệnh. Trên thực tế, chương trình bác sĩ hỗ trợ F0
sẽ giúp bệnh nhân được phát hiện và can thiệp điều tại nhà được Trường Đại học Y Dược TP.HCM triển khai tại
trị sớm, từ đó giảm nguy cơ diễn tiến nặng hay tự quận 8 và quận 10 ghi nhận nhiều tình huống người dân
sát. Bên cạnh đó, cần có các chương trình nâng cao là F0, có các biểu hiện khủng hoảng về tinh thần làm nặng
nhận thức cho cộng đồng (bao gồm người dân, giáo hơn tình trạng bệnh thực thể. Tuy nhiên, nhiều trường
viên, người chăm sóc, người hỗ trợ cộng đồng) về hợp trong số đó từ chối sự hỗ trợ của chuyên gia tâm lý
các vấn đề sức khỏe tinh thần vì đó là những người hay bác sĩ tâm thần vì cho rằng mình không “bị điên” và
thường xuyên tiếp xúc và có khả năng phát hiện các mình có thể tự cố gắng vượt qua được. Các chương trình
rối loạn tâm thần hay nguy cơ tự sát từ sớm. Các giáo dục cộng đồng, bình thường hóa các khái niệm sức
khỏe tinh thần và cung cấp các lý giải khoa học về các rối
chương trình giáo dục cộng đồng này cũng giúp các
loạn tâm thần sẽ giúp ích trong việc tăng khả năng tiếp
cá nhân tự nhận biết khi nào mình đang không ổn, cận y tế của bệnh nhân - điều sẽ đặc biệt có ích trong mùa
cần được thăm khám và hỗ trợ về sức khỏe tinh thần, dịch.
từ đó chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ từ giai đoạn sớm.
Lời kết
*Trong tình huống cần hỗ trợ khẩn cấp như đang Đại dịch COVID-19 tác động lên sức khỏe cộng đồng
có suy nghĩ hoặc hành vi liên quan đến tự sát, người trên nhiều phương diện, trong đó sức khỏe tinh thần là
dân có thể liên hệ với các kênh hỗ trợ đang được triển vấn đề cần được để tâm đến vì những tác động rõ ràng và
khai trong mùa dịch COVID-19. nặng nề của nó. Để cải thiện được sức khỏe tinh thần của
cộng đồng, chúng ta cần những giải pháp đồng bộ trên
diện rộng từ phía người làm chính sách vận hành xã hội
cũng như sự vận hành của hệ thống y tế.
Thông qua các tài liệu tham khảo từ các đợt dịch trước
và tình hình dịch ở nhiều nơi trên thế giới, bài viết này
đã gợi ý các nhóm giải pháp có thể được tiến hành. Tuy
nhiên, vẫn còn một thực tế rằng chúng ta còn thiếu nhiều
dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu của Việt Nam đễ dẫn đường
cho chính sách và giải pháp cũng cần thiết trong giai đoạn
sắp tới. Chúng tôi hy vọng rằng những từ khóa và nội
dung được gợi mở ở trên có thể hữu ích cho quý độc giả
trong tiến trình tìm kiếm thông tin và các giải pháp trong
giai đoạn đại dịch này.

Hình 3: Các chương trình hỗ trợ khẩn cấp


về tâm lý - xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Victor Tseng (2021), https://twitter.com/vectorsting/status/1244671755781898241?lang=vi, truy


cập ngày 29.8.2021
2. Báo tuổi trẻ (2021), https://tuoitre.vn/vu-tu-vong-sau-khi-5-co-so-y-te-khong-cap-cuu-giam-doc-
so-y-te-binh-duong-noi-gi-20210815161051749.htm, truy cập ngày 29.8.2021
3. Bodilsen J, Nielsen P B, Søgaard M, Dalager-Pedersen M, Speiser L O Z, Yndigegn T et al. Hospital
admission and mortality rates for non-covid diseases in Denmark during covid-19 pandemic: na-
tionwide population based cohort study BMJ 2021; 373 :n1135 doi:10.1136/bmj.n1135
4. Santi L, Golinelli D, Tampieri A, Farina G, Greco M, Rosa S, et al. (2021) Non-COVID-19 patients in
times of pandemic: Emergency department visits, hospitalizations and cause-specific mortality in
Northern Italy. PLoS ONE 16(3): e0248995. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0248995
5. Xiong J, Lipsitz O, Nasri F, Lui LMW, Gill H, Phan L, Chen-Li D, Iacobucci M, Ho R, Majeed A, McIntyre
RS. Impact of COVID-19 pandemic on mental health in the general population: A systematic review.
J Affect Disord. 2020 Dec 1;277:55-64. doi: 10.1016/j.jad.2020.08.001. Epub 2020 Aug 8. PMID:
32799105; PMCID: PMC7413844.

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6. Dong, L., & Bouey, J. (2020). Public Mental Health Crisis during COVID-19 Pandemic, China. Emerg-
ing infectious diseases, 26(7), 1616–1618. https://doi.org/10.3201/eid2607.200407
7. Li, S., Wang, Y., Xue, J., Zhao, N., & Zhu, T. (2020). The Impact of COVID-19 Epidemic Declaration on
Psychological Consequences: A Study on Active Weibo Users. International journal of environmen-
tal research and public health, 17(6), 2032. https://doi.org/10.3390/ijerph17062032
8. Ho, C. S., Chee, C. Y., & Ho, R. C. (2020). Mental Health Strategies to Combat the Psychological Im-
pact of Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) Beyond Paranoia and Panic. Annals of the Academy of
Medicine, Singapore, 49(3), 155–160.
9. Gunnell, D., Appleby, L., Arensman, E., Hawton, K., John, A., Kapur, N., Khan, M., O’Connor, R. C.,
Pirkis, J., & COVID-19 Suicide Prevention Research Collaboration (2020). Suicide risk and preven-
tion during the COVID-19 pandemic. The lancet. Psychiatry, 7(6), 468–471. https://doi.org/10.1016/
S2215-0366(20)30171-1
10. Sher, L. (2020). Individuals with untreated psychiatric disorders and suicide in the COVID-19 era.
Brazilian Journal of Psychiatry, (AHEAD).
11. Smith AC, Thomas E, Snoswell CL, Haydon H, Mehrotra A, Clemensen J, et al. . Telehealth for glob-
al emergencies: implications for coronavirus disease 2019 (COVID-19). J Telemed Telecare. (2020)
26:309–13. 10.1177/1357633X20916567

16 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
XÂY DỰNG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG Y TẾ
TỪ SAU DỊCH COVID-19

Trương Minh Chương


Khoa Quản lý Công nghiệp
Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG-HCM

1. Giới thiệu hệ thống y tế và nhận diện sự phát triển của hệ thống y


tế từ các trải nghiệm đó, phương pháp giản đồ nhân quả
Dịch COVID-19 đang diễn ra ở Thành phố Hồ Chí được sử dụng.
Minh với nhiều diễn tiến phức tạp, khó lường. Thành phố
đã huy động tất cả các nguồn lực để tham gia chống dịch. 3. Kết quả
Các đơn vị trung ương, các tỉnh đã hỗ trợ rất nhiều cho
Thành phố trong việc chống dịch và điều trị bệnh nhân. 3.1 Mô tả quá trình chống dịch tại Thành phố Hồ
Mặc dù chưa kiểm soát được hoàn toàn dịch bệnh nhưng Chí Minh và một số nhận diện
các nỗ lực này đã đạt được một số kết quả nhất định. Để
tiếp tục chống dịch và sớm đưa Thành phố trở về trạng Dịch COVID-19 đã xuất hiện tại Thành phố từ tháng
thái bình thường mới, điều cần được quan tâm là việc xây 1/2020 và đã trải qua 4 đợt bùng phát.
dựng một mô hình phát triển hệ thống y tế dựa vào kết
quả của quá trình chống dịch vừa qua để đảm bảo phòng, Thành phố đã triển khai chiến lược phát hiện, truy vết,
chống dịch và đáp ứng được nhu cầu khám, điều trị của khoanh vùng nhanh. Chiến lược này rất hiệu quả do phát
người dân. Đó là mục tiêu của bài nghiên cứu này. hiện sớm các ca nhiễm và tốc độ lây lan của chủng virus
tương đối chậm so với tốc độ truy vết khoanh vùng. Vì số
2. Phương pháp thực hiện ca nhiễm thấp nên các bệnh viện tại thành phố vẫn có thể
điều chỉnh năng lực để triển khai điều trị các ca nhiễm này.
Việc phát triển mô hình hệ thống y tế được thực hiện Quan hệ giữa các yếu tố trong quá trình truy vết, khoanh
dựa trên mô hình hiện tại và các trải nghiệm trong quá vùng ảnh hưởng đến số ca bệnh được trình bày trong
trình Thành phố chống dịch. Để có thể hiểu rõ về các giải Hình 1, vùng 1.
pháp đã được thực hiện, tác động của các giải pháp đến
COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 17
Hình 1: Giản đồ nhân quả thể hiện quan hệ giữa các biến số
trong quá trình chống dịch tại Tp. Hồ Chí Minh.
Trong đợt bùng phát thứ tư hiện nay, dịch bệnh đã âm kiểm soát dịch bệnh đã được Thành phố triển khai. Các
thầm lây lan trong Thành phố . Việc phát hiện các ca bệnh yếu tố tác động đến việc tiêm vaccine và ảnh hưởng của
ban đầu là chậm so với tốc độ lây lan của chủng virus việc tiêm vaccine đến số ca nhiễm được trình bày trong
Delta nên số ca nhiễm cộng đồng là lớn. Sự tăng nhanh Hình 1, mục 5.
của số ca nhiễm đã tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế. Thành
phố đã liên tục được sự đầu tư, chi viện từ chính phủ và Giản đồ nhân quả Hình 1 trình bày một bức tranh tổng
các tỉnh. Tình nguyện viên cả nước tham gia chống dịch thể các biến số có liên quan đến quá trình chống dịch tại
tại Tp. Hồ Chí Minh. Việc triển khai điều trị F0 tại nhà đã Tp. Hồ Chí Minh. Giản đồ giúp làm rõ quan hệ giữa các
góp phần đáng kể, giảm quá tải cho các bệnh viện điều trị biến số trong từng tình huống chống dịch với biến số
COVID-19. Quan hệ giữa các yếu tố có liên quan đến quá trung tâm là số ca nhiễm.
trình khám điều trị bệnh nhân COVID-19 được trình bày
trong Hình 1, mục 2. Thực tiễn chống dịch của Thành phố được thể hiện
trên giản đồ này cho phép nhận diện một số điểm như
Khi số bệnh nhân nhiễm COVID-19 tăng lên, một số sau:
nhà máy sản xuất đã phải ngừng hoạt động để phòng,
chống dịch. Chuỗi cung ứng bị đứt gãy. Hàng hóa trên a. Sự truy vết khoanh vùng sẽ diễn ra nhanh khi có
thị trường bị giảm. Hình 1, mục 3 trình bày quan hệ giữa đủ các trang thiết bị, sinh phẩm, nguồn nhân lực y khoa,
các yếu tố liên quan đến nhiễm bệnh trong khu vực sản nguồn nhân lực hỗ trợ, sự hỗ trợ của công nghệ thông tin
xuất, lượng hàng hóa trên thị trường và thu ngân sách của và năng lực phát hiện bệnh nhân nhiễm trong cộng đồng.
Thành phố. Năng lực này có thể được phát triển tốt khi việc tổ chức
khám, chữa bệnh, theo dõi sức khỏe tại nhà cho bệnh
Việc giao hàng trực tuyến phát triển mạnh làm tăng nhân được hình thành và hoạt động thường xuyên.
số lượt shipper giao hàng và tạo rủi ro lây nhiễm từ quận/
huyện này qua quận/huyện khác. Ảnh hưởng của những b. Việc triển khai điều trị các bệnh nhân nhẹ tại nhà
yếu tố này đến số ca nhiễm được trình bày trong Hình 1, đã giúp giảm tải cho hệ thống bệnh viện và giúp việc điều
mục 4. trị các ca nặng được tốt hơn. Điều này cho thấy việc triển
khai theo dõi điều trị, chăm sóc bệnh nhân tại nhà là một
Việc tiêm chủng vaccine là một giải pháp cơ bản để phương cách hiệu quả để giảm tải cho bệnh viện.

18 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
c. Tình nguyện viên (có hay không có chuyên môn những vấn đề không hiệu quả trong liên hệ giữa các bên
y khoa) đã cho thấy vai trò quan trọng hỗ trợ hệ thống y (McKinsey & Company, 2020).
tế của Thành phố, giảm áp lực nhu cầu nhân lực y khoa và
cũng cố hậu cần cho các tuyến điều trị. Đối với lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, hệ sinh thái sẽ bao
gồm 3 thành phần: Sở Y tế, các đơn vị chăm sóc sức khỏe
d. Rất nhiều nghiên cứu được triển khai thành công và các đơn vị liên quan (các trường, viện nghiên cứu đào
của các nhà khoa học, doanh nghiệp trong nước để đáp tạo y, dược khoa, các doanh nghiệp sản xuất trang thiết
ứng các nhu cầu cấp bách của vaccine, trang thiết bị y bị y khoa, dược phẩm, cung cấp giải pháp IT…). Người
khoa, sinh phẩm,…Việc đầu tư nghiên cứu sản xuất trong dân - đối tượng được phục vụ là trung tâm của hệ sinh
nước vaccine, sinh phẩm, dược phẩm, các trang thiết bị thái. Hệ sinh thái này sẽ là nền tảng để xây dựng hệ thống
y khoa,… để chủ động nguồn cung, giảm chi phí nhập là y tế thông minh. Cấu trúc của hệ sinh thái để phát triển
một chương trình cần được chú trọng. việc chăm sóc sức khỏe được đề xuất và trình bày trong
Hình 2.
e. Công nghệ thông tin đã có vai trò quan trọng
trong khám điều trị bệnh nhân, hỗ trợ truy vết, khoanh
vùng…

Từ các nhận diện nêu trên, để tiếp tục phát triển trong
trạng thái bình thường mới, một sự phát triển tiếp theo
của mô hình hệ thống y tế cần được nghiên cứu đề xuất.

3.2 Mô hình phát triển hệ thống y tế trong trạng


thái bình thường mới

Để xây dựng mô hình phát triển hệ thống y tế, hệ sinh


thái cho hệ thống y tế cần được xây dựng. Hệ sinh thái là
một bộ các năng lực và dịch vụ được tạo ra từ sự tích hợp
các thành viên trong chuỗi giá trị (khách hàng, nhà cung
cấp, các platform, các bên có liên quan khác) thông qua
một mô hình thương mại chung và nền tảng dữ liệu (được
lưu trữ, quản lý và trao đổi) để tạo cho khách hàng và các Hình 2: Hệ sinh thái phát triển việc chăm sóc sức khỏe
bên liên quan một trải nghiệm hiệu quả hơn, giải quyết

Các đơn vị chăm sóc sức khỏe sẽ chủ động phối hợp với các đơn vị có liên quan dưới sự quản lý của Sở Y tế để đảm
bảo cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho người dân. Tùy các tình huống khác nhau, các bên liên quan có
thể tái cấu trúc cấu hình, nguồn tài nguyên của mình, tái cấu trúc các nguyên tắc phối hợp với nhau để phù hợp với tình
huống đó (Nabil Georges Badr & ctg., 2020). Sự phản hồi của người dân sẽ giúp điều chỉnh tương tác giữa các bên và
nâng cao hiệu quả phục vụ bệnh nhân.
Từ đó, mô hình phát triển hệ thống y tế được đề xuất và trình bày trong Hình 3.

Ghi chú: Mũi tên 2 chiều nét liền: Sự phối hợp giữa các đơn vị. Mũi tên 1 chiều nét liền: Sự chỉ đạo.
Mũi tên với nét đơn: Dòng bệnh nhân. Mũi tên với nét đôi: Dòng thông tin báo cáo
Hình 3: Mô hình phát triển hệ thống y tế

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 19
Trong mô hình này, các bệnh viện vẫn đảm nhận vai liệu thông tin sức khỏe cộng đồng, hỗ trợ hậu cần cho
trò chính trong khám điều trị bệnh nhân. Trong trạng việc khoanh vùng, dập dịch hay điều trị bệnh nhân.
thái bình thường mới, các bệnh viện cần xây dựng năng
lực ứng biến với dịch bệnh. Nguồn nhân lực y khoa tại Các trường y dược sẽ phối hợp với các bệnh viện trong
các bệnh viện sẽ được thường xuyên đào tạo cập nhật nghiên cứu, khám điều trị bệnh nhân, đào tạo học viên và
thông tin, tri thức y khoa, điều dưỡng để sẵn sàng tham tăng nguồn y bác sĩ, điều dưỡng cho các bệnh viện khi có
gia khám điều trị bệnh nhân khi có dịch bệnh. Việc khám, dịch bệnh.
điều trị giúp các bệnh viện nhận diện các thay đổi trong
cấu trúc bệnh, các chỉ dấu của dịch bệnh xuất hiện. Các Sở Y tế cũng sẽ chủ trì phối hợp giữa các bệnh viện,
dữ liệu, thông tin này được báo cáo lên Sở Y tế. Các bệnh các trường y dược khoa, các doanh nghiệp nghiên cứu
nhân sau khi xuất viện sẽ được chuyển về cho các đơn vị sản xuất dược phẩm, trang thiết bị y khoa, phần mềm IT
dịch vụ theo dõi, chăm sóc sức khỏe gia đình để tiếp tục để triển khai nghiên cứu sản xuất sinh phẩm, dược phẩm,
theo dõi, chăm sóc. Điều này giúp giảm thời gian điều trị trang thiết bị y khoa, phần mềm IT,… đáp ứng nhu cầu
tại bệnh viện cho bệnh nhân, giảm chi phí điều trị, giảm khám chữa bệnh, phòng chống dịch và theo dõi chăm
tải cho bệnh viện. sóc sức khỏe tại gia đình. Các chương trình nghiên cứu
sáng tạo sản phẩm mới phục vụ việc chăm sóc sức khỏe,
Ngoài hệ thống các bệnh viện và các đơn vị tuyến cơ phòng chống dịch cũng sẽ được Sở Y tế đề xuất triển khai
sở do nhà nước quản lý như hiện nay, hệ thống y tế sẽ thực hiện.
phát triển thêm hệ thống con là các đơn vị dịch vụ chăm
sóc theo dõi sức khỏe gia đình. Các đơn vị này đã chứng 4. Kết luận
tỏ vai trò quan trọng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng,
hỗ trợ hệ thống y tế khi có dịch bệnh bùng phát (JICA, Các diễn tiến trong thời gian qua của dịch bệnh đã
2006). Các đơn vị này sẽ thực hiện các chức năng khám, cho phép rút ra một số nhận xét làm tiền đề cho sự phát
theo dõi bệnh nhân tại nhà, các bệnh nhân sau khi xuất triển của hệ thống y tế Thành phố. Một mô hình phát
viện cần tiếp tục được theo dõi. Việc chăm sóc kịp thời, triển hệ thống y tế đã được đề xuất. Trong mô hình này,
thuận tiện, an toàn là yêu cầu chính của dịch vụ này (NHS ngoài hệ thống các bệnh viện đã có hiện nay, hệ thống
Provider, 2015). Các đơn vị này cũng đảm nhận việc theo y tế sẽ phát triển dịch vụ theo dõi, chăm sóc sức khỏe
dõi sức khỏe cộng đồng, kịp thời nhận diện các thay đổi gia đình. Dịch vụ này sẽ giúp giảm tải cho các bệnh viện,
trong tình trạng sức khỏe người dân và các chỉ dấu cho khám, theo dõi cập nhật liên tục sức khỏe cộng đồng,
sự xuất hiện của dịch bệnh. Các dữ liệu, thông tin này sẽ bệnh nhân tại gia đình và nhanh chóng phát hiện các thay
được báo cáo cho Sở Y tế. Khi có dịch bệnh, các đơn vị này đổi trong sức khỏe cộng đồng, các chỉ dấu của dịch bệnh,
cũng đảm nhận việc truy vết, khoanh vùng dịch với sự hỗ thực hiện công tác khoanh vùng, truy vết và điều trị các
trợ của tình nguyện viên. Một hệ thống tiêu chí đo lường ca bệnh nhẹ. Hệ thống y tế cũng triển khai phối hợp chặt
kết quả thực hiện của dịch vụ này cần được xây dựng để chẽ với các đơn vị có liên quan như trường y dược khoa,
đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt nhất cho người dân (NHS các viện, doanh nghiệp nghiên cứu sản xuất dược phẩm,
Provider, 2015). Với việc triển khai bệnh án điện tử, hồ trang thiết bị y khoa, các doanh nghiệp cung cấp phần
sơ sức khỏe điện tử, bệnh viện thông minh, y tế thông mềm IT… để hỗ trợ hệ thống y tế. Tình nguyện viên y khoa
minh sự phối hợp giữa các bên trong mô hình trên càng là một nguồn nhân lực quan trọng cần được xem như là
được thuận lợi, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho một bộ phận của hệ thống y tế. Các tình nguyện viên cần
người dân sẽ được nâng cao. được đào tạo cơ bản về công tác phòng chống dịch để có
thể tham gia hỗ trợ hệ thống y tế khi có dịch bệnh. Việc
Tình nguyện viên y khoa bao gồm các y bác sĩ điều đầu tư phát triển các chương trình nghiên cứu vaccine,
dưỡng đã nghỉ hưu và các sinh viên y, dược khoa năm dược phẩm, trang thiết bị y khoa… cần được triển khai
cuối. Các tình nguyện viên này có chuyên môn y khoa nên để chủ động nguồn vaccine, dược phẩm, trang thiết bị y
có thể tham gia hỗ trợ tốt công tác tại các bệnh viện cũng khoa… giảm chi phí nhập khẩu.
như các đơn vị dịch vụ theo dõi chăm sóc sức khỏe gia
đình. Các tình nguyện viên cần được đào tạo các chương Với mô hình phát triển hệ thống y tế nêu trên, điều
trình bổ túc tri thức về phòng, chống dịch bệnh, các thách được tin tưởng là người dân sẽ được chăm sóc sức khỏe
thức, hỗ trợ y khoa trong giai đoạn dịch bệnh… (Lorcan toàn diện nhất và hệ thống y tế hoàn toàn đủ khả năng
O’Byrne & ctg.,2020). Các tình nguyện viên không có để phát hiện và nhanh chóng dập dịch trong thời gian
chuyên môn y khoa sẽ hỗ trợ các công tác thu thập dữ sớm nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. JICA (2006), Japanese’s Experience in Public Health and Medical System.


2. McKinsey & Company (2020), Healthcare Systems & Services - The next wave of healthcare innova-
tion: The evolution of ecosystems.
3. Lorcan O’Byrne, Blánaid Gavin, Fiona McNicholas (2020), Medical students and COVID-19: the need
for pandemic preparedness, Journal of Medical Ethics; 46:623–626.
4. Nabil Georges Badr, Luca Carrubbo, Margherita Ruberto (2020), Responding to COVID – 19: Insight
Into Capability Re-Configuration of Healthcare Service Ecosystems? The Use Case of Hospitalization
at Home, Journal of Strategic Innovation and Sustainability Vol. 16(2), p.119 – 130
5. NHS Provider (2015), Community Health Services - A way of life

20 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Hiệu quả của vắc-xin trong việc
chống lại các biến thể của virus SARS-CoV-2
và những câu hỏi liên quan đến việc
tiêm vắc-xin cho bệnh nhân
từng nhiễm COVID-19
Nguyễn Huỳnh Thanh Thảo; Nguyễn Ngọc Thiên Kim
Khoa Công nghệ Sinh học
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM.
PGS. TS Trần Thị Mỹ Hạnh
Khoa Công nghệ Sinh học
Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM.

Hiệu quả của vắc-xin trong việc chống lại các


biến thể của virus SARS-CoV-2

Đột biến gen đã dẫn đến một số biến thể mới của vi-
rus SARS-CoV-2 và những biến thể đáng lo ngại bao gồm
biến thể B.1.1.7 (Alpha), được phát hiện lần đầu ở Vương
quốc Anh; biến thể B.1.351 (Beta), có nguồn gốc ở Nam
Phi; biến thể P.1 (Gamma), có nguồn gốc ở Brazil và biến
thể B.1.617.2 (Delta), được ghi nhận lần đầu tiên ở Ấn Độ.
Các nghiên cứu mới cho thấy rằng các loại vắc-xin hiện Ngoài ra, dữ liệu từ Mạng lưới Nghiên cứu Tiêm chủng
tại có hiệu quả chống lại ít nhất một trong số các biến Canada (CIRN) với sự hỗ trợ từ Cơ quan Y tế Công cộng
thể này, cụ thể là ngăn ngừa các triệu chứng và giảm khả Canada và Viện Nghiên cứu Y tế Canada cho thấy hiệu
năng nhập viện. Các biến thể khác hiện tại có thể kiểm quả của vắc-xin AstraZeneca trong việc chống lại các triệu
soát được gồm: Eta, Iota, Kappa và Lambda (WHO). chứng COVID-19 gây ra bởi biến thể Beta/Gamma, Delta
và Alpha lần lượt là 50%, 70% và 72%. Thêm vào đó, vắc-
Hai nghiên cứu được thẩm định đã phát hiện ra rằng xin AstraZeneca cũng cho thấy hiệu quả cao trong việc
vắc-xin Pfizer cực kỳ hiệu quả trong việc chống lại biến thể ngăn ngừa nhập viện và tử vong gây ra bởi các biến thể
Alpha và Beta. Nghiên cứu đầu tiên, được công bố trên của vi rút SARS-CoV-2, cụ thể là 87% đối với biến thể Del-
NEJM, đã xem xét dữ liệu của hơn 200.000 người ở Qatar ta và 90% đối với biến thể Alpha [5].
từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 3 năm 2021 [1]. Trong thời
gian đó, các biến thể Alpha và Beta là nguyên nhân gây Đối với vắc-xin Moderna, một nghiên cứu được thực
bệnh của gần như tất cả các trường hợp COVID-19 ở quốc hiện tại Qatar trong khoản g thời gian từ cuối tháng 12
gia này. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ở những năm 2020 đến giữa tháng 5 năm 2021 trên 256.037 người
người đã được tiêm chủng hai liều, vắc-xin Pfizer có hiệu cho thấy vắc-xin này có 100% hiệu quả trong việc chống
quả 97,4% trong việc ngăn ngừa biến chứng nặng, nguy lại lây nhiễm COVID-19 do biến thể Alpha gây ra và 95.7%
kịch hoặc tử vong do các biến thể Alpha hoặc Beta gây ra. hiệu quả trong việc ngăn ngừa các biến chứng nghiêm
trọng và tử vong gây ra bởi biến thể Alpha và Beta [6].
Nghiên cứu thứ hai, được công bố trên tạp chí The
Lancet, đã phân tích hơn 200.000 trường hợp nhiễm Một nghiên cứu khác, được công bố trên tạp chí Na-
COVID-19 ở Israel từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 4 năm ture, đã xem xét mẫu máu của những người được tiêm
2021 khi biến thể Alpha chiếm hơn 90% các trường hợp vắc-xin adenovirus của Johnson & Johnson, phát hiện ra
nhiễm bệnh. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng ở những rằng vắc-xin tạo ra phản ứng kháng thể chống lại các biến
người được tiêm chủng đủ hai liều, vắc-xin Pfizer có hiệu thể Beta và Gamma kém mạnh mẽ hơn so với phản ứng
quả gần 97% hoặc hơn trong việc ngăn ngừa các biến với virus SARS-CoV-2 ban đầu. Tuy nhiên, phản ứng miễn
chứng nặng, các trường hợp nhập viện, nguy kịch hoặc tử dịch của các tế bào lympho T vẫn được duy trì, đặc biệt là
vong liên quan đến COVID-19 [2]. các loại tế bào T giúp ngăn chặn virus lây lan trong cơ thể.
Phản ứng miễn dịch này sẽ bảo vệ người bệnh khỏi các
Nghiên cứu mới cũng đã phát hiện ra vắc-xin Pfizer có triệu chứng nghiêm trọng [7]. Johnson & Johnson cũng
hiệu quả chống lại biến thể Delta, hiện là biến thể chiếm công bố dữ liệu từ một nghiên cứu nhỏ, trong phòng
đa số ở Mỹ. Một nghiên cứu từ Tổ chức Y tế Cộng đồng thí nghiệm và chưa được xuất bản cho thấy có phản ứng
Anh cho thấy tiêm chủng đầy đủ vắc-xin Pfizer có hiệu kháng thể trung hòa mạnh mẽ chống lại biến thể Delta ở
quả 88% trong việc chống lại các triệu chứng do biến thể những người đã tiêm một mũi vắc-xin J&J và phản ứng
Delta gây ra và 96% hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhập này đã được duy trì trong ít nhất tám tháng.
viện do biến thể Delta [3]. Trong khi đó, một nghiên cứu
về độ hiệu quả của vắc-xin AstraZeneca được tiến hành Một nghiên cứu được công bố vào tháng 7 đã kiểm
trên 14.019 trường hợp mắc COVID-19 do biến thể Delta tra các kháng thể trong máu của những người được tiêm
tại Anh từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6 năm 2021 cho vắc-xin Sputnik V để xem nó hoạt động như thế nào đối
thấy hiệu quả chống lại các triệu chứng và nhập viện gây với các biến thể Alpha, Beta, Gamma và Delta. Kết quả cho
ra bởi biến thể Delta của vắc-xin AstraZeneca lần lượt là thấy các kháng thể có sự suy giảm khả năng chống lại các
67% và 92% [4]. biến thể của vi rút SARS-CoV-2 [8]. Hiện vẫn chưa rõ việc

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 21
này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả của vắc-xin COVID-19 và được điều trị bằng liệu pháp kháng thể, bạn
đối với việc ngăn ngừa nhập viện và tử vong, vì thế vẫn cần đợi 90 ngày trước khi tiêm liều thứ hai.
cần những dữ liệu thực tế được công bố về vấn đề này.
Có nên tiêm vắc-xin nếu trước đó bạn từng
Kết quả của những nghiên cứu trên cho thấy ở thời nhiễm COVID-19 và đã hồi phục?
điểm hiện tại, vắc-xin Moderna và Pfizer có hiệu quả cao
nhất trong việc chống lại các triệu chứng và nguy cơ nhập Nghiên cứu mới cho thấy rằng những người đã mắc
viện gây ra bởi các biến thể nguy hiểm của virus SARS- COVID-19 vẫn sẽ có được sự bảo vệ từ vắc-xin, thậm chí
CoV-2. AstraZeneca cũng cực kỳ hiệu quả trong việc ngăn có thể nhiều hơn những người đã tiêm vắc-xin nhưng
ngừa COVID-19 ngay cả khi hiệu quả chống lại một số chưa từng bị nhiễm bệnh trước đó. Một nghiên cứu được
biến chủng có thể giảm, thì vắc-xin này vẫn sẽ cung cấp công bố trên NEJM cho thấy rằng những người trước đây
sự bảo vệ tuyệt vời chống lại biến chứng nặng. đã bị nhiễm SARS-CoV-2 và sau đó được tiêm một liều
vắc-xin mRNA (Pfizer hoặc Moderna) đã có phản ứng
Mắc COVID-19 trong khoảng thời gian giữa hai miễn dịch nhanh chóng và tạo ra số lượng kháng thể
liều vắc-xin? ngang bằng hoặc nhiều hơn những người chưa bị nhiễm
trước đây đã được tiêm hai liều vắc-xin [10]. Một nghiên
Nếu bạn mới chỉ tiêm một liều trong hai liều vắc-xin cứu được công bố trên Science đã so sánh tác dụng của
COVID-19 (Pfizer hoặc Moderna), điều quan trọng cần vắc-xin Pfizer giữa những người đã từng và chưa bị nhiễm
nhớ là bạn chưa được bảo vệ đầy đủ nhất có thể trước COVID-19 trước đó phát hiện ra rằng những người bị
COVID-19. Vì vậy, có khả năng bạn sẽ mắc COVID-19 sau nhiễm trước đây sau khi được tiêm phòng có phản ứng
khi tiêm liều đầu tiên mặc dù dữ liệu từ Trung tâm Kiểm miễn dịch chống lại các biến thể B.1.1.7 và B.1.351 mạnh
soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) cho thấy khả năng hơn so với những người chưa bị nhiễm [11]. Vì vậy, kết
xảy ra là dưới 2% [9]. luận rút ra là những người từng bị nhiễm COVID-19 vẫn
nên tiêm vắc-xin, tuy nhiên số liều tiêm của từng loại vắc-
William Moss, Giám đốc điều hành của Trung tâm xin cần được nghiên cứu thêm để đảm bảo tối đa độ hiệu
Tiếp cận vắc-xin Quốc tế tại Trường Y tế Công cộng Johns quả và tránh lãng phí.
Hopkins Bloomberg, Maryland, cho biết.“Liều vắc-xin đầu
tiên sẽ bảo vệ bạn khỏi COVID-19 ở một mức độ thấp Người bệnh cần hồi phục hoàn toàn trước khi tiêm
hơn so với khi tiêm đầy đủ hai liều. Cụ thể là nếu bạn vắc-xin. Đối với các bệnh nhân COVID-19 được điều trị
mắc COVID-19 sau khi tiêm liều 1, triệu chứng sẽ nhẹ hơn bằng kháng thể đơn dòng hoặc huyết tương của người
người chưa tiêm vắc-xin và nguy cơ mắc bệnh nặng thấp từng mắc COVID-19, nên đợi 90 ngày trước khi tiêm vắc-
hơn”. xin. Hãy hỏi bác sĩ nếu bạn không chắc mình đã nhận
được phương pháp điều trị nào hoặc nếu bạn có thêm
Nếu bị mắc COVID-19 sau khi tiêm liều vắc-xin câu hỏi về vắc-xin phòng ngừa COVID-19.
đầu tiên thì có cần tiêm liều thứ hai không? Nếu
có thì nên tiêm lúc nào? Nếu bạn hoặc con bạn có tiền sử mắc hội chứng viêm
đa hệ (MIS-A hoặc MIS-C), hãy cân nhắc việc trì hoãn tiêm
Mắc COVID-19 giữa các liều không có nghĩa là bạn chủng cho đến khi bạn hoặc con bạn khỏi bệnh hoàn toàn
cần phải bắt đầu tiêm lại từ đầu hoặc bỏ hoàn toàn liều và trong 90 ngày sau ngày chẩn đoán MIS -A hoặc MIS-C.
thứ hai. Inci Yildirim, bác sĩ tiêm chủng và chuyên gia về
bệnh truyền nhiễm trẻ em tại Yale Medicine, Connecticut, Có cần thiết phải tiêm hai liều cho những người
cho biết “Dữ liệu có sẵn từ các thử nghiệm lâm sàng cho đã từng mắc COVID-19?
thấy những người bị nhiễm SARS-CoV-2 có thể tiêm vắc-
xin COVID-19 một cách an toàn. CDC khuyến cáo hoãn Một số quốc gia như Pháp, Đức và Ý hiện chỉ tư vấn
tiêm chủng cho đến khi bệnh nhân hồi phục hoàn toàn và một liều vắc-xin cho những người có hệ miễn dịch khỏe
đã hoàn thành thời gian cách ly”. mạnh và đã được xác nhận từng mắc COVID-19. Nhiều
nhà khoa học đã nghiên cứu các phản ứng miễn dịch sau
Hiện vẫn chưa có nghiên cứu đầy đủ về khả năng miễn tiêm chủng cho biết những chính sách như vậy là cách
dịch của cơ thể sau khi lây nhiễm tự nhiên, vì thế sau khi hợp lý để tận dụng tối đa nguồn cung hạn chế ở các quốc
hồi phục, bạn vẫn cần tiêm mũi vắc-xin thứ hai. Dưới đây gia đang chạy đua để tiêm chủng cho toàn bộ dân số.
là những điều bạn cần biết về việc lên lịch cho liều thứ hai:
Jordi Ochando, một nhà miễn dịch học tại Trường
• Điều quan trọng là bạn phải cách ly trong 14 ngày Y Icahn ở Mount Sinai, thành phố New York, người đã
sau lần tiếp xúc gần nhất với người mắc COVID-19 và bạn tư vấn cho chính phủ Tây Ban Nha về hướng dẫn tiêm
cần hồi phục hoàn toàn trước khi tiêm mũi thứ hai. chủng cho biết: “Việc thực hiện tiêm chủng hai liều cho
những người đã bị nhiễm bệnh trước đó là không hợp lý
• Đối với vắc-xin Pfizer và Moderna, lên lịch mũi tiêm trong khi có hàng triệu người đang chờ đợi liều đầu tiên
thứ hai không muộn hơn sáu tuần sau ngày tiêm mũi đầu của họ”. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa biết liệu các
tiên. Không có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của vắc-xin chương trình tiêm một liều dành cho những người đã bị
nếu liều thứ hai được tiêm ngoài sáu tuần được khuyến nhiễm bệnh trước đây có thể khiến một số cá nhân được
nghị, vì vậy tốt nhất là bạn nên duy trì trong khung thời bảo vệ dưới mức tối ưu hay không. Cũng không có gì rõ
gian đó. ràng rằng các chương trình như vậy sẽ có hiệu quả đối với
tất cả các loại vắc-xin.
Tuy nhiên, có một lưu ý đối với quy tắc này. Nếu bạn
được điều trị bằng kháng thể đơn dòng hoặc huyết tương Một bài báo được xuất bản trên tạp chí Nature vào
của người từng mắc COVID-19, bạn nên đợi 90 ngày để ngày 14 tháng 6 cung cấp một số bằng chứng cho thấy
được tiêm phòng. Đây là một biện pháp phòng ngừa do một lần tiêm có thể là đủ cho những người đã từng mắc
CDC đặt ra vì không có nghiên cứu đầy đủ về các tương COVID-19. Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học
tác tiềm ẩn của liệu pháp kháng thể với đáp ứng miễn Rockefeller ở Thành phố New York và các nơi khác đã thực
dịch từ vắc-xin. Nếu bạn đã tiêm liều đầu tiên và bạn mắc hiện nghiên cứu trên 26 người từng mắc COVID-19 và sau

22 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
đó được tiêm ít nhất một liều vắc-xin Pfizer hoặc Mod- Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng một
erna. Các nhà nghiên cứu đã phân tích mức độ ‘kháng số người bị nhiễm SARS-CoV-2 có phản ứng miễn dịch
thể trung hòa’- các phân tử miễn dịch mạnh có thể ngăn tương đối yếu, đặc biệt là những người không biểu hiện
chặn virus xâm nhập vào tế bào người tham gia. Hiện tại, các triệu chứng COVID-19. Do số lượng đa dạng về các
số lượng và sức sống của các kháng thể trung hòa của dòng kháng thể được sản xuất trong cơ thể những người
một người là dấu hiệu tốt nhất để đánh giá liệu người đó này, xét nghiệm PCR có thể khiến họ bị bỏ lỡ. Đây là lúc
có được bảo vệ khỏi bệnh tật hay không - mặc dù điều mà xét nghiệm kháng thể có thể hữu ích. “Từ lâu, khám
này vẫn còn đang được xác minh. Thêm vào đó, nhóm sàng lọc kháng thể đối với virus viêm gan B đã được thực
nghiên cứu cũng đánh giá mức độ MBC - Tế bào ghi nhớ hiện thường xuyên ở một số cơ sở để hướng dẫn các
lympho B của những người tham gia, tế bào sẽ ghi nhớ chiến lược tiêm chủng chống lại tác nhân lây nhiễm này và
các tác nhân gây bệnh và nhanh chóng tạo ra các kháng điều tương tự cũng có thể được thực hiện với các kháng
thể nhắm vào mục tiêu nếu gặp phải tác nhân lây bệnh thể của protein gai của SARS-CoV-2”, Viviana Simon, một
đã nhìn thấy trước đây. Trong vòng một hoặc hai tháng chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Mount Sinai cho biết.
kể từ khi tiêm chủng, mức độ tế bào ghi nhớ lympho B
trung bình của những người tham gia nghiên cứu đã tăng Vì vậy, kết luận rút ra là ở các nước mà nguồn cung
gần 10 lần và mức kháng thể trung hòa của họ đã tăng vắc-xin đang thiếu hụt thì chiến lược tiêm một liều (đối
lên khoảng 50 lần bất kể việc họ đã tiêm một hay hai với vắc-xin Pfizer, Moderna và AstraZeneca) cho các bệnh
mũi vắc-xin [12]. Nghiên cứu của Hatziioannou và cộng nhân đã từng nhiễm COVID-19 trước đó có thể được
sự cho thấy rằng sau 12 tháng nhiễm bệnh, các tế bào B cân nhắc nhằm tạo được miễn dịch cộng đồng một cách
nhớ của họ đã tiếp tục tiến hóa, giúp chúng có thể tạo ra nhanh chóng, hiệu quả và kinh tế.
các kháng thể thậm chí còn mạnh hơn và linh hoạt hơn
so với những kháng thể mà chúng tạo ra ngay sau khi bị Lời kết
nhiễm bệnh.
Dựa trên các số liệu thực tế thì các loại vắc-xin Pfizer,
Các nghiên cứu khác cũng đi đến kết luận tương tự và Moderna và AstraZeneca đều có hiệu quả cao trong việc
một số nghiên cứu còn chỉ ra rằng một mũi tiêm có thể ngăn ngừa biến chứng nặng, nguy kịch hoặc tử vong do
thúc đẩy sự phát triển của các kháng thể và các tế bào các biến thể Alpha, Beta và Delta gây ra. Tuy nhiên, việc
T có khả năng tiêu diệt các tế bào bị nhiễm mầm bệnh quyết định xem cần tiêm bao nhiêu liều để duy trì miễn
[13],[14]. John Wherry, một nhà miễn dịch học tại Trường dịch cần phải nghiên cứu sâu hơn và không chỉ dựa vào
Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania ở Philadelphia, miễn dịch tức thời (acute immune response) mà nên dựa
cho biết: “Đối với những người đã khỏi bệnh, mũi tiêm vào miễn dịch dài hạn (long lasting immunity) là loại miễn
thứ hai dường như không đem lại nhiều hiệu quả”. dịch mà cơ thể cần thời gian dài, ít nhất từ 12 tháng trở đi
mới tạo ra được.
Và mặc dù hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này cho
đến nay đều tập trung vào vắc-xin mRNA, nhưng bằng Khi số người bị nhiễm COVID-19 ngày càng nhiều,
chứng sơ bộ từ các nghiên cứu được thực hiện ở Vương không chỉ ở Việt nam và trên thế giới. Thì kế hoạch tiêm
quốc Anh và Ấn Độ cho thấy rằng các chiến lược liều đơn phòng cho những người này cũng rất quan trọng để đảm
có thể thành công cả với vắc-xin AstraZeneca, vắc-xin sử bảo an toàn cho họ và cộng đồng. Dựa vào số liệu điều
dụng một loại adenovirus để kích thích phản ứng miễn tra, thì những người đã nhiễm COVID-19 nên tiêm ít nhất
dịch chống lại SARS-CoV-2 [15],[16]. 1 liều vắc-xin.

Một nghiên cứu cho thấy rằng sau khi tiêm một liều Cũng cần lưu ý là các loại vắc-xin trong bài không tạo
AstraZeneca cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe thì ra ra miễn dịch ở các mô nhầy như ở mũi và họng, vì vậy
những người đã từng mắc COVID-19 có phản ứng miễn những người đã tiêm phòng vẫn có thể mắc COVID-19
dịch mạnh hơn nhiều so với các đồng nghiệp chưa từng và truyền virus cho người khác, đặc biệt là với các biến
nhiễm bệnh [15]. Kết quả của những nghiên cứu trên ủng chủng như Delta. Do đó, cho tới khi miễn dịch cộng đồng
hộ chiến lược tiêm phòng một liều cho những cá thể đã đạt được thì vẫn cần các biện pháp phòng tránh khác như
bị nhiễm bệnh trước đó để tăng mức độ bao phủ và bảo đeo khẩu trang và giữ khoảng cách bất kể bạn đã tiêm
vệ một số lượng lớn hơn các quần thể. phòng hay chưa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Delgado, C. D. (2021, April). What Happens If I Get COVID-19 Between Vắc-xin Doses? Verywell Health. https://www.very-
wellhealth.com/getting-COVID-19-between-vắc-xin-doses-5176653
2. Harvard Medical School. (2021, July 29). COVID-19 . Harvard Health Publishing. https://www.health.harvard.edu/COVID-19/
COVID-19-vắc-xins
3. Frequently Asked Questions about COVID-19 Vaccination. (2021, June 15). Centers for Disease Control and Prevention.
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/vắc-xins/faq.html
4. Nature Editorial. (2021, June 25). Is one vaccine dose enough if you’ve had COVID? What the science says. Nature. https://
www.nature.com/articles/d41586-021-01609-4?fbclid=IwAR0ItJsh-I_CDBBVj0j3PsICX9GiruOeeZADKIMvv4K0vSACvwOM-
QSAVKuE&error=cookies_not_supported&code=b6361160-b26a-448a-afb6-414a4c0e8b2d
5. Harvard Health. (2021b, July 29). COVID-19 vaccine. https://www.health.harvard.edu/COVID-19/COVID-19-vắc-xins
6. Steain, M., & Triccas, J. (2021, July 28). Growing evidence suggests Russia’s Sputnik V COVID vaccine is safe and very effective.
But questions about the data remain. The Conversation. https://theconversation.com/growing-evidence-suggests-russias-
sputnik-v-covid-vắc-xin-is-safe-and-very-effective-but-questions-about-the-data-remain-164392
7. Juno, J. J. (2021, May 11). Mounting evidence suggests COVID vaccine do reduce transmission. How does this work? Gavi, the
Vắc-xin Alliance. https://www.gavi.org/vắc-xinswork/mounting-evidence-suggests-covid-vắc-xins-do-reduce-transmis-
sion-how-does-work
COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 23
NHỮNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG BÀI VIẾT:

[1] Abu-Raddad, L. J., Chemaitelly, H., & Butt, A. A. (2021). Effectiveness of the BNT162b2 COVID-19 Vaccine
against the B. 1.1. 7 and B. 1.351 Variants. New England Journal of Medicine.
[2] Haas, E. J., Angulo, F. J., McLaughlin, J. M., Anis, E., Singer, S. R., Khan, F., ... & Alroy-Preis, S. (2021). Impact and
effectiveness of mRNA BNT162b2 vaccine against SARS-CoV-2 infections and COVID-19 cases, hospitalisa-
tions, and deaths following a nationwide vaccination campaign in Israel: an observational study using national
surveillance data. The Lancet, 397(10287), 1819-1829.
[3] Lopez Bernal, J., Andrews, N., Gower, C., Gallagher, E., Simmons, R., Thelwall, S., ... & Ramsay, M. (2021). Effec-
tiveness of COVID-19 vaccines against the B. 1.617. 2 (Delta) variant. New England Journal of Medicine.
[4] J.S. (2021, June 14). Effectiveness of COVID-19 vaccines against hospital admission with the Delta (B.1.617.2)
variant. Public Health England. https://khub.net/web/phe-national/public-library/-/document_library/v2Ws-
RK3ZlEig/view_file/479607329?_com_liferay_document_library_web_portlet_DLPortlet_INSTANCE_v2WsRK-
3ZlEig_redirect=https://khub.net:443/web/phe-national/public-library/-/document_library/v2WsRK3ZlEig/
view/479607266
[5] Nasreen S, (2021) Effectiveness of COVID-19 vaccines against variants of concern in Ontario, Canada. MedRxiv
Online: https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.06.28.21259420v2
[6] Chemaitelly, H., Yassine, H. M., Benslimane, F. M., Al Khatib, H. A., Tang, P., Hasan, M. R., ... & Abu-Raddad, L.
J. (2021). mRNA-1273 COVID-19 vaccine effectiveness against the B. 1.1. 7 and B. 1.351 variants and severe
COVID-19 disease in Qatar. Nature medicine, 1-8.
[7] Alter, G., Yu, J., Liu, J., Chandrashekar, A., Borducchi, E. N., Tostanoski, L. H., ... & Barouch, D. H. (2021). Immuno-
genicity of Ad26. COV2. S vaccine against SARS-CoV-2 variants in humans. Nature, 1-5.
[8] Gushchin, V. A., Dolzhikova, I. V., Shchetinin, A. M., Odintsova, A. S., Siniavin, A. E., Nikiforova, M. A., ... & Gints-
burg, A. L. (2021). Neutralizing activity of sera from Sputnik V-vaccinated people against variants of concern
(VOC: B. 1.1. 7, B. 1.351, P. 1, B. 1.617. 2, B. 1.617. 3) and Moscow endemic SARS-CoV-2 variants. Vaccines, 9(7),
779.
[9] Thompson, M. G., Burgess, J. L., Naleway, A. L., Tyner, H. L., Yoon, S. K., Meece, J., ... & Gaglani, M. (2021). Interim
estimates of vaccine effectiveness of BNT162b2 and mRNA-1273 COVID-19 vaccines in preventing SARS-
CoV-2 infection among health care personnel, first responders, and other essential and frontline workers—
eight US locations, December 2020–March 2021. Morbidity and Mortality Weekly Report, 70(13), 495.
[10] Anichini, G., Terrosi, C., Gandolfo, C., Gori Savellini, G., Fabrizi, S., Miceli, G. B., & Cusi, M. G. (2021). SARS-
CoV-2 antibody response in persons with past natural infection. New England Journal of Medicine.
[11] Reynolds, C. J., Pade, C., Gibbons, J. M., Butler, D. K., Otter, A. D., Menacho, K., ... & Boyton, R. (2021). Prior
SARS-CoV-2 infection rescues B and T cell responses to variants after first vaccine dose. Science.
[12] Wang, Z., Muecksch, F., Schaefer-Babajew, D., Finkin, S., Viant, C., Gaebler, C., ... & Nussenzweig, M. C. (2021).
Naturally enhanced neutralizing breadth against SARS-CoV-2 one year after infection. Nature, 595(7867),
426-431.
[13] Camara, C., Lozano-Ojalvo, D., Lopez-Granados, E., Paz-Artal, E., Pion, M., Correa-Rocha, R., ... & Ochando,
J. (2021). Differential effects of the second SARS-CoV-2 mRNA vaccine dose on T cell immunity in naïve and
COVID-19 recovered individuals. bioRxiv.
[14] Mazzoni, A., Di Lauria, N., Maggi, L., Salvati, L., Vanni, A., Capone, M., ... & Annunziato, F. (2021). First-dose
mRNA vaccination is sufficient to reactivate immunological memory to SARS-CoV-2 in subjects who have
recovered from COVID-19. The Journal of Clinical Investigation, 131(12).
[15] Sasikala, M., Shashidhar, J., Deepika, G., Ravikanth, V., Krishna, V. V., Sadhana, Y., ... & Reddy, D. N. (2021).
Immunological memory and neutralizing activity to a single dose of COVID-19 vaccine in previously infected
individuals. International Journal of Infectious Diseases, 108, 183-186.
[16] Frieman, M., Harris, A. D., Herati, R. S., Krammer, F., Mantovani, A., Rescigno, M., ... & Simon, V. (2021). SARS-
CoV-2 vaccines for all but a single dose for COVID-19 survivors. EBioMedicine, 68.

24 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
1. Mở đầu

Cuộc chiến chống lại dịch bệnh viêm đường hô


hấp cấp Covid-19 do vi rút SARS-CoV-2 gây ra đã
NHỮNG
NHỮNG ĐIỀU
ĐIỀU CẦN
CẦN BIẾT
BIẾT chứng kiến sự phát triển vắc xin nhanh kỷ lục, với
112 ứng viên vắc xin Covid-19 đang được thử ng-
VỀ
VỀ CÁC
CÁC LOẠI
LOẠI VẮC
VẮC XIN
XIN hiệm lâm sàng và 183 ứng viên đang trong giai đoạn
PHÒNG
PHÒNG COVID-19
COVID-19 phát triển tiền lâm sàng trên toàn thế giới. Tính tới
thời điểm hiện tại, đã có nhiều đơn vị công bố sản
ĐƯỢC
ĐƯỢC WHO
WHO CẤP
CẤP PHÉP
PHÉP xuất vắc xin ngừa vi rút thành công, trong số đó đã
có 8 vắc xin được tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liệt
SỬ
SỬ DỤNG
DỤNG TRÊN
TRÊN THẾ
THẾ GIỚI
GIỚI kê vào danh sách sử dụng khẩn cấp và 13 vắc xin

VÀ TẠI
TẠI VIỆT
VIỆT NAM
NAM đang trong quá trình xem xét. Mỗi loại vắc xin có
những cơ chế, tính chất hoạt động khác nhau, do
vậy cũng có những ưu nhược điểm khác nhau. Dù
có nhiều loại vắc xin nhưng nhìn chung chúng đều
Lê Cát Anh,
được tạo ra trên cơ sở 3 cách tiếp cận sau: 1) Dùng
Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG-HCM
toàn bộ mầm bệnh; 2) Dùng một phần của mầm
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hoài,
bệnh kích hoạt hệ thống miễn dịch; 3) Chỉ dùng
Nhóm nghiên cứu Vi sinh y học,
vật liệu di truyền để tạo ra các protein đặc hiệu cho
Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG-HCM
mầm bệnh (Hình 1). Bài viết này sẽ giới thiệu kiến
thức cơ sở, phân tích ưu nhược của các cách tiếp cận
và đưa ra đặc điểm riêng của các loại vắc xin phòng
Covid-19, đặc biệt là những loại đã được cấp phép
cho tới tháng 8/2021.

Hình 1. Ba con đường tiếp cận chính của vắc xin Covid-19.
(Nguồn hình: chỉnh sửa từ https://www.mdpi.com/2076-393X/9/6/588/htm)

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 25
2. Cơ sở và ưu nhược điểm của các cách tiếp axit nucleic. Vắc xin axit nucleic phòng Covid-19 chỉ sử
cận chính tạo vắc xin Covid-19 dụng một phần vật chất di truyền có thể là ARN hoặc
ADN mang thông tin di truyền của SARS-CoV-2, cung cấp
2.1. Sử dụng toàn bộ vi rút thông tin cho tế bào chúng ta tạo ra protein của SARS-
CoV-2. Protein này sau khi được tạo ra sẽ được tế bào xử
Với vắc xin phòng Covid-19, hiện nay cách tiếp cận lý, trình diện kháng nguyên và qua đó kích thích hệ miễn
dùng vi rút toàn phần được thực hiện chủ yếu theo hướng dịch, tạo miễn dịch bảo vệ chống lại SARS-CoV-2. Về ưu
tạo vắc xin bất hoạt chứa vi rút (SARS-CoV-2) mà vật chất điểm, vắc xin axit nucleic không cần vi rút sống, tạo đáp
di truyền của chúng đã bị phá hủy bởi nhiệt, hóa chất ứng miễn dịch hiệu quả bao gồm cả miễn dịch dịch thể
hoặc bức xạ, do đó không thể lây nhiễm và tái tạo tế bào, và trung gian tế bào; phát triển và sản xuất nhanh chóng,
nhưng vẫn có thể kích hoạt phản ứng miễn dịch. Ưu điểm đồng thời dễ dàng phát triển nhanh công nghệ áp dụng
của loại vắc xin này là không chứa mầm bệnh sống dẫn cho các biến thể hoặc vi rút khác. Bên cạnh đó, nhược
đến không gây nguy cơ nhiễm bệnh do vắc xin; có khả điểm của loại vắc xin này là mARN dễ bị phân hủy, kém
năng tạo ra đáp ứng kháng thể cao; dễ bảo quản và sản bền, cần bảo quản ở điều kiện lạnh sâu, gây trở ngại vận
xuất tương đối đơn giản, ổn định. Tuy nhiên, vắc xin bất chuyển và lưu trữ; cần tiêm tăng cường miễn dịch (tiêm
hoạt có nhược điểm là chậm kích thích miễn dịch; đáp nhiều lần); có thể có tính sinh miễn dịch bảo vệ thấp; và
ứng miễn dịch tồn tại ngắn hơn so với vắc xin sống giảm tạo ra kháng thể chống lại axit nucleic.
độc lực; khả năng tạo miễn dịch tế bào hạn chế thậm chí
không có; có nguy cơ phát triển sinh vật gây bệnh do 3. Các loại vắc xin Covid-19 được WHO cấp
phải nuôi cấy các vi rút trước khi bất hoạt; có nguy cơ phép sử dụng khẩn cấp hiện nay
vi rút không được bất hoạt hoàn toàn, dẫn tới khả năng
gây bệnh; thường yêu cầu dùng tá dược bổ sung (phèn
chua, nhũ tương); và vì là hỗn hợp kháng nguyên, dẫn tới 3.1 Vắc xin toàn phần bất hoạt
đáp ứng miễn dịch tạo ra không tập trung vào các kháng - Vắc xin Sinopharm/BIBP (BBIBP-CorV, SARS-CoV-2
nguyên có khả năng thực sự tạo ra miễn dịch bảo vệ. Vaccine (Vero Cell), Inactivated (lnCoV)) được nghiên cứu
và sản xuất bởi Viện Nghiên cứu Sinh phẩm Bắc Kinh
2.2. Sử dụng một phần của vi rút thuộc Sinopharm, Trung Quốc,
Với cách tiếp cận dùng một phần của vi rút, vắc xin - Vắc xin Sinovac (Sinovac-CoronaVac, Covid-19 Vac-
phòng Covid-19 hiện có hai loại là vắc xin tiểu đơn vị và cine (Vero Cell), Inactivated/ CoronavacTM) được phát
vắc xin vector. triển bởi Sinovac, Tập đoàn Dược phẩm, Trung Quốc.
2.2.1. Vắc xin tiểu đơn vị: Vắc xin này chứa các mảnh - Có hai loại vắc xin bất hoạt phòng Covid-19 khác
(protein) vô hại của vi rút SARS-CoV-2 thay vì toàn bộ đang trong quá trình xem xét là 1) Sinopharm/WIBP
mầm bệnh. Sau khi được tiêm chủng, protein của SARS- (WIBP-CorV, Inactivated SARS-CoV-2 Vaccine (Vero Cell));
CoV-2 vào cơ thể và với bản chất ngoại lai sẽ kích thích hệ 2) IMBCAMS (Institute of Medical Biology Chinese Acade-
miễn dịch, tạo miễn dịch bảo vệ chống lại những protein my of Medical Sciences, SARS-CoV-2 Vaccine, Inactivated
này, qua đó chống lại SARS-CoV-2 nếu cơ thể gặp vi rút (Vero Cell)).
này trong tương lai. Vắc xin tiểu đơn vị protein có ưu điểm
là được tạo ra bởi các mảnh không có khả năng gây bệnh 3.2 Vắc xin vector
nên rất an toàn; có thể sử dụng cho bệnh nhân suy giảm - Vắc xin AstraZeneca (Covid-19 Vaccine (ChAdOx1-S
chức năng miễn dịch; có khả năng chịu được các điều kiện ([recombinant]) do đại học Oxford và hãng dược Astra-
thay đổi như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm. Nhược điểm của Zeneca (Anh) phát triển được ủy quyền và sản xuất trong
loại vắc xin này là khả năng sinh miễn dịch thường kém đó được thương mại ở châu Âu là Vaxzevria/AZD1222 (EU
hơn so với vắc xin giảm độc lực; cần tiêm nhiều liều (liều Nodes-AstraZeneca/Oxford Covid-19 vaccine), ở Ấn độ là
tăng cường) để duy trì khả năng miễn dịch lâu dài; vài Covishield (Serum Institute of India Covid-19 vaccine) và
trường hợp khó phân lập kháng nguyên có khả năng kích ở Hàn quốc là AstraZeneca/SK BIO Covid-19.
hoạt phản ứng miễn dịch như mong muốn.
- Vắc xin Janssen/Ad26.COV 2.S (Covid-19 Vaccine
2.2.2. Vắc xin vector: Vắc xin vector có chứa một loại vi (Ad26.COV2-S [recombinant]) từ Công ty dược phẩm
rút không gây bệnh trên người, nhưng vật liệu di truyền Janssen của Johnson & Johnson, Mỹ.
của nó đã được chỉnh sửa để mang một phần thông tin di
truyền của SARS-CoV-2, vì vậy, vi rút này được gọi là “vec- 3.3 Vắc xin axit nucleic
tor vi rút”. Sau khi vector vi rút vào trong tế bào của chúng - Vắc xin ARN Pfizer-BioNTech (Tozinameran-Covid-19
ta, vật chất di truyền sẽ cung cấp thông tin cho tế bào tạo mRNA Vaccine COMIRNATY®) do Tập đoàn dược phẩm
protein đặc trưng của SARS-CoV-2. Protein này sẽ được Pfizer, New York (Mỹ) và Công ty công nghệ sinh học Bi-
tế bào xử lý, trình diện kháng nguyên và qua đó kích thích oNTech ở Mainz (Đức) phát triển.
hệ miễn dịch, tạo miễn dịch bảo vệ chống lại SARS-CoV-2.
Loại vắc xin này có ưu điểm là sản xuất đơn giản, dễ dàng - Vắc xin ARN Moderna (mARN-1273) do Công ty
dự trữ; chất lượng ổn định; giá thành không cao; và có thể công nghệ sinh học Moderna, Inc. (Mỹ) phối hợp với Viện
cung cấp qua đường khí dung, đường uống, trong da và Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Mỹ (NIAID) phát
tiêm bắp. Tuy nhiên, nhược điểm của loại vắc xin này là có triển.
thể kém hiệu quả hơn so với vắc xin toàn phần do dùng
vi rút làm vector, đặc biệt nếu cơ thể đã có miễn dịch với Chi tiết các vắc xin phòng Covid-19 được WHO cấp
loại vector này; vật chất di truyền vi rút có khả năng tích phép và xem xét cấp phép được trình bày ở Bảng 1.
hợp vào vật chất di truyền của tế bào, có thể ảnh hưởng
đến các gen kiểm soát sự phát triển của tế bào.

2.3. Sử dụng vật chất di truyền


Cách tiếp cận dùng vật chất di truyền tạo ra vắc xin

26 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Bảng 1: Vắc xin phòng Covid-19 được Tổ chức Y tế Thế giới cấp phép và xem xét cấp phép
(Nguồn: https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/; https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/,
https://www.nytimes.com/interactive/2020/science/coronavirus-vaccine-tracker.html, http://www.
healthdata.org/covid/covid-19-vaccine-efficacy-summary)

Tên Vắc xin


(Nơi sản xuất) Liều tiêm
Hiệu quả bảo vệ và
Giai đoạn thử nghiệm lâm và độ Vị trí
Tên Đặc điểm hiệu quả chống biến
Tên nghiên sàng tuổi tiêm tiêm
thương chủng
cứu chủng
mại
- EUL* (WHO) 31/12/2020
- Anh, Brazil và nhiều nước
châu Âu phê duyệt sử dụng
đầu tiên; - Hiệu quả 91.3%;

- 97 quốc gia phê duyệt và sử - Chống biến chủng:


mARN mã dụng; Alpha: 97% ở Israel,
Pfizer/ Tozinamer- 92% ở Scotland, 93.7%
hóa Gly-
an-Covid-19 - 27 thử nghiệm trên 15 quốc ở Anh, 89% ở Canada; 2 liều tiêm
coprotein
BioNtech mRNA gia; Beta: 85% ở Cana- (cách nhau Tiêm
được gói
Vaccine da; Gamma: 85% ở 21 ngày, bắp
(Đức/ trong hạt
COMIR- - FDA đã đồng ý cấp phép mở Canada; Delta: 79% ở 12 tuổi)
Mỹ) lipid dưới
NATY® rộng độ tuổi tiêm chủng ở độ Scotland, 88% ở Anh,
dạng nano.
tuổi 12-15; 85% ở Canada đối với
- Nghiên cứu kết hợp 2 vắc bệnh nhân có triệu
xin Pfizer và AstraZeneca có chứng.
kết quả khả thi, hiệu quả gấp
6 lần so với 2 mũi AstraZen-
eca.

- Hiệu quả 94.1%;


- EUL (WHO) 30/4/2021; - Chống biến chủng:
Moderna Alpha: 91% ở Can-
mARN mã - 69 quốc gia phê duyệt và sử ada, 100% ở Qatar,
Covid-19 hóa Gly- dụng; Beta: 96.4% ở Qatar
Moderna (mARN- coprotein 2 liều tiêm
Covid-19 1273, đối với bệnh nhân Tiêm
được gói - 25 thử nghiệm trên 6 quốc (cách nhau
Elasomeran, có triệu chứng, kém bắp
trong hạt gia; 28 ngày)
(Mỹ) Spikevax). hiệu quả hơn khi gặp
lipid dưới biến chủng Gamma và
- Được phê duyệt có hiệu
dạng nano.
quả khi mở rộng độ tuổi tiêm Delta nhưng vẫn cung
chủng 12-17. cấp khả năng bảo vệ
đầy đủ và duy trì hiệu
quả cao.

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 27
Bảng 1: Vắc xin phòng Covid-19 được Tổ chức Y tế Thế giới cấp phép và xem xét cấp phép
(Nguồn: https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/; https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/,
https://www.nytimes.com/interactive/2020/science/coronavirus-vaccine-tracker.html, http://www.
healthdata.org/covid/covid-19-vaccine-efficacy-summary)

Tên Vắc xin


(Nơi sản xuất) Liều tiêm
Hiệu quả bảo
Giai đoạn thử nghiệm lâm và độ Vị trí
Tên Đặc điểm vệ và hiệu quả
Tên nghiên sàng tuổi tiêm tiêm
thương chống biến chủng
cứu chủng
mại

Vaxzevria/ AZD1222: EUL


(WHO) 15/2/2021 - Hiệu quả 76%;
Covishield: EUL (WHO) - Chống biến
15/2/2021 chủng: Alpha:
74.6%, 74.5%
AstraZeneca/SK BIO Covid-19: ở Anh, 75% ở
Astra- EUL (WHO) 15/4/2021 Canada, 73% ở
Zeneca Scotland
Vector Adeno- - Anh, Argentina, Ấn Độ, Brazil
Covid-19 2 liều
(Vax- virus ChAdOx1 phê duyệt sử dụng đầu tiên; Beta kém hiệu
zevri-EU, Vaccine quả ở Nam Phi tiêm
của loài tinh - 121 quốc gia phê duyệt và
Covish- (ChA- chỉ với 10.4%, (cách
tinh mang đột sử dụng; Tiêm bắp
ield- Ấn dOx1-S, Gamma đạt nhau
biến Glyco-
Độ, [recombi- 4-12
protein S của - 39 thử nghiệm trên 20 quốc 57.6%, Delta 60%
Astra- nant]) ở Scotland, 67% tuần)
SARS-CoV-2. gia;
Zeneca/ ở Anh đối với
SK BIO) - Một vài quốc gia ngừng tiêm bệnh nhân có
do xuất hiện hiện tượng đông triệu chứng;
máu sau tiêm hiếm gặp;
- Chống nhập
- Đang nghiên cứu loại vắc viện 71% sau mũi
xin mới phù hợp với biến 1 và 92% sau mũi
thể Beta dưới dạng khí dung 2.
(thuốc xịt mũi) tên AZD2816.

28 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Bảng 1: Vắc xin phòng Covid-19 được Tổ chức Y tế Thế giới cấp phép và xem xét cấp phép
(Nguồn: https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/; https://covid-19pharmacovigilance.paho.org/,
https://www.nytimes.com/interactive/2020/science/coronavirus-vaccine-tracker.html, http://www.
healthdata.org/covid/covid-19-vaccine-efficacy-summary)

Tên Vắc xin Liều tiêm


(Nơi sản xuất) Hiệu quả bảo vệ và
Giai đoạn thử nghiệm lâm và độ Vị trí
Đặc điểm hiệu quả chống biến
Tên thương Tên ng- sàng tuổi tiêm tiêm
chủng
mại hiên cứu chủng

- EUL (WHO) 12/3/2021;


- Bahrain, Mỹ, Nam Phi phê
duyệt sử dụng đầu tiên; - Hiệu quả Mỹ 72%,
Vector Brazil 68%, Nam Phi
Janssen/ Adenovirus - 59 quốc gia phê duyệt và sử 64%;
Johnson & 26 mang đột dụng; 1 liều
Ad26.COV biến Glyco- - Chống biến chủng Tiêm
Johnson’s tiêm (18
- 11 thử nghiệm trên 17 quốc Beta 64% ở Nam Phi, bắp
Janssen (Mỹ) 2.S, JNJ- protein S tuổi)
78436735 của SARS- gia; Gamma 68.1% ở Brazil
CoV-2. đối với bệnh nhân có
- Một vài quốc gia ngừng
triệu chứng.
tiêm do xuất hiện hiện tượng
đông máu sau tiêm hiếm
gặp.

- Hiệu quả: Brazil


- EUL (WHO) 1/6/2021; 50.65%, Thổ Nhĩ Kỳ
Chủng vi rút 83.5%;
SARS-CoV-2 - Trung Quốc, Indonesia phê
CZ02 nuôi duyệt sử dụng đầu tiên; - Chống biến chủng: 2 liều
Sino- trong Vero Beta 70%, Gamma tiêm
Sino- - 39 quốc gia phê duyệt và sử
vac-Coro- cells và bị 50.3% ở Brazil đối với (cách Tiêm
vac-Coro- dụng;
naVac (Trung bất hoạt, bệnh nhân có triệu nhau 14- bắp
naVac
Quốc) dùng chung - 19 thử nghiệm trên 7 quốc chứng. 28 ngày,
với tá dược gia; 18 tuổi)
Aluminum - Trường hợp có triệu
hydroxide. - Thiếu số liệu quy mô lớn chứng giảm 80%,
trong thử nghiệm lâm sàng. chống nhập viện 86%
và tử vong 95%.

Chủng vi rút
SARS-CoV-2 - EUL (WHO) 7/5/2021;
BBIBP- 9nCoV-CDC- - Trung Quốc phê duyệt sử
Sino- CorV, Tan-HB02 dụng đầu tiên;
pharm-BBIBP SARS- (HB02) nuôi - Hiệu quả: 78,1%; 2 liều
CoV-2 Vac- trong Vero - 60 quốc gia phê duyệt và sử tiêm Tiêm
(Trung Quốc) cine (Vero cells và bị dụng; - Chưa có dữ liệu về bắp
Cell), In- bất hoạt, các biến chủng. (18 tuổi)
activated dùng chung - 9 thử nghiệm trên 7 quốc
(lnCoV)) với tá dược gia.
Aluminum
hydroxide

*EUL (WHO): WHO Emergency Use Listing: Vaccine được đưa vào danh sách sử dụng khẩn cấp từ WHO

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 29
4. Các loại vắc xin đang được phát triển đoạn 1 tháng 12/2020 và giai đoạn 2 tháng 2/2021, bước
và thử nghiệm, vắc xin được cấp phép vào giai đoạn 3 với thử nghiệm trên 13.000 tình nguyện
sử dụng khẩn cấp tại Việt Nam viên. Với vắc xin Covivac, vắc xin được nghiên cứu bằng
công nghệ vector vi rút, tương tự với công nghệ vắc xin
Đến thời điểm hiện nay (04/8/2021), đã có 6 loại vac- AstraZeneca (Anh) và Janssen/Ad26.COV 2.S (Mỹ) bởi viện
cine đã được Bộ Y tế phê duyệt cấp phép có điều kiện sử IVAC, Việt Nam. Vắc xin này đang trong quá trình thử ng-
dụng tại Việt Nam bao gồm: Vắc xin mARN gồm Pfizer/ hiệm lâm sàng giai đoạn 1 trên 120 tình nguyện viên và
BioNTech và Moderna mARN-1273, vắc xin vector vi rút bước vào đầu giai đoạn 2 dưới sự quản lý của Bộ Y tế.
gồm AstraZeneca, Janssen/Ad26.COV 2.S và Sputnik V và Vắc xin ARCT-154 được sản xuất tại Việt Nam do Công ty
vắc xin vi rút bất hoạt toàn phần là Sinopharm BBIBP- Cổ phần Công nghệ sinh học VinBioCare thuộc Tập đoàn
CorV. Trong đó, Sputnik V (Gam-COVID-Vac) được nghiên VinGroup đàm phán nhận chuyển giao công nghệ từ
cứu và phát triển tại Nga đang trong quá trình xem xét Công ty Arcturus Therapeutics, Inc, Hoa Kỳ. Vắc xin được
cấp phép từ WHO với hiệu quả bảo vệ 91.6% trong thử áp dụng theo công nghệ tiên tiến saRNA, tương tự Pfizer
nghiệm giai đoạn 3. và Moderna (Mỹ). Thử nghiệm được thực hiện lần lượt:
giai đoạn 1 trên 100 người, giai đoạn 2 trên 300 người và
Đồng thời, với sự phát triển nền khoa học, Việt Nam giai đoạn 3 trên 20.600 người, đã được thực hiện tại Mỹ,
cũng đã và đang trong quá trình nghiên cứu và thử ng- Singapore và đang bắt đầu thử nghiệm tại Việt Nam. Giai
hiệm vắc xin như Nanocovax, Covivac và ARCT-154 hứa đoạn 1 thử nghiệm lâm sàng dự kiến sẽ kết thúc trong 40
hẹn mang đến hiệu quả cao trong quá trình thử nghiệm ngày kể từ ngày 15/8.
sắp tới. Nanocovax là vắc xin tiểu đơn vị protein được
sản xuất bởi Công ty Cổ phần công nghệ sinh học dược Chi tiết các vắc xin đang được nghiên cứu và thử
Nanogen. Vắc xin Nanocovax trải qua 2 giai đoạn: giai nghiệm tại Việt nam được trình bày ở bảng 2.

Tên vaccine Nơi sản xuất Đặc điểm Giai đoạn thử nghiệm lâm sàng
- Giai đoạn 1 gồm độ tuổi từ 18-50
được phân vào 3 nhóm mức liều dùng là
25mcg, 50mcg và 75mcg
- Giai đoạn 2 trên 560 người với độ tuổi
mở rộng 18-60 được phần vào 4 nhóm
với 3 mức liều dùng như trên và nhóm
tiêm giả dược (Aluminum hydroxide).
Tiểu đơn vị protein S - Hiệu quả: Cả hai giai đoạn 1 và 2 không
Công ty Cổ phần công nghệ tái tổ hợp gắn trên giá có tác dụng phụ nào nghiêm trọng và có
Nanocovax
sinh học dược Nanogen thể là các hạt nano khả năng kích hoạt các phản ứng kháng
silica. protein S mạnh mẽ. Nồng độ kháng thể
IgG kháng protein S của cả 3 liều vắc xin
tăng và cao nhất ở ngày thứ 42, cho thấy
đáp ứng miễn dịch tốt và mạnh nhất ở
ngày thứ 42.
- Giai đoạn 3 trên 13.000 người, liều
Nanocovax 25mcg đang được đề xuất
nghiên cứu.
- Giai đoạn 1 thực hiện trên 120 người
Protein S tái tổ hợp được đánh giá đảm bảo an toàn, có tính
của vi rút SARS-CoV-2 sinh miễn dịch khả quan.
biểu hiện trên bề mặt
Viện vắc xin và sinh phẩm y tế - Giai đoạn 2 thực hiện trên 375 người,
Covivac vi rút Newcastle (vi rút
IVAC đang trong bước đầu thử nghiệm với 2
gây bệnh gà rù) và bất
hoạt bằng beta propio- độ tuổi 18-59 và trên 60 ở mức liều dùng
lactone. là 3mcg và 6mcg. Dự kiến tháng 11 có kết
quả giữa kỳ thử nghiệm giai đoạn 2.

- Giai đoạn 1 thực hiện trên 100 người;


Sản xuất tại Việt Nam, chuyển - Giai đoạn 2 thực hiện trên 300 người;
giao công nghệ từ Công ty
Arcturus Therapeutics, Inc, - Giai đoạn 3 thực hiện trên 20.600 người
saRNA mã hóa Glyco- trong độ tuổi 18-59, đã qua khám sàng
ARCT-154 Hoa Kỳ, chịu trách nhiệm bởi
protein SARS-CoV-2. lọc không có tiền sử mắc các bệnh từ vi
Công ty Cổ phần Công nghệ
sinh học VinBioCare thuộc Tập rút SARS, MERS hoặc SARS-CoV-2, chưa
đoàn VinGroup. từng tiêm phòng Covid-19, không bệnh
nền, không phải sử dụng bất kỳ loại
thuốc nào thường xuyên.

30 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
5. Kết luận miễn dịch cộng đồng 60-70% trong tương lai. Tại Việt
Nam, từ đầu năm 2021 đến nay, Bộ Y tế đã phê duyệt
Vắc xin giúp bảo vệ cơ thể trước dịch bệnh Covid-19, có điều kiện 6 loại vắc xin cho nhu cầu cấp bách trong
giảm nguy cơ bệnh nặng hoặc tử vong khi mắc bệnh. Để phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Song song đó cho ra
được cấp phép sử dụng, các vắc xin đều phải trải qua 3 đời những nghiên cứu mới và đang bước vào giai đoạn
giai đoạn thử nghiệm lâm sàng với số lượng người tham thử nghiệm lâm sàng ba loại vắc xin gồm Nanocovax (giai
gia thử nghiệm tăng dần theo mỗi giai đoạn, trên nguyên đoạn 3), Covivac (giai đoạn 2) và ARCT-154 (giai đoạn 1).
tắc đảm bảo 3 yếu tố: an toàn, sinh miễn dịch và hiệu quả Đây được xem là bước tiến dài của nền phát triển vắc xin
bảo vệ khi sử dụng trong phòng chống bệnh. Hiện nay, tại Việt Nam trong bối cảnh gia tăng ca bệnh và tỷ lệ tử
trên thế giới đã có hơn 4.91 tỉ liều vắc xin được sử dụng vong cao mỗi ngày gần đây. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa
với hơn 217 quốc gia và đạt 25% dân số toàn cầu được học cảnh báo các nước không nên lơ là cảnh giác trong
tiêm chủng. Theo đó là sự phát triển không ngừng của cuộc chiến với Covid-19, ngay cả khi tỷ lệ dân số tiêm
công nghệ chế tạo vắc xin cho ra đời nhiều ứng viên tiềm chủng ngày càng tăng vì những biến đổi không lường
năng mới. Trước dịch bệnh Covid-19 đầy chuyển biến, đây trước của các biển thể mới.
là những con số đáng mong đợi, hướng đến mục tiêu đạt

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alimoradi, M. (n.d.). COMPARISON OF COVID 19 VACCINES | Mya Care. MYACARE Health and Wellness
Simplified. Retrieved July 20, 2021, from https://myacare.com/blog/comparison-of-covid-19-vac-
cines?fbclid=IwAR2a3MbVtVcZ91WbS_csxHqVba1eUojZ17KHIBWJMIWsb9YEnSVft5dObHg
2. World Health Organization. (2021, 15 July) “Status of COVID-19 Vaccines within WHO EUL/PQ eval-
uation process” Retrieved from https://extranet.who.int/pqweb/sites/default/files/documents/Sta-
tus_COVID_VAX_15July2021.pdf
3. Carl Zimmer, Jonathan Corum and Sui-Lee Wee. Coronavirus Vaccine Tracker [cited 2021, 2 August];
Available from: https://www.nytimes.com/interactive/2020/science/coronavirus-vaccine-tracker.
html
4. Jonathan Corum and Carl Zimmer. How the Oxford-AstraZeneca Vaccine Works [cited 2021,
7 May]; Available from: https://www.nytimes.com/interactive/2020/health/oxford-astrazene-
ca-covid-19-vaccine.html
5. Eva Thorne. Understanding the Covid-19 Variants of Concern. [cited 2021 18 June]; Available from:
https://institute.global/policy/understanding-covid-19-variants-concern
6. Sofia Moutinho. Chinese COVID-19 vaccine maintains protection in variant-plagued Brazil. [cited
2021 9 April]; Available from: https://www.sciencemag.org/news/2021/04/chinese-covid-19-vac-
cine-maintains-protection-variant-plagued-brazil
7. Are Chinese COVID-19 shots effective against the Delta variant? [cited 2021 29 June]; Available
from: https://www.reuters.com/world/china/are-chinese-covid-19-shots-effective-against-delta-
variant-2021-06-29/
8. Pharmaceutical Technology. (2021, 21 August) “Covid-19 Vaccination Tracker” Retrieved from:
https://www.pharmaceutical-technology.com/covid-19-vaccination-tracker/
9. COVID-19 vaccine efficacy summary [cited 2021 9 August]; Available from: http://www.healthdata.
org/covid/covid-19-vaccine-efficacy-summary
10. Vaccine COVIVAC được chấp thuận thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 [cited 2021 9 August]; Avail-
able from: https://laodong.vn/y-te/vaccine-covivac-duoc-chap-thuan-thu-nghiem-lam-sang-giai-
doan-2-939662.ldo
11. Học viện Quân Y, viện Pasteur HCM, Công ty Cổ phần Công nghệ sinh học Dược Nanogen. “Kết quả
thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 và giai đoạn 2 của vắc xin Nanocovax do Công ty Cổ phần Công
nghệ sinh học Dược Nanogen sản xuất (2021)” Retrieved from https://nanogenpharma.com/data/
upload/files/KET%20QUA%20THU%20NGHIEM%20LAM%20SANG%20PHA%201%2C%202%20
CUA%20NANOCOVAX.pdf
12. Bộ Y tế. (2021, 15 August) “Vì sao ARCT-154 là vaccine được chuyển giao công nghệ vẫn phải thử
nghiệm đủ 3 giai đoạn?” Retrieved from: https://ncov.moh.gov.vn/en/-/6847426-6850

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 31
ỨNG DỤNG TIA FAR-UVC (222 nm)
TRONG KHỐNG CHẾ
DỊCH COVID-19
Ở NƠI CÔNG CỘNG

CN. Lê Khánh Thiên, PGS.TS. Trần Văn Hiếu


Bộ môn Công nghệ Sinh học Phân tử và Môi trường; Phòng thí nghiệm Cảm biến Sinh học,
Khoa Sinh học - Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

Tia UV và khả năng diệt khuẩn việc hầu hết các vaccine hiện nay vẫn chưa thể giúp loại
Tia UV (ultraviolet), còn gọi là tia tử ngoại hay tia cực bỏ hoàn toàn khả năng nhiễm bệnh, đặc biệt là đối với
tím, là bức xạ có bước sóng trong khoảng 100-400 nm, biến thể Delta của virus. Vì vậy, việc phát triển các biện
ngắn hơn bước sóng của ánh sáng nhìn thấy và dài hơn pháp bảo vệ hiệu quả hơn ở những nơi công cộng là hết
tia X. Tùy vào độ dài bước sóng mà tia UV được chia làm sức cần thiết trong cuộc chiến chống lại virus.
ba nhóm: UVA (320-400 nm), UVB (280-320 nm), UVC
(100-280 nm) [1]. Trong tự nhiên, nguồn cung cấp tia UV Với khả năng diệt khuẩn mạnh, UVC bắt đầu được kì
lớn nhất là ánh sáng mặt trời với phần lớn là UVA và UVB, vọng để phát triển thành một công cụ để tiêu diệt virus ở
trong khi UVC không đến được mặt đất vì bị cản lại ở tầng nơi đông người. Cụ thể, các thiết bị đèn UVC có thể được
ozone. Tia UV có thể tiêu diệt tế bào sống nhờ khả năng lắp đặt tại các khu vực công cộng như công sở, bệnh viện
làm tổn thương DNA của tế bào thông qua cơ chế xúc để diệt virus có trong không khí giúp hạn chế tối đa nguy
tác quá trình dimer hóa các nucleotide thymine trên DNA cơ lây nhiễm. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất của ứng dụng
[2, 3]. Các tia UV có bước sóng càng ngắn thì năng lượng này là khả năng gây hại của tia UV đối với tế bào cơ thể
càng cao, do đó khả năng tiêu diệt tế bào sống cũng càng người, đặc biệt là tác động ở da và mắt [10, 11]. May mắn
mạnh. Vì vậy trong ba nhóm trên, tia UVC được ứng dụng thay, một số nghiên cứu gần đây đã chứng minh bức xạ
nhiều nhất để diệt khuẩn (trong các bệnh viện, phòng thí far-UVC (tia UVC ở bước sóng 207-222 nm) có khả năng
nghiệm sinh học,…) vì năng lượng của nó là cao nhất nên tiêu diệt mầm bệnh hiệu quả nhưng lại không gây hại cho
có khả năng diệt khuẩn mạnh nhất. Hiện nay, nguồn UVC cơ thể người. Tia far-UVC có độ thâm nhập thấp ở mức
được con người sử dụng đều là nhân tạo từ các thiết bị vài micromet (do bức xạ này bị hấp thụ mạnh bởi protein
đèn UV với bước sóng thường sử dụng khoảng 254 hay và các liên kết disulfide) nên sẽ bị hấp thụ bởi lớp sừng
235 nm. trên cùng chứa các tế bào chết của da hoặc bởi nước mắt
ở mắt, do đó sẽ không ảnh hưởng đến các tế bào và mô
Bức xạ far-UVC và khả năng ức chế xâm nhiễm bên dưới [12].
của coronavirus
Các nghiên cứu gần đây trên thế giới đã chứng minh
Từ cuối năm 2019, virus SARS-CoV-2 lần đầu xuất được hiệu quả của tia far-UVC trong việc bất hoạt khả
hiện tại Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó nhanh chóng lan năng xâm nhiễm của các chủng coronavirus ở người. Cụ
rộng sang nhiều nước tạo thành đại dịch COVID-19 trên thể, nghiên cứu của Buonanno và cộng sự (2020) [13] đã
toàn cầu. Tính đến hiện tại, trên thế giới đã có hơn 200 cho thấy tia far-UVC 222 nm ở năng lượng 0,56 và 0,39
triệu ca mắc SARS-CoV-2, trong số đó có 4,3 triệu ca tử mJ/cm2 bất hoạt 90% khả năng xâm nhiễm nguyên bào
vong [4]. Ở Việt Nam, cả nước ghi nhận hơn 350.000 ca sợi phổi của lần lượt các chủng alpha HCoV-229E và beta
nhiễm trong đó có hơn 8.600 ca tử vong và hơn 8.000 HCoV-OC43. Kết quả thể hiện sự giảm dần tỷ số plaque
ca nhiễm mới mỗi ngày tính từ 15/8/2021 đến nay [5]. forming unit (PFU) (chỉ thị khả năng virus xâm nhập và
Virus SARS-CoV-2 nguy hiểm với khả năng lây lan nhanh tăng trưởng được trong tế bào) giữa virus được chiếu xạ
qua đường hô hấp từ hơi thở và giọt bắn khi ho hoặc và virus bình thường khi tăng dần năng lượng chiếu xạ.
hắt hơi của người bệnh [6, 7], người bệnh có thể lây cho Kết quả nhuộm miễn dịch huỳnh quang kháng nguyên
người khác ngay khi bệnh vẫn chưa xuất hiện triệu chứng protein gai của virus ở các tế bào nguyên bào sợi phổi
[8], kèm theo khả năng tồn tại lâu của virus ngoài không (Hình 1) cho thấy cường độ tín hiệu huỳnh quang màu
khí và trên một số bề mặt rắn [9]. Vì vậy, khu vực công xanh lá của kháng nguyên (tức mức độ xâm nhiễm vào
cộng đông người có nguy cơ cao là những nơi chứa đựng tế bào) giảm dần khi tăng dần năng lượng far-UVC chiếu
và phát tán virus ra cộng đồng. Các biện pháp đeo khẩu xạ lên virus. Với những đặc điểm tương đồng cao giữa
trang và giữ khoảng cách nơi công cộng tuy có những những chủng coronavirus sử dụng trong nghiên cứu này
hiệu quả nhất định, nhưng vẫn chưa đủ sức để ngăn chặn và những chủng SARS-CoV-2 hiện tại, kết quả nghiên cứu
sự lây lan của virus trong bối cảnh nhiều nước trên thế cho thấy tiềm năng ứng dụng của bức xạ far-UVC trong
giới vẫn chưa đạt được miễn dịch cộng đồng, cùng với việc khống chế virus SARS-CoV-2. Kỳ vọng này cũng đã

32 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
được hiện thực hóa thông qua nghiên cứu của Kitagawa tiêu diệt gần như hoàn toàn (99,7%) virus SARS-CoV-2
và cộng sự (2021) khi chứng minh bức xạ far-UVC 222 nm [14].
ở năng lượng 3 mJ/cm2 sau thời gian chiếu xạ 30 giây đã

Hình 1. Khả năng xâm nhiễm nguyên bào sợi phổi người của các chủng Alpha HCoV-229E và Beta HCoV-
OC43 được chiếu xạ far-UVC ở các năng lượng khác nhau [13].

Cơ chế tác động của tia UVC lên


khả năng xâm nhiễm của virus
SARS-CoV-2
Cơ chế phân tử của tác động ức chế
xâm nhiễm virus SARS-CoV-2 của tia
UVC cũng đã được làm rõ. Nghiên cứu
của Lo và cộng sự (2021) [15] đã chứng
minh sự ức chế xâm nhiễm được kích
hoạt nhờ tác động làm tổn thương của
tia UVC lên bộ gen của virus. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy tia UVC không làm
ảnh hưởng đến hình thái cũng như các
protein spike (S) và nucleocapsid (N) của
virus. Cụ thể, kết quả chụp SEM cho thấy
hạt virus bình thường và hạt virus sau khi
chiếu xạ UVC đều có hình thái tròn đều
và kích thước tương tự nhau (~100 nm).
Kết quả lai Western blot cũng ghi nhận
không có hiện tượng phân hủy của các
protein S và N của virus sau quá trình
chiếu xạ. Ngược lại, tác động của bức xạ
lên RNA bộ gen của virus là rất rõ rệt.
Kết quả RT-PCR với đoạn khuếch đại dài
(long RT-PCR) cho thấy số lượng bản sao
của các vùng 1, 2, 3, 4, cùng các gen S và
N trên RNA bộ gen của virus (Hình 2A)
giảm dần khi tăng dần thời gian chiếu xạ
(Hình 2B và Hình 2C). Điều này chứng tỏ
thời gian chiếu xạ càng lâu thì những hư
tổn xảy ra trên RNA bộ gen của virus càng
nhiều. Hơn nữa, giá trị liều gây nhiễm
50% TCID50 (tức nồng độ của virus mà
tại đó 50% số lượng mẫu mô nuôi cấy
bị nhiễm) cũng giảm dần khi tăng dần
mức độ hư tổn trên bộ gen virus (được
tính bằng tỉ lệ phần trăm độ sáng vạch
điện di sản phẩm PCR giữa mẫu virus
được chiếu xạ và mẫu virus bình thường) Hình 2. Tác động của bức xạ UVC lên sự hư tổn RNA bộ gen của virus. (A)
(Hình 2D), điều này cho thấy mức độ hư Các đoạn khuếch đại bằng RT-PCR trên bộ gen của virus; (B) Độ sáng của
tổn trên RNA bộ gen của virus càng cao sản phẩm PCR của các đoạn khuếch đại trên gel agarose; (C) Tỷ lệ cường độ
(do thời gian chiếu xạ càng lâu) thì khả sáng của sản phẩm PCR của các đoạn khuếch đại giữa virus bị chiếu xạ với
năng xâm nhiễm của virus cũng càng bị virus bình thường; (D) Sự tương quan tuyến tính giữa mức độ hư tổn trên
suy yếu. RNA bộ gen virus và giá trị TCID50 [15].

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 33
Bước đầu ứng dụng far-UVC trong kiểm soát tia far-UVC đi qua, do đó hạn chế tối đa lượng bức xạ tiếp
dịch COVID-19 ở nơi công cộng xúc lên cơ thể của người làm việc trong phòng mổ. Với
Với những điểm sáng từ những nghiên cứu trên, bức cách bố trí hệ thống đèn UV (có tấm vải sợi bao phủ) trên
xạ far-UVC bắt đầu được triển khai áp dụng tại một số cao cách mặt đất 2,2 m (Hình 4), nghiên cứu đã cho thấy
địa điểm công cộng nhằm kiểm soát sự lây lan của virus năng lượng far-UVC 222 nm tiếp xúc lên vùng đầu của
trong cộng đồng [12]. Nghiên cứu của Olcay và cộng sự người làm việc cao 1,7 m (tức khoảng cách giữa đèn UV
(2021) đã thử nghiệm mô hình hệ thống chiếu xạ far-UVC và bộ phận gần nhất trên cơ thể đạt tối thiểu 50 cm) trong
ở phòng mổ bệnh viện [12]. Hệ thống này sử dụng một phòng mổ là 22 mJ/cm2 trong thời gian 8 giờ và nằm
nguồn đèn far-UVC được phối hợp sản xuất bởi hai công trong giới hạn cho phép được đặt ra bởi Ủy ban Quốc tế
ty Vestel và InnowayRG (Thổ Nhĩ Kỳ) (Hình 3). Nguồn đèn về Bảo vệ Bức xạ Không Ion hóa (ICNIRP). Nghiên cứu này
UVC này sử dụng một tấm lọc để đảm bảo bức xạ phát là một bước đi tiên phong về việc ứng dụng tia far-UVC
ra là far-UVC ở bước sóng 222 nm. Cường độ của tia far- trong khống chế virus SARS-CoV-2 ở nơi công cộng theo
UVC phát ra là 2,23 µW/cm2 ở trung tâm và 1,34 µW/cm2 những quy trình đảm bảo an toàn cho con người.
ở khoảng cách 2,5 m. Ngoài ra, thiết bị đèn far-UVC này
còn được kết hợp với một tấm vải sợi chỉ cho phép 1,5%

Hình 3. Đèn far-UVC 222 nm được phối hợp sản xuất bởi Hình 4. Phòng mổ sử dụng hệ thống
Vestel và InnowayRG (Thổ Nhĩ Kỳ) [12]. đèn far-UVC 222 nm [12].

Kết luận thể, những điểm tiêm chủng vaccine không nên sử dụng
Hiện nay, các khu vực đông người tiềm ẩn nguy cơ rất phương pháp này vì tia far-UVC, với khả năng làm hư tổn
cao về khả năng lây lan virus SARS-CoV-2. Mặc dù nhiều RNA, có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng của một số
tỉnh, thành ở Việt Nam hiện nay đang thực hiện Chỉ thị vaccine mRNA như vaccine của Pfizer/BioNTech hay Mod-
16 của Chính phủ nhằm hạn chế tối đa việc người dân ra erna. Một dạng khu vực khác cũng không nên áp dụng
ngoài, tuy nhiên một số nơi như bệnh viện, khu điều trị phương pháp khử khuẩn bằng tia xạ này là những nơi lấy
bệnh nhân COVID-19, khu cách ly tập trung vẫn không thể mẫu và xét nghiệm RT-PCR vì tia far-UVC có thể làm ảnh
trì hoãn hoạt động. Do đó, việc áp dụng hệ thống chiếu hưởng RNA của virus trong các mẫu sinh phẩm gây nên
xạ far-UVC nhiều hi vọng sẽ trở thành một biện pháp hữu kết quả âm tính giả. Ngoài ra, những khu vực muốn áp
hiệu nhằm hạn chế tối đa khả năng lây nhiễm chéo ở dụng phương pháp chiếu xạ far-UVC nên được trang bị
những khu vực có nguy cơ chứa đựng virus rất cao trên. các hệ thống thông khí để loại bỏ khí ozone, sản phẩm
Trong các biện pháp kìm hãm sự lây lan của virus, khử hình thành từ oxy trong không khí dưới xúc tác của tia UV
khuẩn luôn là một hoạt động hết sức cần thiết. Các biện [16], để tránh những tác hại của ozone đối với sức khỏe
pháp khử khuẩn tay, khử khuẩn bề mặt có thể được thực con người. Bên cạnh đó, đèn far-UVC cũng cần được kết
hiện dễ dàng bằng cách sử dụng các hóa chất diệt khuẩn hợp rèm chắn và bố trí ở khoảng cách phù hợp với người
cơ bản như xà phòng, cồn, nước javel. Tuy nhiên, việc khử (tốt nhất là trên trần nhà) kèm theo những cách thức kiểm
khuẩn trong không khí bằng hóa chất lại gặp phải nhiều soát để mức năng lượng tác động lên cơ thể người không
khó khăn hơn vì hóa chất sau khi phun dễ bị phân tán và quá 22 mJ/cm2 theo quy định của ICNIRP [12]. Tuy nhiên,
bay hơi trong những không gian rộng hoặc bị hấp phụ nếu kiểm soát tốt được những biện pháp an toàn này, tia
lên các bề mặt khiến hóa chất không duy trì liên tục được far-UVC hoàn toàn có thể được áp dụng để kiểm soát dịch
nồng độ diệt khuẩn tối thiểu trong không khí sau thời bệnh ở nơi công cộng.
gian dài. Do đó, tia far-UVC có thể được sử dụng như một
công cụ khử khuẩn đắc lực ở những nơi có không gian
lớn. Mặc dù hệ thống đèn chiếu xạ far-UVC có thể được
lắp đặt và sử dụng dễ dàng ở nơi đông người, cần lưu ý
không phải mọi khu vực đều có thể áp dụng được. Cụ

34 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. https://www.who.int/news-room/q-a-detail/radiation-ultraviolet-(uv)
2. Wang X, Yu H. The effect of DNA backbone on the triplet mechanism of UV-induced thymine-thy-
mine (6-4) dimer formation. J Mol Model. 2018 Oct 23;24(11):319. doi: 10.1007/s00894-018-3863-
9. PMID: 30353277.
3. Sinha RP, Häder DP. UV-induced DNA damage and repair: a review. Photochem Photobiol Sci. 2002
Apr;1(4):225-36. doi: 10.1039/b201230h. PMID: 12661961.
4. https://covid19.who.int/
5. https://ncov.moh.gov.vn/
6. Stadnytskyi V, Anfinrud P, Bax A. Breathing, speaking, coughing or sneezing: What drives transmis-
sion of SARS-CoV-2? J Intern Med. 2021 Jun 8:10.1111/joim.13326. doi: 10.1111/joim.13326. Epub
ahead of print. PMID: 34105202; PMCID: PMC8242678.
7. Dhand R, Li J. Coughs and Sneezes: Their Role in Transmission of Respiratory Viral Infections,
Including SARS-CoV-2. Am J Respir Crit Care Med. 2020 Sep 1;202(5):651-659. doi: 10.1164/rc-
cm.202004-1263PP. PMID: 32543913; PMCID: PMC7462404.
8. Oran DP, Topol EJ. Prevalence of Asymptomatic SARS-CoV-2 Infection : A Narrative Review. Ann
Intern Med. 2020 Sep 1;173(5):362-367. doi: 10.7326/M20-3012. Epub 2020 Jun 3. PMID: 32491919;
PMCID: PMC7281624.
9. van Doremalen N, Bushmaker T, Morris DH, Holbrook MG, Gamble A, Williamson BN, Tamin A,
Harcourt JL, Thornburg NJ, Gerber SI, Lloyd-Smith JO, de Wit E, Munster VJ. Aerosol and Surface
Stability of SARS-CoV-2 as Compared with SARS-CoV-1. N Engl J Med. 2020 Apr 16;382(16):1564-
1567. doi: 10.1056/NEJMc2004973. Epub 2020 Mar 17. PMID: 32182409; PMCID: PMC7121658.
10. D’Orazio J, Jarrett S, Amaro-Ortiz A, Scott T. UV radiation and the skin. Int J Mol Sci. 2013 Jun
7;14(6):12222-48. doi: 10.3390/ijms140612222. PMID: 23749111; PMCID: PMC3709783.
11. van Kuijk FJ. Effects of ultraviolet light on the eye: role of protective glasses. Environ Health Perspect.
1991 Dec;96:177-84. doi: 10.1289/ehp.9196177. PMID: 1820264; PMCID: PMC1568237.
12. Olcay A, Albayrak SB, Aktürk IF, Akbülbül MC, Yolay O, İkitimur H, Bayer MC. A new Far-
UVC based method for germ free hospitals and travel: Initus-V. MedRxiv. 2021 Apr 27; doi:
10.1101/2021.04.23.21255969.
13. Buonanno M, Welch D, Shuryak I, Brenner DJ. Far-UVC light (222 nm) efficiently and safely inacti-
vates airborne human coronaviruses. Sci Rep. 2020 Jun 24;10(1):10285. doi: 10.1038/s41598-020-
67211-2. PMID: 32581288; PMCID: PMC7314750.
14. Kitagawa H, Nomura T, Nazmul T, Omori K, Shigemoto N, Sakaguchi T, Ohge H. Effectiveness of
222-nm ultraviolet light on disinfecting SARS-CoV-2 surface contamination. Am J Infect Control.
2021 Mar;49(3):299-301. doi: 10.1016/j.ajic.2020.08.022. Epub 2020 Sep 4. PMID: 32896604; PMCID:
PMC7473342.
15. Lo CW, Matsuura R, Iimura K, Wada S, Shinjo A, Benno Y, Nakagawa M, Takei M, Aida Y. UVC dis-
infects SARS-CoV-2 by induction of viral genome damage without apparent effects on viral mor-
phology and proteins. Sci Rep. 2021 Jul 5;11(1):13804. doi: 10.1038/s41598-021-93231-7. PMID:
34226623; PMCID: PMC8257663.
16. Claus H. Ozone Generation by Ultraviolet Lamps†. Photochem Photobiol. 2021 May;97(3):471-476.
doi: 10.1111/php.13391. Epub 2021 Feb 22. PMID: 33534912.

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 35
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè Cô-vich,
Khi thấy khụt khịt
Mệt mỏi, họng đau
Thở khó, sốt cao


C Thì ta nên nhớ:
Phải tự cách ly,
O Báo ngay bác sỹ.
Khi ra khỏi nhà
V Phải đeo khẩu trang
Bịt kín hở hang
I Hạn chế giao tiếp,
Hai mét cách xa
Ngô Hoàng Đại Long D
Tám chuyện ba hoa
Chớ phải lúc này
Tụ tập không nên.
Nơi đến nơi đi
Những lúc di chuyển
Trung thực khai báo
Chỉ thị mười sáu,
Tuân thủ ở nhà
Vệ sinh mũi họng
Ở nơi công cộng
Khử khuẩn hai tay.
Luôn phải chấp hành
Hướng dẫn Nhà nước
Đồng lòng tiến bước
Quyết tâm đẩy lùi
Vượt qua đại dịch
Bóng đêm mù mịt
Cả nước đồng lòng
Sẽ sớm vượt qua
Khúc ca khải hoàn./.
Bút danh: Cô Long
36 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
T óm tắt nghiên cứu
PHÂN TÍCH TỔN THẤT PHÚC LỢI
TỪ SỰ TRÌ HOÃN, PHÂN BỔ SAI VÀ
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC CỦA VACCINE
1
ThS. Lưu Bích Thu
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế - Tài chính,
Trường Đại học Kinh tế - Luật,
ĐHQG-HCM

Giới thiệu mới của Gollier (2021), tác giả đã chỉ ra rằng chiến lược
Bài viết này được tóm tắt từ nghiên cứu của tác giả ‘stop-and-go’ là một chiến lược bóp nghẹt quá trình
Gollier (2021) với tựa đề là “The welfare cost of vac- tiêm chủng vaccine. Tác giả đã sử dụng mô hình SIR
cine misallocation, delays and nationalism”, được trích có cấu trúc theo độ tuổi của biến thể Covid được điều
trong quyển Covid Economics của Trung tâm Nghiên chỉnh trước khi có chiến dịch tiêm vaccine ở Pháp (theo
cứu Chính sách Kinh tế (The Centre for Economic Policy chính sách phong tỏa “stop-and-go”) và chỉ ra rằng nếu
Research, viết tắt là: CFPR), số 74, xuất bản vào tháng 3 đạt được tốc độ tiêm vaccine 100,000 lượt mỗi ngày, lợi
năm 2021. ích phúc lợi có thể đạt được 75%. Vì sự chênh lệch lớn
về tỷ lệ nhập viện và tử vong giữa các nhóm tuổi, người
Tóm tắt sơ lược lớn tuổi nên được ưu tiên tiêm phòng, điều này cũng sẽ
Tốc độ chậm của chiến dịch tiêm chủng vaccine ở mang lại lợi ích về nhân mạng cũng như kinh tế. Việc ưu
châu Âu đã đặt ra những câu hỏi quan trọng về đối tiên phân bổ vaccine cho nhóm người dễ bị ảnh hưởng
tượng nên được ưu tiên, bên cạnh đó là tổn thất phúc bởi Covid-19 đã cứu sống được 70.0000 người cao tuổi,
lợi từ việc trì hoãn và tác động của nhóm người chống nhưng nó cũng làm tăng tỷ lệ tử vong của nhóm trẻ tuổi
vaccine (anti-vaxxers) và chủ nghĩa dân tộc vaccine (vac- lên đến 14.000 người. Việc mô phỏng về chủ nghĩa dân
cine nationalism). Trong quyển “Covid Economics” đã tộc vaccine đã cho thấy rằng số người chết trên toàn cầu
phân tích rất tốt về các khía cạnh khủng hoảng thời kỳ sẽ tăng lên 20% nếu nước sản xuất vaccine tiêm phòng
Covid. Trận đại dịch Covid đã đặt ra một số vấn đề phức cho toàn bộ dân số của họ trước khi xuất khẩu sang
tạp về đạo đức con người và kinh tế. Theo nghiên cứu nước không có khả năng sản xuất vaccine.

Phương pháp nghiên cứu nhà nghiên cứu Acemoglu và cộng sự (2020) và Gollier
Với giả định rằng vaccine cần ba tuần để phát triển hệ (2020), tác giả đã mở rộng hướng nghiên cứu về lý thuyết
miễn dịch, người được tiêm không mắc các triệu chứng hệ thống thời gian rời rạc, bằng cách thêm module kinh tế
nghiêm trọng và không phát tán virus, Gollier (2021) áp học và các giai đoạn tiêm phòng vaccine.
dụng mô hình SIR để nghiên cứu chiến dịch tiêm chủng ở
Pháp vào đầu tháng 1/2021, thời điểm bắt đầu chiến dịch, Từ mô hình nghiên cứu SIR, Gollier (2021) xác định tổn
khi tỷ lệ miễn dịch chiếm khoảng 17%. Mô hình SIR được thất phúc lợi dựa vào hai khía cạnh: nhân mạng và chi phí
giới thiệu bởi Kermack và McKendrick (1927). Ngày nay, kinh tế. Thứ nhất, cuộc sống là có giá trị vì vậy cái chết
mô hình SIR vẫn là xương sống của tài liệu về dịch tễ học. được xem là một tổn thất phúc lợi của con người. Thứ
Từ lâu, mô hình này đã được mở rộng cho phép nghiên hai, chi phí kinh tế của một quốc gia, ví dụ: chi phí về sự
cứu về sự khác biệt của nhiều nhóm đối với dịch tễ học. Sự tử vong, thời gian cách ly bao gồm cả chi phí hỗ trợ cho
mở rộng của mô hình về nghiên cứu được các nhà nghiên những người không có việc làm do bị ảnh hưởng bởi chính
cứu gọi là “multi-group” và nếu mô hình nghiên cứu tập sách, thời gian phong tỏa và chi phí tiêm chủng vaccine
trung vào sự tương quan giữa các nhóm tuổi và dịch tễ học cho người dân.
thì được gọi là “age-structured” hoặc “age-stratified”. Theo

Kết quả nghiên cứu

Hình 1. Diễn biến


của đại dịch từ ngày
0 (cuối tháng 1 năm
2021) tại Pháp trong
điều kiện tiêm chủng
200.000 liều/ngày và
chiến lược ‘stop-and-
go’ của biện pháp
phong tỏa. (Nguồn số
liệu: Gollier (2021)).

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 37
LỢI ÍCH PHÚC LỢI TRONG VIỆC ĐẨY NHANH vaccine tăng lên. So với giải pháp không dùng vaccine, ¾
CHIẾN DỊCH TIÊM CHỦNG tổn thất phúc lợi do đại dịch sẽ bị loại bỏ với tốc độ tiêm
vaccine 100.000 mỗi ngày vào năm 2021. Và hậu quả của
Trong bài nghiên cứu, tác giả đo lường lợi ích phúc việc trì hoãn tiêm phòng khoảng 1 tuần ở Pháp sẽ gia
lợi của chiến dịch tối ưu tiêm chủng vaccine ở Pháp bằng tăng tỷ lệ tử vong thêm 2.500 người và nó sẽ giảm tổng
cách kết hợp đo lường tài sản và sức khỏe của người tài sản của quốc gia lên đến 8 tỷ euro. Đây là kết quả quan
dân. Đối với yếu tố sức khỏe, tác giả đã sử dụng phương trọng để đánh giá rủi ro lợi ích phúc lợi của việc tạm dừng
pháp giá trị thống kê cuộc sống (value of a statistical life, chiến dịch tiêm chủng (4 ngày) khi những nghi ngờ xuất
viết tắt là VSL) để đánh giá những người bị lây nhiễm hiện vào tháng 3 về tác dụng phụ của vaccine AstraZene-
bởi Covid-19 được cứu sống trong hàm phúc lợi. Kết quả ca (đông máu, huyết khối).
cho thấy lợi ích phúc lợi biên sẽ giảm dần khi tốc độ tiêm

Tốc độ
tiêm
Số người tử vong Tổn thất kinh kế
vaccine/ Bảng 1: Những tác động của
ngày đại dịch là hệ quả từ việc
19-64 65+ Tổng tài sản Tổng tăng tốc độ tiêm vaccine, bắt
đầu từ ngày 0 của việc tiêm
  % GDP % GDP phòng vaccine. Nguồn số
0.00 72705 396464 469351 34.71 104.8 liệu: Gollier (2021)).
0.05 55387 78780 134337 18.45 38.50
0.10 41641 50026 91817 13.82 27.53
0.15 32857 41609 74605 11.13 22.26
0.20 26159 37166 63450 9.31 18.78
0.25 22642 32883 55638 8.04 16.34
0.50 16245 29151 45470 5.06 11.84

Bảng 1 cho ta cái nhìn sâu sắc về mối tương quan giữa Cơ quan quản lý dược phẩm châu Âu (European Medi-
lợi ích cận biên và tốc độ tiêm chủng. Khi tăng từ 0 đến cines Agency, viết tắt là EMA) đã xem xét 25 trường hợp
100.000 liều/ngày, tổn thất phúc lợi sẽ giảm 73%. Nhưng có hiện tượng đông máu khi tiêm vaccine. Mối liên hệ
từ tốc độ 100.000 đến 200.000 liều/ngày, tổn thất phúc lợi của hiện tượng đông máu với việc tiêm vaccine vẫn chưa
chỉ còn giảm 30%. được chứng minh. Đối với trường hợp bệnh huyết khối
tắc mạch, báo cáo sau khi tiêm chủng đưa ra con số thấp
TỔN THẤT PHÚC LỢI CỦA VIỆC PHÂN BỔ SAI hơn so với dự kiến. Kết quả này hữu ích để so sánh tác
VACCINE dụng phụ tiềm ẩn của vaccine với số lượng người bị tử
vong do nhiễm Covid-19 và chi phí kinh tế liên quan đến
Tính đến 16/3/2021, khoảng 20 triệu người ở Vương việc trì hoãn chiến dịch trong 1 tuần.
Quốc Anh và Liên minh châu Âu đã được tiêm vaccine.

Số ngày trì
Số người tử vong Tổn thất kinh tế Bảng 2: Tác động của việc trì
hoãn
hoãn chiến dịch vaccine trong
  19-64 65+ Tổng Tài sản Tổng
1 tuần. Nguồn: Gollier (2021).
0 ngày 41641 50026 91817 13.82 27.53
7 ngày 41980 52168 94298 14.16 28.23

Như Bảng 2 cho thấy, việc khởi động chậm chiến dịch gian và cường độ phong tỏa để bảo toàn năng lực ICU.
tiêm phòng làm tăng số người chết lên 2.481 người và Có rất nhiều lý do khác nhau lý giải quyết định này, có
làm giảm GDP khoảng 0,34% tương đương hơn 8 tỷ euro. thể là nhằm giảm thiểu chi phí phúc lợi của chiến dịch
Ước tính này cho thấy rằng Pháp đã phải gánh chịu hậu tiêm chủng. Ví dụ, để hỗ trợ cho những nhân lực thiết
quả nặng nề do sự trì hoãn chiến dịch tiêm chủng Astra- yếu (nhân viên y tế, giáo viên, v.v.) vì đây là những người
Zeneca trong vòng nửa tuần. Hơn nữa, việc đình chỉ làm phải chịu nhiều rủi ro. Tác giả đã nghiên cứu trường hợp
giảm niềm tin của người dân vào chiến dịch tiêm chủng cực đoan nhất khi vaccine được phân bổ dựa trên các tiêu
vaccine. chí độc lập khỏi nguy cơ tử vong. Trong Bảng 3 cho thấy
rằng quy trình tiêm chủng ngẫu nhiên làm giảm thiệt hại
Tỷ lệ tử vong do nhiễm bệnh gia tăng cấp số nhân kinh tế khoảng 1% GDP hàng năm, số người chết toàn cầu
theo tuổi tác, cứ sau 5 năm lại tăng gấp đôi. Điều này có tăng thêm 56.000 người, trong đó, nhóm người cao tuổi
nghĩa việc chiến dịch tiêm vaccine chuyển hướng ưu tiên tăng thêm khoảng 70.000 ca tử vong, trong khi khoảng
khỏi nhóm người lớn tuổi không những có tác động xấu 14.000 người độ tuổi trung niên sẽ được khỏi bệnh.
đến tỷ lệ tử vong toàn cầu, mà còn ảnh hưởng đến thời

38 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Biện pháp
phân bổ tiêm Số người tử vong Tổn thất kinh tế
vaccine Bảng 3: Tác động của việc
  19-64 65+ Tổng Tài sản Tổng phân bổ vaccine một cách
ngẫu nhiên. Nguồn: Gollier
Giải pháp có (2021).
41641 50026 91817 13.82 27.53
chọn lọc
Ngẫu nhiên 27277 120463 147807 12.83 34.89

Sự tồn tại của phong trào chống tiêm chủng vaccine anti-vaxxer cao niên sẽ lại làm tăng thêm 5.000 ca tử vong
cung cấp một minh họa khác về tổn thất phúc lợi của việc trong số những cao niên ủng hộ việc tiêm vaccine.
phân bổ vaccine không hiệu quả. Pháp là một quốc gia có
tỷ lệ số người chống tiêm chủng vaccine tương đối cao. Thứ hai, về phía nhóm người chống lại tiêm chủng
Giả sử rằng 30% dân số từ chối vaccine và đồng đều giữa vaccine, họ hưởng lợi từ miễn dịch cộng đồng được tạo
các lớp tuổi, tổn thất phúc lợi của việc này là như thế nào? ra từ những người ủng hộ tiêm chủng vaccine. Sự xuất
Bảng 4 đã mô tả tóm tắt về những kết quả của nghiên hiện của nhóm người ủng hộ vaccine trong dân số sẽ làm
cứu. Đầu tiên, nhiều người chống tiêm phòng vaccine ở giảm tỷ lệ tử vong 35% mà những người chống vaccine
độ tuổi trung niên sẽ có tỷ lệ tử vong cao hơn. Nhưng vì phải đối mặt - khoảng 50.000 người so với tình huống
virus phát tán mạnh hơn ở nhóm tuổi này, sẽ có nhiều không có ai được tiêm. Đây là ngoại tác tích cực tạo ra bởi
người hơn trong số họ dù đã tiêm vaccine cũng sẽ qua những người ủng hộ tiêm vaccine lên nhóm người chống
đời do chưa phát triển đủ kháng thể. Thêm nữa là những tiêm chủng vaccine.
người già thì khả năng tiếp xúc với những người cùng độ
tuổi cao hơn các nhóm tuổi khác, nên sự hiện diện của các

Số người tử vong Tổn thất kinh tế


 
19-64 65+ Tổng Tài sản Tổng Bảng 4: Ảnh hưởng của
30% nhóm người chống
Không có
tiêm phòng vaccine. Nguồn:
phong trào Gollier (2021).
41641 50026 91817 13.82 27.53
chống tiêm
vaccine
Có khoảng 30%
nhóm người
là chống tiêm 41080 114333 155548 13.73 36.91
vaccine trên
toàn cầu
Nhóm người
ủng hộ (vaxx- 24442 40160 64691  
ers)
Nhóm người
không ủng hộ 16638 74173 90857  
(anti-vaxxers)

Chủ nghĩa dân tộc vaccine là một minh họa khác về cầu. Thiệt hại kinh tế ở nước nhập khẩu vaccine nhiều hơn
việc phân phối sai vaccine. Để mô phỏng tác động của gấp đôi so với nước sản xuất vaccine và số người chết vào
hình thức chủ nghĩa dân tộc này, tác giả đã phân tích cuối đại dịch khi so ra thì ở mức vượt hơn 150% ở nước
một mô hình có hai nước Pháp giống hệt nhau: một bên nhập khẩu. Xét trên sự khác biệt lớn về cường độ của mức
không có bất kỳ khả năng sản xuất vaccine nào và một khủng hoảng y tế và kinh tế giữa các nước sản xuất và
bên có khả năng cung cấp 400.000 liều vaccine một ngày. nước nhập khẩu vaccine, tác giả cho rằng sẽ không thực
Tác giả so sánh giải pháp tốt nhất khi vaccine được chia tế khi kỳ vọng bất kỳ sự hợp tác về mặt chính trị nào nhằm
đều cho cả hai bên với giải pháp mang tính chủ nghĩa phân bổ nguồn lực vaccine đầy đủ ở cấp độ quốc tế, bất
quốc gia khi bên sản xuất vaccine thực hiện tiêm chủng chấp những nỗ lực của Tổ chức Y tế thế giới (thông qua
cho toàn bộ người dân trước khi xuất khẩu vaccine sang COVAX).
bên khác. Kết quả được thể hiện trong Bảng 5, chủ nghĩa
dân tộc vaccine làm tăng 20% số người chết trên toàn

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 39
Số người tử vong Tổn thất kinh tế
Viễn cảnh Bảng 5: Ảnh hưởng của chủ
19-64 65+ Tổng Tài sản Tổng
nghĩa dân tộc vaccine. (Nguồn
số liệu: Gollier (2021)).
Giải pháp tốt
nhất (giá trị 41641 50026 91817 13.82 27.53
trung bình)

Chủ nghĩa dân


tộc vaccine (giá 32560 78708 111398 14.42 31.04
trị trung bình)
Nước xuất
26159 37166 63450 9.31 18.78
khẩu vaccine
Nước nhập
38969 120250 159347 19.53 43.31
khẩu vaccine

Kết luận viện có thể được nới lỏng, cùng với việc giảm tần suất
Tốc độ tiêm chủng tăng lên chủ yếu có lợi cho những giãn cách xã hội.
người cao niên trong cuộc chạy đua giữa tiêm chủng và
sự lây nhiễm. Tuy nhiên, nó cũng mang lại lợi ích kinh tế, Mục đích của bài nghiên cứu này là ước tính tổn thất
vì nó giúp rút ngắn thời gian của chính sách phong tỏa. phúc lợi của việc phân bổ sai vaccine, đặc biệt là tập trung
Điều quan trọng lưu ý trong chiến dịch này, chi phí tiêm vào hậu quả của chủ nghĩa dân tộc vaccine hiện đang phổ
vaccine chỉ có € 30 cho mỗi liều tiêm ở Pháp, cho nên chi biến ở các nước phương Tây. Điều này cho thấy rằng việc
phí kinh tế của chiến dịch tiêm chủng lần này không quá tiêm phòng vaccine cho những người ít chịu bị ảnh hưởng
0,1% GDP hàng năm. bởi Covid-19 ở các nước phát triển thay vì tiêm cho những
người có bị tổn thương cao bởi trận đại dịch đã gây trầm
Nếu mục tiêu là giảm thiểu thiệt hại về tổn thất phúc trọng vào hậu quả của tổn thất phúc lợi toàn cầu. Trong
lợi, giải pháp tối ưu là nên ưu tiên tiêm chủng cho những mô hình tác giả lấy ví dụ về hai quốc gia, tác giả cũng chỉ
người dễ bị tổn thương bởi dịch Covid-19. Theo giải pháp ra rằng sự cực đoan của chủ nghĩa dân tộc vaccine, trong
tối ưu này, lợi ích cận biên của vaccine sẽ giảm nhanh đó, các nước phát triển ưu tiên tiêm phòng cho dân số
theo số lượng người được tiêm được tích lũy trong dân của họ trước khi xuất khẩu vaccine của họ, kết quả số
số của quốc gia. Vấn đề quan trọng là phải nhanh chóng lượng người tử vong trên toàn cầu tăng 20%.
tiêm phòng cho những người dễ bị nhiễm Covid-19, để
giảm bớt gánh nặng và áp lực lên các ICU và các bệnh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Challen, R., Brooks-Pollock, E., Read, J. M., Tsaneva-Atanasova, K., & Danon, L. (2021).
Risk of mortality in patients infected with SARS-CoV-2 variant of concern 202012/1:
matched cohort study. The British Medical Journal 372, n579.
Gollier, C. (2020). Cost-benefit analysis of age-specific deconfinement strategies. Jour-
nal of Public Economic Theory 22(6), 1746-1771 (pre-published in Covid Economics
24: 1-31).
Gollier, C. (2021). The welfare cost of vaccine misallocation, delays and nationalism.
Covid Economics 74, 1-24.
Volz, E; et al. (2020). Transmission of SARS-CoV-2 lineage B.1.1.7 in England: Insights
from linking epidemiological and genetic data.

1
Gollier, C. (2020), “The welfare cost of vaccine misallocation, delays and nationalism”.
Covid Economics 74, 1-24.

40 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Tóm tắt
CẢM XÚC Hiện nay, tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn ra phức tạp ở
Việt Nam đã ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội và đời sống tinh
CỦA NGƯỜI DÂN thần của người dân, đặc biệt là khi người dân đối diện với việc
tiêm vắc-xin. Nghiên cứu được thực hiện với mục đích khám
ĐỐI VỚI VIỆC phá cảm xúc của người dân đối với việc tiêm vắc-xin ngừa
COVID-19 trong bối cảnh bùng nổ dịch bệnh lần thứ tư. Kỹ
TIÊM VẮC-XIN thuật phỏng vấn và phân tích theo chủ điểm được sử dụng để
NGỪA COVID-19 tìm hiểu phản ứng cảm xúc của người dân khi đối diện với việc
tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 trong bối cảnh diễn tiến phức
TRONG BỐI CẢNH tạp của dịch bệnh. Kết quả cho thấy, việc tiêm vắc-xin ngừa
COVID-19 là một sự kiện tác động tích cực đến cảm xúc người
BÙNG NỔ DỊCH BỆNH dân trong bối cảnh đại dịch. Sự xuất hiện của vắc-xin như một
nguồn lực tinh thần giúp người dân đảm bảo sức khỏe, tính
LẦN THỨ TƯ mạng và khả năng đương đầu với dịch bệnh. Tuy nhiên, xuyên

TẠI VIỆT NAM (*)


suốt quá trình nhận biết thông tin nguồn vắc-xin đầu tiên
nhập về Việt Nam cho đến khi hoàn thành 2 mũi tiêm là một
sự chuyển biến tâm lý phức tạp từ căng thẳng, lo lắng đan xen
sự vui mừng, hồi hộp. Kết quả này là cơ sở đề xuất chiến lược
tư vấn tâm lý, chăm sóc tinh thần hiệu quả trong mùa dịch tập
trung vào nâng đỡ cảm xúc, cũng như làm cơ sở tiếp tục các
nghiên cứu về phản ứng cảm xúc của người Việt Nam với các
sự kiện có tính sang chấn (dịch bệnh) trong tương lai.

Từ khóa: COVID-19, diễn tiến tâm lý, tiêm vắc-xin, vắc-xin


ngừa COVID-19.

Giang Thiên Vũ, Lê Ngọc Khang, Đỗ Tất Thiên


Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 41
1. Mở đầu trải qua [bối cảnh]?” được sử dụng để khơi gợi khách thể
chia sẻ. Các [bối cảnh] liên quan đến việc tiêm vắc-xin
Ngày 11/3/2020, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công được hệ thống gồm: (1) Dịch bệnh bùng nổ; (2) Công khai
bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu. Trước tình hình dịch chiến dịch tiêm chủng toàn dân; (3) Dịch bệnh kéo dài; (4)
bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp và gây ảnh hưởng ngày Đăng ký tiêm chủng; (5) Chờ đợi được tiêm mũi 1; (6) Tiêm
mũi 1; (7) Theo dõi sức khỏe sau khi tiêm mũi 1; (8) Thích
càng nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống xã hội của đất ứng của cơ thể với vắc-xin và bối cảnh mới; (9) Chờ đợi
nước, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Do tiêm mũi 2; (10) Đã hoàn thành tiêm 2 mũi vắc-xin.
đó, vào giữa tháng 7/2021, chiến dịch tiêm chủng lớn nhất
lịch sử cho khoảng 75 triệu dân Việt Nam chính thức được Sau đó, chúng tôi chọn có chủ đích một khách thể đảm
phát động (VTV NEWS, 2021). Trước tình hình cấp bách bảo các tiêu chí chọn mẫu như đã đề cập. Cuộc phỏng vấn
đó, tiến độ tiêm vắc-xin không ngừng được đẩy mạnh với trực tuyến qua nền tảng Zoom được diễn ra từ 45 – 60
phút. Sau đó, khách thể 1 được yêu cầu giới thiệu 1 – 2
hy vọng sớm ngăn chặn được các biến chủng mới của
người quen đáp ứng các tiêu chí chọn mẫu của đề tài để
dịch bệnh. chúng tôi liên hệ và phỏng vấn. Với kỹ thuật quả cầu tuyết
này, khi dữ liệu về phản ứng cảm xúc của người dân đối
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, mỗi người dân với việc tiêm vắc-xin được làm dày và không có phát hiện
sẽ trải nghiệm nhiều nỗi lo lắng khác nhau, ví dụ như lo mới về những cảm xúc mới có liên quan, chúng tôi dừng
lắng về sức khỏe, tài chính, những người thân của mình,... ở khách thể thứ 15 (Noy, 2008). Các cuộc phỏng vấn đều
Không chỉ ở trẻ em mà ở người trưởng thành cũng sẽ xuất được sự đồng ý của khách thể về việc ghi âm và cam kết
hiện rất nhiều những cảm xúc âm tính và dương tính khi sử dụng dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Để
tìm hiểu về COVID-19, cũng như khi tham gia tiêm chủng bảo mật thông tin, tên khách thể được mã hóa từ KT1 đến
KT15 theo thứ tự phỏng vấn.
vắc-xin (Cullen et al., 2020). Trong đó, chúng tôi quan tâm
nhất ở sự thay đổi cảm xúc của người dân trước, trong và Từ dữ liệu thu được, chúng tôi tiến hành phân tích
sau khi tiêm vắc-xin vì đây là sự kiện không chỉ thúc đẩy theo chủ điểm với 3 phân tích viên (trình độ Thạc sĩ Tâm lý
bản năng sống còn, mà còn là sự mâu thuẫn về cảm xúc học) làm việc độc lập để mà hóa các câu, ý, từ khóa quan
(Chou & Budenz, 2020). trọng từ băng ghi âm và lưu trữ trong phần mềm ATLAS.
Tis 9. Sau đó, hệ thống thành các chủ điểm khác nhau
Khi dịch bệnh diễn ra vô cùng căng thẳng thì những bám sát 10 bối cảnh liên quan đến việc tiêm vắc-xin đã
xác định. Tiếp theo, cuộc thảo luận nhóm giữa 3 phân tích
chuỗi cảm xúc ở người dân đã được tiêm, cũng như đang viên với sự góp mặt của người giám sát chuyên môn diễn
chờ đến lượt tiêm lại càng phức tạp hơn và có thể dẫn ra để phản biện và thống nhất các chủ điểm về phản ứng
đến lo âu. Khi lo âu kéo dài và cản trở các chức năng sống cảm xúc chung của người dân đối với các bối cảnh khác
khác của cá nhân thì nó có thể trở thành rối loạn (APA, nhau của việc tiêm ngừa vắc-xin. Các chủ điểm chung
2013). Trải nghiệm dịch bệnh là một sang chấn vừa gây được thống nhất thành 10 giai đoạn cảm xúc của người
tổn thương cơ thể vừa gây tổn thương về tinh thần ng- dân đối với việc tiêm vắc-xin và trình bày ở phẩn tiếp theo.
hiêm trọng dẫn đến nhiều nguy cơ mắc các bệnh lý tâm
3. Các phát hiện và bình luận
thần rất lớn. WHO (2020) cảnh báo, sự căng thẳng trong
giai đoạn bùng nổ dịch COVID-19 có thể làm tăng nguy
Giai đoạn 1: Lo lắng vì chưa thể tiếp cận nguồn
cơ trầm cảm ở mọi lứa tuổi. Do đó, việc hiểu đúng về
vắc-xin trong bối cảnh dịch bệnh diễn tiến phức tạp.
COVID-19 cũng như cách chăm sóc sức khỏe tâm thần
trong bối cảnh này là cấp thiết.
COVID-19 đối với cộng đồng có thể gây tâm lý lo lắng,
sợ hãi rằng mình và người thân có thể bị mắc bệnh, có
Từ những lý do trên, nghiên cứu khám phá “Cảm xúc nguy cơ tử vong,… Đó là những tổn thương tâm lý nghiêm
của người dân đối với việc tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 trọng (Psycare, 2021). KT2 chia sẻ: “Công nhân khu trọ của
trong bối cảnh bùng nổ dịch bệnh lần thứ tư tại Việt Nam” tôi có ý thức phòng, chống dịch. Bởi đa phần là các gia đình
được thực hiện. có trẻ nhỏ, bản thân họ cũng sợ lây nhiễm cho người nhà
nên trừ khi đi làm ở công ty họ mới ra ngoài, còn không là
2. Phương pháp nghiên cứu đều ở nhà”. Cũng chung nỗi lo lắng trên, KT14 chia sẻ: “Tôi
sợ ra ngoài lắm, bởi phòng bệnh hơn chữa bệnh. Trong nhà
Chúng tôi tiếp cận vấn đề bằng phương pháp nghiên lúc nào cũng có ít nhất 2 hộp khẩu trang để mọi người đeo
cứu định tính với khách thể là người dân đang sống ở khi ra ngoài”.
TP.HCM. Để đạt được độ tin cậy, cũng như đảm bảo kỹ Một yếu tố tác động đến tâm lý căng thẳng của người
thuật chọn mẫu có chủ đích là các khách thể phải đảm dân chính là việc chưa thể tiếp cận nguồn vắc-xin ngừa
bảo không bị nhiễm COVID-19, đang thực hiện giãn cách COVID-19. Theo VNVC (2020), lô vắc-xin đầu tiên được
xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ và có cam nhập khẩu về Việt Nam vào cuối tháng 2/2021. Tuy nhiên,
kết tham gia nghiên cứu xuyên suốt bối cảnh tiêm vắc- do nguồn vắc-xin có giới hạn nên Bộ Y tế đã ban hành
xin ngừa COVID-19. Với cách chọn mẫu này, các yếu tố quy định về nhóm các đối tượng được ưu tiên tiêm ngừa.
giới tính, trình độ văn hóa, khu vực sinh sống,… được nhìn Do đó, những người dân không thuộc nhóm đối tượng
nhận không có sự khác biệt đáng kể (Creswell & Creswell, ưu tiên tiêm sẽ phải chờ đợi đến lượt. Chính sự chờ đợi
2017). trong bối cảnh dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp và
Để thực hiện nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kỹ thuật thực trạng nguồn vắc-xin nhập khẩu về Việt Nam bị hạn
phỏng vấn sâu tập trung vào các phản ứng cảm xúc của chế đã làm gia tăng sự lo lắng của người dân. Họ muốn
người dân trong các bối cảnh khác nhau của dịch bệnh, được tiêm vắc-xin để đảm bảo an toàn, nhưng nhu cầu
khách thể được yêu cầu hồi tưởng lại những giai đoạn đã này không thể thỏa mãn được ở thời điểm hiện tại. KT7
trải nghiệm, cũng như trình bày cảm xúc của mình khi đối cho biết: “Tôi không thuộc đối tượng được ưu tiên tiêm vắc-
diện với những tình huống sắp đến liên quan đến việc xin sớm. Tôi không biết phải đợi đến khi nào mới được tiêm.
tiêm vắc-xin. Câu hỏi mở “Bạn cảm thấy như thế nào khi Tôi lo sợ mình sẽ bị dương tính trước khi được tiêm trong

42 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
lúc này. Tôi cảm thấy rất bế tắc. Giờ có tiền cũng không Với chính sách tiêm chủng cho tất cả người dân từ 18
thể tiêm được…”. tuổi đang sinh sống trên địa bàn TP.HCM thì vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu tiêm ngừa. Chính vì việc quá tải về mặt
Theo Ciotti và cộng sự (2020), COVID-19 khiến đời số lượng người dân, thiếu thốn trang thiết bị, cơ sở vật
sống xã hội thay đổi. Việc cách ly tại nhà, giãn cách xã hội chất, nguồn vắc-xin, lực lượng hỗ trợ,… nên việc chờ đến
không được giao tiếp với nhiều người xung quanh, khiến lượt tiêm vắc-xin khá lâu là điều không tránh khỏi. Quãng
người dân khó chịu, bức xúc vì không được giải tỏa. Sự thời gian chờ đợi có thể khiến người dân căng thẳng, lo
căng thẳng, u uất này càng trầm trọng thêm khi người lắng, thậm chí cảm thấy khó chịu, bực bội. Thời gian ở
dân biết họ sẽ được tiêm vắc-xin nhưng không biết đến trong nhà kéo dài cùng nhiều nỗi lo lắng, suy nghĩ tiêu
bao giờ. Đây là nguyên nhân khiến lo âu, trầm cảm gia cực khiến nhiều người lâm vào tình trạng căng thẳng kéo
tăng. dài, thậm chí trầm cảm.
Giai đoạn 2: Vui mừng với thông tin về việc triển Giai đoạn 4: Vui mừng khi chính quyền tổ chức
khai tiêm chủng toàn dân đăng ký và tiêm vắc-xin bằng nhiều hình thức khác
nhau
Sau những tháng ngày lo lắng với tình hình dịch bệnh,
thì cuối cùng người dân cũng sắp được tiếp cận với việc Nhận được thông tin Nhà nước tiêm vắc-xin cho cả
tiêm vắc-xin. Tiêm vắc-xin càng lớn càng tốt, đó là cách người có hộ khẩu hay không có hộ khẩu giúp người dân
an toàn và hiệu quả nhất hiện tại để bảo vệ người dân cảm thấy an tâm hơn cho sức khỏe của mình. Tùy theo
khỏi sự lây lan nhanh chóng của dịch bệnh. Thực tế này từng địa phương, một số nơi còn tạo các đường dẫn gửi
làm xuất hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong cảm xúc khi đến người dân trong địa bàn để hướng dẫn đăng ký và để
người dân cảm thấy an tâm hơn cho sức khỏe, tính mạng nhận thông tin hướng dẫn về việc tiêm vắc-xin, kèm tin
của mình. nhắn “Mời người dân đi tiêm vắc-xin” rất chu đáo, mang
tính khích lệ, động viên.
Kết quả phỏng vấn cho thấy, người dân rất vui mừng
khi nhận được thông tin về việc tiêm ngừa toàn dân. KT1 Theo Bộ Y tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho người
chia sẻ, “Qua theo dõi thông tin cho thấy việc tiêm vắc-xin đi tiêm, Bộ Thông tin - Truyền thông đã cho ra đời ứng
cũng rất an toàn nên bản thân anh và gia đình cũng như dụng “Sổ sức khỏe điện tử” để những người có nhu cầu
nhiều người mong mỏi sớm được tiêm để yên tâm ổn định tiêm đăng ký trực tuyến, theo dõi phản ứng và quản lý
sản xuất, kinh doanh”. Cùng cảm xúc trên, KT4 vui mừng sức khỏe sau tiêm. Người dân cũng có thể truy cập cổng
nói: “Mong rằng thành phố sẽ sớm có vắc-xin để tiêm hết thông tin tiêm chủng https://tiemchungcovid19.gov.vn
cho người dân nhằm đạt miễn dịch giúp cuộc sống trở lại để đăng ký và khai báo y tế, cập nhật phản ứng sau tiêm.
bình thường”.
KT11 cho biết: “Hôm nay, nhà tôi có bốn người đi tiêm.
Chiều ngày 15/6, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Nhân viên y tế rất nhiệt tình hỗ trợ bà con và cả gia đình
Long đã chủ trì cuộc họp triển khai chiến dịch tiêm chủng tôi. Tiêm gần nhà, chúng tôi đi bộ rất thuận tiện; còn nếu
vắc-xin ngừa COVID-19 toàn quốc. Theo báo cáo của Bộ đi xe, không biết đi đường nào, vì đường nào cũng rào hết
Y tế, dù nguồn vắc-xin khan hiếm trên quy mô toàn cầu rồi. Chúng tôi rất hoan nghênh việc chính quyền tổ chức
nhưng với nỗ lực lớn, trong năm 2021, Việt Nam có được xuống tận khu vực phong tỏa tiêm như thế này”. Cùng
khoảng 105 triệu liều vắc-xin và tiến tới đạt 150 triệu liều quan điểm, KT12 cho biết, “Sáng nay, ba thành viên trong
để tạo miễn dịch cộng đồng vào cuối năm 2021 và đầu gia đình ông được gọi đi tiêm. Ở đây, lực lượng y tế làm
năm 2022 (Báo Tuổi trẻ, 2021). việc rất là tốt, nhanh chóng, tiện lợi. Nơi được chọn làm
điểm tiêm nằm ngay trong khu dân cư phong tỏa nên rất
Hy vọng được sớm tiêm vắc-xin là nhu cầu chung của
thuận lợi cho người dân”. Như vậy, không chỉ hình thức
người dân cả nước trong thời điểm hiện tại và thông tin
đăng ký tiêm vắc-xin đơn giản, đa dạng mà địa điểm tiêm
về chiến dịch tiêm vắc-xin toàn dân đã kích thích gia tăng
vắc-xin cũng an toàn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
cảm xúc dương tính, mong chờ sự thay đổi tích cực.
người dân.
Giai đoạn 3: Căng thẳng vì dịch ngày càng nặng,
Người dân vô cùng vui mừng với sự thuận tiện, đa
số ca bệnh, người chết tăng và vẫn chưa đến lượt tiêm
dạng hình thức đăng ký và tiêm vắc-xin, đặc biệt là việc
vắc-xin
đăng ký, theo dõi hồ sơ trực tuyến, đưa điểm tiêm lưu
Theo Bộ Y tế, tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng động đến gần người dân. Điều này cũng góp phần giảm
căng thẳng, có ngày số ca dương tính và tử vong liên tục nỗi lo lắng của người dẫn về việc kéo dài thời gian làm thủ
tăng trên cả nước. Vì vậy, áp lực đè nặng lên các lực lượng tục và việc tiếp xúc với nhiều người tại điểm tiêm vắc-xin.
tuyến đầu vô cùng lớn. Trước những thông tin thời sự đó,
Giai đoạn 5: Tiếp tục lo lắng, căng thẳng vì số ca
người dân cũng mang tâm lý hoang mang, hồi hộp chờ
nhiễm chưa kiểm soát được và vẫn chưa đến lượt mình
đợi ngày nhận được thông báo về việc tiêm vắc-xin.
được tiêm vắc-xin
KT9 cho biết: “Bây giờ dịch bùng phát nguy hiểm quá,
Dù đã được đăng ký và có tên trong danh sách tiêm
không thể lường trước được chuyện gì xảy ra. Xung quanh
vắc-xin nhưng với dân số quá đông đã dẫn đến tình trạng
mình có F0 hay không, mình cũng không thể biết. Tiêm
ùn tắc. Trong những ngày tiếp tục chờ đợi, đối mặt với
vắc-xin có thể giúp mình an tâm hơn. Mong mọi người
nhiều thông tin dày đặc về diễn bức phức tạp của dịch
chấp hành nghiêm công tác phòng, chống dịch để trở lại
bệnh khiến tâm lý người dân vô cùng nhạy cảm, đôi khi là
cuộc sống bình thường như trước”. KT3 cho biết, khu nhà
những suy nghĩ tiêu cực.
trọ anh đang ở gần công ty nên cũng bị phong tỏa hơn
một tuần nay. “Không đi làm được nên cả xóm trọ ai cũng KT5 chia sẻ: “Tôi đăng ký tiêm vắc-xin, mong được tiêm
tiêu pha cũng dè sẻn, tằn tiện hơn mới đủ xoay xở. Công sớm. Được tiêm là tôi mừng rồi, không nghĩ gì chuyện kén
nhân không thể làm việc ở nhà như nhiều nghề khác, chọn”. Ngồi ở hàng ghế chờ, KT15 cho biết anh cùng ba
không đến xưởng thì không có thu nhập nên ai cũng mong người khác đều là nhân viên phục vụ tại một quán ăn
được sớm tiêm vắc-xin để đảm bảo an toàn sớm quay trở được đăng ký tiêm vắc-xin đợt này. “Dịch căng thẳng như
lại nhà máy làm việc”. thế này, muốn về quê cũng không dễ, đi lại khó khăn, nên

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 43
tôi được chủ quán động viên ở lại TP.HCM để được tiêm nhiều nguyên nhân cho việc xuất hiện những tác dụng
vắc-xin sớm. Do đó tôi quyết định ở lại và hôm nay thực phụ do lo lắng. Hai trong số những lý do phổ biến nhất
sự đã đến lượt mình được tiêm”. Có thể thấy được, mong phải kể đến là sự nghi ngại với loại vắc-xin và chứng ám
muốn được sớm tiêm vắc-xin là nguyện vọng chung của ảnh về kim tiêm. Chứng bệnh sợ kim tiêm này có thể là
người dân toàn quốc. nguyên nhân của ít nhất 10-15% các trường hợp tiêm
vắc-xin chậm trễ tại Anh và Mỹ (Loomba et al., 2021).
Kèm với đó cũng là nỗi lo về việc mình sẽ được tiêm
loại vắc-xin nào? Loại đó có tốt hay không? Có gây phản Theo Dodd và cộng sự, (2021), trong công tác tiêm
ứng nào với cơ thể không? Nên ăn gì, uống gì trước vào chủng nói chung, bất kỳ cảm giác lo lắng nào dù là nhỏ
sau tiêm để không sốt, mệt mỏi? Hay, điểm tiêm vắc-xin nhất đều có thể dẫn đến những phản ứng căng thẳng
có an toàn không? Đi tiêm vào thời điểm này có quá mạo trong tiềm thức, từ đó biểu hiện ra bên ngoài những dấu
hiểm không? Rất nhiều câu hỏi đặt ra trong đầu khiến sự hiệu rất giống với một số phản ứng phụ do vắc-xin gây
lo lắng càng thêm chồng chất, những suy nghĩ này có thể ra như tim đập nhanh, buồn nôn, mệt mỏi, run rẩy, suy
gây chán nản, buồn bã hoặc trằn trọc mất ngủ, làm ảnh nhược, chóng mặt và một số dấu hiệu tương tự bệnh
hưởng xấu đến tâm lý và sức khỏe thể chất. cúm. Các chuyên gia cũng tin rằng sự lo lắng gia tăng
xung quanh việc tiêm vắc-xin không chỉ gây ra nhiều hiểu
Không những thế, việc nghe được thông tin những lầm không đáng có về các tác dụng phụ mà còn cản trở
người xung quanh đều được tiêm vắc-xin nhưng bản những hiệu quả mà vắc-xin bằng cách làm suy giảm hệ
thân vẫn chưa được tiêm khiến nhiều người cảm thấy nôn miễn dịch.
nóng, ghen tị, đặc biệt là cảm giác thua kém. Từ đó nảy
sinh suy nghĩ tiêu cực và hành vi ứng xử không đúng đắn, Kết quả phỏng vấn cho thấy, cùng với tâm lý vui mừng
văn minh. khi đã được tiêm vắc-xin thì người dẫn cũng căng thẳng
vì sợ tác dụng phụ kèm theo. KT14 tâm sự: “Công việc
Giai đoạn 6: Vui vẻ khi đến lượt được tiêm vắc-xin của tôi thường xuyên đứng chốt ở các chỗ phong tỏa nên
mũi một việc lo lắng tiếp xúc với các ca bệnh là không tránh khỏi.
Trong đợt tiêm này tôi được ưu tiên tiêm nên tôi vui lắm.
Sau những ngày mong mỏi được tiêm vắc-xin, đến
Tuy nhiên, tôi khá lo về tác dụng sau tiêm vắc-xin”. KT8
lượt mình, người dân cho biết vô cùng vui mừng, cảm
cho hay, “Tại khâu đo huyết áp mặc dù có huyết áp cao, tôi
thấy mình may mắn khi ở diện ưu tiên “tiêm sớm chừng
phải ngồi chờ 30 phút cho đến khi đo lại huyết áp ổn định
nào tốt chừng nấy”. Trước khi tiêm, người dân đều được
thì mới được tiêm. Do gặp một số trục trặc này nên tôi rất
khám sàng lọc nên đa phần rất yên tâm. Các trường hợp
lo về tình hình sức khỏe của mình sau tiêm.”
có bệnh nền (tim mạch, cao huyết áp,…), người lớn tuổi
được ưu tiên tiêm ở bệnh viện hoặc nơi trang bị đủ thuốc Nhiều người dân theo dõi các thông tin hằng ngày
(phòng trường hợp phát bệnh). Với quy định về việc tiêm trên mạng xã hội về việc tiêm vắc-xin gây các tác dụng
miễn phí, tự nguyện, đảm bảo an toàn và hướng dẫn cụ phụ như nhức đầu, đau cơ, sốt cao, mệt mỏi, không thể
thể theo quy định nghiêm ngặt khiến cho người dân tin làm việc được trong nhiều ngày,… càng làm cho sự lo sợ
tưởng, phấn khởi khi tiêm vắc-xin. tăng cao. Dù rằng sự thay đổi không đáng kể, nhưng minh
chứng một số tác động tiêu cực từ thông tin mạng xã hội
KT7 rất phấn khởi cầm giấy chứng nhận đã tiêm vắc-
đến tâm lý người dân nếu chưa được kiểm định một cách
xin COVID-19 chia sẻ: “Mới đăng ký danh sách được 3 ngày
khoa học. Tìm hiểu nhiều nhưng thông tin không có hệ
là được tổ dân phố gọi đi tiêm vắc-xin. Dịch bệnh đang
thống, phản khoa học càng làm người dân tự đưa bản
nguy hiểm, đặc biệt với những người lớn tuổi như tôi, nên
thân vào những tình huống không đáng có, đôi lúc lại gây
khi được tiêm vắc-xin tôi rất mừng và yên tâm. Mình già rồi
hại thêm.
nên làm mấy thông tin bằng máy tính không được, nhưng
đến đây thì được các cháu trong Đoàn thanh niên hướng Giai đoạn 8: Vui mừng sau 48 giờ khi cơ thể vẫn
dẫn rất tận tình và động viên nữa”. KT10 là người đầu tiên ổn và cảm thấy an toàn hơn khi đã được tiêm vắc-xin
được tiêm vắc-xin COVID-19 tại công viên Vinhomes Cen- mũi một
tral Park cho hay: “Tôi rất vui vì sau nhiều ngày chờ đợi,
nay đã được tiêm mũi vắc-xin đầu tiên”. Điều đặc biệt là Sau khi tiêm vắc-xin, người dân được yêu cầu nghỉ
điểm tiêm lại được tổ chức trong công viên nằm trong ngơi tại điểm tiêm từ 15 - 30 phút để chờ kết quả phản
khu đô thị gia đình chị đang sinh sống, rất tiện cho việc ứng (nếu có). Riêng đối với người có bệnh nền hay người
đi lại. cao tuổi, sẽ được tiêm tại bệnh viện và có chế độ theo
dõi, chăm sóc sức khỏe riêng sau tiêm. Như đã phân tích,
Như vậy, giấy chứng nhận đã tiêm vắc-xin mũi 1 cũng những phản ứng sau tiêm là hoàn toàn tự nhiên, sau 48
làm cho người dân cảm thấy phấn khởi, tự tin hơn để tiếp giờ những phản ứng này dần mất đi và sức khỏe ổn định
tục cùng nhau ứng phó với đại dịch. trở lại là điều làm người dân thoải mái, vui mừng nhất.
Giai đoạn 7: Hồi hộp, lo sợ phản ứng sau khi tiêm KT11 cho biết đã trải qua 48 giờ sau mũi tiêm đầu tiên,
vắc-xin mũi một có một số phản ứng sau tiêm như sốt nhẹ, đau nhức cơ
nhưng mức độ nhẹ hơn so với hình dung ban đầu. “Tôi
Bác sĩ Trương Hữu Khanh cho biết: “Đa số người dân
rất mừng là phản ứng sau tiêm không đến mức phải nghỉ
lo ngại người thể trạng yếu, người lớn tuổi, có bệnh lý nền
phép, mặc dù ban đầu đã lên kế hoạch phải nghỉ dưỡng
ổn định, hoặc đang dùng thuốc thì sẽ bị “hành” nhiều khi
sức 2 ngày. Bây giờ tôi thấy yên tâm hơn rất nhiều, đã được
chích vắc-xin COVID-19. Điều này hoàn toàn phản khoa
tiêm mũi 1 và duy trì nguyên tắc 5K nữa thì tôi hoàn toàn
học…” (VNVC, 2021). Tại Ấn Độ, một nghiên cứu được
tin rằng bản thân đã được bảo vệ trước dịch bệnh”. KT12
thực hiện bởi Hội đồng Chính phủ đã cho ra một kết quả
cho hay, “Được tiêm là vui rồi, hơn thế được tiêm ở bệnh
đáng kinh ngạc rằng có đến hơn 30% các phản ứng phụ
viện, tôi yên tâm và hạnh phúc lắm. Từ lúc thành phố bùng
sau tiêm được bắt nguồn từ chính cảm giác lo lắng của
phát dịch, tôi chỉ ở nhà. Bây giờ, được tiêm vắc-xin hơn 2
người tham gia tiêm chủng. Theo một báo cáo khác của
ngày rồi, tôi cảm thấy sức khỏe rất tốt và tự tin hơn trong
Ủy ban Quốc gia về các triệu chứng bất lợi sau tiêm (AEFI)
việc phòng dịch”.
được ghi nhận có phản ứng phụ liên quan đến cảm giác
lo lắng. Các báo cáo về cùng một đề tài trên đã chỉ ra có

44 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Niềm vui của người dân khi không xảy ra những phản KT3 cùng gia đình cho biết: “Tôi không nghĩ gia đình
ứng nặng sau tiêm là niềm vui chung của người dân, bởi tôi có cơ hội được tiêm vắc-xin đầy đủ 2 mũi vắc-xin sớm
tình hình dịch bệnh trong khu vực vẫn còn diễn ra phức như vậy… quy trình tiêm chủng được tổ chức rất tốt, nhanh
tạp. Được tiêm vắc-xin kịp thời, nhanh chóng và an toàn là chóng và an toàn”. Đồng suy nghĩ trên, KT9 chia sẻ: “Tôi rất
điều khiến họ vô cùng hạnh phúc, phấn khởi, tự tin đương vui mừng và bất ngờ, không nghĩ mình được hoàn thành 2
đầu đại dịch. Đến đây, được tiêm mũi một an toàn xem mũi tiêm nhanh như vậy, từ nay tôi và gia đình rất yên tâm
như đã hoàn thành một nửa chặng đường tiêm vắc-xin – để tiếp tục phòng chống dịch cùng cả nước”.
đẩy lùi đại dịch.
Đối với người dân, những ai đã sớm hoàn thành tiêm
Giai đoạn 9: Tiếp tục chờ đợi và trông chờ không đầy đủ hai mũi vắc-xin trong bối cảnh hiện nay thì thực
biết khi nào được tiêm mũi hai sự là một niềm may mắn, hạnh phúc. Hoàn thành hai lần
tiêm, người dân sẽ không quá lo lắng về sức khỏe trong
Sự lo lắng, trông chờ tiếp tục lặp lại khi tình hình dịch bối cảnh dịch bệnh diễn tiến và cảm thấy an tâm hơn để
bệnh vẫn ngày càng căng thẳng, chưa có dấu hiệu thuyên tham gia vào quá trình tái sản xuất, vận hành lại công
giảm. Số lượng người chưa tiêm vắc-xin còn rất nhiều, cơ việc. Tuy nhiên, dù đã được tiêm 2 mũi vắc-xin, người dân
sở vật chất và lực lượng tuyến đầu còn thiếu thốn, luôn không được chủ quan và phải tuân thủ quy tắc 5K khi đến
cần sự hỗ trợ, chi viện của cả nước. Với bối cảnh này, việc nơi đông người, cũng như luôn trên tinh thần vừa chiến
người dân mơ hồ không biết khi nào mình được tiêm mũi đấu, vừa sản xuất và chung sống cùng đại dịch.
2 là điều khó tránh.
4. Kết luận
KT1 chia sẻ, “Tôi đã được tiêm mũi 1 cách đây 4 tuần,
nhưng tôi vẫn rất lo lắng không biết khi nào mình mới
Dịch bệnh COVID-19 gây ra những tác động đáng kể
được tiêm mũi 2 vì thấy tình hình còn nhiều người chưa
đối với tâm lý của người dân, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Sự
được tiêm quá”. Cùng suy nghĩ, KT4 chia sẻ: “Tôi may mắn
xuất hiện của vắc-xin ngừa COVID-19 như một nguồn lực
được ưu tiên tiêm sớm mũi 1, tuy nhiên, tôi cũng rất lo tới
tinh thần mạnh mẽ, giúp người dân cảm thấy an toàn hơn
thời điểm tiêm mũi 2 tôi lại chưa đến lượt, tôi sợ khoảng
trong đại dịch. Đây là sự kiện đánh dấu sự chuyển biến
cách xa quá thuốc không có tác dụng”.
cảm xúc tích cực đối với người dân trong bối cảnh đại
Bộ Y tế đã ban hành công văn số 6030/BYT-DP ngày dịch vì nhu cầu an toàn về sức khỏe thể chất và tinh thần
27/7/2021 về hướng dẫn tiêm hai mũi vắc xin phòng của họ được đảm bảo.
COVID-19. Việc kết hợp hai loại vắc-xin cho hai lần tiêm
Sự thay đổi cảm xúc của người dân đối với việc tiêm
có thể gây tăng phản ứng sau tiêm so với nếu tiêm cùng
vắc-xin được trình bày qua 10 giai đoạn. Diễn tiến này tạo
một loại. Ở giai đoạn chờ tiêm mũi hai, nhiều người dân
ra nhiều cung bậc cảm xúc đan xen, từ đó có thể nảy sinh
bắt đầu nảy sinh tâm lý nôn nóng tiếp tục được tiêm
căng thẳng, lo âu, thậm chí là trầm cảm nếu không ứng
bởi vì nếu lượng vắc-xin không đáp ứng đủ thì đến thời
phó kịp thời.
gian tiêm mũi hai có đủ thuốc không? Tiêm trễ có bị ảnh
hưởng gì không? Rất nhiều câu hỏi đặt đặt ra luôn khiến Có thể nhận định, cảm xúc của người dân đối với việc
sự lo lắng thái quá, lo lắng kéo dài lặp đi lặp lại có thể dẫn tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 là chuỗi cảm xúc âm tính và
đến nguy cơ rối loạn lo âu, trầm cảm rất cao. dương tính đan xen. Hiểu được những thay đổi, cũng như
dự báo được sự chuyển biến tâm lý trong bối cảnh này sẽ
Giai đoạn 10: Vui mừng khi đã hoàn thành việc
giúp người dân nâng cao nhận thức, có thể tự trấn an bản
tiêm hai mũi vắc-xin
thân và nâng cao sức khỏe, nâng đỡ tinh thần hợp lý, hiệu
Theo nghiên cứu của Andreadakis và cộng sự (2020), quả. Đây là cơ sở quan trọng để những nghiên cứu tiếp
sau khi tiêm mũi một, hiệu quả phòng các thể COVID-19 theo về phản ứng cảm xúc của người dân đối với sự kiện
phải ít nhất sau 14 ngày (với vắc-xin Moderna), 14 đến 21 dịch bệnh được kế thừa và có những bước nghiên cứu sâu
ngày (với vắc-xin AstraZeneca) mới bước đầu có tác dụng hơn về bản chất của chuỗi cảm xúc đó. Ngoài ra, các phát
và mức bảo vệ sau tiêm mũi 1 chỉ đạt ở mức rất thấp. Sau hiện của nghiên cứu này có thể hỗ trợ các nhà tâm lý có
tiêm mũi 2 từ một tháng, vắc-xin mới đạt hiệu quả bảo những chiến lược chăm sóc tinh thần hiệu quả trong mùa
vệ tối ưu và hiệu quả này cũng chỉ đạt ở mức khoảng dịch, góp phần chung tay và đồng hành cùng người dân
60% - 90% tùy loại vắc-xin. Như vậy, dù đã tiêm đủ hai chiến thắng đại dịch.
mũi vắc-xin thì vẫn có nguy cơ mang bệnh. Nhưng lợi ích
mà vắc-xin đem lại là nếu mắc bệnh sẽ nhẹ hơn, giảm khả
năng lây nhiễm và hạn chế tử vong.

(*) Bài viết là sản phẩm của nhiệm vụ nghiên cứu do nhóm Nghiên cứu mạnh Tâm lý học giáo dục của
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM thực hiện với sự quản lý
của Phòng Khoa học Công nghệ và Môi Trường – Tạp chí khoa học.

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO

American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 5th Edi-
tion. American Psychiatric Association.
Andreadakis, Z., Kumar, A., Román, R. G., Tollefsen, S., Saville, M., & Mayhew, S. (2020). The COVID-19
vaccine development landscape. Nature reviews. Drug discovery, 19(5), 305-306.
VTV NEWS (2021). Phát động chiến dịch tiêm vaccine lớn nhất trong lịch sử. Dẫn nguồn: https://vtv.vn/
chinh-tri/phat-dong-chien-dich-tiem-chung-quoc-gia-lon-nhat-trong-lich-su-20210710122931102.
htm
Báo Tuổi trẻ (2021). Triển khai chiến dịch tiêm chủng lớn nhất trong lịch sử. Dẫn nguồn: https://tuoitre.vn/
trien-khai-chien-dich-tiem-chung-lon-nhat-trong-lich-su-20210616025345916.htm
Chou, W. Y. S., & Budenz, A. (2020). Considering emotion in COVID-19 vaccine communication: address-
ing vaccine hesitancy and fostering vaccine confidence. Health communication, 35(14), 1718-1722.
Ciotti, M., Ciccozzi, M., Terrinoni, A., Jiang, W. C., Wang, C. B., & Bernardini, S. (2020). The COVID-19 pan-
demic. Critical reviews in clinical laboratory sciences, 57(6), 365-388.
Creswell, J. W., & Creswell, J. D. (2017). Research design: Qualitative, quantitative, and mixed methods
approaches. Sage publications.
Cullen, W., Gulati, G., & Kelly, B. D. (2020). Mental health in the COVID-19 pandemic. QJM: An Internation-
al Journal of Medicine, 113(5), 311-312.
Dodd, R. H., Pickles, K., Nickel, B., Cvejic, E., Ayre, J., Batcup, C., ... & McCaffery, K. J. (2021). Concerns and
motivations about COVID-19 vaccination. The Lancet. Infectious Diseases, 21(2), 161.
Loomba, S., de Figueiredo, A., Piatek, S. J., de Graaf, K., & Larson, H. J. (2021). Measuring the impact of
COVID-19 vaccine misinformation on vaccination intent in the UK and USA. Nature human behaviour,
5(3), 337-348.
Noy, C. (2008). Sampling knowledge: The hermeneutics of snowball sampling in qualitative research.
International Journal of social research methodology, 11(4), 327-344.
Psycare (2021). Ứng phó với căng thẳng mùa COVID-19. Dẫn nguồn: https://www.facebook.com/psycar-
evietnam/photos/pcb.113615497683478/113613947683633/
VNVC (2021). Phản ứng sau tiêm vaccine COVID-19 ít hơn tỷ lệ mắc bệnh. Dẫn nguồn: https://vnvc.vn/
phan-ung-sau-tiem-vaccine-covid-19-it-hon-ty-le-mac-benh/
WHO (2020). COVID-19 và sức khỏe tâm thần. Dẫn nguồn: https://www.who.int/vietnam/vi/emergen-
cies/covid-19-in-vietnam/information/mental-health

46 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Nguyễn Hồng Anh
Trường Đại học Quốc tế,
THẾ
THẾ HỆ
HỆ ZZ VÀ

ĐHQG-HCM
NGÀNH
NGÀNH THỰC
THỰC PHẨM
PHẨM
Tóm tắt
COVID-19 đã làm thay đổi cấu trúc kinh doanh
HẬU
HẬU COVID-19
COVID-19
của rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là ngành thực 1) Thế hệ Z tại Việt Nam qua khảo sát của Deci-
phẩm. Đợt dịch COVID-19 thứ tư (4) 2021 đã làm toàn sion lab HCM
bộ ngành hàng thực phẩm chế biến thiệt hại nghiêm Kết quả nghiên cứu thói quen sử dụng dịch vụ ăn uống
trọng. Hiện nay, chương trình tiêm vaccine đang được thế hệ Z do Decision Lab (TPHCM) thực hiện với 16.000
triển khai rộng khắp các tỉnh thành, theo dự đoán đại người tham gia tại ba thành phố lớn nhất của Việt Nam là
dịch COVID-19 sẽ kết thúc trong tương lai gần. Để TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng cho thấy thế hệ Z (chiếm 15%
chuẩn bị cho tái kinh doanh hậu Covid, phương thức dân số với 14,4 triệu người) có thói quen sử dụng dịch vụ
kinh doanh thực phẩm ăn uống cần phải thay đổi rất thực phẩm chế biến sẵn như sau:
nhiều để thích ứng với môi trường và thói quen mới - Thích ăn ở ngoài do thực phẩm đa dạng, giá cả phù
của khách hàng. Bài viết này thảo luận và đề xuất một hợp.
số chiến lược kinh doanh hậu Covid cho ngành kinh - Ưu tiên thực phẩm sạch, bảo vệ sức khỏe và môi
doanh thực phẩm đối với nhóm khách hàng thế hệ Z. trường.
- Chọn món ưu tiên chuỗi ăn nhanh, thức ăn đường
phố, cuối cùng là cửa hàng tiện lợi.
I) Thế hệ Z và thói quen sử dụng dịch vụ ăn uống - Gọi đồ ăn thức uống bất kể thời gian nào trong ngày.
- Thường bổ sung các loại trà và trà sữa vào thực đơn
Thế hệ Z là nhóm khách hàng sinh từ năm 1995 đến chính.
2010, đây là nhóm khách hàng quan trọng, tiềm năng vì - Thích săn giá và khuyến mãi trên các ứng dụng Food
họ trẻ, năng động, có trình độ học vấn, thông thạo công delivery. Họ thích gọi món có kèm nước uống.
nghệ. Họ dựa vào mạng xã hội, trang web, blog và các - Sử dụng mạng xã hội để tìm hiểu khám phá thêm
nền tảng để ra quyết định mua sắm. Theo nghiên cứu nhiều món ăn mới lạ.
của McKensey & Company (2018) thế hệ Z có một số đặc - Thích gọi món về nhà.
điểm chung trong việc tiêu thụ hàng hóa như sau:
- Mục tiêu của tiêu dùng là thể hiện tính cách cá nhân 2) Thế hệ Z tại Việt Nam qua khảo sát của GoViet
(individual identity) năm 2020
- Đòi hỏi cao về đạo đức kinh doanh (Ethics expecta- GoViet là công ty kinh doanh dịch vụ gọi thức ăn qua
tion) nền tảng tại Việt Nam. Năm 2020 họ công bố khảo sát
- Thích sử dụng hơn là sở hữu (From possession to về thói quen ăn uống của thế hệ Z nhằm giúp cung cấp
access) những thông tin sâu về xu hướng, thói quen dùng bữa
Yêu thích những sản phẩm giúp họ thể hiện được hình của người dân, đặc biệt là giới trẻ sống tại hai thành phố
ảnh, cá tính cá nhân, lựa chọn nhà cung cấp đặt tiêu chí lớn nhất nước.
đạo đức kinh doanh lên hàng đầu và thích trải nghiệm
sản phẩm hơn là sở hữu, đó là một số đặc tính cơ bản của Theo kết quả nghiên cứu, ngành tiêu dùng ẩm thực tại
nhóm khách hàng thế hệ Z. thị trường Việt Nam có 6 xu hướng chính:

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 47
- Bữa trưa và bữa tối là hai bữa ăn được chú trọng và sử dụng các nền tảng Food delivery để tìm kiếm và lựa
nhất. Ăn vặt cũng là một phần không nhỏ. chọn gọi món.
- Người Việt ít đi ăn một mình. Phần lớn thời gian ăn
uống được người Việt dành cho bạn bè và gia đình. II) Một số chiến lược kinh doanh mới cho
- Người dùng Việt Nam ưu tiên chất lượng món ăn và ngành hàng thực phẩm hậu COVID-19
sự đa dạng hơn là sự tiện lợi. Họ sẵn sàng chờ đợi để có
được món ăn yêu thích, sẵn sàng dành nhiều thời gian Thế hệ Z năng động, thích ứng nhanh với 5K và thanh
hơn và chi nhiều tiền hơn để nhận được món ăn ngon, có toán không tiền mặt. Họ thông thạo công nghệ và tận
chất lượng. dụng các nền tảng và mạng xã hội để ra quyết định mua
- Hơn 60% người dân không thích tự nấu ăn, thích gọi sắm. Họ ưa chuộng sản phẩm mới, thích trải nghiệm sử
món đã được chế biến sẵn. dụng, đòi hỏi sản phẩm xanh sạch bảo vệ sức khỏe con
- Thanh toán bằng tiền mặt chiếm ưu thế. người và cộng đồng, bên cạnh đó, họ cũng quan tâm đến
- Chi tiêu trung bình cho đặt đồ ăn trực tuyến nhiều các sản phẩm bảo vệ môi trường. Kinh doanh hậu COVID-
gấp đôi so với ăn tại chỗ. 19COVID-19 cần nắm bắt tâm lý nhóm khách hàng này
để đáp ứng kỳ vọng của họ một cách tốt nhất. Do đó, nhà
3) Thói quen mới được thiết lập qua thời gian dài hàng, hộ kinh doanh trong lĩnh vực thực phẩm cần xem
phong tỏa và giãn cách xã hội xét các chiến lược kinh doanh mới, phù hợp với bối cảnh
Hơn một năm dài cả nước đồng lòng chiến đấu chống mới.
dịch COVID-19COVID-19 dưới sự chỉ đạo và điều hành
của Đảng và nhà nước. Thông qua các biện pháp cách 1) Chuyển sang mô hình Take-away
ly như kêu gọi, vận động, giải thích, thuyết phục, hướng Phương thức kinh doanh truyền thống cần phải thay
dẫn, yêu cầu người dân không ra khỏi nhà, “ai ở đâu ở đổi nếu hộ kinh doanh không đảm bảo được yêu cầu về
đó”, cách ly người với người, nhà với nhà, xã phường với khoảng cách trong bối cảnh mới. Việc chuyển đổi sang
xã phường. Tất cả hàng quán, cửa hàng, cơ sở kinh doanh mô hình Take-away giúp doanh nghiệp cắt giảm được rất
đều phải đóng cửa để đảm bảo cách ly, giãn cách triệt để. nhiều chi phí như thuê mặt bằng, thuê nhân công, phục
Người dân phải ở trong nhà, không được ra đường khi vụ v.v…. Doanh nghiệp sẽ linh động hơn, chủ động hơn
không có nhu cầu cần thiết. Việc tuân thủ theo quy định khi ứng phó với những thay đổi đột ngột của môi trường
về phong tỏa và giãn cách xã hội một thời gian dài, vô kinh doanh.
tình đã giúp người dân thiết lập được một số thói quen
mới trong sinh hoạt và mua sắm như sau: Kinh doanh Take-away không chú trọng đầu tư vào địa
điểm, không gian, cách bày trí sắp xếp. Kinh doanh Take-
1) Thói quen 5K away đầu tư nhiều vào chất lượng sản phẩm, bao bì đóng
Giữ khoảng cách, rửa tay thường xuyên, đeo khẩu gói, chú trọng nhiều vào hình thức. Do đó, doanh nghiệp
trang, không tụ tập, khai báo y tế sẽ là câu cửa miệng của cần phải thay đổi thói quen mua sắm nguyên liệu đầu vào,
tất cả mọi người. Khi khẩu hiệu này được đưa vào tiềm thay vào đó lựa chọn các đơn vị cung cấp, có uy tín, có
thức, suy nghĩ và hành động sẽ trở thành thói quen. Ngoài thương hiệu, có nguồn gốc để làm minh chứng cho khách
thói quen rửa tay và đeo khẩu trang thường xuyên, người hàng về nguồn nguyên liệu xanh, sạch.
dân còn tự động giữ khoảng cách với nhau trong lúc trò
chuyện, trong lúc ăn uống ở hàng quán, trong khu mua 2) Áp dụng máy móc, công nghệ, bao bì đóng gói
sắm siêu thị và trong phương tiện giao thông công cộng. đảm bảo sức khỏe, thân thiện môi trường
Hiện nay các trang thiết bị phục vụ cho lĩnh vực nhà
2) Thực phẩm sạch hàng, khách sạn rất đa dạng và phong phú. Các trang
Dịch bệnh đã làm cho mọi người có ý thức hơn về vệ thiết bị này giúp việc lưu trữ và chế biến phực phẩm an
sinh chung và vệ sinh thực phẩm. Chúng ta đều hy vọng toàn, sạch, tiết kiệm nhiên liệu và giữ được đầy đủ hương
dịch COVID-19COVID-19 sẽ chấm dứt sớm, tuy nhiên các vị thức ăn, thức uống. Bên cạnh đó, vấn đề về bao bì đóng
chuyên gia trên thế giới có nhận định rằng khó có thể gói đối với thực phẩm mang đi rất là quan trọng. Đòi hỏi
chấm dứt, mà chỉ có thể khống chế và sống chung với nó. thức ăn, thức uống phải được đựng trong những hộp phù
Do đó, về lâu về dài yêu cầu về thực phẩm xanh, sạch từ hợp, đẹp, sang trọng, không chỉ bảo vệ sức khỏe người
khách hàng sẽ khắt khe hơn. tiêu dùng, mà còn giúp thức ăn giữ được mùi vị và hình
dạng ban đầu. Hiện nay hộp đựng thực phẩm làm từ bã
3) Thanh toán không tiền mặt mía đang rất thịnh hành, có đủ loại kích cỡ và nắp bảo vệ
Theo khảo sát của Decision Lab, trước đây khách hàng chắc chắn. Hộp làm từ bã mía có thể tự tiêu hủy trong môi
đa số thích sử dụng tiền mặt khi mua sắm online. Nhưng trường tự nhiên, do đó không làm ô nhiễm môi trường
do trải qua thời kỳ gian phong tỏa và giãn cách xã hội khá như các bao bì hộp bằng nhựa.
dài, mọi người đã làm quen và sử dụng các công cụ thanh
toán online phổ biến như ví Momo, Zalo Pay v.v… và nó sẽ 3) Tận dụng các nền tảng gọi thức ăn
trở thành một thói quen mới khi mua sắm sau này. Các nền tảng gọi thức ăn hoạt động rất hiệu quả, có
độ phủ sóng và nhận diện khắp nơi. Kinh doanh dịch vụ
4) Food delivery lên ngôi thức ăn, uống mang về nên tận dụng kết hợp với các nền
Khi khách hàng ý thức hơn về vấn đề giữ khoảng cách, tảng gọi thức ăn, thức uống nổi tiếng như Grab Food,
những nhà hàng và hộ kinh doanh thực phẩm ăn uống Now, Baemin để quảng bá sản phẩm, tìm kiếm khách
không có đủ không gian sẽ không thu hút được khách hàng tiềm năng và giữ chân khách hàng trung thành.
hàng, thay vào đó, khác hàng sẽ chọn hình thức mang về

48 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Doanh nghiệp, hộ kinh doanh thực phẩm ăn uống phải
hết sức chú trọng đến sự hài lòng của khách hàng, thể III) Kết luận
hiện qua đánh giá xếp thứ hạng sản phẩm. Điều này cực
kỳ quan trọng, vì khách hàng sau sẽ dựa vào thứ hạng và Kinh doanh dịch vụ ăn uống hậu Covid cần phải thay
đánh giá của khách hàng trước để quyết định chọn mua. đổi để đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi mới của khách hàng,
Mục tiêu là để xây dựng lòng tin, xây dựng thương hiệu đặc biệt là thế hệ Z. Ngoài những yêu cầu chung về an
và phát triển khách hàng, để từ từ khách hàng lân cận sẽ toàn thực phẩm, sự đa dạng của món ăn thức uống, thích
đến cửa hàng mua thực phấm, giảm dần sự lệ thuộc vào sử dụng công nghệ săn sales, kinh doanh lĩnh vực ăn uống
các nền tảng. cần chuyển đổi mô hình kinh doanh để thích hợp hơn với
hoàn cảnh mới như chuyển đổi sang Take-away, chú trọng
5) Local marketing đầu tư hơn về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, tận
Local marketing là quảng bá thương hiệu sản phẩm dụng các nền tảng gọi món và mạng xã hội để quảng bá
cho khách hàng trong phạm vi gần. Điều này mang lại rất thương hiệu, tìm kiếm khách hàng mới và tạo khách hàng
nhiều lợi ích cho kinh doanh dịch vụ ăn uống mang về. trung thành. /.
Nếu doanh nghiệp, hộ kinh doanh thành công trên các
nền tảng gọi món, thì việc quảng bá thực phẩm cho khách
hàng lân cận sẽ dễ dàng hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặt điểm tiêu dùng của thế hệ Z:


https://www.mckinsey.com/industries/consumer-packaged-goods/our-insights/true-gen-gen-
eration-z-and-its-implications-for-companies
2. Kết quả khảo sát của Goviet
https://www.gojek.com/vn/blog/goviet-cong-bo-ket-qua-khao-sat-xu-huong-hanh-vi-tieu-
dung-am-thuc/
3. Kết quả khảo sát của Decision Lab
https://www.brandsvietnam.com/congdong/topic/4452-Nguoi-tieu-dung-Viet-chat-chiu-do-
an-vung-phi-do-uong

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 49
TIÊM ĐẦY ĐỦ VẮC-XIN
CÓ GIÚP NGỪA LÂY NHIỄM SARS-CoV-2, ĐẶC
BIỆT LÀ VỚI CHỦNG DELTA, HAY KHÔNG?
Nguyễn Hà Vân Anh,
Khoa Công nghệ Sinh học,
Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG-HCM

Tỷ lệ 1/5.000
1 trên 5.000, hay 0.02%, là nguy cơ dương tính với SARS-CoV-2 sau khi tiêm vắc-xin (ca nhiễm
đột phá), được dự báo đối với người dân ở bang Virginia, Utah, và hạt King (thuộc tiểu bang Wash-
ington, bao gồm thủ phủ Seattle). Thực chất, tỷ lệ này còn thấp hơn nữa đối với nhóm người đã
áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa hay sống trong tập thể được tiêm phòng đầy đủ. Ví dụ
điển hình là ở Chicago, Los Angeles hay San Francisco, tỷ lệ trên chỉ còn xấp xỉ 1/10.000, đồng nghĩa
với việc phải mất hơn ba tháng để rủi ro dương tính sau khi tiêm chạm tới ngưỡng 1%. Con số trên
lại chưa tính đến các trường hợp dương tính chưa được xét nghiệm do không có triệu chứng, hoặc
triệu chứng nhẹ, và không lây lan vi-rút. Trong khi đó, trên toàn thể bang Washington, tỷ lệ tử vong
do vi-rút của người được tiêm đầy đủ là 0.0043% (dữ liệu từ Sở Y tế Washington).

Tuy nhiên, tỷ lệ trên chỉ áp dụng cho người đã chích đủ 2 mũi vắc-xin. Nguy cơ lây nhiễm của
người chưa tiêm phòng đầy đủ vẫn luôn cao hơn so với người đã được tiêm phòng (trích lời Trung
tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa kỳ CDC và tiến sĩ Jeffrey Duchin, chuyên gia y tế tại
Seattle). Cụ thể, những con số thống kê tại hạt King (dân số 2.25 triệu người) cho thấy:
- Người chưa chích ngừa đầy đủ có nguy cơ nhập viện vì vi-rút SARS-CoV-2 cao gấp 49 lần, tỷ lệ
tử vong từ các bệnh liên quan cao gấp 32 lần, và khả năng nhiễm vi-rút cao gấp 7 lần người được
tiêm đầy đủ.
- Nếu tính theo tiểu bang, thì những tiểu bang chưa tiêm chủng đầy đủ có tỷ lệ mắc COVID-19
cao gấp 4 lần những tiểu bang đã tiêm đầy đủ.

50 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021
Hình ảnh: Con số thống kê
ở riêng thành phố Seattle
(dân số khoảng 700.000
người) ghi nhận tỷ lệ mắc
COVID-19 ở người chưa
tiêm chủng đầy đủ cao gấp
10 lần người đã tiêm (theo
báo The New York Times).

Tuy chủng Delta là một vấn đề lớn, nhưng sự và được dự báo sẽ để lại di chứng mạnh mẽ nếu không
ngần ngại và từ chối tiêm vắc-xin là vấn đề cần có biện pháp ứng phó để sớm mở cửa trở lại nơi làm
được giải quyết hơn việc. Cần nhấn mạnh là tiêm phòng đầy đủ vắc-xin trong
thời điểm hiện tại vẫn có hiệu quả trong việc ngăn chặn
Cách đây không lâu, nhiều thông tin dấy lên rằng đối lây nhiễm SARS-CoV-2 và các biến chứng từ nó, và ngay
diện với biến chủng vi-rút Delta như hiện tại, thì ngay cả cả khi người được tiêm ngừa xuất hiện triệu chứng, thì
người được tiêm đầy đủ cũng có khả năng lây nhiễm. Thế những triệu chứng đó vẫn có xu hướng nhẹ hơn, giúp cho
nhưng, cách thức hoạt động của vi-rút có trong đường hô tỷ lệ nhập viện hay tử vong đều rất thấp so với người chưa
hấp những người được tiêm chủng khác với những người được tiêm đầy đủ (trích CDC, Hoa Kỳ). Những sự ngần
chưa tiêm, ngay khi cả hai đối tượng có cùng chung một ngại và từ chối tiêm vắc-xin đều dẫn đến những hệ lụy
tải lượng vi-rút như nhau. Người được tiêm phòng đầy về sức khỏe và mối nguy cho cộng đồng khi quay lại chế
đủ có hệ thống miễn dịch mạnh mẽ để có thể đáp trả lại độ hậu giãn cách. Do đó, tiêm phòng là cần thiết nhất để
nhanh chóng sự tấn công từ vi-rút, từ đó bảo vệ cơ thể giảm thiểu rủi ro từ việc mắc vi-rút SARS-CoV-2, và giúp
khỏi nhiễm bệnh và lây nhiễm ra cộng đồng. Có thể so xã hội sớm quay trở lại nhịp sinh hoạt ban đầu.
sánh triệu chứng mắc vi-rút sau khi chích đầy đủ như khi
bị cúm mùa. Thế nên vấn đề về tải lượng vi-rút không gây
hệ quả nghiêm trọng ở đối tượng tiêm đầy đủ. Ở Anh,
hiếm có trường hợp người lớn bị bệnh nặng, và họ cũng
không khuyên trẻ em khỏe mạnh cần phải tiêm vắc-xin.
Ảnh hưởng của dịch bệnh do vi-rút SARS-CoV-2 gây ra đã
kéo dài quá lâu, gây đình trệ nhiều hoạt động của xã hội

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bài viết “One in 5,000” (2021). https://www.nytimes.com/2021/09/07/briefing/risk-breakthrough-in-


fections-delta.html
2. Bài viết “Unvaccinated people 7 times more likely to test positive for COVID-19, new King County
data shows” (2021). https://www.king5.com/article/news/health/coronavirus/vaccine/unvaccinat-
ed-people-7-times-more-likely-to-test-positive-for-covid-19-new-king-county-data-shows/281-
c4c842cb-1f5a-432d-9776-812ae71a50ce
3. Bài viết “Khả năng mắc COVID-19 sau tiêm chủng: Lây nhiễm đột phá” (2021). https://vietnam-
ese.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/vaccines/effectiveness/why-measure-effectiveness/break-
through-cases.html
4. Bài viết “Trì hoãn tiêm vắc-xin COVID-19: Mối nguy hiện hữu” (2021). https://ncov.moh.gov.vn/
web/guest/-/6851652-31

COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021 51
Newsletter

COVID-19

vnuhcm.edu.vn | info@vnuhcm.edu.vn
vnuhcm.info | vnuhcm
Chuyên trang COVID-19
covid19.vnuhcm.edu.vn
covid19@vnuhcm.edu.vn
52 COVID-19 NEWSLETTER
Số ngày 20/9/2021

You might also like