You are on page 1of 113

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM HỒNG THỦY

TéI TµNG TR÷, VËN CHUYÓN, MUA B¸N TR¸I PHÐP


CHÊT MA TóY TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö t¹i ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM HỒNG THỦY

TéI TµNG TR÷, VËN CHUYÓN, MUA B¸N TR¸I PHÐP


CHÊT MA TóY TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö t¹i ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH QUỐC TOẢN

HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Hồng Thủy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ....................................................9
1.1. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy và hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam.........................9
1.1.1. Khái niệm về ma tuý ....................................................................................9
1.1.2. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam......................................................................12
1.1.3. Sự cần thiết của việc quy định tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam .........................................14
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam ..............16
1.2.1. Thời kỳ trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985..............................16
1.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999 ..................................................................21
1.2.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay .....................27
1.3. Tội phạm về ma túy trong pháp luật hình sự của một số quốc gia
trên thế giới hiện nay................................................................................32
1.3.1. Luật hình sự Liên bang Nga .......................................................................32
1.3.2. Luật hình sự Hà Lan ...................................................................................33
1.3.3. Luật hình sự Trung Quốc ...........................................................................34
1.3.4. Một số kết luận ...........................................................................................36

Chương 2: TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ
THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY TẠI ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015 ....................38
2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy và hình phạt đối với tội phạm này ....38
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy ..................................................................................38
2.1.2. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy với
tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy ..........................................................46
2.1.3. Hình phạt đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy .................................................................................................48
2.1.4. Một số trƣờng hợp phạm tội cụ thể ............................................................50
2.2. Thực tiễn xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn
từ năm 2011 đến năm 2015 ......................................................................55
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử
đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy .......60

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC


QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN
CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY .........................73
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy ...............73
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
liên quan đến tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy ........................................................................................................76
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử đối với tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy..........................................80
3.3.1. Giải pháp về công tác nghiệp vụ ................................................................80
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức ....................................................................82
3.3.3. Giải pháp về quan hệ phối hợp hoạt động ..................................................85
3.3.4. Giải pháp về pháp luật ................................................................................87
3.3.5. Một số giải pháp khác ................................................................................95

KẾT LUẬN ..............................................................................................................98


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................101
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang

Bảng 2.1: Thống kê số vụ án, số bị cáo phạm tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Đà
Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015 56

Bảng 2.2: Thống kê tỷ lệ bị cáo phạm tội về ma túy thuộc trƣờng


hợp tái phạm nguy hiểm tại thành phố Đà Nẵng trong giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 59

Bảng 2.3: Thống kê số lƣợng và tỷ lệ vụ án tàng trữ, vận chuyển,


mua bán trái phép chất ma túy đƣợc đƣa ra xét xử lƣu
động tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015 62

Bảng 2.4: Thống kê số lƣợng vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011
đến năm 2015 bị Tòa án hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát 66
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Ma túy - Hiểm họa chung của toàn nhân loại đã, đang và sẽ còn tiếp tục gây ra
những tác hại nhiều mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với tất cả các quốc
gia, dân tộc trên thế giới. Ma túy không chỉ làm suy thoái đạo đức, nhân cách, phẩm
giá của con ngƣời, gây xói mòn đạo lý và tàn phá sự phát triển giống nòi của các dân
tộc, mà còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng…, làm lây lan
nhanh chóng căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và vắt kiệt mọi nguồn lực của các quốc gia.
Theo đánh giá của Cơ quan Phòng chống ma túy và Tội phạm của Liên hợp
quốc (UNODC), châu Á là thị trƣờng lớn nhất thế giới về các loại ma túy tổng hợp,
các chất hƣớng thần. Theo ƣớc tính, hiện nay có khoảng gần 9 triệu ngƣời tại khu
vực này sử dụng các loại ma túy tổng hợp, chiếm 25% tổng số ngƣời sử dụng ma
túy tổng hợp của thế giới. Phần lớn lƣợng ma túy tổng hợp cung ứng trong khu vực
châu Á đƣợc đƣa đến từ các cơ sở sản xuất ma túy quy mô lớn nằm tại Trung Quốc,
Myanma và Philippine hoặc đƣợc đƣa từ Mê-hi-cô, khu vực Trung Đông, Nam Á,
Tây Á và Tây Phi. Các đƣờng dây vận chuyển côcain bị phát hiện trong thời gian
gần đây cho thấy tội phạm ma túy đang có ý định biến Đông Nam Á thành thị
trƣờng mới cho loại ma túy nguy hiểm này.
Tác động của tội phạm ma túy trên toàn thế giới và trong khu vực Đông Nam
Á đã và đang làm cho tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở nƣớc ta tiếp tục diễn
biến phức tạp. Các cơ quan chức năng ở Việt Nam đã liên tiếp phát hiện nhiều
đƣờng dây vận chuyển ma túy với số lƣợng lớn. Các đƣờng dây vận chuyển ma túy
xuyên quốc gia cũng không ngừng gia tăng hoạt động với qui mô ngày càng lớn và
với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Hành vi phạm tội của tội phạm ma túy cũng
ngày càng trở nên liều lĩnh, táo tợn và nguy hiểm hơn.
Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, mặc dù các cấp ủy Đảng, chính quyền và
nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có rất nhiều quyết tâm, nỗ lực để ngăn chặn tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy, nhƣng loại tội phạm

1
này vẫn tiếp tục gia tăng một cách đều đặn cả về số lƣợng ngƣời phạm tội, số vụ
việc phạm tội lẫn mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung,
đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói riêng và đặc biệt là những diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm về ma túy tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2015, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn
xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học
với mong muốn đƣợc trình bày một số quan điểm của mình về vấn đề quan trọng và
cần thiết này, đồng thời tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của loại tội
phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tác giả đƣa ra một số kiến
nghị và những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng trong công tác xét xử của ngành
Tòa án để góp phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm phổ biến
và nguy hiểm nhất trong số các loại tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay. Do
đó, khi chọn đề tài “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong
Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng)” để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học, tác giả đã tham khảo các tài
liệu, công trình nghiên cứu gồm ba nhóm chính:
Nhóm thứ nhất gồm các giáo trình, bài viết chuyên sâu nhƣ: 1. PGS. TS Lê
Thị Sơn (2003); “Chƣơng X: Các tội phạm về ma túy” trong sách: Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 2. TS. Phạm Văn Beo (2010), “Bài 10: Các tội phạm về
ma túy”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2, phần các tội phạm), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; 3. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội... cùng một số
bài viết nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối

2
với tội phạm về ma túy và kinh nghiệm áp dụng pháp luật trong thực tiễn đấu tranh
ngăn chặn, phòng chống loại tội phạm này nhƣ: 1. Nguyễn Thị Mai Nga (2008),
Bàn về quy định xử lý tội phạm ma túy của Bộ luật hình sự trong thời kỳ hội nhập,
Tạp chí Kiểm sát (số 12/2008); 2. Nguyễn Ngọc Anh (2009), Bàn về việc sửa đổi,
bổ sung Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát (số 4/2009); 3. Đỗ
Văn Kha (2010), Bàn về công tác phối hợp trong việc điều tra, truy tố và xét xử các
vụ án ma túy, Tạp chí Kiểm sát (số 18/2010); 4. Hoàng Minh Thành (2009), Một số
giải pháp đấu tranh ngăn chặn các thủ đoạn cất giấu, vận chuyển trái phép chất ma
túy ở nước ta, Tạp chí Phòng chống ma túy - Ủy ban Quốc gia phòng, chống Aids
và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm;…
Nhóm thứ hai gồm các sách chuyên khảo, tham khảo: 1. Trần Văn Luyện
(1998), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; 2. Trần Văn Luyện cùng tập thể tác giả (2001), “Chƣơng XVIII: Các
tội phạm về ma túy”, trong sách Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; 3. PGS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Trần
Văn Luyện (2002), Hiểm họa ma túy và cuộc chiến mới, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội; 4. ThS. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần
tội phạm, Tập IV: Các tội phạm về ma túy), Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố
Hồ Chí Minh; 5. Vũ Hùng Vƣơng (chủ biên) (2007), Phòng, chống ma túy - cuộc
chiến cấp bách của toàn xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội; 6. TS. Trần Minh Hƣởng
(chủ biên) (2010), Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội; 7. TS. Nguyễn
Ngọc Thế (2013), Tội phạm, cấu thành tội phạm những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội…
Nhóm thứ ba gồm các đề tài khoa học, luận án Tiến sĩ luật học, luận văn Thạc
sĩ luật học nhƣ: 1. Đề tài cấp Bộ (2002), Những giải pháp nâng cao chất lượng xét
xử các vụ án về ma túy - cơ sở lý luận và thực tiễn, của Tòa án nhân dân tối cao do
Thạc sĩ Nguyễn Quang Lộc làm chủ nhiệm đề tài; 2. Vũ Quang Vinh (2003), Hoạt
động phòng ngừa các tội phạm về ma túy của lực lượng cảnh sát nhân dân, Luận án

3
Tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân; 3. Trần Văn Luyện (1999), Phát hiện
và điều tra các tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của
lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân
dân; 4. Nguyễn Lƣơng Hòa (2004), Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy
trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội;
5. Phạm Tiến Quang (2006), Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 6.
Đặng Thị Thảo Lan (2005), Đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; 7. Trần Quốc Trọng
(2012), Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Hà Nam giai
đoạn 2005-2010, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội…
Những tài liệu khoa học trên đây đều có phạm vi nghiên cứu rộng hoặc nghiên
cứu chuyên sâu theo một vài góc độ, phƣơng diện nhất định. Trong đó, “Tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam” chỉ là
một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả. Về mặt lý luận và thực
tiễn, các tác giả vẫn chƣa đi sâu vào phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của
“Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt
Nam” và chƣa làm rõ sự khác biệt cơ bản cũng nhƣ mức độ nguy hiểm của từng
hành vi phạm tội cụ thể trong số các hành vi “tàng trữ”, hành vi “vận chuyển” và
hành vi “mua bán” trái phép chất ma túy. Hơn nữa, thực tiễn xét xử đối với các tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 cũng đã cho thấy: Những hành
vi phạm tội này của các đối tƣợng phạm tội thƣờng có sự đan xen với nhau nên rất
khó phân biệt một cách rạch ròi từng hành vi cụ thể của từng đối tƣợng phạm tội cụ
thể trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự và xử lý theo luật định. Trong
nhiều vụ án hình sự về ma túy, tội phạm về ma túy không thực hiện các hành vi
“tàng trữ”, hành vi “vận chuyển”, hành vi “mua bán” trái phép chất ma túy một

4
cách độc lập, riêng lẻ, mà thƣờng thực hiện các hành vi này trong một chuỗi các
hành vi kế tiếp nhau. Sau khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tội
phạm ma túy thƣờng thực hiện hành vi vận chuyển ma túy về nơi tàng trữ, cất giấu.
Từ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm ma túy thƣờng thực hiện hành vi
vận chuyển trái phép chất ma túy và (hoặc) thực hiện hành vi mua bán trái phép
chất ma túy. Vì vậy, các tác giả trên đây vẫn chƣa chỉ ra đƣợc những tồn tại, bất cập
về mặt lý luận và những khó khăn, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật để xử
lý tội phạm về ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy nói riêng. Cũng chính vì những lý do này, các tác giả nêu trên đều đã
chƣa tìm ra đƣợc nguyên nhân của những tồn tại, bất cập và những hạn chế trong
thực tiễn hoạt động xét xử đối với tội phạm về ma túy, đặc biệt là trong thực tiễn
hoạt động xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng – Một thành phố trẻ, năng động,
hiền hòa với rất nhiều tiêu chí phấn đấu để thực sự trở thành một thành phố đáng
sống, trong đó có tiêu chí “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”.
Từ trƣớc đến nay, tại địa bàn thành phố Đà Nẵng chƣa có công trình nào
nghiên cứu về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên cơ sở
gắn liền với các đặc điểm về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phƣơng. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu hơn những quy định về “Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam”, đồng thời
phân tích đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án về ma túy nói chung, các vụ án
về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng thông qua số
liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015 là
cần thiết và có ý nghĩa đối với công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng chống tệ nạn
ma túy và tội phạm về ma túy, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội và bảo vệ cuộc sống bình yên cho thành phố biển xinh đẹp này.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
3.1. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phạm vi của Luận văn tốt nghiệp này, tác giả mong muốn đƣa ra sự
nhìn nhận, đánh giá một cách tổng quát về các quy định hiện hành về “Tội tàng trữ,

5
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam” cũng nhƣ
việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp tại thành
phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. Từ đó, tác giả làm sáng tỏ
những ƣu điểm, những tồn tại và nêu lên một số quan điểm, định hƣớng hoàn thiện
các quy định về “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong
Luật hình sự Việt Nam”, đồng thời đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao chất lƣợng xét xử đối với tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để đạt
đƣợc những mục đích đó, tác giả cần phải hoàn thành một số nhiệm vụ cụ thể sau
đây trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài:
Thứ nhất, tác giả phải nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu
pháp lý đặc trƣng của “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam” cũng nhƣ những cơ sở pháp lý đảm bảo cho việc xét
xử tội phạm này đƣợc thực hiện một cách khoa học, khách quan, công bằng và đúng
pháp luật.
Thứ hai, tác giả phân tích thực tiễn xét xử đối với “Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy” trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015, đồng thời phân tích những tồn tại, hạn
chế và bất cập trong hoạt động xét xử để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và bất cập này.
Thứ ba, tác giả đƣa ra một số kiến nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định về “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy trong Luật hình sự Việt Nam” cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng xét xử đối với
tội phạm này của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Nhƣ đúng tên gọi của đề tài nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các căn
cứ, dấu hiệu pháp lý về “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại địa bàn thành
phố Đà Nẵng)” cũng nhƣ kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc đƣa
ra các quy định của pháp luật hình sự và trong việc xử lý loại tội phạm này. Đồng

6
thời, thông qua số liệu và thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp tại địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, tác giả đề tài phân
tích, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, bất cập và hạn chế trong hoạt động xét
xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại địa bàn thành
phố Đà Nẵng và đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp khắc phục.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh và những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc ta về đấu tranh,
phòng chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả còn sử dụng một
số phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: Phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp so sánh,
phƣơng pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp và phƣơng pháp thống kê tình hình thực
tiễn xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp góp phần hoàn thiện lý luận về
các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy. Luận văn tập trung nghiên cứu sâu vào những vấn đề
chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, đồng thời phân
tích các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam” và làm rõ sự khác biệt cơ bản cũng
nhƣ mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể trong số các hành vi “tàng
trữ”, hành vi “vận chuyển” và hành vi “mua bán” trái phép chất ma túy. Trên cơ sở
về mặt lý luận đó và dựa vào thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về ma túy tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, tác giả đánh
giá khái quát những tồn tại, hạn chế của hoạt động xét xử đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Từ đó, tác giả tìm ra nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế đó để đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao chất lƣợng xét xử đối với tội phạm này trong thực tiễn.

7
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa nhƣ là một tài liệu tham khảo về mặt lý
luận và có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập hoặc sử dụng trong
thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cấu
trúc gồm ba chƣơng:
Chương 1. Một số vấn đề chung về “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam”.
Chương 2. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong Bộ
luật hình sự hiện hành và thực tiễn xét xử các tội phạm này tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2010 đến năm 2015.
Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy và nâng cao
chất lƣợng xét xử đối với các tội phạm này.

8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy và hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về ma tuý
Theo Từ điển từ Hán Việt, “ma” có nghĩa là tê liệt hoặc là “làm mê mẩn” hoặc
làm cho tê liệt, “túy” có nghĩa là say hoặc là làm cho say sƣa [34, tr. 14]. “Ma túy”
là một danh từ dùng để chỉ chất thuốc có khả năng gây ra hiện tƣợng thần kinh tê
liệt, dùng nhiều sẽ bị nghiện.
Có ý kiến cho rằng: “Các chất ma túy là các chất độc có tính chất gây nghiện,
có khả năng bị lạm dụng, sự nghiện ngập chính là biểu hiện của trạng thái bị ngộ
độc mãn tính do các chất ma túy gây nên cho người sử dụng chúng” [71, tr. 408].
Ý kiến khác thì đƣa ra khái niệm: “Ma túy là những chất mà dùng nó một
thời gian sẽ gây trạng thái nghiện hay nói cách khác là trạng thái phụ thuộc vào
thuốc” [70, tr. 493].
Tác hại nghiêm trọng nhất của ma túy là tạo ra sự lệ thuộc cả về tâm lý và thể
chất đối với ngƣời sử dụng. Nhƣ vậy, theo nghĩa chung nhất và thông thƣờng nhất,
ma túy đƣợc hiểu là một số chất tự nhiên hoặc chất tổng hợp (hóa học) khi đƣa vào
cơ thể ngƣời dƣới bất kỳ hình thức nào sẽ gây ức chế hoặc kích thích mạnh hệ thần
kinh, làm giảm đau hoặc có thể gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình
trạng nghiện đối với ngƣời sử dụng.
Theo qui định của Bộ luật hình sự hiện hành về chất ma túy thì: Ma túy bao
gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca; lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca;
quả thuốc phiện tƣơi; quả thuốc phiện khô; hêrôin; côcain; các chất ma túy khác ở
thể lỏng và các chất ma túy khác ở thể rắn.
Cụ thể hơn, chất ma túy đƣợc Luật Phòng chống ma túy do Quốc hội ban hành
năm 2000 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống ma túy do
Quốc hội ban hành năm 2008 quy định nhƣ sau:

9
1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hƣớng thần đƣợc quy
định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ
gây tình trạng nghiện đối với ngƣời sử dụng.
3. Chất hƣớng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây
ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với
ngƣời sử dụng [17, tr. 29], [40], [41].
Đồng thời, Luật Phòng chống ma túy cũng quy định về các loại cây có chứa
chất ma túy và đƣa ra khái niệm về ngƣời nghiện ma túy nhƣ sau:
Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây
cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định
và Ngƣời nghiện ma túy là ngƣời sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện,
thuốc hƣớng thần và bị lệ thuộc vào các chất này [17, tr. 30], [40], [41].
Đến thời điểm hiện nay, danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành
đƣợc quy định cụ thể trong các Nghị định gồm: Nghị định số: 67/2001/NĐ-CP ngày
01/10/2001 quy định Danh mục các chất ma túy và tiền chất; Nghị định số:
133/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 bổ sung một số chất vào Danh mục các chất ma
túy và tiền chất theo Nghị định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 và Nghị định
số: 163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 quy định sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ
một số chất thuộc Danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị
định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ; Nghị định số:
17/2011/NĐ-CP ngày 22/02/2011 quy định về bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học
đối với một số chất thuộc Danh mục các chất ma tuý và tiền chất ma tuý ban hành
kèm theo Nghị định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 và Nghị định số:
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 của Chính phủ và gần đây nhất là Nghị định số:
82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ ban hành các Danh mục chất ma
túy và tiền chất. Theo đó, các chất ma túy đƣợc chia thành ba danh mục gồm:
Danh mục I: Các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng trong
lĩnh vực y tế, việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm,

10
nghiên cứu khoa học và điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ
quan có thẩm quyền (có trong Bảng IV Công ƣớc của Liên hợp quốc năm
1961 và Bảng I Công ƣớc của Liên hợp quốc năm 1971) gồm 45 chất.
Danh mục II: Các chất ma túy độc hại, đƣợc dùng hạn chế trong
phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc
trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (có trong Bảng I, Bảng II Công
ƣớc của Liên hợp quốc năm 1961 và Bảng II Công ƣớc của Liên hợp
quốc năm 1971) gồm 121 chất.
Danh mục III: Các chất ma túy độc dƣợc, đƣợc dùng trong phân
tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong
lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (có trong Bảng III và Bảng IV Công
ƣớc của Liên hợp quốc năm 1971) gồm 69 chất [13].
Ngoài ra, các Nghị định trên đây còn quy định về các tiền chất ma túy, các loại
cây có chứa chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy cụ thể nhƣ:
Tiền chất (gồm 41 tiền chất đƣợc quy định tại Danh mục IV) dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma túy đƣợc xác định là các hóa chất không thể thiếu trong
quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy đƣợc quy định trong các danh mục tiền chất
do Chính phủ ban hành [13].
Cây có chứa chất ma túy bao gồm tất cả các loại cây có chứa chất ma túy mà
phổ biến nhất trong số đó là các loại cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cần sa và
cây côca; các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy nhƣ quả thuốc phiện, quả
cần sa, hoa cần sa, lá cần sa và lá côca ở dạng tƣơi hoặc dạng khô…
Nhƣ vậy, khái niệm về ma túy có thể đƣợc hiểu cụ thể nhƣ sau:
Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ
thể con người dưới bất kỳ hình thức nào sẽ gây kích thích mạnh hoặc ức chế thần
kinh và làm thay đổi trạng thái ý thức cũng như sinh lý của người sử dụng. Nếu lạm
dụng, con người sẽ bị lệ thuộc vào ma túy và dẫn đến tình trạng nghiện đối với
người sử dụng ma túy.
Tóm lại, việc khái niệm cũng nhƣ định nghĩa về ma túy hay chất ma túy có ý

11
nghĩa trong hoạt động nghiên cứu khoa học về chất ma túy nhiều hơn là có ý nghĩa
đối với việc xác định chất ma túy – với tƣ cách là đối tƣợng tác động của tội phạm
trong pháp luật hình sự. Để xác định một chất có phải là ma túy hay không phải là
ma túy, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền cần phải căn cứ vào danh mục
các chất ma túy do Chính phủ ban hành và tiến hành các hoạt động khác để thực
hiện việc giám định tƣ pháp theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
1.1.2. Khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam
Hiện nay, trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về tội
phạm ma túy, trong đó có một số ý kiến cụ thể về khái niệm này nhƣ sau:
Ý kiến thứ nhất: “Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản
lý các chất ma túy của Nhà nước” [42].
Ý kiến thứ hai: “Tội phạm về ma túy là những hành vi cố ý xâm phạm chế độ
quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy” [65].
Ý kiến thứ ba: “Các tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các
chất ma túy, gây thiệt hại cho lợi ích của xã hội, của công dân và gây mất trật tự an
toàn xã hội” [25].
Một số ý kiến khác thì cho rằng: “Các tội phạm về ma túy là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma
túy” [65] hoặc “Các tội phạm về ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm
phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước với lỗi cố ý” [58].
Trong tập sách Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (phần các tội phạm), tác
giả Đinh Văn Quế định nghĩa về tội phạm theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình
sự năm 1999 nhƣ sau: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt
cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp,
tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt chất ma túy” [34, tr. 78]. Qua đó,
khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có thể đƣợc

12
hiểu một cách ngắn gọn là: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại chất ma túy”.
Trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần tội phạm) do GS.TSKH. Lê
Cảm chủ biên đƣợc Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2003, khái niệm về loại
tội phạm này đƣợc định nghĩa theo từng hành vi cụ thể nhƣ sau:
1. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ trái
phép chất ma túy trong ngƣời, trong nhà hoặc ở nơi nào khác, không kể
thời gian bao lâu.
2. Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi đƣa chất
ma túy từ địa điểm này đến địa điểm khác mà không có giấy phép hợp lệ.
3. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái
phép chất ma túy dƣới bất kỳ hình thức nào [42, tr. 473].
Một ý kiến khác đƣa ra khái niệm: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại chất
ma túy [3, tr. 225].
Nhƣ vậy, khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý
có thể đƣợc diễn đạt một cách đầy đủ nhƣ sau:
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, trái pháp luật hình sự, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước trong
các khâu lưu giữ, vận chuyển, mua bán các chất ma túy, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý.
Khái niệm trên đây về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
thể hiện một số đặc điểm của loại tội phạm này là:
Về mặt pháp lý: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là
hành vi trái pháp luật hình sự.
Về mặt khách quan: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nƣớc trong các
khâu lƣu giữ, vận chuyển, mua bán các chất ma túy.
Về mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán

13
trái phép chất ma túy do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý.
1.1.3. Sự cần thiết của việc quy định tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam
Về mặt lý luận, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung
do Nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị (giai cấp
nắm quyền lực chính trị) và đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện, bảo vệ bằng các
biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục và cƣỡng chế của bộ máy nhà nƣớc nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với thực tế khách quan của đời sống kinh tế -
xã hội trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quy định: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [36, Điều 12]. Trong Nghị quyết Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI cũng có nêu rõ tƣ tƣởng chỉ đạo nhất quán là:
“Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực
hiện thống nhất trong cả nước. Tuân theo pháp luật là chấp hành đường lối, chủ
trương của Đảng”. Theo đó, Đảng khẳng định là Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng
pháp luật, song cũng rất chú trọng đến việc kết hợp với giáo dục tƣ tƣởng, đạo đức
truyền thống và nâng cao dân trí cũng nhƣ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mọi
tầng lớp nhân dân. Trong bản Hiến pháp đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2013, nội dung
quan trọng này cũng đã đƣợc khẳng định lại thêm một lần nữa: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [37, Điều 8].
Truyền thống văn hóa phƣơng Đông nói chung, truyền thống văn hóa của
ngƣời Việt Nam nói riêng vốn rất trọng đạo lý và tình nghĩa, luôn lấy đạo đức, tình
cảm để răn đe, giáo dục và cảm hóa con ngƣời. Đây là những giá trị tốt đẹp đã đƣợc
gìn giữ và duy trì qua nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của
dân tộc. Trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống

14
tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy nói riêng, vấn đề đạo lý cũng luôn đƣợc đặt ra để
giáo dục và nâng cao ý thức chính trị, pháp luật của ngƣời dân đối với những tác hại
của tệ nạn ma túy và sự nguy hiểm của tội phạm ma túy đối với mỗi ngƣời dân, mỗi
gia đình, cộng đồng và xã hội. Từ nhận thức đúng đắn đó, ngƣời dân cũng sẽ có
trách nhiệm hơn và quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh chung của toàn xã hội trong
nỗ lực ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội và phòng chống các loại tội phạm, trong
đó có tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy.
Những hành vi phạm tội về ma túy nói chung, phạm tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng không chỉ là hiện tƣợng nguy hiểm cho xã
hội, mà còn là những hành vi vi phạm pháp luật, trái với các chuẩn mực đạo đức xã
hội và đi ngƣợc lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của ngƣời Việt Nam. Hiện tƣợng
nguy hiểm này là có tính phổ biến, có tốc độ lây lan nhanh chóng, tạo ra sự bất ổn
trong đời sống xã hội và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, văn hóa, đạo
đức, xã hội, tâm lý, tƣ tƣởng, tình cảm… thậm chí còn có thể làm băng hoại cả một
dân tộc. Khi tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng đã trở thành quốc nạn của nhiều
quốc gia trên thế giới và là một vấn đề mang tính toàn cầu, thì mọi Nhà nƣớc tiến
bộ đều cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ
hiện tƣợng nguy hiểm, tiêu cực này.
Một trong những tác nhân chính đẩy nhanh tốc độ lây lan tệ nạn ma túy và
làm gia tăng tội phạm ma túy ở Việt Nam hiện nay là những hành vi tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý. Để ngăn chặn và phòng chống một cách có
hiệu quả đối với hiện tƣợng nguy hiểm này, Đảng và Nhà nƣớc ta đã chủ động đấu
tranh bằng pháp luật thông qua các nội dung cơ bản là xây dựng pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, Đảng và Nhà nƣớc ta đã từng bƣớc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự; các quy định của pháp luật hành chính và tố tụng hành
chính; các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự và các quy định của pháp

15
luật về phòng chống ma túy… nhằm đấu tranh một cách quyết liệt hơn, hiệu quả
hơn đối với tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy. Qua đó, pháp luật thể hiện vai trò
quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy nói chung, tội phạm tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng: Pháp luật là phƣơng tiện
ghi nhận và bảo tồn các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của ngƣời Việt
Nam; pháp luật là phƣơng tiện để Đảng và Nhà nƣớc ta thể chế hóa đƣờng lối đấu
tranh và kiểm tra đƣờng lối đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy và tội phạm ma
túy; pháp luật là phƣơng tiện tạo lập môi trƣờng thuận lợi góp phần thủ tiêu các
nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy nói
chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng;
pháp luật là phƣơng tiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm
quyền trong đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy nói chung, tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng; pháp luật là
phƣơng tiện có hiệu lực để các cơ quan chức năng có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội nói chung, các hành vi phạm tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Tóm lại, việc quy định tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam là một đòi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý
luận và trong thực tiễn của đời sống xã hội. Những quy định này không chỉ phản
ánh trung thực các điều kiện kinh tế - xã hội và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ
chính trị ở Việt Nam hiện nay, mà còn thể hiện rõ quan điểm, quyết tâm của Đảng
và Nhà nƣớc ta cũng nhƣ nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết
vấn đề phức tạp và cấp bách mang tính toàn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Không ai có thể biết một cách chính xác cây thuốc phiện (còn gọi là cây anh
túc), đƣợc đƣa vào trồng ở Việt Nam bằng cách nào và từ bao giờ. Ngày nay, chúng
ta chỉ có thể biết rằng: Trong các văn bản của Triều đình nhà Nguyễn để lại về các

16
điều luật và hình phạt có nhiều nội dung liên quan đến việc điều chỉnh những hành
vi trồng cây thuốc phiện, sản xuất thuốc phiện, buôn bán và sử dụng thuốc phiện.
Cây thuốc phiện là loại cây có chứa chất ma túy (đƣợc cho là) du nhập vào
Việt Nam đầu tiên vào khoảng đầu thế kỷ 17 và đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh vùng
núi phía Bắc Việt Nam. Ban đầu, cây thuốc phiện đƣợc trồng, khai thác và sử dụng
nhƣ một loại thảo dƣợc để chữa một số căn bệnh nhƣ bệnh phong thấp, các bệnh về
đƣờng ruột hoặc làm thuốc giảm đau. Sau một thời gian, việc hút thuốc phiện trở
nên phổ biến hơn và tại những nơi có trồng cây thuốc phiện cũng có nhiều ngƣời
nghiện hút thuốc phiện hơn. Những dấu hiệu sa sút về sức khỏe và biểu hiện bất
thƣờng về tinh thần của những ngƣời nghiện hút thuốc phiện đã bắt đầu làm cho
cộng đồng lo ngại. Để ngăn chặn sự lan tràn của việc trồng cây thuốc phiện và tệ
nạn nghiện hút thuốc phiện, một số thôn bản, làng xã đã lập ra những hƣơng ƣớc,
quy chế về việc cấm sử dụng thuốc phiện [73, tr. 17].
Năm Cảnh trị thứ III (1665), nhận thức đƣợc mối nguy hiểm của thuốc phiện
đối với con ngƣời, cộng đồng và xã hội, Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đã ban
hành đạo luật đầu tiên về việc cấm trồng cây thuốc phiện vì thấy rằng:
Con trai, con gái dùng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, trộm cƣớp
dùng nó để nhòm ngó nhà ngƣời ta. Trong kinh thành, ngoài thì thôn xóm,
vì nó mà có khi hỏa hoạn, khánh kiệt tài sản. Vì nó mà thân tàn tạ, ngƣời
chẳng ra ngƣời. Đạo luật này cũng quy định rõ: Từ nay về sau quan lại và
dân chúng không đƣợc trồng hoặc mua bán thuốc phiện. Ai đã trồng thì
phải phá đi, ngƣời nào chứa giữ thì phải hủy đi [72, tr. 744].
Tƣơng tự nhƣ vậy, cây cần sa và cây côca cũng là hai loại cây có chứa chất
ma túy đƣợc du nhập vào Việt Nam muộn hơn so với sự xuất hiện của cây thuốc
phiện. Cây cần sa đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, còn cây côca thì
đƣợc trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam [72, tr. 744]. Cả hai loại cây này cũng bị
Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam nghiêm cấm trồng và sử dụng. Do hai loại cây cần
sa và cây côca có những tính chất, đặc điểm giống với cây thuốc phiện, nên pháp
luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đều gọi chung các loại cây có chứa chất
ma túy là cây thuốc phiện.

17
Ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh
ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong bài về “Những nhiệm vụ cấp bách của
Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rƣợu và thuốc phiện. Nó đã
dùng mọi thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu,
lƣời biếng gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm
vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta... Cuối cùng tôi đề
nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện [72, tr. 885].
Thực hiện chỉ thị này của Hồ Chủ tịch, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số: 150/TTg ngày 05/3/1952 quy định việc xử lý đối với những hành vi
vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện với những nội dung cụ thể nhƣ sau:
Điều 5 – Ngoài các có quan chuyên trách, không ai đƣợc tàng trữ
và chuyển vận nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi.
Điều 6 – (Do Nghị định số 225-TTg ngày 22/12/1952 sửa đổi).
Những hành vi phạm pháp sẽ bị phạt nhƣ sau:
- Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc chuyển vận trái phép;
- Phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá số thuốc phiện lậu.
Ngoài ra, ngƣời phạm pháp còn có thể bị truy tố trƣớc Tòa án
nhân dân.
Tuy nhiên, những ngƣời đã bán lậu thuốc phiện cho ngƣời khác mà
sau lại tố cáo với các cơ quan chuyên trách và giúp bắt đƣợc ngƣời buôn lậu
thì sẽ đƣợc coi là đã lập công chuộc tội và không phải phạt [44, tr. 482].
Tiếp theo đó, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 225/TTg ngày
22/12/1952 quy định những ngƣời có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện sẽ
bị xử lý bằng các hình thức cụ thể nhƣ: Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận
chuyển trái phép; phạt tiền từ một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu. Ngoài ra,
ngƣời vi phạm còn có thể bị truy tố trƣớc Toà án nhân dân. [44, tr. 482].
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Sau khi hoà bình lập lại
và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Nhà nƣớc Việt

18
Nam tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong đó có công
tác đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện và các chất ma túy khác. Thủ tƣớng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số: 580/TTg ngày 15/9/1955 quy định những trƣờng
hợp cụ thể có thể đƣa ra Tòa án để xét xử nhƣ sau:
Điều 2 - Những ngƣời vi phạm Nghị định số 150-TTg ngày
05/3/1952 trong những trƣờng hợp sau đây có thể đƣa ra Tòa án nhân
dân xét xử:
1. Buôn thuốc phiện lậu có nhiều ngƣời tham dự và có thủ đoạn
gian lậu;
2. Tang vật trị giá trên 1 triệu đồng;
3. Buôn nhỏ hoặc làm môi giới nhƣng có tính chất thƣờng xuyên,
chuyên môn hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần.
4. Các vụ có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội;
5. Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc
Hải quan.
Điều 3 – Bị can sẽ bị phạt nhƣ sau:
- Phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
- Phạt tiền nhƣ đã quy định ở Điều 6 nghị định số 150-TTg ngày
05/3/1952.
- Tịch thu tang vật.
Các phƣơng tiện nhƣ thuyền, xe… dùng để chuyển vận thuốc
phiện lậu có thể bị tịch thu, nếu ngƣời chủ những phƣơng tiện đó có liên
quan đến việc buôn lậu
Điều 4 - Trƣờng hợp kể buôn lậu dùng vũ lực chống cự lại nhà
chức trách khi bị bắt giữ thì sẽ chiếu hình luật chung mà xử phạt thêm về
tội ấy [44, tr. 483].
Để cụ thể hóa đƣờng lối xét xử đối với hành vi phạm tội về thuốc phiện, Bộ
Tƣ pháp cũng đã ban hành các Thông tƣ số: 635/VVH-HS ngày 29/3/1958 và
Thông tƣ số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 hƣớng dẫn đƣờng lối truy tố và xét xử

19
những vụ án về buôn lậu thuốc phiện. Trong Thông tƣ này, Bộ Tƣ pháp còn hƣớng
dẫn việc xử lý đối với hành vi đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu.
Về đƣờng lối và chủ trƣơng truy tố, xét xử đối với những vụ buôn thuốc phiện
lậu, Thông tƣ số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 nêu rõ:
Khi xét xử cần phân biệt: 1). Loại tổ chức tổ thƣờng xuyên và tổ
chức nhất thời; 2). Phạm vi hoạt động trong một tỉnh hay liên tỉnh; 3).
Loại cầm đầu toàn bộ tổ chức buôn lậu và loại cầm đầu từng bộ phận:
Xuất vốn, mua hàng, chuyên chở, tàng trữ, tiêu thụ hàng lậu. Phân biệt
sự nguy hiểm của từng loại cầm đầu ấy mà xử lý; 4). Loại chuyên nghiệp
đã có tiếng từ hồi Pháp thuộc và loại mới vào nghề; 5). Loại phần tử xấu
có tội ác, loại phần tử địch và những kẻ phạm pháp có tính chất cơ hội;
6). Loại có vũ khí hành hung cán bộ và loại thƣờng [44, tr. 484].
Về mức án, Thông tƣ số: 33/VHH-HS ngày 05/7/1958 quy định một số hình phạt
tù đƣợc áp dụng đối với từng loại ngƣời phạm tội cụ thể và quy định một số biện pháp
tƣ pháp khác nhƣ phạt tiền và tịch thu tài sản của ngƣời phạm tội [44, tr. 484].
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nƣớc, Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số: 76-CP ngày 25/3/1977 về vấn đề hƣớng dẫn thi hành
và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nƣớc, trong đó có nêu quan điểm chống buôn
lậu thuốc phiện của Đảng và Nhà nƣớc ta trong thời kỳ này [26, tr. 474]. Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ cũng đã ban hành các Thông
tƣ hƣớng dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và
tội phạm buôn lậu thuốc phiện nói riêng trên cơ sở của Nghị quyết này [73, tr. 665].
Tuy nhiên, trong thời kỳ này pháp luật hình sự Việt Nam chƣa đƣợc hệ thống hóa
một cách chính thức mà chỉ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn
hành. Các văn bản quy phạm pháp luật đơn hành này không thể hiện đƣợc tính toàn
diện, đầy đủ và thống nhất chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc
xử lý tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
nói riêng. Vì vậy, việc ban hành một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh, có tính hệ thống là
vấn đề khách quan, cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hai

20
nhiệm vụ chiến lƣợc lúc bấy giờ là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Đến những năm đầu thập kỷ 90, do ảnh hƣởng của các nƣớc trong khu vực và
các nƣớc có đƣờng biên giới cùng với nƣớc ta, tình hình tàng trữ, vận chuyển, mua
bán, sử dụng ma túy ở nƣớc ta có chiều hƣớng gia tăng. Đặc biệt, tình trạng mua
bán, vận chuyển thuốc phiện và các chất ma túy khác qua biên giới vào nƣớc ta
cũng nhƣ từ nƣớc ta đi một số nƣớc khác trên thế giới đang ngày càng trở nên phổ
biến. Trƣớc tình hình đó và do yêu cầu thực tế của đời sống xã hội, tại kỳ họp thứ 9
Quốc hội khóa VII, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1985. Đây là Bộ
luật hình sự đầu tiên của nƣớc ta quy định về tội phạm và hình phạt và cũng là lần
đầu tiên cụm từ “Chất ma túy” đƣợc đƣa vào sử dụng trong hệ thống các văn bản
pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 mới chỉ có duy nhất
một điều luật quy định tội phạm về ma túy (Điều 203. Tội tổ chức sử dụng chất ma
túy) và hai điều luật có liên quan đến ma túy (Điều 97. Tội buôn lậu hoặc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới) và (Điều 166. Tội buôn bán hàng cấm). Ban
đầu, việc áp dụng hai điều luật về “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới” và “Tội buôn bán hàng cấm” này đƣợc thực hiện theo hƣớng:
Hành vi buôn bán ma túy trong nƣớc thì bị áp dụng Điều 166 Bộ luật hình sự, còn
hành vi buôn bán vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị áp dụng Điều 97 Bộ luật
hình sự. Vì vậy, tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy vẫn chƣa đƣợc
ngăn chặn một cách quyết liệt và hiệu quả trong thời kỳ này [73, tr. 666].
Do tình hình buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy ngày càng gia tăng và
diễn biến rất phức tạp, việc áp dụng Điều 97 và 166 Bộ luật hình sự năm 1985 để xử
lý các hành vi phạm tội về ma túy nhƣ trên đã không thể đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu
tranh phòng, chống đối với loại tội phạm nguy hiểm này, ngày 28/12/1989 Quốc hội
đã bổ sung Điều 96a quy định về “Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái
phép chất ma túy” quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình [73, tr. 667]. Sau khi

21
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc sửa đổi bổ sung nhƣ vậy, tình hình phạm tội về ma
túy không những không giảm đi, mà vẫn tiếp tục gia tăng với những diễn biến vô
cùng phức tạp. Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ƣơng đã ban hành
nhiều văn bản hƣớng dẫn xử lý hành vi có liên quan đến ma túy nhƣng cũng không
thể ngăn chặn đƣợc tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy.
Đến năm 1992, cuộc đấu tranh phòng chống ma túy đã chính thức đƣợc quy
định trong Hiến pháp năm 1992. Điều 61 của Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa các bệnh xã hội nguy hiểm” [2, tr. 133], [36].
Cụ thể hoá những tƣ tƣởng trong Hiến pháp năm 1992, Đảng và Nhà nƣớc ta đã
đổi mới chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy. Ngày 22/12/1992, Quốc hội
khoá IX thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985.
Sau đó, các cơ quan chức năng hữu quan cũng đã ban hành nhiều văn bản dƣới luật
để tiếp tục ngăn chặn một cách có hiệu quả hơn sự gia tăng của tội phạm về ma túy.
Song, hệ thống pháp lý chƣa hoàn chỉnh đã gây ra nhiều khó khăn cho thực tiễn đấu
tranh phòng, chống ma túy và tội phạm về ma túy. Do đó, có thể nói rằng việc sửa
đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985 lần này cũng chỉ là biện pháp tình thế. Theo
hƣớng dẫn tại các Thông tƣ liên ngành số: 02/TTLN ngày 20/3/1993 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tƣ pháp thì:
Đối với những ngƣời buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép
qua biên giới hàng hóa là vũ khí quân dụng, phƣơng tiện kỹ thuật quân
sự, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, các chất ma tuý, văn hoá
phẩm đồi trụy, từ nay chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới” theo Điều 97 mà
không truy cứu thêm về tội phạm tƣơng ứng theo quy định tại các điều
95, 96, 96a, 99 nhƣ đã hƣớng dẫn trƣớc đây [45].
Sau đó không lâu, Thông tƣ liên ngành số: 05/TTLN ngày 14/02/1995 của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tƣ pháp hƣớng
dẫn lại nhƣ sau:

22
Sau một thời gian thực hiện hƣớng dẫn nói trên, thực tiễn công tác
điều tra, truy tố, xét xử cho thấy đối với các hành vi buôn bán trái phép
hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá là các chất ma túy thì
tội danh buôn bán hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý theo Điều 96a
Bộ luật hình sự là sát đúng hơn và đề cao hơn ý nghĩa của cuộc đấu tranh
chống loại tội phạm này. Vì vậy, từ nay trở đi đối với mọi hành vi buôn
bán trái phép, vận chuyển trái phép qua biên giới chất ma túy chỉ truy
cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 96a Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 (sau khi Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đƣợc Quốc hội khoá IX thông qua ngày
22/12/1992) thì: Các hành vi khác nhƣ tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận
chuyển trong nƣớc đối với các chất ma túy chƣa bị coi là tội phạm.
Năm 1997, Quốc hội đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985,
trong đó tội phạm về ma túy đƣợc quy định thành một chƣơng riêng: Chƣơng VIIA
“Các tội phạm về ma túy” để bổ sung vào “Phần các tội phạm” của Bộ luật hình sự
năm 1985 gồm 14 điều với 13 tội danh cụ thể. Trong lần sửa đổi, bổ sung này, các
hành vi phạm tội “sản xuất”, “tàng trữ”, “mua bán”, “vận chuyển” trái phép chất ma
túy theo quy định tại Điều 96a Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự ngày 28/12/1989 đã đƣợc tách ra thành các tội danh riêng biệt (Điều 185b. Tội
sản xuất trái phép chất ma túy, Điều 185c. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Điều
185d. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy và Điều 185đ. Tội mua bán trái phép
chất ma túy). Nhƣ vậy, đây là lần đầu tiên pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy thành những tội danh riêng
biệt. Đặc biệt là trong các Điều 185b, Điều 186c, Điều 186d và Điều 186đ này,
trọng lƣợng, số lƣợng, thể tích, loại ma túy cũng nhƣ chất ma túy đã đƣợc quy định
một cách cụ thể tƣơng ứng với từng khung hình phạt cụ thể và tƣơng ứng với từng
tội danh cụ thể. Điều này tạo ra nhiều thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong việc nhận thức đúng về mặt lý luận
cũng nhƣ trong việc xử lý tội phạm về ma túy một cách đúng ngƣời, đúng tội, đúng

23
pháp luật. Chính sách hình sự mới này thể hiện thái độ kiên quyết của Đảng và Nhà
nƣớc ta trong việc trừng trị nghiêm khắc các tội phạm về ma túy. Hơn thế nữa, điểm
nhấn quan trọng nhất trong chính sách hình sự của Việt Nam đối với tội phạm về
ma túy trong thời kỳ này chính là việc Chủ tịch nƣớc đã ban hành Quyết định số:
798/QĐ-CTN ngày 01/09/1997 về việc nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tham gia ba Công ƣớc của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy gồm: Công ƣớc
thống nhất về các chất ma túy năm 1961, Công ƣớc về các chất hƣớng thần năm
1971 và Công ƣớc về chống buôn bán bất hợp pháp chất ma túy và chất hƣớng thần
năm 1988 [73, tr. 18].
Để bảo đảm thống nhất trong việc xử lý các tội phạm về ma túy nói chung
theo quy định tại Chƣơng VIIA “Các tội phạm về ma túy” mới đƣợc sửa đổi, bổ
sung năm 1997, trong việc xử lý các tội “tàng trữ”, “vận chuyển”, “mua bán” trái
phép chất ma túy nói riêng, các cơ quan chức năng hữu quan đã ban hành nhiều văn
bản dƣới luật gồm các Thông tƣ liên ngành, Thông tƣ liên tịch để hƣớng dẫn thực
hiện. Trong đó, Thông tƣ liên tịch số: 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 và Thông tƣ liên tịch số: 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
05/8/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội
vụ (nay là Bộ Công an) về việc hƣớng dẫn áp dụng Chƣơng VIIA “Các tội phạm về
ma túy” mới đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 1997 đƣợc đánh giá là các văn bản hƣớng
dẫn đầy đủ nhất, toàn diện nhất trong việc thống nhất áp dụng pháp luật và xử lý các
tội “tàng trữ”, “vận chuyển“, “mua bán” trái phép chất ma túy.
Tại Thông tƣ liên tịch số: 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) “Hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ Luật hình sự”, các chất ma túy đƣợc giải thích một cách rõ ràng hơn:
Chất ma túy là những chất đã đƣợc xác định và có tên gọi riêng
trong khoa học. Trong Điều 2 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 1985 đã quy định một số chất ma túy cụ thể thƣờng gặp
nhƣ: Hêrôin, Côcain, nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca… Ngoài

24
ra, trong điều luật còn quy định các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc ở thể
lỏng mà không liệt kê cụ thể đó là các chất gì. Vì vậy, cần hiểu các chất
ma túy khác là các chất ma túy đƣợc quy định cụ thể trong các Công ƣớc
quốc tế về kiểm soát ma túy mà Việt Nam đã tham gia ngoài các chất ma
túy đã đƣợc quy định cụ thể trong Điều 2 Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự năm 1985 (Kèm theo Thông tƣ này có Danh
mục các chất ma túy theo quy định trong các Công ƣớc quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia) [45].
Bên cạnh đó, các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy cũng đƣợc xác định cụ thể hơn nhƣ sau:
b- Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185c
là hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào mà không
nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác. Thời
gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Ngƣời cất giữ bất hợp pháp chất ma túy hộ cho ngƣời khác mà
biết mục đích mua bán trái phép chất ma túy này của ngƣời đó, thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội “mua bán trái phép chất ma túy” với vai
trò của ngƣời đồng phạm (ngƣời giúp sức).
c- Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều
185d là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi
khác đƣợc thực hiện dƣới bất kỳ hình thức nào mà không nhằm mục đích
mua bán.
Ngƣời vận chuyển trái phép chất ma túy này của ngƣời đó, thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “mua bán trái phép chất ma túy” với
vai trò của ngƣời đồng phạm (ngƣời giúp sức).
d- Hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185d
là hành vi bán hay mua, tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma
túy khác để bán lại trái phép, cũng đƣợc coi là hành vi mua bán trái phép

25
chất ma túy hoặc hành vi dùng chất ma tuý để trao đổi, thanh toán… bất
hợp pháp” [45], [46].
Thông tƣ liên tịch số: 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 05/8/1998
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là
Bộ Công an) đã tiếp tục hƣớng dẫn cụ thể hơn các hành vi “mua bán trái phép chất
ma túy” nhƣ sau:
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 185đ
Bộ Luật hình sự là một trong các hành vi sau đây:
a. Bán trái phép chất ma túy cho ngƣời khác;
b. Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
c. Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
d. Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
đ. Vận chuyển chất ma túy để bán trái phép cho ngƣời khác;
e. Dùng chất ma túy để trao đổi, thanh toán... trái phép;
g. Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán... lấy
chất ma túy để bán lại trái phép cho ngƣời khác [45].
Đồng thời, Thông tƣ liên tịch này cũng nêu rõ một số trƣờng hợp cụ thể để áp
dụng pháp luật trong thực tiễn:
Ngƣời nào thực hiện một trong các hành vi đƣợc hƣớng dẫn tại
các điểm a và e đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “mua bán
trái phép chất ma túy” theo Điều 185đ Bộ luật hình sự không phụ thuộc
vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có” và “Để có căn cứ truy cứu trách
nhiệm hình sự ngƣời thực hiện một trong các hành vi đƣợc hƣớng dẫn tại
các điểm b, c, d, đ và g về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều
185đ Bộ luật hình sự, thì cần phải chứng minh đƣợc mục đích thực hiện
một trong các hành vi này của họ là bán trái phép chất ma túy đó”. Trong
trƣờng hợp không chứng minh đƣợc mục đích bán trái phép chất ma túy
của họ, thì tuỳ từng trƣờng hợp cụ thể mà căn cứ vào hƣớng dẫn tại tiết b
điểm 4 mục II Phần B của Thông tƣ liên tịch số: 01/1998 ngày 02/01/1998

26
để xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo Điều 185c Bộ luật hình sự hoặc về tội “vận chuyển
trái phép chất ma túy” theo Điều 185d Bộ Luật hình sự [45].
Ngoài ra, Thông tƣ liên tịch số: 02/TTLT ngày 05/8/1998 này còn hƣớng dẫn
cụ thể về việc xử lý đối với đồng phạm: “Người tổ chức, người xúi giục, người giúp
sức cho người nào thực hiện một trong các hành vi trên đây đều bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội “mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 185đ Bộ
luật hình sự” [45].
Tóm lại, qua bốn lần sửa đổi, bổ sung (theo các Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc Quốc hội thông qua vào các ngày
28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997) cùng với việc
ban hành nhiều văn bản dƣới luật để hƣớng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 1985,
pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, các chế định về tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đã từng bƣớc đƣợc xây dựng một cách đầy
đủ hơn, chặt chẽ hơn và rõ ràng hơn. Đây cũng là những nền tảng vững chắc ban
đầu cho việc pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai vào năm 1999 nhằm giải
quyết kịp thời và đáp ứng tốt nhất những yêu cầu do thực tiễn đặt ra trong cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống tội phạm về ma túy nói riêng.
1.2.3. Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc ban hành trong bối cảnh nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã góp phần giải quyết đƣợc một
phần nhu cầu bức xúc của xã hội và của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm vào
thời kỳ đó, nhƣng những hạn chế về kỹ thuật lập pháp và sự khiếm khuyết về tính
đồng bộ, chặt chẽ cũng nhƣ việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần đã làm cho Bộ luật
hình sự năm 1985 không còn là một chỉnh thể thống nhất. Hơn thế nữa, sự nghiệp
đổi mới ở nƣớc ta đã bắt đầu đƣợc thực hiện từ năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ
VI. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nƣớc và quốc tế cũng nhƣ
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, thực tiễn đấu tranh phòng

27
chống tội phạm về ma túy nói riêng đã có nhiều biến đổi nhanh chóng. Thực tế này
đòi hỏi Bộ luật hình sự của nƣớc ta phải đƣợc sửa đổi toàn diện, đặc biệt là trong
điều kiện tội phạm về ma túy đang có xu hƣớng quốc tế hóa ngày càng cao và Việt
Nam cũng đã chính thức tham gia ba Công ƣớc của Liên hợp quốc về kiểm soát ma
túy từ ngày 01/09/1997. Do đó, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta cũng
cần phải đƣợc điều chỉnh kịp thời và kết quả là một Bộ luật hình sự mới đã đƣợc
Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999. Trong Bộ luật hình sự mới ban
hành năm 1999 này, các tội phạm về ma túy đƣợc tập trung tại Chƣơng XVIII gồm
10 điều luật quy định và bổ sung một số tội danh mới cụ thể gồm: Điều 192. Tội
trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; Điều 193. Tội
sản xuất trái phép chất ma túy; Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy; Điều 195. Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy;
Điều 196. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phƣơng tiện, dụng cụ
dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 197. Tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 198. Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất
ma túy; Điều 199. Tội sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 200. Tội cƣỡng bức, lôi
kéo ngƣời khác sử dụng trái phép chất ma túy; Điều 201. Tội vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.
Theo đó, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đã đƣợc
ghép với tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy thành một tội chung quy định tại Điều
194 Bộ luật hình sự năm 1999: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy”. So với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (và cả tội chiếm đoạt chất
ma túy), thì quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ban đầu đã đƣợc đánh
giá là có nhiều tiến bộ về mặt lập pháp và đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn đấu
tranh phòng chống các loại tội phạm về ma túy. Về kỹ thuật lập pháp, việc quy định
các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy (và cả hành vi
chiếm đoạt chất ma túy) trong cùng một điều luật, đồng thời chuyển quy định hình

28
phạt bổ sung từ một điều luật riêng (Điều 185(o) trong Bộ luật hình sự năm 1985)
thành khoản 5 trong Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 đã giảm thiểu đƣợc một
cách đáng kể số lƣợng điều luật. Ban đầu, việc áp dụng pháp luật để xử lý các hành
vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng nhƣ việc
quyết định hình phạt và hình phạt bổ sung đã đƣợc đánh giá là đơn giản hơn, thuận
tiện hơn và hiệu quả hơn. Bởi lẽ, khi các cơ quan tiến hành tố tụng chƣa chứng
minh đƣợc một hành vi phạm tội cụ thể nào đó là hành vi “tàng trữ trái phép chất
ma túy”, là hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy” hay là hành vi “mua bán trái
phép chất ma túy”, thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể áp dụng Điều 194
Bộ luật hình sự để giải quyết vụ án trong tất cả các giai đoạn tố tụng [34, tr. 91].
Tuy nhiên, theo cấu trúc của Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 thì việc quy định
về định lƣợng chất ma túy trong các khung hình phạt cụ thể, các tình tiết định khung
tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng nhƣ khung hình phạt cụ thể đối với các hành vi
phạm tội “tàng trữ” “vận chuyển” và “mua bán” trái phép chất ma túy là hoàn toàn
giống nhau. Điều này cũng có nghĩa là các nhà làm luật đã đánh giá tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi “tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi
“vận chuyển trái phép chất ma túy” và hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” là
hoàn toàn giống nhau hoặc tƣơng đƣơng với nhau. Đây cũng chính là một trong
những vấn đề khiến cho việc giải quyết các vụ án về ma túy trong thời gian qua gặp
phải rất nhiều khó khăn, vƣớng mắc và bất cập cả về lý luận và thực tiễn.
Nhìn chung, Bộ luật hình sự năm 1999 đã chính thức định lƣợng một cách cụ
thể các chất ma tuý trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức hình phạt, nâng cao
hình phạt tiền và tịch thu tài sản, đồng thời có thêm một số hình phạt bổ sung khác.
Đó cũng chính là những điểm mới quan trọng nhất trong chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nƣớc ta đối với tội phạm về ma tuý. Để hoàn thiện thêm hệ thống
pháp luật về phòng, chống ma túy, Quốc hội khoá X (kỳ họp thứ 8) đã thông qua
Luật Phòng, chống ma túy vào ngày 09/12/2000. Sau đó, Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Phòng chống ma túy do Quốc hội ban hành năm 2008 tiếp tục thể
hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta cũng nhƣ nỗ lực của toàn xã hội trong việc

29
ngăn chặn các tệ nạn về ma túy, trong việc phòng chống tội phạm về ma túy nói
chung và tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Trong thời gian thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chính phủ và một số cơ quan chức năng khác đã ban
hành nhiều văn bản hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. Trong
số đó, có các văn bản hƣớng dẫn các quy định của Bộ luật hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nhƣ các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao gồm: Nghị quyết số: 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001
hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của các Điều 139, Điều 193, Điều 194, Điều
278, Điều 279 và Điều 289 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 hƣớng dẫn áp dụng một số trƣờng hợp cụ thể của Bộ luật hình sự; Nghị
quyết số: 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hƣớng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự. Cả ba Nghị quyết này đều tập trung hƣớng dẫn áp dụng một số
vấn đề cụ thể nhằm phục vụ cho hoạt động xét xử của ngành Tòa án. Đặc biệt, trong
Nghị quyết số: 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, vấn đề xác
định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16
tuổi phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy” đã đƣợc hƣớng dẫn cụ thể.
Cùng với những văn bản hƣớng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của ngành Tòa án nhƣ trên, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và một số cơ quan chức năng khác cũng đã
ban hành nhiều Nghị định, Thông tƣ liên ngành, Thông tƣ liên tịch để hƣớng dẫn
chi tiết hơn, cụ thể hơn các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Trong số đó,
Thông tƣ liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
24/12/2007 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Tƣ pháp quy định về việc hƣớng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chƣơng XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 đã trở
thành văn bản pháp lý quan trọng trong việc áp dụng một cách chi tiết, đầy đủ và
thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm ma túy.

30
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999. Việc ban hành Luật Sửa
đổi, bổ sung này đánh dấu bƣớc tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện pháp luật
hình sự của Nhà nƣớc ta, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật
hình sự năm 1999, từng bƣớc đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm
nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009 đã thể chế hóa chính sách
nhân đạo của Đảng và Nhà nƣớc; hình sự hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi
hỏi phải xử lý về hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội,
khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế; phi hình sự hóa một số hành vi bị coi là
tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 nay không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa. Theo đó, Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009 loại bỏ hình phạt tử
hình ở 8 điều luật (trong đó có khoản 4 Điều 197. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy). Bộ luật hình sự năm 1999 quy định ngƣời thực hiện hành vi phạm tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây thì bị
phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: “Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều
ngƣời mà tỷ lệ thƣơng tật từ 61% trở lên; gây chết nhiều ngƣời hoặc gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng khác”. Theo Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009,
ngƣời thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một
trong các trƣờng hợp nêu trên thì chỉ bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Tại khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009, các nhà
làm luật đã loại bỏ (hoàn toàn) 4 tội danh trong Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó
có “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 199. Việc bãi bỏ điều
luật này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam và cũng khẳng định
một thực tế là: Thực tiễn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 đã cho thấy các hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử
dụng trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự lần này xuất phát từ thực tiễn đấu
tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam trong thời gian qua. Thực tế đã chứng

31
minh hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với
hành vi vi phạm pháp luật này là không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi
đối với ngƣời sử dụng trái phép chất ma túy bằng các chế tài hình sự cũng rất hạn
chế. Hơn nữa, số lƣợng ngƣời sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều,
nên Nhà nƣớc không thể xử lý hết số ngƣời này bằng các biện pháp, chế tài hình sự.
Việc tiếp tục quy định hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm trong Bộ
luật hình sự rất dễ dẫn đến tình trạng không công bằng khi áp dụng pháp luật trong
thực tiễn. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật,
nhƣng dƣới góc độ xã hội thì ngƣời nghiện ma túy đƣợc coi là nạn nhân của một tệ
nạn. Việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm không có
nghĩa là pháp luật dung túng đối với hành vi này, mà thực chất là để tìm ra những
biện pháp xử lý hiệu quả hơn, bền vững hơn nhƣ biện pháp bắt buộc chữa bệnh,
nâng cao hiệu quả của các phƣơng pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục
tại gia đình và cộng đồng. Trƣờng hợp ngƣời nghiện ma túy có hành vi phạm tội thì
sẽ bị xử lý hình sự theo các tội danh tƣơng ứng của Bộ luật hình sự hiện hành.
Nhƣ vậy, Bộ luật hình sự hiện hành có 9 điều luật quy định về các tội phạm
ma túy, là cơ sở pháp lý cho việc xử lý về hình sự các hành vi phạm tội ma túy trên
thực tế, góp phần phục vụ tích cực trong công tác đấu tranh ngăn chặn và phòng
chống loại tội phạm này.
1.3. Tội phạm về ma túy trong pháp luật hình sự của một số quốc gia
trên thế giới hiện nay
1.3.1. Luật hình sự Liên bang Nga
Bộ luật hình sự năm 1995 của Liên bang Nga đƣợc Đuma Quốc gia Nga thông
qua ngày 24/11/1995 và có hiệu lực từ ngày 01/3/1996. Bộ luật hình sự này gồm 12
phần, 34 chƣơng, 352 điều. Tội phạm về ma túy đƣợc quy định từ Điều 225 đến
Điều 230 thuộc Chƣơng XXV – “Các tội xâm phạm sức khỏe của nhân dân lao
động và đạo đức xã hội”, gồm các hành vi: Lƣu thông trái phép các chất ma túy
nhằm mục đích tiêu thụ; lấy cắp hoặc cƣỡng đoạt chất ma túy, dụ dỗ ngƣời khác sử
dụng chất ma túy; trồng trái phép các cây có chứa chất ma túy bị cấm trồng; tổ chức

32
hay chứa chấp cho các nhóm ngƣời sử dụng chất ma túy; lƣu thông trái phép các
chất hoạt động mạnh hay chất độc nhằm mục đích tiêu thụ. Ngoài ra, hành vi vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy còn đƣợc quy định tại Điều 186 Chƣơng
XXII – “Các tội phạm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế” với tội danh “Buôn lậu”
nhƣ sau: Buôn lậu là đƣa hàng qua biên giới hải quan của Liên bang Nga bằng thủ
đoạn không khai báo hoặc trốn tránh sự kiểm soát hải quan hoặc sử dụng các tài liệu
giả mạo, khai báo gian dối hoặc không đầy đủ các chất ma túy, các chất hƣớng thần,
chất có tác dụng mạnh, chất độc, chất nổ, chất phóng xạ hay vũ khí… mà khi đƣa ra
khỏi Liên bang Nga phải tuân thủ các quy định đặc biệt. Những ngƣời vi phạm các
quy định này thì sẽ “bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm”.
Hình phạt đối với tội phạm về ma túy theo Bộ luật hình sự năm 1995 của Liên
Bang Nga gồm hình phạt tiền, hình phạt hạn chế quyền tự do và hình phạt tù tối đa
đến 15 năm. Theo pháp luật hình sự của Liên Bang Nga, hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy không bị coi là tội phạm [64], [71], [72], [73].
1.3.2. Luật hình sự Hà Lan
Chính sách hình sự của Hà Lan đối với tội phạm ma túy có nhiều điểm khác
biệt so với các quốc gia khác. Luật hình sự năm 1976 của Hà Lan phân chia ma túy
thành hai loại là ma túy nặng (ma túy có hiệu lực cao) và ma túy nhẹ (ma túy có hiệu
lực thấp). Ma túy nặng là các chất ma túy mà ngƣời sử dụng chỉ cần dùng một lƣợng
nhỏ cũng có thể tạo ra sự thay đổi trạng thái tâm lý ở mức độ bị kích thích mạnh và
chỉ cần sử dụng một vài lần cũng có thể gây nghiện ở mức độ cao. Ma túy nặng điển
hình là các loại ma túy tổng hợp dạng kích thích thần kinh nhƣ Amphetamin,
Methaphetamin… Ma túy nhẹ là các chất ma túy mà ngƣời sử dụng phải dùng một
lƣợng lớn và nhiều lần thì mới có sự thay đổi rõ nét trạng thái tâm lý và gây nghiện
(mức độ gây nghiện thấp). Ma túy nhẹ điển hình gồm một số sản phẩm nhƣ nhựa
thuốc phiện, lá cây cần sa… Ở Hà Lan, các loại ma túy nhẹ nhƣ lá cây cần sa đƣợc
bán tự do tại các quán cà phê. Mỗi ngƣời có thể mua một lƣợng cần sa từ 5 gram đến
30 gram. Đối với loại ma túy nặng, nếu một ngƣời mang không quá 5 gram thì đƣợc
khoan hồng và không bị xử lý. Ban đầu, việc duy trì chính sách này tỏ ra có hiệu quả

33
khi số ngƣời nghiện ma túy ở Hà Lan giảm xuống chỉ còn 11% so với 30% trong thời
gian trƣớc đó. Tuy nhiên, sau một thời gian thì tại Hà Lan đã xuất hiện loại “Ma túy
nhân đạo LSD”. LSD (Lysergic Acid Diethylamide) là 1 loại ma túy gây ảo giác cực
kỳ mạnh đƣợc đóng gói thành dạng viên con nhộng, viên nén, chất lỏng.... đa số các
loại LSD đƣợc tẩm vào giấy thấm thành những ô vuông nhỏ (1cm x 1cm) từng tấm
nhƣ kiểu con tem. Ngƣời nghiện ma túy sử dụng LSD bằng cách dán vào lƣỡi, hoặc
hòa với đƣờng rồi ngậm vào miệng. Kết quả của các cuộc điều tra đƣợc tiến hành từ
năm 1995 cho thấy: Hầu hết sản lƣợng chất ma túy dạng LSD của toàn thế giới đều
có xuất xứ từ các phòng thí nghiệm của Hà Lan. Chính sách hình sự của Hà Lan đối
với tội phạm về ma túy đã làm cho quốc gia này phải gánh chịu những hậu quả nặng
nề của tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy [71], [72], [73].
1.3.3. Luật hình sự Trung Quốc
Tại Điều 171 Chƣơng VI – “Các tội xâm phạm trật tự xã hội và trật tự quản
lý” trong Bộ luật hình sự năm 1979 của Trung Quốc (có hiệu lực từ ngày
01/01/1980) quy định: Ngƣời sản xuất, vận chuyển hoặc buôn bán thuốc phiện,
hêroin, morphin và những chất gây say khác thì bị phạt tù đến năm năm hoặc cải tạo
lao động, có thể còn bị phạt tiền. Ngƣời sản xuất, buôn bán, vận chuyển các chất nói
trên một cách có hệ thống thì bị phạt tù từ năm năm trở lên, có thể còn bị tịch thu tài
sản. Sau một lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1982, Bộ luật hình sự năm 1979 của
Trung Quốc vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngày
28/12/1990, Ủy ban thƣờng vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội)
Trung Quốc đã ban hành Quyết định “Về việc cấm ma túy” gồm 16 điều quy định
về tội phạm và hình phạt. Theo đó, các hành vi phạm tội về ma túy gồm: Hành vi
sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sở hữu bất hợp pháp các chất ma túy cũng nhƣ các
tiền chất để sản xuất các chất ma túy; trồng bất hợp pháp những cây dẫn xuất ma
túy; dùng ma túy, dụ dỗ, xúi giục hoặc lừa dối ngƣời khác dùng chất ma túy…
Quyết định này cũng quy định lƣợng ma túy cụ thể trong từng điều để áp dụng hình
phạt tƣơng ứng đối với từng hành vi phạm tội. Các loại hình phạt đối với tội phạm
về ma túy gồm hình phạt tiền, tịch thu tài sản, tù có thời hạn, tù chung thân và hình
phạt tử hình [23], [60], [71], [72], [73].

34
Vào tháng 3 năm 1997, Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc nƣớc Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa (Quốc hội Trung Quốc) đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự năm 1979 (có hiệu lực từ ngày 01/10/1997). Theo đó, toàn bộ Phần 7
Bộ luật hình sự của Trung Quốc đƣợc dành để quy định về tội phạm ma túy. Tại
Điều 317 Bộ luật hình sự của Trung Quốc có quy định rõ: Các hành vi buôn lậu,
mua bán, vận chuyển, sản xuất chất ma túy không kể số lƣợng nhiều hay ít đều bị
truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt hình sự. Nội dung này khẳng định quyết
tâm của Trung Quốc trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Cụ thể hơn,
Điều 347 Bộ luật hình sự của Trung Quốc quy định về các hành vi phạm tội cụ thể
nhƣ buôn lậu, mua bán, vận chuyển, sản xuất chất ma túy với khung hình phạt tù
đến 15 năm, tù chung thân, tử hình và tịch thu tài sản. Bên cạnh đó, Điều 347 Bộ
luật hình sự của Trung Quốc cũng quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối
với các hành vi phạm tội buôn lậu, mua bán, vận chuyển, sản xuất chất ma túy.
Ngoài ra, Điều 347 này còn quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với
ngƣời phạm tội về ma túy: Ngƣời phạm tội sẽ “phải chịu một hình phạt nặng hơn”
khi “sử dụng ngƣời chƣa thành niên hoặc ngƣời có AIDS và giúp đỡ họ buôn lậu,
vận chuyển, mua bán, sản xuất chất ma túy hoặc bán chất ma túy cho ngƣời chƣa
thành niên”. Đối với ngƣời “nhiều lần buôn lậu, mua bán, vận chuyển sản xuất chất
ma túy mà chƣa từng bị xử lý” thì sẽ “bị tổng hợp hình phạt” [23], [60].
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy đƣợc Bộ luật hình sự của Trung Quốc quy
định tại Điều 348 nhƣ sau:
Ngƣời nào tàng trữ trái phép nha phiến với số lƣợng 1000 gram trở
lên, hêrôin hoặc Metylaanilin từ 50 gram trở lên hoặc các chất ma túy
khác với số lƣợng lớn thì bị phạt tù từ 7 năm trở lên hoặc tù chung thân
và phạt tiền và Ngƣời nào tàng trữ trái phép nha phiến với số lƣợng từ
200 gram đến dƣới 1000 gram, hêrôin hoặc Metylaanilin với số lƣợng từ
10 gram đến dƣới 50 gram hoặc các chất ma túy khác với số lƣợng tƣơng
đối lớn thì bị phạt tù đến 3 năm, giam hình sự hoặc quản chế và phạt
tiền; nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm và bị
phạt tiền [23], [60], [71], [72], [73].

35
Chính sách hình sự của Trung Quốc cũng rất nghiêm khắc đối với các hành vi
tội phạm khác có liên quan đến tội phạm ma túy nhƣ theo quy định tại Điều 349 Bộ
luật hình sự:
Ngƣời nào bao biện cho các phần tử phạm tội buôn lậu, mua bán, vận chuyển,
sản xuất chất ma túy, cất giấu, di chuyển chất ma túy cho tội phạm hoặc tiền của do
phạm tội mà có thì bị phạt tù đến 3 năm, giam hình sự hoặc quản chế; nếu có tình
tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
Ngƣời có nhiệm vụ truy bắt hoặc những nhân viên trong cơ quan nhà nƣớc
nếu che giấu, bao biện cho kẻ phạm tội buôn lậu, mua bán, vận chuyển, sản xuất
chất ma túy sẽ bị phạt nặng hơn quy định của khoản trên.
Ngƣời nào phạm tội nói ở khoản trên, có sự thông đồng trƣớc thì bị xử phạt
theo tội đồng phạm buôn lậu, mua bán, vận chuyển, sản xuất chất ma túy [23], [60].
Bộ luật hình sự của Trung Quốc cũng liệt kê các chất ma túy tại Điều 357 để
làm rõ hơn khái niệm ma túy: “Ma túy là nha phiến, hêroin, Metylaanilin, cần sa,
cocain và thuốc gây mê, thuốc thần kinh có thể gây nghiện”. Khi xử lý tội phạm về
ma túy, pháp luật hình sự Trung Quốc không phân biệt hay quy đổi theo hàm lƣợng
ma túy tinh khiết: “Số lƣợng ma túy buôn lậu, mua bán, vận chuyển, sản xuất, tàng
trữ bất hợp pháp đƣợc tính trên cơ sở thực tế khi kiểm tra và không đƣợc quy đổi
theo độ tinh khiết của nó” [23], [60].
1.3.4. Một số kết luận
Tùy thuộc vào sự khác biệt về truyền thống, lịch sử, văn hóa và các điều kiện
về chính trị, kinh tế, xã hội giữa các quốc gia, tội phạm về ma túy và hình phạt đối
với tội phạm về ma túy trong pháp luật hình sự của các quốc gia cũng có nhiều sự
khác biệt.
Trung Quốc là một trong những quốc gia có chính sách, pháp luật hình sự
nghiêm khắc và không khoan nhƣợng đối với các loại tội phạm về ma túy. Pháp luật
hình sự của Trung Quốc hiện nay vẫn quy định và áp dụng khung hình phạt cao
nhất đối với tội phạm về ma túy là tù chung thân hoặc tử hình. Trong khi đó, chính
sách và pháp luật hình sự của Nga chƣa thể hiện quyết tâm cao độ của Nhà nƣớc đối

36
với loại tội phạm nguy hiểm này. Bởi lẽ, tội phạm về ma túy chƣa đƣợc pháp luật
hình sự của Nga phân biệt với các loại tội phạm khác nhƣ tội phạm buôn lậu các
chất hƣớng thần, chất có tác dụng mạnh, chất độc, chất nổ, chất phóng xạ hay vũ
khí… Hơn nữa, khung hình phạt cao nhất đối với tội phạm về ma túy trong pháp
luật hình sự của Nga cũng chỉ là 15 năm tù, nên chƣa đủ tính răn đe đối với loại tội
phạm này. Một số quốc gia khác nhƣ Hà Lan và Bỉ thì vẫn chấp nhận sự tồn tại của
một số chất ma túy (bao gồm cả các chất ma túy nặng và các chất ma túy nhẹ theo
sự phân loại của các quốc gia này) trong giới hạn mà pháp luật cho phép. Chính vì
thế mà chính sách, pháp luật hình sự của Hà Lan và Bỉ đã không thể hiện rõ quyết
tâm và sự nghiêm khắc của Nhà nƣớc đối với các loại tội phạm về ma túy. Đây
cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hai quốc gia này phải gánh chịu nhiều hậu
quả nặng nề do ma túy và tội phạm về ma túy gây ra.
Thông qua việc khảo sát và nghiên cứu pháp luật hình sự của một số quốc gia
trên thế giới, các nhà làm luật của Việt Nam có thể rút ra những bài học, kinh
nghiệm quý báu để từng bƣớc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình,
đặc biệt là các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến công cuộc đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Những kinh nghiệm, hậu quả và
những bài học xƣơng máu trong chính sách, pháp luật hình sự của các quốc gia nhƣ
Hà Lan và Bỉ (quốc gia có chính sách, pháp luật hình sự tƣơng tự nhƣ Hà Lan) đối
với các loại ma túy nhẹ điển hình gồm một số sản phẩm nhƣ nhựa thuốc phiện, lá
cây cần sa, hay các loại ma túy mới xuất hiện ở Việt Nam nhƣ “shisha”, “tem giấy”
- một loại ma túy LSD (Lysergic Acid Diethylamide) có tên gọi là “ma túy nhân
đạo”, chắc chắn sẽ trở thành một kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong việc
xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật của mình trong tƣơng lai.

37
Chương 2
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN XÉT
XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2011 ĐẾN NĂM 2015

2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy và hình phạt đối với tội phạm này
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy
Các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm
Tội phạm về ma túy nói chung xâm phạm đến các khách thể quan trọng đƣợc
Nhà nƣớc và pháp luật bảo vệ thông qua các quy định cụ thể của pháp luật hình sự.
Các khách thể này là chế độ độc quyền quản lý và kiểm soát các chất ma túy và tiền
chất ma túy của Nhà nƣớc; tính mạng, sức khỏe, nhân cách, đạo đức và phẩm giá
của con ngƣời; sự phát triển bình thƣờng và lành mạnh của giống nòi và cộng đồng;
tài sản của Nhà nƣớc, tổ chức và nhân dân cũng nhƣ sự an toàn và trật tự chung của
toàn xã hội.
Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là chế
độ độc quyền quản lý và kiểm soát của Nhà nước đối với các chất ma túy trong
khâu lưu giữ, vận chuyển và mua bán các chất ma túy.
Đối tƣợng tác động của tội phạm về ma túy nói chung là các chất ma túy, các
tiền chất ma túy, các loại cây có chứa chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có
chứa chất ma túy, các dụng cụ, phƣơng tiện sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc sử
dụng vào mục đích (tổ chức hoặc cưỡng bức, lôi kéo người khác hoặc chứa chấp
việc) sử dụng trái phép chất ma túy.
Căn cứ vào các quy định cụ thể của Chính phủ về các chất ma túy (và cũng là
đối tƣợng tác động của tội phạm về ma túy nói chung), đối tƣợng tác động của tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có thể đƣợc hiểu một
cách cụ thể nhƣ sau:

38
Đối tượng tác động của tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy là các chất gây nghiện và các chất hướng thần được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, các loại cây có chứa chất ma
túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy.
Nhƣ vậy, việc xác định một chất nào đó có phải là chất ma túy hay không có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định và xử lý tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy. Bởi lẽ, nếu một chất nào đó không đƣợc pháp luật quy định là
chất ma túy, thì ngƣời thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
đó không thể bị xử lý về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, mà
ngƣời đó chỉ có thể bị xử lý về hành vi khác hoặc về một tội phạm khác. Trừ trƣờng
hợp ngƣời thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy ý thức rằng chất ma túy
đem ra mua bán là thật, nhƣng kết luận giám định cho thấy đây không phải là chất ma
túy, thì ngƣời đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất
ma túy theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự [4], [ 17, tr. 92].
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan
Theo nội dung Thông tƣ liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp quy định về việc hƣớng dẫn áp dụng một số quy
định tại Chƣơng XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 thì:
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp
pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (nhƣ trong nhà, ngoài vƣờn, chôn dƣới
đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tƣ trang
mặc trên ngƣời hoặc theo ngƣời…) mà không nhằm mục đích mua bán,
vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài
hay ngắn không ảnh hƣởng đến việc xác định tội này.
“Vận chuyển trái phép chất ma túy” là hành vi chuyển dịch bất
hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dƣới bất kỳ hình thức nào
(có thể bằng các phƣơng tiện khác nhau nhƣ ô tô, tàu bay, tàu thủy…;

39
trên các tuyến đƣờng khác nhau nhƣ đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng hàng
không, đƣờng thủy, đƣờng bƣu điện…; có thể để trong ngƣời nhƣ cho
vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý nhƣ vali, túi
xách v.v…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất
trái phép chất ma túy khác.
Ngƣời giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho ngƣời
khác, mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của ngƣời đó,
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy
với vai trò đồng phạm.
“Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau
đây: a) Bán trái phép chất ma túy cho ngƣời khác (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma
túy cho ngƣời khác để hƣởng tiền công hoặc các lợi ích khác; b) Mua
chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác; c) Xin chất ma túy
nhằm bán trái phép cho ngƣời khác; d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi
thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu
mà có); đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy
chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho ngƣời khác; e) Tàng trữ chất ma
túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác; g) Vận chuyển chất ma túy
nhằm bán trái phép cho ngƣời khác.
Ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức cho ngƣời thực
hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy đƣợc hƣớng
dẫn từ điểm a đến điểm g trên đây đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội mua bán trái phép chất ma túy [4], [17, tr. 100].
Do cơ cấu của Điều 194 là điều luật đƣợc nhập từ 4 điều luật của Bộ luật hình
sự năm 1985 (gồm các Điều 185c; Điều 185d; Điều 185đ và Điều 185e), nên hành
vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đƣợc xác định
thông qua những hành vi cụ thể nhƣ sau:

40
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy:
Tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy ở
bất cứ nơi nào nhƣ: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phƣơng
tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục đích mua bán hay
sản xuất trái phép chất ma túy khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác.
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định ngƣời phạm tội có
tàng trữ trái phép chất ma túy hay không.
Nếu ngƣời thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cho ngƣời khác mà
biết rõ ngƣời này mua bán trái phép chất ma túy do mình tàng trữ, thì hành vi cất giữ
ma túy của ngƣời đó không phải là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà đƣợc
coi là hành vi giúp sức cho ngƣời mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, ngƣời thực
hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm [4], [17, tr. 100].
Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy:
Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất
ma túy từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ ngƣời này sang
ngƣời khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác… bằng bất kỳ phƣơng thức nào (trừ
hình thức chiếm đoạt), nhƣng đều không nhằm mục đích mua bán.
Nếu vận chuyển ma túy hộ cho ngƣời khác mà biết rõ mục đích mua bán
ma túy của ngƣời mà mình nhận vận chuyển hộ, thì ngƣời có hành vi vận chuyển
ma túy bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với
vai trò giúp sức.
Khi xác định hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy cũng nhƣ hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy nhƣ trên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải căn cứ
vào từng trƣờng hợp cụ thể, trong một không gian, thời gian nhất định để phân biệt
hành vi nào là hành vi tàng trữ và hành vi nào là hành vi vận chuyển.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy:
Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán hay mua để bán lại; vận chuyển
chất ma túy để bán cho ngƣời khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy

41
khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa, tài sản khác không
phải là tiền hay dùng hàng hóa, tài sản khác không phải là tiền để đổi lấy ma túy.
Bán trái phép chất ma túy cho ngƣời khác là dùng ma túy mà mình có dƣới
bất kỳ hình thức nào nhƣ: mua đƣợc, xin đƣợc, nhặt đƣợc, ngƣời khác gửi hoặc
chiếm đoạt đƣợc để bán cho ngƣời khác lấy tiền hoặc lấy tài sản.
Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác là dùng tiền hoặc tài sản
để đổi lấy chất ma túy và dùng chất ma túy đó bán cho ngƣời khác lấy tiền hoặc tài
sản. Việc xác định hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng và phải căn cứ vào các tình tiết khách quan của vụ
án. Chỉ khi nào các cơ quan tiến hành tố tụng xác định rõ mục đích của ngƣời phạm
tội là mua chất ma túy đó nhằm bán lại, thì mới có thể truy cứu trách nhiệm hình sự
ngƣời đó về tội mua bán trái phép chất ma túy [17, tr. 92].
Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác là hành vi đƣợc thực hiện
bằng lời nói hoặc hành động để ngƣời khác cho mình chất ma túy rồi dùng chất ma
túy đó đem bán cho ngƣời khác lấy tiền hoặc tài sản khác không phải là tiền. Nếu
ngƣời phạm tội xin đƣợc ma túy và bán ngay cho ngƣời khác, thì hành vi phạm tội đó
là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, nếu ngƣời phạm tội xin đƣợc
chất ma túy rồi đem cất giữ rồi sau đó mới bán cho ngƣời khác thì hành vi phạm tội
đó đƣợc xác định là tội “tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” [34, tr. 93].
Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác là hành vi cất giữ
trái phép chất ma túy rồi đem bán chất ma túy đó cho ngƣời khác. Nếu hành vi
phạm tội chỉ là hành vi tàng trữ mà không đem bán hoặc các cơ quan tiến hành tố
tụng không chứng minh đƣợc mục đích tàng trữ nhằm bán trái phép chất ma túy đó,
thì ngƣời phạm tội chỉ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong trƣờng hợp
ngƣời phạm tội tàng trữ rồi đem bán chất ma túy đó hoặc khi các cơ quan tiến hành
tố tụng chứng minh đƣợc ngƣời phạm tội tàng trữ có mục đích nhằm bán trái phép
chất ma túy đó, thì tội phạm đƣợc xác định là tội tàng trữ, mua bán trái phép chất
ma túy [34, tr. 94].
Trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội dùng chất ma túy để trao đổi, để thanh toán

42
trái phép hoặc dùng tài sản khác (không phải là tiền) đem trao đổi, thanh toán lấy
chất ma túy để bán lại trái phép cho ngƣời khác, thì hành vi này cũng đƣợc xác định
là hành vi mua bán trái phép chất ma túy [34, tr. 96].
b) Hậu quả
Hậu quả của các tội phạm về ma túy nói chung và hậu quả của tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc
để định tội. Những thiệt hại do hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy gây ra cho xã hội chính là những thiệt hại phi vật chất (chính sách quản lý
của Nhà nƣớc đối với các chất ma túy). Cũng chính vì vậy, tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy là loại tội phạm có cấu thành hình thức [34, tr. 98].
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng giống nhƣ chủ thể của các loại tội phạm khác trong pháp luật hình sự
Việt Nam, chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy phải
có đủ các điều kiện cụ thể về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại
các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Riêng đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy, thì chỉ có những trƣờng hợp cụ thể sau đây mới có thể là chủ
thể của tội phạm:
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: “1. Người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi
trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm
trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng” [38], [39]. Nhƣ vậy, ngƣời từ đủ 14 tuổi
đến dƣới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình
sự. Bởi lẽ: Với khung hình phạt từ hai đến đến bảy năm tù, tội phạm quy định tại
khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự đƣợc xác định là tội phạm nghiêm trọng. Theo
quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiệm trọng do cố ý và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Cũng theo điều luật này, chỉ ngƣời đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy

43
theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Trong trƣờng hợp ngƣời từ đủ 16 tuổi trở
lên sử dụng ngƣời dƣới 16 tuổi vào việc phạm tội thì ngƣời dƣới 16 tuổi không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, mà ngƣời sử dụng ngƣời dƣới 16 tuổi vào việc phạm
tội sẽ còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tình tiết tăng nặng theo quy định
tại điểm e khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự: “Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội”.
Đối với các trƣờng hợp phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 2,
khoản 3 và khoản 4 của Điều 194 Bộ luật hình sự, thì ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy vì các trƣờng hợp phạm tội này đều đƣợc xác định là tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [34, tr. 84].
Trong một số trƣờng hợp cụ thể, chủ thể của tội phạm tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy còn phải có đủ các yếu tố khác để đƣợc xác định là
chủ thể đặc biệt nhƣ trong trƣờng hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” để tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều
194 Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, ngƣời chƣa thành niên phạm tội cũng cần phải đƣợc xác định là chủ
thể “đặc biệt” khi họ thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy. Trong khoa học pháp lý, chủ thể đặc biệt đƣợc hiểu là chủ thể
thƣờng có những đặc điểm “riêng” về mặt nhân thân. Những đặc điểm “riêng” về
mặt nhân thân có thể chỉ có ở một cá nhân nhất định, cụ thể. Tuy nhiên, những đặc
điểm “riêng” về nhân thân này cũng có thể có ở một nhóm ngƣời có những đặc
điểm (có thể) đƣợc khái quát thành những đặc điểm chung. Đặc điểm nhân thân phổ
biến nhất, chung nhất và khái quát nhất của ngƣời chƣa thành niên chính là độ tuổi
của họ. Ngay cả khi ngƣời chƣa thành niên phạm tội, thì mức độ trách nhiệm pháp
lý của họ cũng thấp hơn (nhẹ hơn) những chủ thể đặc biệt khác là ngƣời đã thành
niên. Trên thực tế, điều này cũng đã đƣợc chứng minh một cách cụ thể là: Trong
quá trình tiến hành hoạt động xét xử đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, nếu xét thấy không cần thiết phải
áp dụng hình phạt đối với họ thì Tòa án có thể áp dụng một trong số các biện pháp

44
tƣ pháp đƣợc quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự năm 1999. Các biện pháp tƣ
pháp đƣợc áp dụng đối với ngƣời chƣa thành nên phạm tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy có thể là: Biện pháp giáo dục tại xã phƣờng, thị trấn
từ một năm đến hai năm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng
hoặc phạm tội nghiêm trọng; căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành
vi phạm tội do ngƣời chƣa thành niên thực hiện cũng nhƣ các điều kiện về nhân
thân, môi trƣờng sống của ngƣời chƣa thành niên phạm tội và xét thấy cần phải đƣa
họ vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ, thì Tòa án có thể áp dụng biện
pháp đƣa ngƣời chƣa thành niên phạm tội vào trƣờng giáo dƣỡng từ một năm đến
hai năm [38, Điều 70].
Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm đƣợc hiểu là những đặc điểm bên trong cách xử sự
có tính chất tội phạm, xâm hại đến khách thể do pháp luật hình sự quy định và bảo
vệ. Nói theo cách khác, mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý của chủ thể
thực hiện hành vi phạm tội đƣợc thể hiện thông qua hình thức cố ý hoặc vô ý đối với
hành vi trái pháp luật hình sự của mình cũng nhƣ đối với hậu quả của hành vi đó.
Về mặt chủ quan, ngƣời phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực tiếp: Ngƣời phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật hình sự, đồng thời thấy trƣớc
đƣợc tác hại và mức độ nguy hiểm của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy đối với xã hội cũng nhƣ hậu quả tất yếu của hành vi đó nhƣng vẫn
thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá mặt chủ
quan của tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, có một số
vấn đề lý luận và thực tiễn cần đƣợc lƣu ý nhƣ sau:
Ngƣời nào biết ngƣời khác đi mua chất ma túy để sử dụng trái phép mà gửi
tiền nhờ mua hộ chất ma túy để sử dụng, thì ngƣời nhờ mua hộ chất ma túy phải
chịu trách nhiệm đối với số lƣợng, khối lƣợng chất ma túy đã nhờ mua hộ. Ngƣời đi
mua chất ma túy phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lƣợng, khối lƣợng chất
ma túy đã mua cho bản thân mình và mua hộ cho ngƣời khác. [4], [17, tr. 102]

45
Ngƣời nào biết ngƣời khác đi mua chất ma túy để sử dụng trái phép mà dùng
phƣơng tiện để chở họ cùng với chất ma túy và bị bắt giữ, thì ngƣời đó là đồng
phạm với ngƣời mua chất ma túy về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma
túy theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự, nếu số lƣợng, khối lƣợng ma túy bị
bắt giữ đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép
chất ma túy [4], [17, tr. 102].
Trong trƣờng hợp chất ma túy đem ra mua bán đƣợc xác định là chất ma túy giả
thì: Nếu ngƣời thực hiện hành vi mua bán biết rõ chất ma túy đó là giả, nhƣng cố ý làm
cho ngƣời khác tƣởng là ma túy thật và thực hiện hành vi mua bán chất ma túy giả đó,
thì ngƣời mua bán chất ma túy giả không phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Tuy
nhiên, nếu ngƣời thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy ý thức rằng chất ma
túy đem ra mua bán là thật, nhƣng kết luận giám định cho thấy đây không phải là chất
ma túy, thì ngƣời đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép
chất ma túy theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự. [4], [17, tr. 92].
Tóm lại, trong mọi trƣờng hợp phạm tội, hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy đều đƣợc thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Động có, mục
đích phạm tội rất đa dạng, nhƣng không phải là cấu thành bắt buộc trong cấu thành
tội phạm.
2.1.2. Phân biệt tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy với
tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy
Các hành vi phạm tội “tàng trữ”, “vận chuyển”, “mua bán trái phép chất ma
tuý” đã đƣợc quy định thành từng tội phạm riêng biệt và cụ thể tại các Điều 185c,
Điều 185d và Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985. Các hành vi phạm tội này đƣợc
ghép chung với hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” quy định tại Điều 185e
Bộ luật hình sự năm 1985 thành tội “tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma tuý” theo Điều 194 trong Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên,
việc ghép chung các hành vi phạm tội “tàng trữ”, “vận chuyển” và “mua bán trái
phép chất ma tuý” với hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” là không phù hợp
về mặt lý luận và cả trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi lẽ:

46
Thông thƣờng, các hành vi phạm tội “tàng trữ”, hành vi “vận chuyển”, hành
vi “mua bán trái phép chất ma túy” không đƣợc thực hiện một cách độc lập, riêng
lẻ, mà thƣờng nằm trong một chuỗi các hành vi kế tiếp nhau và đan xen lẫn nhau.
Hơn nữa, các tội phạm “tàng trữ”, “vận chuyển” và “mua bán trái phép chất ma
túy” đều đƣợc xem là hoàn thành kể từ thời điểm ngƣời phạm tội thực hiện hành vi
thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm, mà không cần phải có thêm bất kỳ
một dấu hiệu pháp lý nào khác.
Trong khi đó, hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” thƣờng đƣợc thực
hiện một cách độc lập, riêng lẻ và luôn luôn phải kèm theo các dấu hiệu pháp lý
khác trong cấu thành tội phạm tƣơng ứng với hành vi chiếm đoạt. Ví dụ: Hành vi
trộm cắp chất ma túy phải đi kèm với hành vi lén lút; hành vi cƣớp chất ma túy phải
đi kèm với hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vụ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi
khác làm cho ngƣời bị tấn công không thể chống cự đƣợc nhằm chiếm đoạt chất ma
túy; hành vi cƣỡng đoạt chất ma túy phải đi kèm với hành vi đe dọa dùng vũ lực
hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần ngƣời khác nhằm chiếm đoạt chất ma túy
hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma túy phải đi kèm với thủ đoạn gian dối…
Trong số các tội xâm phạm sở hữu đƣợc quy định tại Chƣơng XIV Bộ luật hình sự
năm 1999, có 9 tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép
tài sản (từ Điều 133 đến Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngoài ra, Bộ luật
hình sự năm 1999 còn quy định về hành vi chiếm đoạt tài sản tại các Điều 278 “tội
tham ô tài sản” và Điều 280 “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.
Tất cả các hành vi phạm tội chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tài sản trên đây
đều có thể trở thành hành vi chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép chất ma túy tƣơng
ứng với từng hành vi phạm tội cụ thể. Sự khác biệt duy nhất trong các trƣờng hợp
phạm tội chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép chất ma túy này chính là đối tƣợng
tác động của tội phạm: Chất ma túy, chứ không phải là các loại tài sản khác.
Mặt khác, các hành vi phạm tội “tàng trữ”, “vận chuyển” và “mua bán trái
phép chất ma tuý” đều đƣợc thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp và đối tƣợng tác động
của tội phạm trong các trƣờng hợp phạm tội này đều phải đƣợc xác định là chất ma

47
túy. Tuy nhiên, hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” có thể đƣợc thực hiện
do lỗi cố ý gián tiếp, tức là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma
túy” có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra mà không cần biết đối tƣợng chiếm đoạt
(đối tƣợng tác động của tội phạm) là chất ma túy hay là các loại tài sản khác. Xét về
thực chất, hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” chỉ khác với những hành vi
phạm tội chiếm đoạt tài sản về đối tƣợng tác động của tội phạm. Đối tƣợng tác động
của tội phạm chiếm đoạt tài sản là các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, công dân, còn đối tƣợng tác động của tội phạm “chiếm đoạt chất
ma túy” phải là các chất ma túy do pháp luật quy định. Ngoài ra, khi hành vi phạm
tội “chiếm đoạt chất ma túy” gây ra những thiệt hại (nếu có) về tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác, thì ngƣời thực
hiện hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy” đó còn phải chịu trách nhiệm hình
sự về các tội danh độc lập tƣơng ứng với những thiệt hại (nếu có) mà ngƣời phạm
tội đã gây ra. Trong khi đó, những thiệt hại (nếu có) này chỉ đƣợc xác định là tình
tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội có tính
chất chiếm đoạt hoặc chiếm giữ trái phép tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.
2.1.3. Hình phạt đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy
Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bốn khung hình phạt bao gồm
khung hình phạt cơ bản và ba khung tăng nặng với ba hình phạt chính, ba hình phạt
bổ sung. Cụ thể là:
1/ Trƣờng hợp hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
chỉ là cấu thành cơ bản của tội phạm đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật
hình sự năm 1999 và không thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2, khoản 3,
khoản 4 của điều luật này, thì tội phạm đó đƣợc xác định là tội phạm nghiêm trọng
và có khung hình phạt từ hai đến bảy năm tù.
2/ Hành vi phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ
luật hình sự thì đƣợc xác định là tội phạm rất nghiêm trọng và có khung hình phạt
từ bảy năm đến mƣời lăm năm tù. Đây là khung tăng nặng thứ nhất đƣợc áp dụng

48
đối với các trƣờng hợp phạm tội có tình tiết định khung là: a) Có tổ chức; b) Phạm
tội nhiều lần; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức; đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội
hoặc bán ma túy cho trẻ em; g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có
trọng lƣợng từ năm trăm gam đến dƣới một kilôgam; h) Hêrôin hoặc côcain có
trọng lƣợng từ năm gam đến dƣới ba mƣơi gam; i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá
cây côca có trọng lƣợng từ mƣời kilôgam đến dƣới hai mƣơi lăm kilôgam; k) Quả
thuốc phiện khô có trọng lƣợng từ năm mƣơi kilôgam đến dƣới hai trăm kilôgam; l)
Quả thuốc phiện tƣơi có trọng lƣợng từ mƣời kilôgam đến dƣới năm mƣơi kilôgam;
m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lƣợng từ hai mƣơi gam đến dƣới một
trăm gam; n) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dƣới hai trăm
năm mƣơi mililít; o) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lƣợng của các chất đó
tƣơng đƣơng với số lƣợng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm g
đến điểm n khoản 2 Điều này; p) Tái phạm nguy hiểm.
3/ Hành vi phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ
luật hình sự thì đƣợc xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và có khung hình
phạt từ mƣời lăm năm đến hai mƣơi năm tù. Khung tăng nặng thứ hai này đƣợc áp
dụng đối với các trƣờng hợp phạm tội có tình tiết định khung là: a) Nhựa thuốc
phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lƣợng từ một kilôgam đến dƣới năm
kilôgam; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lƣợng từ ba mƣơi gam đến dƣới một trăm
gam; c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lƣợng từ hai mƣơi lăm
kilôgam đến dƣới bảy mƣơi lăm kilôgam; d) Quả thuốc phiện khô có trọng lƣợng từ
hai trăm kilôgam đến dƣới sáu trăm kilôgam; đ) Quả thuốc phiện tƣơi có trọng
lƣợng từ năm mƣơi kilôgam đến dƣới một trăm năm mƣơi kilôgam; e) Các chất ma
túy khác ở thể rắn có trọng lƣợng từ một trăm gam đến dƣới ba trăm gam; g) Các
chất ma túy khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mƣơi mililít đến dƣới bảy trăm năm
mƣơi mililít; h) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lƣợng của các chất đó
tƣơng đƣơng với số lƣợng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a
đến điểm g khoản 3 Điều này.

49
4/ Hành vi phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 Bộ
luật hình sự thì đƣợc xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và có khung hình
phạt hai mƣơi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đây là khung tăng nặng cao nhất
và đƣợc áp dụng đối với các trƣờng hợp phạm tội có tình tiết định khung là: a)
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lƣợng từ năm kilôgam trở
lên; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lƣợng từ một trăm gam trở lên; c) Lá, hoa, quả
cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lƣợng từ bảy mƣơi lăm kilôgam trở lên; d) Quả
thuốc phiện khô có trọng lƣợng từ sáu trăm kilôgam trở lên; đ) Quả thuốc phiện
tƣơi có trọng lƣợng từ một trăm năm mƣơi kilôgam trở lên; e) Các chất ma túy khác
ở thể rắn có trọng lƣợng từ ba trăm gam trở lên; g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng
từ bảy trăm năm mƣơi mililít trở lên; h) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số
lƣợng của các chất đó tƣơng đƣơng với số lƣợng chất ma túy quy định tại một trong
các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.
5/ Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, ngƣời phạm tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự
năm 1999 còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng; tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
2.1.4. Một số trường hợp phạm tội cụ thể
a) Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy không có
các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
Trƣờng hợp hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy chỉ
là cấu thành cơ bản của tội phạm đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình
sự năm 1999 (có khung hình phạt từ hai đến bảy năm tù) và không thuộc các trƣờng
hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật này, thì tội phạm đó đƣợc
xác định là tội phạm nghiêm trọng.
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự
Phạm tội có tổ chức
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức là trƣờng hợp

50
có nhiều ngƣời cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, lập kế hoạch để thực
hiện hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy dƣới sự
điều khiển thống nhất của ngƣời cầm đầu.
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức là một hình
thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những ngƣời tham gia thực
hiện tội phạm. Trong đó, mỗi ngƣời thực hiện một hoặc một số hành vi cụ thể và tất
cả đều phải chịu sự điều khiển của ngƣời cầm đầu [34, tr. 105].
Phạm tội nhiều lần
Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần là trƣờng hợp
ngƣời phạm tội đã thực hiện hai lần tàng trữ, hai lần vận chuyển hoặc hai lần mua
bán trái phép chất ma túy trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu
thành tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, đồng thời trong số
các lần thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy đó, ngƣời phạm tội chƣa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào [34, tr. 106].
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy là trƣờng hợp ngƣời có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội và
hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ. Nếu
ngƣời phạm tội không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện hành vi
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Chức vụ, quyền hạn phải là
điều kiện thuận lợi để ngƣời phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng trong
trƣờng hợp áp dụng tình tiết tăng nặng “lợi dụng chức vụ quyền hạn” đối với ngƣời
phạm tội [34, tr. 108].
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy là trƣờng hợp ngƣời phạm tội thông qua cơ quan, tổ chức mà
mình là thành viên để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Trong
trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội thông qua các hợp đồng mua bán, hợp đồng vận
chuyển, hợp đồng trông giữ tài sản để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất

51
ma túy. Ngƣời phạm tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức thƣờng là ngƣời lợi
dụng chức vụ, quyền hạn [34, tr. 110].
Trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội không phải là ngƣời có chức vụ, quyền hạn
(và không thuộc trƣờng hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” để thực hiện tội phạm)
mà chỉ lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy, thì ngƣời đó đƣợc xác định là “lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức” để thực hiện hành vi phạm tội.
Vận chuyển, mua bán qua biên giới
Vận chuyển, mua bán ma túy qua biên giới là đƣa ma túy từ nƣớc này qua
nƣớc khác dƣới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, khái niệm “qua biên giới” không
chỉ rõ giới hạn vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới Việt Nam
với các nƣớc có biên giới với Việt Nam, hay còn bao gồm hành vi vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy từ một nƣớc không phải là Việt Nam sang một nƣớc thứ
ba. Do đó, trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy “qua biên giới”, thì ngoài việc xác định hành vi vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy “qua biên giới” Việt Nam với các nƣớc có biên giới với Việt Nam và
ngƣợc lại, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xem xét đến hành vi vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy “qua biên giới” của một nƣớc không phải là Việt
Nam sang một nƣớc thứ ba [34, tr. 110].
Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em
Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội là trƣờng hợp ngƣời phạm tội đã dụ dỗ, xúi
giục, mua chuộc, hăm dọa, khống chế, lôi kéo... ngƣời dƣới 16 tuổi thực hiện hành
vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Trong trƣờng hợp ngƣời
phạm tội xúi giục trẻ em thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy, nhƣng trẻ em bị xúi giục đó chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
hoặc hành vi chƣa tới mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngƣời phạm tội
vẫn bị coi là sử dụng trẻ em vào việc phạm tội [34, tr. 112].
Bán ma túy cho trẻ em đƣợc hiểu là ngƣời phạm tội dùng chất ma túy mà
mình có dƣới bất kỳ hình thức nào nhƣ: Mua đƣợc, xin đƣợc, nhặt đƣợc, do ngƣời

52
khác gửi hoặc chiếm đoạt đƣợc để bán, trao đổi cho ngƣời dƣới 16 tuổi để lấy tiền
hoặc lấy tài sản khác không phải là tiền [34, tr. 112]. Nhƣ vậy, trƣờng hợp phạm tội
này chỉ có thể xảy ra đối với ngƣời thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho
ngƣời khác dƣới 16 tuổi.
Tái phạm nguy hiểm
Tái phạm nguy hiểm là trƣờng hợp ngƣời phạm tội đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chƣa đƣợc xóa án tích mà lại phạm
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc đã tái phạm, chƣa đƣợc
xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy thuộc trƣờng
hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 là trƣờng hợp ngƣời đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chƣa đƣợc xóa án tích mà lại tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của Điều
194, hoặc đã tái phạm, chƣa đƣợc xóa án tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định tình tiết
định khung tăng nặng đối với các trƣờng hợp phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy với số lƣợng ma túy cụ thể tƣơng ứng với từng loại ma
túy cụ thể (các quy định từ điểm g đến điểm o khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự).
Ngƣời phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình
sự năm 1999 đƣợc xác định là tội phạm rất nghiêm trọng và phải chịu hình phạt tù
từ bảy năm đến mƣời lăm năm.
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự
Các tình tiết định khung tăng nặng đối với tám loại ma túy đƣợc quy định từ
điểm g đến điểm o khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng đƣợc áp dụng
tƣơng tự đối với các trƣờng hợp phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 3
Điều 194 Bộ luật hình sự. Sự khác biệt về mức độ tăng nặng đối với hành vi phạm
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đƣợc thể hiện thông qua số

53
lƣợng ma túy cụ thể tƣơng ứng với từng loại ma túy cụ thể. Các loại ma túy cụ thể
đƣợc quy định từ điểm g đến điểm o khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự cũng chính
là các tình tiết tăng nặng đƣợc quy định từ điểm a đến điểm h khoản 3 Điều 194 Bộ
luật hình sự với số lƣợng ma túy tƣơng ứng lớn hơn. Ngƣời phạm tội thuộc các
trƣờng hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự thì bị phạt tù từ mƣời
lăm năm đến hai mƣơi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự
Các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định từ điểm g đến điểm o khoản
2 Điều 194 và các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định từ điểm a đến điểm
h khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 cũng tiếp tục đƣợc áp dụng tƣơng tự
đối với các trƣờng hợp phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 4 Điều 194
Bộ luật hình sự. Sự khác biệt của các tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 4 Điều
194 Bộ luật hình sự đƣợc thể hiện thông qua số lƣợng ma túy cụ thể tƣơng ứng với
từng loại ma túy cụ thể (các loại ma túy được quy định từ điểm g đến điểm o khoản
2 Điều 194 và từ điểm a đến điểm h khoản 3 Điều 194) với mức độ lớn hơn so với
số lƣợng ma túy đƣợc quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự. Ngƣời phạm
tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự thì bị phạt
tù hai mƣơi năm, tù chung thân hoặc tử hình, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Nhƣ vậy, ngoài các trƣờng hợp phạm tội có tình tiết tăng nặng đƣợc quy định
tại các điểm a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; e)
Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em và điểm p) Tái phạm
nguy hiểm, các trƣờng hợp phạm tội có tình tiết định khung tăng nặng khác đều
đƣợc căn cứ vào khối lƣợng của từng loại ma túy cụ thể theo quy định từ điểm g
đến điểm o khoản 2 Điều 194 và từ điểm a đến điểm h khoản 3, khoản 4 Điều 194.
Điều này cho thấy Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành mới chỉ quy định số lƣợng
chất ma túy để xử lý và quyết định hình phạt đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy, chứ chƣa có quy định cụ thể về chất lƣợng, hàm
lƣợng chất ma túy khi giải quyết các vụ án hình sự về tội danh này.

54
2.2. Thực tiễn xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến
năm 2015
Thành phố Đà Nẵng nằm ở miền Trung Việt Nam với khoảng cách gần nhƣ
chia đều giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đà Nẵng còn là trung tâm
của 3 di sản văn hóa thế giới là cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn,
đồng thời cũng là điểm cuối của tuyến hành lang kinh tế Đông Tây và là cửa ngõ ra
biển Thái Bình Dƣơng của các nƣớc Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
Từ khi đƣợc chia tách từ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ) để trở thành một
thành phố trọng điểm về kinh tế – xã hội của khu vực miền Trung – Tây nguyên, Đà
Nẵng đã có những bƣớc phát triển nhanh chóng về nhiều mặt và trở thành một điểm
đến lý tƣởng cho du khách thập phƣơng. Quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đã làm cho
thành phố Đà Nẵng trở thành một nơi đáng sống nhất của Việt Nam. Với hệ thống
sân bay, cảng biển, đƣờng sắt, đƣờng bộ thuận tiện cho việc giao lƣu trong nƣớc và
quốc tế, Đà Nẵng có vị trí quan trọng về giao thông và có nhiều cơ hội phát triển để
trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch và dịch vụ lớn của cả
nƣớc. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đó cũng đã làm cho thành phố Đà
Nẵng dễ trở thành địa bàn thuận lợi cho tệ nạn xã hội và các loại tội phạm xâm nhập
và phát triển, đặc biệt là tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy. Nhận thức sâu sắc
mặt trái của sự phát triển này, ngay từ năm 2001 Thành ủy, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã chủ động thực hiện chƣơng trình “Xây
dựng thành phố không có ngƣời nghiện ma túy trong cộng đồng” với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2005 thành phố “không có ngƣời nghiện ma túy trong cộng đồng” và
không có những điểm nóng về ma túy. Tuy nhiên, tội phạm ma túy nói chung, tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đang ngày càng
gia tăng một cách đều đặn và đáng lo ngại.
Đà Nẵng là thành phố đã chủ động khởi xƣớng việc thực hiện chủ trƣơng “5
không” (trong đó có tiêu chí “không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”),
nên toàn bộ hệ thống chính trị từ thành phố đến xã, phƣờng đều đã tích cực tham gia

55
phòng chống tệ nạn ma túy cũng nhƣ tội phạm về ma túy, đồng thời xử lý rất kiên
quyết, nghiêm minh đối với các hành vi sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy. Số liệu thống kê dƣới đây cho thấy hoạt động xét xử của các cấp
Tòa án đối với các vụ án về ma túy tại thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ
năm 2011 đến nay:
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án, số bị cáo phạm tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015
Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo
Năm
(ma túy) (ma túy) các loại các loại
2011 46 57 613 1129
2012 79 97 726 1278
2013 98 134 681 1272
2014 106 148 705 1254
2015 120 196 671` 1175

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các bản “Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng” trong giai đoạn 2011 – 2015).
Trong khi số vụ án hình sự các loại và số bị cáo trong các vụ án hình sự nói
chung không có quá nhiều biến động, thì số vụ án ma túy và số bị cáo trong các vụ
án về ma túy đã tăng lên khá nhiều và tăng đều đặn qua từng năm.
Về số vụ án ma túy: Năm 2012, tỷ lệ số vụ án ma túy tăng so với năm 2011 là
17,1%; năm 2013 tăng 12,4% so với năm 2012; năm 2014 tăng 10,8% so với năm
2013 và năm 2015 tăng 11,3% so với năm 2014.
Nhƣ vậy, trong vòng 5 năm, tỷ lệ gia tăng số vụ án ma túy bình quân theo từng
năm là 12,9%.
Về số bị cáo trong các vụ án về ma túy bị đưa ra xét xử: Năm 2012, tỷ lệ số bị
cáo về ma túy bị đƣa ra xét xử tăng 17% so với năm 2011; năm 2013 tăng 13,8% so
với năm 2012; năm 2014 tăng 11% so với năm 2013 và năm 2015 tăng 13,2% so
với năm 2014.
Tỷ lệ gia tăng số bị cáo trong các vụ án về ma túy bị đƣa ra xét xử bình quân
theo từng năm tƣơng đƣơng với mức 13,75%.

56
So với tổng số các vụ án hình sự các loại, số vụ án ma túy cũng liên tục gia
tăng: Năm 2011, số vụ án ma túy chỉ chiếm tỷ lệ 7,5% trong tổng số các vụ án hình
sự các loại; năm 2012 chiếm tỷ lệ 13,4%; năm 2013 chiếm tỷ lệ 14,3%; năm 2014
chiếm tỷ lệ 15,0% và năm 2015 chiếm tỷ lệ 17,9%. Bình quân, tỷ lệ gia tăng số vụ
án ma túy trong tổng số các vụ án hình sự các loại là 2,6%. Mặc dù tỷ lệ gia tăng
này không cao, nhƣng sự gia tăng đều đặn qua từng năm của tỷ lệ vụ án hình sự về
ma túy trong tổng số các vụ án hình sự cho thấy những dấu hiệu nguy hiểm và đáng
báo động về tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Cùng với đó, số bị cáo trong các vụ án hình sự về ma túy so với tổng số bị cáo
trong các vụ án hình sự nói chung cũng không ngừng gia tăng. Năm 2011, tỷ lệ số
bị cáo trong các vụ án hình sự về ma túy so với tổng số bị cáo trong các vụ án hình
sự nói chung chỉ là 5,0%; năm 2012 tỷ lệ này là 7,5%; năm 2013 là 10,5%; năm
2014 là 11,8% và năm 2015 thì tỷ lệ này là 16,6%. Tính bình quân hàng năm, tỷ lệ
số bị cáo trong các vụ án hình sự về ma túy so với tổng số bị cáo trong các vụ án
hình sự nói chung tăng ở mức tƣơng đƣơng 2,9%. Nhƣ vậy, tỷ lệ gia tăng này cũng
tƣơng đƣơng với tỷ lệ gia tăng số vụ án ma túy trong tổng số các vụ án hình sự các
loại (2,6%). Điều đó cho thấy tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
đang có chiều hƣớng gia tăng cả về số ngƣời phạm tội và số vụ việc phạm tội, đồng
thời mức độ gia tăng này cũng luôn đƣợc duy trì một cách đều đặn qua từng năm.
Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phần lớn tội phạm về ma túy là tội phạm
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý. Hầu hết những vụ việc sử
dụng trái phép chất ma túy hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bị phát hiện
trong thời gian qua đều chƣa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và các đối
tƣợng vi phạm đều chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đƣa vào các cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân các cấp trong giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2015 cho thấy cơ cấu của các loại tội phạm cụ thể trong tổng số
các vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhƣ sau:
Tỷ lệ các vụ án hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong tổng số các
vụ án hình sự về ma túy là: 46 vụ/449 vụ, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 10,2%.

57
Tỷ lệ các vụ án hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trong tổng số
các vụ án hình sự về ma túy là: 107 vụ/449 vụ, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 23,9%.
Tỷ lệ các vụ án hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trong tổng số các
vụ án hình sự về ma túy là: 296 vụ/449 vụ, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 65,9%.
Nhƣ vậy, trong cơ cấu chung của các vụ án hình sự về tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các vụ án
hình sự về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy chiếm đa số, tiếp đến là các vụ án
hình sự về tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy và sau cùng là các vụ án hình
sự về tội phạm tàng trữ trái phép chất ma túy. Điều này cho thấy một thực tế là số vụ
phạm tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là loại tội phạm phổ biến nhất và
chiếm đa số (89,8%) trong các loại tội phạm về ma túy tại thành phố Đà Nẵng.
Tỷ lệ bị cáo bị đƣa ra xét xử về hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
cũng đƣợc xác định cụ thể là:
Tỷ lệ bị cáo bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong tổng số bị cáo
là: 77 bị cáo/632 bị cáo, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 12,3%.
Tỷ lệ bị cáo bị xét xử về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trong tổng số bị
cáo là: 126 bị cáo/632 bị cáo, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 19,9%.
Tỷ lệ bị cáo bị xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy trong tổng số bị
cáo là: 429 bị cáo/632 bị cáo, chiếm tỷ lệ tƣơng đƣơng 67,8%.
Cũng tƣơng tự nhƣ số liệu thống kê về số vụ án hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Đà Nẵng theo từng tội danh cụ
thể, số ngƣời phạm tội về hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng
chiếm tỷ lệ áp đảo (87,7%) trong cơ cấu tội phạm về ma túy. Đặc biệt là số lƣợng
tội phạm thuộc trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm cũng đều là các đối tƣợng phạm tội
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy.
Nếu so sánh số lƣợng các trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm của loại tội phạm về
ma túy với số lƣợng các trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm của các loại tội phạm khác,
thì trong vòng năm năm qua tỷ lệ ngƣời phạm tội vận chuyển, mua bán trái phép

58
chất ma túy thuộc trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm tại thành phố Đà Nẵng cũng gia
tăng đến mức đáng lo ngại. Năm 2011, chỉ có một ngƣời phạm tội về ma túy thuộc
trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm trong tổng số 21 trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm
của các loại tội phạm khác (chiếm 4,7%). Năm 2012, con số này tăng lên 4 trƣờng
hợp trong tổng số 23 trƣờng hợp thuộc các loại tội phạm khác (chiếm 17,4%). Năm
2013, có 5 trƣờng hợp trong tổng số 41 trƣờng hợp (chiếm 12,2%); năm 2014 có 9
trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm là ngƣời phạm tội về ma túy trong tổng số 38
trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm của các loại tội phạm khác (chiếm 23,7%). Tính đến
ngày 30 tháng 9 năm 2015 số ngƣời phạm tội về ma túy thuộc trƣờng hợp tái phạm
nguy hiểm là 4 ngƣời trong tổng số 16 trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm thuộc các
loại tội phạm khác (chiếm 25%). Mức độ tái phạm nguy hiểm của loại tội phạm này
đƣợc thể hiện thông qua các số liệu thống kê cụ thể nhƣ sau:
Bảng 2.2: Thống kê tỷ lệ bị cáo phạm tội về ma túy thuộc trường hợp tái phạm
nguy hiểm tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Số bị cáo tái
Tổng số Số bị cáo tái Tổng số
phạm nguy
Năm bị cáo Tỷ lệ phạm nguy bị cáo Tỷ lệ
hiểm
(ma túy) hiểm các loại các loại
(ma túy)
2011 1 57 1,75% 21 1129 1,86%
2012 4 97 4,12% 23 1278 1,80%
2013 5 134 3,73% 41 1272 3,22%
2014 9 148 6,08% 38 1254 3,03%
2015 4 196 2,04% 16 1175 1,36%
Bình quân 4,6 126,4 3,63% 27,8 1221,6 2,27%

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các bản “Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng” trong giai đoạn 2011 – 2015).

Số liệu thống kê các trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm trên đây cho thấy:
Tỷ lệ trường hợp tái phạm nguy hiểm bình quân tính trên tổng số bị cáo phạm
tội về ma túy: 3,63%.

59
Tỷ lệ trường hợp tái phạm nguy hiểm bình quân tính trên tổng số bị cáo phạm
tội các loại: 2,27%.
Nhƣ vậy, tỷ lệ tội phạm về ma túy thuộc trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm so với
tỷ lệ trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm của các loại tội phạm khác luôn ở mức cao hơn
đến gần 160% (3,63% bị cáo phạm tội về ma túy tái phạm nguy hiểm so với 2,27% bị
cáo phạm tội các loại thuộc trƣờng hợp tái phạm nguy hiểm).
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử đối
với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Để có thể đạt đƣợc hiệu quả cao nhất trong đấu tranh phòng chống tội phạm
về ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
nói riêng, thì việc khảo sát và nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế,
tồn tại trong hoạt động xét xử đối với loại tội phạm này là một việc làm cần thiết và
vô cùng quan trọng. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử
đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Đà
Nẵng trong thời gian qua chủ yếu là:
a) Nguyên nhân về công tác nghiệp vụ:
Trên thực tế, khi chứng cứ của vụ án còn yếu và chƣa đủ để thể hiện rõ về một
tội danh cụ thể, thì việc định tội danh một cách chính xác là rất khó khăn. Vì vậy,
giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra thƣờng có nhiều quan điểm khác
nhau về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự và hai cơ quan này cũng
thƣờng không thống nhất với nhau về quan điểm trong việc điều tra, truy tố và giải
quyết các vụ án. Khi hồ sơ đƣợc chuyển đến Tòa án, thì việc xét xử sẽ gặp nhiều
khó khăn, vƣớng mắc và vì vậy chất lƣợng xét xử cũng bị giảm đi rất nhiều.
Trong một số vụ án cụ thể, các cơ quan tiến hành tố tụng đã không xác định
đúng bản chất khách quan của hành vi phạm tội, khởi tố sai tội danh hoặc phải ra
các quyết định thay đổi tội danh của bị can, bị cáo. Thậm chí, một số vụ án có
chứng cứ buộc tội yếu nhƣng các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn khởi tố vụ án hình
sự và sau đó phải đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ giải quyết vụ án hình sự.
Các Thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân cấp quận, huyện thƣờng không chuyên

60
trách trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án ma túy và các
vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Do đó,
một số Thẩm phán chƣa nhận thức đƣợc một cách đầy đủ, chính xác tầm quan trọng
và ý nghĩa của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Trong hoạt
động xét xử, một số Thẩm phán đã không hiểu rõ và không áp dụng đúng các quy
định của pháp luật hình sự và các hƣớng dẫn cụ thể về đƣờng lối xử lý đối với tội
phạm về ma túy. Do đó, việc đƣa ra phán quyết và quyết định hình phạt trong một
số trƣờng hợp là không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội và tính giáo dục, thuyết phục, răn đe của bản án đối với ngƣời phạm tội
cũng nhƣ đối với xã hội là chƣa cao. Thậm chí trong một số vụ án, phán quyết của
Tòa án đã gây nên sự bất bình và hoài nghi trong dƣ luận xã hội.
Hội thẩm tham gia xét xử các vụ án ma túy nói chung, các vụ án về tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng chƣa đƣợc trang bị các kỹ năng
nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng xét xử, kiến thức pháp luật và trình độ chuyên môn,
nên chƣa thể hiện đúng vai trò và tính độc lập của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử. Một số Hội thẩm nhân dân thiếu nhiệt tình và thƣờng có thái độ, tâm lý thụ
động khi tham gia xét xử các vụ án ma túy.
Trong thực tiễn, công tác nghiệp vụ có tầm quan trọng hàng đầu đối với chất
lƣợng xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án ma túy và các vụ án tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Tuy nhiên, hiệu quả của việc
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử lƣu động
đối với các vụ án này đang là một vấn đề cần phải đƣợc nghiên cứu, đánh giá một
cách toàn diện, đầy đủ và khách quan hơn, đặc biệt là khi Đảng và Nhà nƣớc ta
đang chủ trƣơng tiến hành cải cách tƣ pháp để hƣớng đến mục tiêu xây dựng một
Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Trong đó, quyền con ngƣời và
quyền công dân đƣợc bảo vệ tốt hơn.
Bảng thống kê dƣới đây cho thấy tầm quan trọng và hiệu quả của hoạt động
xét xử lƣu động đối với các vụ án ma túy cũng nhƣ vai trò của Thẩm phán đƣợc
phân công giải quyết các vụ án ma túy theo hình thức này.

61
Bảng 2.3: Thống kê số lượng và tỷ lệ vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy được đưa ra xét xử lưu động tại thành phố Đà Nẵng từ năm
2011 đến năm 2015
Số vụ án ma túy Số vụ án các loại
Năm đƣợc đƣa ra xét xử đƣợc đƣa ra xét xử Tỷ lệ
lƣu động lƣu động
2011 8 44 18,2%
2012 15 49 30,6%
2013 28 101 27,7%
2014 36 113 31,8%
2015 27 87 31,0%
Bình quân/năm 22,8 78,8 28,9%

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các bản “Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng” trong giai đoạn 2011 – 2015).
Bảng thống kê trên đây đã thể hiện rõ: Tỷ lệ số vụ án ma túy đƣợc đƣa ra xét
xử lƣu động trong tổng số các vụ án hình sự nói chung đƣợc đƣa ra xét xử lƣu động
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tăng lên đều đặn theo từng năm và luôn ở mức độ
cao với tỷ lệ bình quân hằng năm là 28,9%. Tuy nhiên, sự gia tăng (cũng rất đều
đặn) của số vụ án ma túy và số lƣợng bị cáo phạm tội về ma túy (nhƣ đã đƣợc phân
tích, chứng minh trong Chƣơng 2 của luận văn này) cũng đã cho thấy rằng: Hoạt
động xét xử lƣu động đối với các vụ án ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong
5 năm qua đã không đạt đƣợc hiệu quả nhƣ mong đợi. Nguyên nhân chính là do tính
giáo dục, thuyết phục, răn đe trong các vụ án ma túy đƣợc đƣa ra xét xử lƣu động
này chƣa cao, đồng thời việc lựa chọn các vụ án điểm hoặc xét xử lƣu động cũng
nhƣ địa bàn trọng điểm đƣợc lựa chọn vẫn chƣa đƣợc chú trọng đúng mức. Trƣờng
hợp điển hình nhất là: Quận Hải Châu luôn đƣợc xem là địa bàn trọng điểm về số
lƣợng các vụ án ma túy hằng năm, nhƣng trong suốt giai đoạn từ năm 2011 đến năm
2015, Tòa án nhân dân quận Hải Châu mới chỉ đƣa ra xét xử lƣu động đối với 8 vụ
án ma túy trong tổng số 118 vụ án ma túy đã đƣợc thụ lý để giải quyết, chiếm tỷ lệ

62
6,8%. Thậm chí trong ba năm liên tiếp kể từ năm 2011 đến năm 2013, Tòa án nhân
dân quận Hải Châu đã không đƣa một vụ án ma túy nào ra xét xử lƣu động. Trong
khi đó, cũng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 thì Tòa án nhân dân quận
Liên Chiểu đã đƣa ra xét xử lƣu động đối với 25 vụ án ma túy trong tổng số 58 vụ
án ma túy đã đƣợc thụ lý để giải quyết, chiếm tỷ lệ 43,1%.
Trên thực tế, tỷ lệ về số lƣợng vụ án ma túy đƣợc đƣa ra xét xử lƣu động luôn
cao hơn gấp nhiều lần tỷ lệ về số lƣợng các vụ án hình sự các loại đƣợc đƣa ra xét
xử lƣu động. Theo thống kê, tỷ lệ bình quân số lƣợng các vụ án ma túy đƣợc đƣa ra
xét xử lƣu động hằng năm luôn cao hơn gấp bốn lần tỷ lệ bình quân số lƣợng các vụ
án hình sự các loại đƣợc đƣa ra xét xử lƣu động. Điều đó có nghĩa là việc xét xử lƣu
động đối với các vụ án ma túy luôn luôn đƣợc quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên, hiệu
quả của hoạt động này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhƣ: Việc lựa chọn vụ
án trọng điểm cụ thể và việc lập kế hoạch tổ chức xét xử lƣu động của Thẩm phán
đƣợc phân công thụ lý giải quyết vụ án; trình độ, năng lực và kỹ năng giao tiếp, xử
lý tình huống của Thẩm phán đƣợc phân công thụ lý giải quyết vụ án; việc phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức xét xử lƣu động và giữ trật tự, an ninh
trong phiên tòa xét xử lƣu động; đặc điểm dân cƣ và các điều kiện về kinh tế, văn
hóa, xã hội tại địa bàn đƣợc lựa chọn để tổ chức xét xử lƣu động... và chất lƣợng xét
xử cũng nhƣ ý nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động xét xử lƣu động đối với từng vụ án ma túy cụ thể.
b) Nguyên nhân về công tác tổ chức
Công tác tổ chức và đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, Thẩm phán của ngành Tòa án
chƣa đƣợc chú trọng đúng mức. Việc tổ chức tập huấn về nghiệp vụ và tổ chức hội
thảo hoặc các chuyên đề rút kinh nghiệm về công tác xét xử các vụ án ma túy chƣa
đƣợc thực hiện một cách thƣờng xuyên và liên tục. Vì vậy, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và năng lực công tác của một bộ phận cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân trên thực tế vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh phòng
chống tội phạm ma túy.
Khi tội phạm nói chung, tội phạm ma túy và tội phạm tàng trữ, vận chuyển,

63
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đang có chiều hƣớng gia tăng, thì áp lực
công việc đối với đội ngũ cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là rất lớn. Số
lƣợng cán bộ, Thẩm phán công tác tại các Tòa án thƣờng là cố định và ngoài việc
giải quyết các vụ án về ma túy, các cán bộ Thẩm phán này còn phải giải quyết nhiều
loại vụ án, vụ việc khác, nên thời gian đƣợc dành để nghiên cứu hồ sơ, xét xử các
vụ án về ma túy không có nhiều. Vì vậy, những sai sót trong hoạt động xét xử nói
chung, trong xét xử các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
nói riêng cũng là điều khó tránh khỏi.
Phần lớn các Hội thẩm nhân dân đều là những ngƣời đang công tác tại các cơ
quan, tổ chức, ban ngành tại địa phƣơng nên việc tham gia xét xử các vụ án cũng
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ngành Tòa án vẫn chƣa có sự phối hợp và liên hệ
chặt chẽ với các cơ quan công tác của các Hội thẩm nhân dân nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho Hội thẩm nhân dân tham gia hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, chế độ
thù lao đối với đội ngũ Hội thẩm nhân dân cũng chƣa đƣợc quan tâm một cách
tƣơng xứng với công việc xét xử của họ.
Ngành Tòa án chƣa có chế tài nghiêm khắc để xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, tiêu cực, tham nhũng đối với đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
khi tham gia giải quyết các vụ án ma túy nói chung, những vụ án về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Một số hiện tƣợng bất thƣờng
trong quá trình giải quyết các vụ án ma túy đã không đƣợc xác định rõ nguyên nhân
và tìm biện pháp khắc phục.
Công tác giáo dục đạo đức, rèn luyện nhân cách và chế độ khen thƣởng đối
với đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành Tòa án cũng chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức nhằm khuyến khích, động viên kịp thời và ngăn ngừa những hiện tƣợng tiêu
cực có thể xảy ra trong quá trình công tác.
c) Nguyên nhân về quan hệ phối hợp hoạt động
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, các cơ quan tiến hành tố tụng chƣa có sự
phối kết hợp đồng bộ và chặt chẽ, đặc biệt là sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng

64
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử đối với tội phạm này. Trong một số vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên
chƣa chủ động trong quan hệ phối hợp giải quyết án ma túy ở giai đoạn điều tra.
Điều tra viên không trao đổi hoặc trao đổi không cụ thể, rõ ràng với Kiểm sát viên
về những khó khăn phát sinh trong quá trình điều tra vụ án. Kiểm sát viên đƣợc
phân công kiểm sát quá trình điều tra cũng chƣa thực hiện tốt chức năng kiểm sát
điều tra theo luật định. Thông thƣờng những trƣờng hợp này thì chỉ đến khi vụ án
đã kết thúc giai đoạn điều tra và có kết luận điều tra, Kiểm sát viên mới tiếp cận đầy
đủ hồ sơ vụ án. Khi phát hiện thiếu sót hoặc vi phạm thủ tục tố tụng hình sự trong
quá trình điều tra, thì việc khắc phục hậu quả hoặc điều tra bổ sung đã trở nên khó
khăn hơn, phức tạp hơn so với khi mới khởi tố vụ án và khi vụ án đang ở trong giai
đoạn điều tra. Hơn nữa, mối quan hệ phối hợp giải quyết án hình sự nói chung và án
ma túy nói riêng giữa Viện kiểm sát và Cơ quan Cảnh sát điều tra không đƣợc xác
định một cách rõ ràng, cụ thể trong các văn bản qui phạm pháp luật.
Khi mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chƣa đƣợc
thực hiện một cách chặt chẽ, đồng bộ và thống nhất, thì Tòa án cũng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng nhƣ trong quá trình xét xử.
Việc Tòa án trả lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung chắc chắn sẽ
tốn rất nhiều thời gian, công sức và hiệu quả giải quyết các vụ án này thƣờng cũng
bị giảm đi rất nhiều. Thậm chí hoạt động xét xử của Tòa án sẽ gặp phải nhiều khó
khăn hơn khi việc điều tra, thu thập, bổ sung chứng cứ trong các vụ án về ma túy
nói chung, các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng
là rất khó khăn, phức tạp. Đặc biệt là đối với các vụ án ma túy điều tra qua truy xét,
Cơ quan điều tra thƣờng không thu giữ đƣợc ma túy nên cũng không có vật chứng
để làm căn cứ xử lý đối tƣợng phạm tội.
Bảng thống kê dƣới đây cho thấy tầm quan trọng của quan hệ phối hợp hoạt
động giữa ngành Tòa án và Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết các vụ án tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn từ năm 2011 đến
năm 2015.

65
Bảng 2.4: Thống kê số lượng vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2015 bị Tòa án hoàn trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát
Tổng số bị cáo ma Tổng số bị cáo
Tổng số vụ án ma Tổng số vụ án các
túy trong các vụ án các loại trong các
Năm túy bị Tòa án loại bị Tòa án
bị Tòa án hoàn trả vụ án bị Tòa án
hoàn trả hồ sơ hoàn trả hồ sơ
hồ sơ trả hồ sơ
2011 0 0 40 109
2012 0 0 5 10
2013 3 4 33 82
2014 1 1 34 108
2015 16 33 62 141

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các bản “Báo cáo tổng kết công tác của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng” trong giai đoạn 2011 – 2015).
Bảng thống kê cho thấy số lƣợng vụ án ma túy cũng nhƣ số lƣợng bị cáo trong
các vụ án ma túy bị Tòa án hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát đã tăng đột biến trong
năm 2015. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ những khó khăn, vƣớng
mắc khi thực hiện Công văn số: 234/TANDTC-HS ngày 17/09/2014 của Tòa án
nhân dân tối cao về việc yêu cầu phải giám định hàm lƣợng các chất ma túy, tiền
chất ma túy trong các chất nghi là chất ma túy đƣợc thu giữ để làm căn cứ xét xử.
Sau khi nhận đƣợc Công văn số: 234/TANDTC-HS ngày 17/09/2014 của Tòa án
nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cả hai cấp tại thành phố Đà Nẵng đã không chấp
nhận thụ lý để xét xử các vụ án ma túy mà chƣa có kết luận về giám định hàm
lƣợng. Trong đó, có 10 vụ án đã đƣợc giám định để xác định trọng lƣợng nhƣng
không còn mẫu để giám định hàm lƣợng. Một số vụ án khác bị khởi tố về tội “tàng
trữ trái phép chất ma túy” tuy còn mẫu để giám định hàm lƣợng nhƣng sau khi giám
định thì không đủ định lƣợng cấu thành tội phạm. Viện kiểm sát đã phải trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra để trƣng cầu giám định hàm lƣợng đối với nhiều vụ án. Qua
giám định, có 4 trƣờng hợp hàm lƣợng ma túy không đủ trọng lƣợng để truy tố về

66
tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã phải đình
chỉ điều tra. Đối với 10 vụ án không còn mẫu để giám định hàm lƣợng, thì cả ba
ngành Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra đều đã phải báo cáo Ban Nội
chính Thành ủy Đà Nẵng để tiến hành họp bàn và thống nhất quan điểm: Mặc dù
các vụ án này không đƣợc giám định hàm lƣợng, nhƣng do không còn mẫu để giám
định nên vẫn đề nghị Toà án đƣa ra xét xử theo quy định của Bộ luật hình sự và các
văn bản hƣớng dẫn trƣớc đây. Sau khi Ban Nội chính Thành ủy Đà Nẵng báo cáo
với Ban Thƣờng vụ Thành ủy Đà Nẵng cho ý kiến chỉ đạo thì Tòa án mới tiến hành
xét xử các vụ án này. Bên cạnh đó, trong một số vụ án phức tạp, Tòa án đã phải
hoàn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung nhằm làm rõ những
tình tiết quan trọng và có ý nghĩa đối với việc xét xử cũng nhƣ quyết định hình phạt
đối với các bị cáo.
d) Nguyên nhân về pháp luật
Những quy định hiện hành trong pháp luật hình sự về tội phạm ma túy nói
chung, về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng vẫn
chƣa đƣợc đồng bộ, thống nhất và còn nhiều bất cập. Do đó, quá trình điều tra, truy
tố, xét xử một số vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
gặp nhiều khó khăn, hiệu quả của hoạt động tố tụng nói chung, hiệu quả của hoạt
động xét xử nói riêng chƣa thật sự có tính thuyết phục, răn đe, giáo dục cao đối với
tội phạm cũng nhƣ đối với toàn xã hội.
Nhƣ đã đƣợc tác giả trình bày tại Chƣơng 1 của luận văn này, các tội tàng trữ
trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép
chất ma túy và tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy trong Bộ luật hình sự năm 1985
đã đƣợc các nhà làm luật ghép chung thành Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999:
“Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”. Đồng
thời, quy định về hình phạt bổ sung theo Điều 185(o) trong Bộ luật hình sự năm
1985 cũng đƣợc chuyển thành khoản 5 trong Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999
nhằm giảm thiểu số lƣợng điều luật với hy vọng rằng việc áp dụng pháp luật để xử
lý các hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng

67
nhƣ việc quyết định hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với các tội phạm này
sẽ trở nên đơn giản hơn, thuận tiện hơn và hiệu quả hơn. Về mặt lý thuyết và theo ý
chí của các nhà làm luật, thì Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là một điều luật
quy định chung về bốn tội danh gồm “tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, “tội vận
chuyển trái phép chất ma túy”, “tội mua bán trái phép chất ma túy” và “tội chiếm
đoạt trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, khi áp dụng điều luật này trong việc giải
quyết các vụ án về ma túy, thì bản thân Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 đã bộc
lộ rõ những tồn tại, hạn chế, bất cập và thậm chí là làm phát sinh rất nhiều mâu
thuẫn cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Về mặt lý luận, nếu các nhà làm luật cho rằng Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 bao gồm bốn tội danh là “tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, “tội vận chuyển
trái phép chất ma túy”, “tội mua bán trái phép chất ma túy” và “tội chiếm đoạt trái
phép chất ma túy”, thì khi xử lý trách nhiệm hình sự đối với ngƣời đã thực hiện từ hai
hành vi phạm tội trở lên, các cơ quan tiến hành tố tụng phải khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử ngƣời đã thực hiện những hành vi phạm tội đó về các tội danh tƣơng ứng
với số lƣợng hành vi phạm tội cụ thể mà các đối tƣợng này đã thực hiện trên thực tế.
Đặc biệt là khi xét xử, Tòa án sẽ phải quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt đối
với ngƣời đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên đó theo quy định tại Điều 50
Bộ luật hình sự: “Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội”.
Trong thực tế, ngƣời chỉ thực hiện một trong số các hành vi “tàng trữ trái phép
chất ma túy”, hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy” hoặc hành vi “mua bán trái
phép chất ma túy” và ngƣời đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên hoặc ngƣời
đã thực hiện cả bốn hành vi phạm tội đƣợc quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 cũng chỉ bị Tòa án xét xử một lần với một tội danh cụ thể, chứ không có trƣờng
hợp nào ngƣời phạm tội bị xét xử và quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt nhƣ
trƣờng hợp phạm nhiều tội theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự. Điều đó cho
thấy, giữa lý thuyết cũng nhƣ ý chí của các nhà làm luật với thực tiễn áp dụng pháp
luật khi xử lý những hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 đã phát sinh rất nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết đƣợc. Bởi lẽ về mặt lý

68
luận thì: Khi cho rằng Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là một điều luật quy định
về bốn tội danh cụ thể tƣơng ứng với bốn hành vi phạm tội khác nhau, thì ngƣời đã
thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên đƣơng nhiên sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự về các tội danh tƣơng ứng với những hành vi phạm tội của mình. Trong trƣờng
hợp Tòa án chỉ xét xử và quyết định hình phạt một lần đối với ngƣời đã thực hiện hai
hay nhiều hành vi phạm tội đƣợc quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, thì
đây chắc chắn là trƣờng hợp bỏ lọt tội phạm. Do đó, Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 chỉ đƣợc áp dụng trong thực tiễn với tƣ cách là một tội phạm duy nhất với bốn
hành vi phạm tội, chứ hoàn toàn không phải là một điều luật quy định về bốn tội
phạm khác nhau tƣơng ứng với bốn hành vi phạm tội cụ thể nhƣ quan điểm, ý chí và
mong muốn chủ quan của các nhà làm luật.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp tại thành phố Đà Nẵng, nguyên
nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng, đối với tội phạm về ma túy nói chung cũng
xuất phát từ những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự hiện hành. Cụ thể là:
Thứ nhất: Việc qui định chung nhiều hành vi trong Điều 194 Bộ luật hình sự
hiện hành là chƣa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về
ma túy. Bởi lẽ: Khi các đối tƣợng phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhƣ:
“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “vận chuyển trái phép chất ma túy”, “mua bán trái
phép chất ma túy” và kể cả hành vi phạm tội “chiếm đoạt chất ma túy”, thì các cơ
quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng cũng chỉ có thể truy cứu trách nhiệm
hình sự và xử lý các đối tƣợng đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội đó về cùng một
tội danh theo qui định tại Điều 194 Bộ luật hình sự. Khi tách biệt tội danh này thành
từng tội danh khác nhau để xử lý trách nhiệm hình sự đối với từng hành vi phạm tội
cụ thể, thì các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng có thể truy cứu
trách nhiệm hình sự một cách khoa học, chính xác, rõ ràng và có tính thuyết phục,
răn đe cao hơn đối với ngƣời phạm tội cũng nhƣ đối với toàn xã hội.
Thứ hai: Các quy định về chất ma túy, số lƣợng chất ma túy, hàm lƣợng chất
ma túy, chất lƣợng và loại ma túy trong Bộ luật hình sự chƣa cụ thể, rõ ràng và

69
chƣa đồng bộ, thống nhất với chế độ quản lý của Nhà nƣớc đối với các loại thuốc,
hóa chất phục vụ cho lĩnh vực y tế, nghiên cứu khoa học cũng nhƣ chế độ quản lý
của Nhà nƣớc về kinh tế, xã hội và hành chính. Một số loại ma túy mới xuất hiện
nhiều trong đời sống xã hội nhƣng chƣa đƣợc bổ sung vào danh mục các chất ma
túy một cách kịp thời nên đã gây ra nhiều khó khăn cho các có quan chức năng
trong việc phát hiện và xử lý đối với những hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy mới này.
Mặc dù trong Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ
về việc “Ban hành các chất ma túy và tiền chất” đã bổ sung chất LSD vào Danh
mục I (các chất ma túy tuyệt đối cẩm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc
sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra
tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền), nhƣng số lƣợng tối
thiểu để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận
chuyển, mua bán chất gây nghiện này vẫn chƣa đƣợc quy định cụ thể trong pháp
luật hình sự hiện hành. Vì vậy, trong thời gian qua các cơ quan chức năng mới chỉ
có thể tiến hành thu giữ, tiêu hủy tang vật bị phát hiện và xử lý về mặt hành chính
đối với những hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán các sản phẩm có chứa chất ma
túy mới xuất hiện tại Việt Nam nhƣ “shisha”, “cỏ Mỹ” hoặc “tem giấy” với số
lƣợng lớn, chứ chƣa có trƣờng hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba: Thực tế cho thấy, việc tính trọng lƣợng ma túy trong một số vụ án về
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là chƣa thống nhất: Có vụ
án căn cứ vào hàm lƣợng (tinh chất) ma túy, nhƣng có vụ án lại căn cứ vào trọng
lƣợng thực tế (gồm tinh chất và tạp chất) thu giữ đƣợc để xem xét, xử lý trách
nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Điều này dẫn đến việc đánh giá tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong các vụ án cũng khác nhau.
Xét về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thì: Hành vi tàng trữ và vận
chuyển trái phép chất ma túy không nguy hiểm bằng hành vi mua bán trái phép chất
ma túy. Trong khi đó, Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định về định
lƣợng chất ma túy và hình phạt đối với hành vi của ngƣời tàng trữ, vận chuyển trái

70
phép chất ma túy với hành vi của ngƣời buôn bán chất ma túy là nhƣ nhau nên đã
gây ra những khó khăn nhất định cho việc xác định tội danh, áp dụng hình phạt.
Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng chƣa có sự
thống nhất cao. Các văn bản hƣớng dẫn áp dụng pháp trong hoạt động xét xử của
ngành Tòa án vẫn còn nhiều mâu thuẫn, bất cập, đặc biệt là các văn bản hƣớng dẫn
về việc yêu cầu giám định hàm lƣợng các chất ma túy, tiền chất ma túy đối với các
chất nghi là chất ma túy đƣợc thu giữ để làm căn cứ xét xử đã khiến cho các cơ
quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án các cấp nói riêng gặp phải nhiều khó
khăn, vƣớng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy.
đ) Một số nguyên nhân khác
Trong hoạt động xét xử một số vụ án hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy, việc áp dụng pháp luật và quyết định hình phạt của các Tòa
án đối với tội phạm là không thống nhất và chƣa hợp lý. Thậm chí, việc áp dụng pháp
luật trong một số vụ án cụ thể đã có dấu hiệu của sự khiên cƣỡng và thiếu khách
quan. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do tính độc lập trong hoạt động xét xử
của Tòa án đã bị chi phối nhiều bởi áp lực của chính bản thân hoạt động xét xử và áp
lực của những hạn chế về trình độ, năng lực, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và cả
phẩm chất đạo đức của những ngƣời tiến hành tố tụng, trong đó có đội ngũ Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân. Trong một số trƣờng hợp, phán quyết của Tòa án là rất
thiếu tính thuyết phục, thiếu tính răn đe và tính giáo dục đối với bản thân ngƣời phạm
tội cũng nhƣ đối với toàn xã hội. Đó là chƣa kể đến một số vụ án mà phán quyết của
Tòa án đã gây nên sự bất bình và hoài nghi trong dƣ luận xã hội.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu trên đây, một số nguyên nhân khác làm
giảm chất lƣợng của hoạt động xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến
năm 2015 xuất phát từ: Sự phối kết hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
nƣớc với lực lƣợng phòng chống ma túy quốc tế, các quốc gia trong khu vực và trên

71
thế giới chƣa đầy đủ và toàn diện để có thể ngăn chặn, triệt phá một cách có hiệu
quả các đƣờng dây, tổ chức vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy xuyên quốc
gia; sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các khu vực trong thành phố Đà
Nẵng chƣa đồng đều dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo khá rõ rệt và tình trạng thất
nghiệp còn nhiều làm gia tăng các loại tội phạm, trong đó có tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chấ t ma túy ; việc quản lý, kiểm tra các cơ sở kinh doanh
dịch vụ có điều kiện chƣa đƣợc tiến hành thƣờng xuyên và chặt chẽ nên việc kiểm
soát các tệ nạn xã hội nói chung, tệ nạn ma túy nói riêng vẫn chƣa đạt đƣợc kết quả
nhƣ mong đợi.

72
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA
BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM NÀY

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có chủ trƣơng sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự năm 1999 để thực hiện tốt hơn nữa công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về ma túy và
tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng. Trong Bộ
luật hình sự (sửa đổi) mới đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày 27/11/2015, tội “tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” theo quy định tại
Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 đã đƣợc tách ra thành các tội danh riêng biệt.
Điều đó cho thấy một thực tế là: Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật của Việt
Nam vẫn chƣa bảo đảm đƣợc tính đồng bộ, thống nhất, thậm chí là còn nhiều mâu
thuẫn, bất cập, nên hoạt động về phòng chống tội phạm ma túy nói chung, hoạt
động xét xử tội phạm về ma túy nói riêng vẫn chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong đợi.
Hơn thế nữa, ngoài các loại ma túy phổ biến nhƣ hêrôin, cần sa, ma túy tổng hợp
(ATS, Ecstasy, Dolophine, MS contin...) thƣờng bị phát hiện, còn có rất nhiều loại
ma túy tổng hợp khác mà các cơ quan chức năng vẫn chƣa xác định đƣợc hoặc chƣa
bổ sung vào danh mục các chất ma túy để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm về ma túy. Việc xác định một chất cụ thể nào đó có phải là ma túy
hay không luôn là một vấn đề cấp thiết và quan trọng trong việc xử lý đối với tội
phạm về ma túy.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy không chỉ do nhu cầu từ những bất
hợp lý trong quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và từ thực tiễn đấu tranh, xử lý,

73
phòng ngừa tội phạm, mà còn xuất phát từ những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc
cải cách tƣ pháp cũng nhƣ việc tăng cƣờng phát triển hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng hơn trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm về ma túy và
tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Nhƣ chúng ta đã biết, tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây có chiều dài
1.450km đi qua lãnh thổ của 4 quốc gia gồm Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam
có điểm khởi đầu là thành phố cảng Malamin của Myanmar và điểm kết thúc là
cảng Tiên Sa, thành phố Đà Nẵng. Tuyến hành lang này ra đời nhằm mục đích
mang lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia thành viên. Đây cũng là cơ
hội để các nƣớc tiếp cận tốt hơn các nguồn tài nguyên, khoáng sản, hải sản và năng
lƣợng phục vụ cho các ngành sản xuất và chế biến, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển các đô thị nằm dọc hành lang, đồng thời thúc đẩy thƣơng mại xuyên biên
giới, thu hút đầu tƣ, tạo điều kiện để phát triển hệ thống giao thông thông suốt trên
toàn tuyến, giảm tối đa các chi phí vận chuyển. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện
thuận lợi để các loại tội phạm, trong đó có tội phạm ma túy lợi dụng để vận chuyển,
mua bán các loại ma túy giữa các nƣớc trên tuyến hành lang quan trọng này.
Tại Việt Nam, hành lang kinh tế Đông – Tây đi qua địa bàn của 3 tỉnh gồm
tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng, trong đó có đƣờng
biên giới giáp nƣớc bạn Lào với tổng chiều dài là 290km. Toàn tuyến biên giới hiện
nay có 8 cửa khẩu, trong đó có cửa khẩu quốc tế, quốc gia và cửa khẩu phụ (cửa
khẩu địa phƣơng) cùng hàng trăm con đƣờng tiểu mạch, hàng nghìn đƣờng mòn qua
lại biên giới hai nƣớc. Hành lang kinh tế Đông – Tây đi qua địa bàn 3 tỉnh của Việt
Nam gồm tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng. Toàn tuyến
biên giới hiện nay có 8 cửa khẩu, trong đó có các cửa khẩu quốc tế, của khẩu quốc
gia và cửa khẩu phụ (cửa khẩu địa phƣơng) cùng hàng trăm con đƣờng tiểu mạch,
hàng nghìn đƣờng mòn qua lại biên giới hai nƣớc. Tuyến biên giới thuộc tỉnh
Quảng Trị giáp với nƣớc bạn Lào có vị trí khá gần với khu vực “Tam giác vàng”
nên bọn tội phạm ma túy thƣờng chọn tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây để vận
chuyển các loại ma túy vào Việt Nam để tiêu thụ hoặc là mƣợn đƣờng để trung
chuyển ma túy sang nƣớc thứ ba.

74
Trƣớc tình hình đó, ba nƣớc Việt Nam, Lào và Thái Lan đã nhiều lần nhóm
họp để tổ chức các Hội nghị về hợp tác phòng, chống ma túy trên tuyến hành lang
kinh tế Đông – Tây nhằm trao đổi thông tin về các biện pháp ngăn chặn tội phạm
ma túy, thực thi pháp luật, kỹ thuật điều tra, khám xét và bắt giữ tội phạm cũng nhƣ
tham khảo để áp dụng một cách hiệu quả những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên
tiến trong công tác đấu tranh đối với từng chuyên án ma túy cụ thể. Bất chấp những
nỗ lực đó, tình hình buôn bán, vận chuyển ma túy trên tuyến hành lang kinh tế Đông
– Tây không những không đƣợc hạn chế mà ngƣợc lại ngày càng có những diễn
biến đáng quan ngại hơn.
Đến nay, ba nƣớc Việt Nam, Lào và Thái Lan đã xác lập đƣợc cơ chế hợp tác
phòng chống tội phạm ma túy, nhƣng hiệu quả hợp tác giữa ba nƣớc vẫn chƣa cao.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hợp tác phòng chống tội phạm ma túy
giữa các quốc gia trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây chƣa đạt đƣợc kết quả
nhƣ mong đợi là do hệ thống pháp luật về phòng chống tội phạm ma túy của các
nƣớc còn có nhiều sự khác biệt, đặc biệt là sự khác biệt về chính sách hình sự đối
với tội phạm ma túy đã khiến cho quan điểm xử lý và công tác phối hợp đấu tranh
còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhất là trong việc phối hợp truy tìm, bắt giữ, xử lý
các đối tƣợng chủ mƣu, cầm đầu và các đối tƣợng phạm tội ma túy đang lẩn trốn
hoặc đang bị truy nã.
Với vị trí, vai trò là cửa ngõ phía Đông của tuyến hành lang kinh tế Đông –
Tây, thành phố Đà Nẵng không chỉ là một thị trƣờng tiêu thụ ma túy đơn thuần, mà
còn là tuyến trung chuyển của tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy. Để nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này, việc phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng thuộc các địa phƣơng lân
cận nhƣ tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên Huế và tỉnh Quảng Nam… là vô cùng cần
thiết và quan trọng đối với Đảng bộ, chính quyền thành phố Đà Nẵng cũng nhƣ các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Sự phối kết hợp này cần phải đƣợc thể hiện bằng
các cơ chế, quy chế và các hoạt động thƣờng xuyên trên cơ sở các văn bản cụ thể.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng tại thành phố Đà Nẵng cũng cần phải nghiên

75
cứu, đề xuất Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và
một số bộ ngành khác có liên quan thƣờng xuyên tổ chức các Hội nghị chuyên đề và
chủ động tham gia ký kết, thực hiện các cam kết về hợp tác quốc tế trong hoạt động
phòng chống tội phạm ma túy nói chung, trong việc phối kết hợp truy tìm, bắt giữ,
xử lý các đối tƣợng chủ mƣu, cầm đầu, các đối tƣợng phạm tội ma túy đang lẩn trốn
hoặc đang bị bị truy nã nói riêng.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự liên
quan đến tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Những nội dung nghiên cứu, trình bày trong Chƣơng 1 và Chƣơng 2 của luận
văn này cho thấy: Vấn đề hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là một yêu cầu cấp bách và
vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay. Để góp phần hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự liên quan đến tội phạm này trong tƣơng lai xa hơn, tác giả xin
đƣợc đƣa ra một số kiến nghị cụ thể nhƣ sau:
Một là, khung hình phạt cao nhất đối với các tội danh “mua bán trái phép chất
ma túy”, “vận chuyển trái phép chất ma túy”, “tàng trữ trái phép chất ma túy” cần
phải đƣợc quy định ở các mức khác nhau để phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã hội
của từng hành vi phạm tội. Theo đó, hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” có
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn hành vi “vận chuyển trái phép
chất ma túy”; hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy” có tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn hẳn hành vi “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, việc
duy trì hình phạt tử hình đối với ngƣời phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”
mà mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do họ thực hiện tƣơng tự nhƣ quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 là điều cần thiết. Đối với tội “vận chuyển trái phép
chất ma túy” thì chỉ nên áp dụng hình phạt tử hình đối với các đối tƣợng chủ mƣu,
cầm đầu, chỉ huy, tổ chức thực hiện tội phạm hoặc vận chuyển ma túy với số lƣợng
lớn. Riêng đối với tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” thì việc quy định hình phạt
cao nhất đối với tội danh này là tù chung thân (thay cho hình phạt tử hình trong Bộ
luật hình sự năm 1999) cũng đƣợc đánh giá là phù hợp với thực tế và phù hợp với

76
mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này khi Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự
(sửa đổi) năm 2015.
Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 quy định
đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy thì: Tất cả các trƣờng hợp phạm tội
thuộc khung hình phạt này đều bị áp dụng hình phạt tù đến 20 năm, tù chung thân
hoặc tử hình. Quy định này cũng tƣơng tự nhƣ các quy định tại khoản 4 Điều 251 đối
với tội mua bán trái phép chất ma túy. Điều đó cũng có nghĩa là Bộ luật hình sự (sửa
đổi) năm 2015 chƣa có sự phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội vận chuyển trái phép chất ma túy và của hành vi phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy. Do đó, khi Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 có hiệu lực thi hành, thì Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ
pháp và các cơ quan chức năng hữu quan cần phải có hƣớng dẫn cụ thể hơn về việc
áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm phân định rõ tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” với tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Hai là, việc quy định khối lƣợng chất ma túy và định khung hình phạt đối với
đối với từng hành vi phạm tội cần phải đƣợc xem xét, quyết định một cách khoa học
và hợp lý. Việc phân hóa trách nhiệm hình sự cũng nên tập trung hơn vào mức độ
nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định
trọng lƣợng chất ma túy đƣợc xác định bằng đơn vị đo lƣờng là gram, kilôgram.
Trong thực tế, có những vụ án ma túy không thu giữ đƣợc tang vật mà chỉ dựa trên
lời khai của các đối tƣợng xác định trọng lƣợng chất ma túy bằng đơn vị bánh, cây,
chỉ, phân… mà chƣa có cơ sở để xác định và quy đổi thành đơn vị tính theo quy
định của Bộ luật hình sự nên không đủ căn cứ để định tội. Vì lý do này mà trong
một số vụ án cụ thể đã có một số trƣờng hợp để lọt tội phạm.
Trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử nói
riêng, việc áp dụng pháp luật luôn luôn đòi hỏi phải đƣợc thực hiện một cách thống
nhất, khách quan, công bằng và chính xác đối với tất cả mọi trƣờng hợp. Tuy nhiên,
một số quy định hiện hành trong pháp luật hình sự chƣa bảo đảm tính đồng bộ, hợp

77
lý và cũng chƣa có những hƣớng dẫn cụ thể về đƣờng lối xử lý chung, nên Tòa án
các cấp còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc áp dụng vào thực tiễn.
Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt chủ yếu căn cứ vào
trọng lƣợng ma túy mà ngƣời phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép,
nhƣng đến nay Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân tối cao mới chỉ hƣớng dẫn đƣờng lối xử lý đối với khoản 4
Điều 194 BLHS, còn khoản 2 và khoản 3 chƣa đƣợc hƣớng dẫn cụ thể nên việc áp
dụng pháp luật trong thực tế xét xử đối với một số vụ án còn thiếu thống nhất. Trong
một vụ án về tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, nếu ngƣời phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội một cách đơn lẻ và độc lập, thì hình phạt dành cho ngƣời phạm
tội có thể là hình phạt tử hình hoặc tù chung thân. Tuy nhiên, cũng với một lƣợng ma
túy tƣơng tự, thậm chí là nhiều hơn, nhƣng nếu ngƣời thực hiện hành vi phạm tội nằm
trong một vụ án có tổ chức, có nhiều ngƣời tham gia và vai trò của ngƣời phạm tội
này đƣợc xác định là thấp hơn so với những đồng phạm khác, thì có thể ngƣời phạm
tội sẽ không bị áp dụng hai hình phạt cao nhất nêu trên. Nhƣ vậy, với cùng một loại
hành vi và với cùng tính chất, mức độ phạm tội nhƣ nhau, nhƣng trách nhiệm hình sự
và hình phạt đƣợc áp dụng đối với hai trƣờng hợp phạm tội này lại rất khác nhau.
Trong khi đó, hành vi phạm tội có tổ chức luôn luôn đƣợc đánh giá, xác định là có
tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi phạm tội đơn lẻ, độc lập. Đây cũng là một
vấn đề cần đƣợc xem xét, khắc phục trong quá trình xây dựng pháp luật và trong việc
hƣớng dẫn áp dụng pháp luật đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
Việc quy định hàm lƣợng chất ma túy là cần thiết và quan trọng cả về mặt lý
luận cũng nhƣ trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Do đó, khi các điều luật quy định
về tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy chƣa đƣa ra định
mức về hàm lƣợng cụ thể để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự cũng nhƣ quyết
định hình phạt đối với ngƣời phạm tội, thì việc xác định hàm lƣợng chất ma túy cần
phải đƣợc hƣớng dẫn một cách cụ thể, rõ ràng. Trong Bộ luật hình sự (sửa đổi)
đƣợc Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, việc định lƣợng các chất ma túy dƣới
các dạng vật lý khác nhau (rắn, lỏng hoặc lá, rễ, thân, cành, hoa, quả,…) đối với các

78
tội danh về ma túy nói chung đã đƣợc quy định một cách cụ thể. Quy định này là
cần thiết để tạo cơ sở pháp lý cho việc phân hóa và xử lý trách nhiệm hình sự cũng
nhƣ áp dụng hình phạt tƣơng xứng đối với từng hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc
giám định hàm lƣợng ma túy vẫn cần phải đƣợc hƣớng dẫn một cách cụ thể và phải
quy định rõ hơn về các trƣờng hợp cần phải giám định hàm lƣợng ma túy cũng nhƣ
các trƣờng hợp không cần phải giám định hàm lƣợng ma túy. Nếu việc giám định
hàm lƣợng ma túy cần phải đƣợc thực hiện đối với tất cả các vụ án về ma túy, thì
khi một chất ma túy nào đó (mới xuất hiện) đƣợc bổ sung vào danh mục các chất
ma túy cũng cần phải đƣợc giám định và quy đổi thành một hàm lƣợng ma túy cụ
thể theo những tiêu chí nhất định.
Ba là, việc xét xử lƣu động đối với các vụ án điểm về tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy cần phải có những công trình nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ, cụ thể và sát với thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án,
đặc biệt là trong xu hƣớng Đảng và Nhà nƣớc ta đang tập trung những nỗ lực cao
nhất để thực hiện tiêu chí bảo vệ quyền con ngƣời và vì con ngƣời trong tất cả các
hoạt động của hệ thống chính trị, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 2015 đƣợc Quốc hội thông qua vào ngày
27/11/2015, rất nhiều ý kiến, quan điểm trái chiều của các chuyên gia trong ngành
tƣ pháp đã xuất hiện trên hầu hất các phƣơng tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam.
Tựu trung lại, hai quan điểm chủ yếu hiện nay là: Quan điểm thứ nhất ủng hộ việc
xét xử lƣu động và quan điểm thứ hai thì không đồng tình với hoạt động này của
ngành Tòa án.
Quan điểm ủng hộ việc xét xử lƣu động cho rằng: Hoạt động xét xử lƣu động
góp phần tuyên truyền pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của mọi ngƣời. Quan
điểm không đồng tình với hoạt động này của ngành Tòa án thì cho rằng: Hiệu quả
của việc xét xử lƣu động (đặc biệt là đối với các vụ án hình sự nói chung) là không
cao, thậm chí là có ảnh hƣởng tiêu cực đến bị cáo, nhân thân của bị cáo, ảnh hƣởng
đến các quyền cơ bản, hiến định của con ngƣời và là rào cản lớn trong quá trình đƣa
ngƣời phạm tội trở về tái hòa nhập với cộng đồng và xã hội.

79
3.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Nhƣ chúng ta đã biết, hoạt động tố tụng hình sự là một quá trình áp dụng
pháp luật hình sự theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự
quy định và đƣợc thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Trong
đó, hoạt động xét xử của Tòa án là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình
tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chất lƣợng xét xử của Tòa án
đối với các vụ án hình sự nói chung, đối với các vụ án hình sự về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng thƣờng phụ thuộc rất nhiều vào
chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động điều tra, hoạt động kiểm sát và truy tố của các
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền trƣớc khi vụ án đƣợc đƣa ra xét xử. Điều
đó cũng có nghĩa là để nâng cao chất lƣợng xét xử của Tòa án đối với tội phạm tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, thì các giải pháp đƣợc đƣa ra đều
phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất đối với tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền, chứ không chỉ là những giải pháp riêng biệt đối với ngành Tòa án.
Trên cơ sở đã phân tích các nguyên nhân làm giảm chất lƣợng xét xử đối với tội
phạm này, tác giả xin đƣợc nêu ra một số giải pháp cụ thể nhƣ sau:
3.3.1. Giải pháp về công tác nghiệp vụ
Trong trƣờng hợp hoạt động xét xử lƣu động vẫn tiếp tục đƣợc duy trì nhƣ
hiện nay, thì để nâng cao chất lƣợng xét xử lƣu động đối với các vụ án tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, ngành Tòa
án cần phải thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể nhƣ: Thƣờng xuyên quán triệt,
nâng cao nhận thức của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về mục đích, vai trò và ý
nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét
xử lƣu động; khi tổ chức xét xử lƣu động, Tòa án cần phải phân công các Thẩm
phán có nhiều kinh nghiệm, có năng lực, trình độ và bản lĩnh nghề nghiệp đảm
nhiệm việc lựa chọn các vụ án điểm và trực tiếp làm chủ tọa tại các phiên tòa xét xử
lƣu động; các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đƣợc đƣa
ra xét xử lƣu động cần phải đƣợc lựa chọn một cách kỹ càng để bảo đảm cho việc

80
tuyên án của Hội đồng xét xử luôn đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật và đƣợc dƣ
luận xã hội đồng tình ủng hộ; Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án phải lập
kế hoạch xét xử một cách rõ ràng, cụ thể, đồng thời phải dự đoán đƣợc những tình
huống có thể xảy ra tại phiên tòa và chuẩn bị kế hoạch xử lý các tình huống đó một
cách chủ động, linh hoạt tại phiên tòa xét xử lƣu động. Ngoài ra, việc phối hợp với
các cơ quan Công an và chính quyền địa phƣơng trong việc bảo đảm an ninh, trật tự
và an toàn trong suốt thời gian diễn ra phiên tòa xét xử lƣu động cũng cần phải đƣợc
chuẩn bị một cách chu đáo và kỹ lƣỡng.
Việc lựa chọn các vụ án điểm hoặc các vụ án cụ thể để đƣa ra xét xử lƣu động
cũng nhƣ lựa chọn địa bàn trọng điểm để tổ chức xét xử lƣu động các vụ án ma túy
cần phải đƣợc ngành Tòa án quan tâm hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động xét xử lƣu động đối với tội phạm này, đồng thời giảm thiểu các chi phí phát
sinh cho ngành Tòa án. Trên thực tế, tỷ lệ về số lƣợng vụ án ma túy đƣợc đƣa ra xét
xử lƣu động luôn cao hơn gấp nhiều lần tỷ lệ về số lƣợng các vụ án hình sự các loại
đƣợc đƣa ra xét xử lƣu động, nhƣng hiệu quả vẫn chƣa đạt đƣợc nhƣ mong đợi.
Trong trƣờng hợp hoạt động xét xử lƣu động vẫn tiếp tục đƣợc duy trì nhƣ hiện nay,
ngành Tòa án cần phải nhận thức rõ hơn mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của
hoạt động xét xử lƣu động đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy. Hơn thế nữa, các Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết, xét xử
các vụ án ma túy điểm hoặc đƣợc chọn để xét xử lƣu động cũng cần phải nâng cao
kỹ năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với công chúng.
Một vấn đề cần phải đƣợc quan tâm nữa là: Số vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chiếm đa số trong
các vụ án về ma túy nói chung. Trong năm 2010, các cơ quan chức năng chỉ phát
hiện, xử lý 1 vụ án với 1 bị cáo về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (theo
quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1999) và 1 vụ án với 2 bị cáo về tội
cƣỡng bức, lôi kéo ngƣời khác sử dụng trái phép chất ma túy (theo quy định tại
Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1999). Đến năm 2015, các cơ quan chức năng cũng
chỉ mới phát hiện, xử lý đƣợc 1 vụ án với 2 bị cáo về tội tổ chức sử dụng tái phép

81
chất ma túy (theo quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1999). Điều này cho
thấy việc kiểm soát các hoạt động tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng vẫn chƣa đƣợc chú trọng đúng mức. Bởi lẽ, trên toàn địa
bàn thành phố Đà Nẵng hiê ̣n có 948 cơ sở kinh doanh các dịch vụ có điều kiện dễ bi ̣
lơ ̣i du ̣ng để hoạt động mại dâm và ma túy. Để ngăn chặn và phòng chống có hiệu
quả đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy thì việc
quản lý, kiểm tra, phát hiện và ngăn chặn kịp thời tình trạng sử dụng trái phép chất
ma túy tại các cơ sở kinh doanh các dịch vụ có điều kiện này phải trở thành một
việc làm thƣờng xuyên và liên tục. Thông qua những hoạt động đó, các cơ quan
chức năng mới có thể nắm bắt, đánh giá đƣợc một cách sát sao, đúng mức về tình
hình tội phạm ma túy nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây cũng chính là
cơ sở thực tế quan trọng để hoạch định các chƣơng trình, kế hoạch và phƣơng án
đấu tranh có hiệu quả nhất trong nỗ lực ngăn chặn và phòng chống tội phạm tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức
Ngành Tòa án cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các
quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
ma túy nói chung, đồng thời tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn áp dụng pháp luật và
kịp thời ban hành các văn bản hƣớng dẫn xét xử đối với tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Bên cạnh đó, ngành Tòa án cần đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp đối với đội ngũ Thẩm phán.
Tội phạm về ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy nói riêng luôn có những chiêu thức, thủ đoạn nham hiểm, xảo
quyệt nhằm thực hiện trót lọt hành vi phạm tội và trốn tránh sự trừng trị của pháp
luật. Một trong những thủ đoạn đó là cấu kết, móc nối với những phần tử thoái hóa,
biến chất trong các cơ quan chức năng hoặc tìm cách mua chuộc, hối lộ những
ngƣời có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, những vụ án thiếu
công minh, bất bình đẳng hoặc thiếu tính thuyết phục đều khiến cho dƣ luận không

82
chỉ thắc mắc về năng lực, trình độ chuyên môn mà còn nghi ngờ sự liêm khiết, trung
thực và nhân cách, đạo đức của những ngƣời thực thi pháp luật. Thực tế này đòi hỏi
Nhà nƣớc cần phải có chế tài nghiêm khắc để xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật, tiêu cực, tham nhũng đối với những ngƣời tiến hành tố tụng nói chung, đối với
đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nói riêng, đồng thời kết hợp với việc
thƣờng xuyên giáo dục đạo đức và chế độ khen thƣởng, động viên thỏa đáng, kịp
thời và đúng lúc. Khi xuất hiện những dấu hiệu bất thƣờng trong việc giải quyết các
vụ án ma túy nói chung, những vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy nói riêng, thì các cơ quan chức năng cần phải khẩn trƣơng làm rõ những
dấu hiệu bất thƣờng đó để kịp thời tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Việc học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn đối với đội ngũ
Thẩm phán luôn luôn là điều cần thiết và việc rèn luyện nhân cách, đạo đức, bản
lĩnh cũng vô cùng quan trọng đối với những ngƣời tiến hành tố tụng nói chung và
đối với các Thẩm phán nói riêng. Ngoài ra, việc quyết định hình phạt đối với tội
phạm hoàn toàn không phải là một công việc đơn giản, song để có thể hoàn thành
đƣợc nhiệm vụ mà xã hội và nhân dân giao phó, thì các Thẩm phán không chỉ phải
biết cách vƣợt qua mọi thử thách, cám dỗ và mọi mối hiểm nguy trong suốt quá
trình thực thi pháp luật và bảo vệ công lý, mà còn phải thƣờng xuyên có ý thức
trách nhiệm cao hơn đối với công việc. Để giảm áp lực đối với đội ngũ Thẩm phán,
thì công tác đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm, biên chế và tổ chức cán bộ của ngành
Tòa án cần phải đƣợc quan tâm, chú trọng đúng mức. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc cần
phải quan tâm hơn đến chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán để vừa động viên
tinh thần, thái độ phục vụ của họ đối với công việc và xã hội, vừa ngăn chặn, phòng
ngừa các tác động, ảnh hƣởng của những hiện tƣợng tiêu cực đối với đội ngũ Thẩm
phán. Khi mọi Thẩm phán đều có thể thực sự yên tâm đặt trách nhiệm đối với công
việc và xã hội lên trên lợi ích của bản thân, thì chắc chắn hiệu quả và chất lƣợng của
hoạt động xét xử sẽ cao hơn rất nhiều.
Đối với Hội thẩm nhân dân, công tác bồi dƣỡng, tập huấn để nâng cao kỹ
năng, trình độ nghiệp vụ trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia xét xử tại

83
phiên tòa đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
cũng cần phải đƣợc tiến hành một cách thƣờng xuyên và liên tục.
Trên thực tế, phần lớn các Hội thẩm nhân dân đều là những ngƣời đang công
tác tại các cơ quan, tổ chức, ban ngành tại địa phƣơng nên việc tham gia xét xử các
vụ án cũng gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, mức thù lao dành cho Hội thẩm nhân dân
khi tham gia xét xử các vụ án hiện nay là rất thấp (mức thù lao cho Hội thẩm nhân
dân hiện nay là 50.000 đồng/1 ngày). Do đó, các cơ quan công tác của các Hội thẩm
nhân dân cần tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử, đồng
thời chế độ thù lao đối với Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử các vụ án tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cũng cần phải đƣợc nghiên cứu để
nâng lên đến một mức độ phù hợp.
Ngoài ra, kinh phí cho phiên tòa xét xử lƣu động đối với các vụ án trọng điểm
nói chung cũng cần phải đƣợc Nhà nƣớc quan tâm, bổ sung đúng mức và hợp lý
(trong trường hợp hoạt động xét xử lưu động vẫn tiếp tục được duy trì như hiện
nay). Theo số liệu từ năm 2007, Tòa án nhân dân tối cao ấn định mức kinh phí cấp
cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng là 20 triệu đồng/1
đơn vị/1 năm; mức kinh phí cấp cho Tòa án nhân dân cấp quận, huyện (là thủ phủ
của các tỉnh, thành phố) và Tòa án nhân dân các quận, huyện của năm thành phố
trực thuộc Trung ƣơng là 15 triệu/1 đơn vị/1 năm; mức kinh phí cấp cho các Tòa án
nhân dân cấp quận, huyện còn lại là 12 triệu/1 đơn vị/1 năm.
Nhƣ vậy, kinh phí đƣợc cấp và sử dụng cho việc tổ chức các phiên tòa lƣu
động theo mức ấn định của Tòa án nhân dân tối cao nhƣ hiện nay là rất thấp so với
nhu cầu thực tế. Với số kinh phí ƣớc tính chi cho một phiên tòa lƣu động chỉ vào
khoảng hơn 1 triệu đồng/1 phiên tòa, thì mức kinh phí này không thể bù đắp đủ cho
các khoản chi phí phát sinh. Trên thực tế, hầu hết các Tòa án địa phƣơng đều phải
đề nghị chính quyền địa phƣơng hỗ trợ thêm kinh phí thì mới có thể bảo đảm đƣợc
việc bù đắp các khoản chi phí cũng nhƣ bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu của Tòa án
nhân dân tối cao về việc tổ chức xét xử lƣu động đối với các vụ án hình sự nói
chung, đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói

84
riêng. Sự hạn hẹp về kinh phí xét xử lƣu động cũng chính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến việc một số Tòa án địa phƣơng không tích cực lựa chọn, xác
định các vụ án điểm để đƣa ra xét xử lƣu động. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao và
chính quyền thành phố Đà Nẵng cần quan tâm xem xét và hỗ trợ tích cực hơn nữa
về kinh phí cho Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Đà Nẵng (trong trường hợp
hoạt động xét xử lưu động vẫn tiếp tục được duy trì như hiện nay) trong việc tổ
chức các phiên tòa lƣu động xét xử tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy.
3.3.3. Giải pháp về quan hệ phối hợp hoạt động
Để bảo đảm cho việc đƣa các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy ra xét xử đƣợc thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác và có
chất lƣợng cao, đồng thời có thể hạn chế đến mức thấp nhất việc Tòa án phải hoàn trả
hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Hội đồng xét xử phải hoãn phiên
tòa vì xét thấy cần phải điều tra bổ sung, thì Tòa án cần phải phân công Thẩm phán
theo dõi để nắm chắc nội dung vụ án, ngay sau khi nhận đƣợc hồ sơ vụ án.
Sau khi nhận đƣợc hồ sơ vụ án, Tòa án cần phải liên hệ thƣờng xuyên với
Viện kiểm sát để trao đổi về những vấn đề còn vƣớng mắc hoặc về quan điểm đối
với việc giải quyết vụ án. Khi đã có quyết định đƣa vụ án ra xét xử, Thẩm phán
đƣợc phân công giải quyết vụ án cần chủ động trao đổi, bàn bạc với Kiểm sát viên
đƣợc phân công thực hành quyền công tố tại phiên tòa để xác định rõ các chứng cứ
buộc tội, chứng cứ gỡ tội cũng nhƣ các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và cả những vấn đề nhạy cảm có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Thậm chí, trong trƣờng hợp xét thấy cần thiết hoặc gặp phải những khó khăn, trở
ngại không thể tự khắc phục đƣợc khi giải quyết vụ án, thì Thẩm phán đƣợc phân
công giải quyết vụ án có thể báo cáo và tham khảo ý kiến của Tòa án cấp trên đối
với những vấn đề cụ thể này trƣớc khi đƣa vụ án ra xét xử.
Viện kiểm sát cần phải chủ động tiến hành kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi
tố vụ án, khởi tố bị can và trong suốt quá trình điều tra, xử lý vụ án, phải kịp thời đề
ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra hoàn chỉnh hồ sơ, thu thập đầy đủ chứng cứ;
chú trọng phát hiện những thiếu sót, vi phạm để kiến nghị khắc phục.

85
Đối với Tòa án, khi xét thấy cần thiết, Tòa án cần phải kiên quyết đƣa ra các
yêu cầu cụ thể để Viện kiểm sát xem xét, giải quyết và bổ sung đầy đủ các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm bảo đảm cho việc xét xử đƣợc thực hiện một
cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật và bảo đảm không bỏ lọt tội phạm
nhƣng cũng không làm oan ngƣời vô tội.
Đối với các vụ án trọng điểm đƣợc lựa chọn để đƣa ra xét xử lƣu động (trong
trường hợp hoạt động xét xử lưu động vẫn tiếp tục được duy trì như hiện nay),
Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án cần chủ động liên hệ trực tiếp với
chính quyền địa phƣơng để bố trí địa điểm xét xử hoặc Hội trƣờng xét xử một cách
cụ thể, chu đáo. Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án (chủ tọa phiên tòa)
cũng cần phải chủ động đề nghị lãnh đạo Tòa án tổ chức cuộc họp (hoặc cũng có
thể kết hợp trong cuộc họp trù bị) để phân công trách nhiệm cụ thể đối với Tòa án,
Viện Kiểm sát, Công an, chính quyền địa phƣơng và các cơ quan hữu quan khác
nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và đảm bảo an toàn tuyệt đối cho
phiên tòa. Trong trƣờng hợp vụ án trọng điểm đƣợc lựa chọn để đƣa ra xét xử lƣu
động là một vụ án lớn, phức tạp và cần phải tổ chức phiên tòa nhiều ngày, thì Tòa
án cần phải chủ động đề nghị thành lập Ban tổ chức và phân công ngƣời chỉ huy,
điều hành nhằm kịp thời xử lý các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa.
Trên đây chỉ là một số nội dung phối hợp giữa các ngành Công an, Viện kiểm
sát, Tòa án cũng nhƣ chính quyền địa phƣơng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan trong quá trình tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự nói chung,
các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Tuy nhiên,
sự phối hợp này chỉ có thể đƣợc hiểu theo nghĩa thực chất là phƣơng pháp làm việc
khoa học của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm đẩy nhanh tiến độ
giải quyết vụ án hình sự, chứ không có nghĩa là cơ quan tiến hành tố tụng này xâm
phạm hoặc can thiệp vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hàng tố tụng khác:
Tòa án (mà trực tiếp là Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án) không đƣợc
trực tiếp tham gia vào quá trình điều tra hoặc điều tra bổ sung và cũng không đƣợc
tham gia vào quá trình truy tố của Viện kiểm sát. Và ngƣợc lại, Cơ quan điều tra và

86
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố cũng không đƣợc can thiệp vào quá trình xét
xử của Tòa án.
3.3.4. Giải pháp về pháp luật
Nhƣ đã trình bày và phân tích, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm
chất lƣợng xét xử của Tòa án các cấp tại thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015 đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
xuất phát từ những hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành trong pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, hệ thống các văn bản hƣớng dẫn áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án đối với tội phạm này cũng
chƣa đầy đủ và chƣa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự đã trở thành một yêu cầu cấp
bách của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói chung, tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Để giải quyết vấn đề này, một
số giải pháp hiện nay có thể đƣợc nêu ra một cách cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất: Trƣớc mắt, các cơ quan hữu quan cần phải thực hiện tốt quy định
tại Điều 3 Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ về việc
“Ban hành các chất ma túy và tiền chất”. Cụ thể là:
Khi phát hiện chất mới chƣa có trong các danh mục chất ma túy, chất
hƣớng thần và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định này liên quan đến
việc sản xuất, điều chế, sử dụng chất ma túy hoặc cần thiết phải chuyển đổi
các chất trong các danh mục theo thông báo của Tổng thƣ ký Liên hợp quốc
thì Bộ Công an có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Công
Thƣơng, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan có liên quan xem xét,
trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung và công bố các danh mục đó [13].
Hiện nay, một số loại ma túy mới đã xuất hiện tại các thành phố lớn ở Việt
Nam, trong đó có thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng vẫn chƣa
tiến hành nghiên cứu để đƣa các chất ma túy này vào danh mục các chất ma túy
nhằm làm cơ sở cho hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy mới này. Bên cạnh đó, số lƣợng ma túy

87
tối thiểu và chất lƣợng, hàm lƣợng ma túy để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý cũng cần phải
đƣợc quy định cụ thể. Thực tế cho thấy: Các quy định hiện hành về việc giám định
hàm lƣợng ma túy cũng nhƣ việc nghiên cứu để bổ sung các chất ma túy vào danh
mục các chất ma túy trong pháp luật hình sự chƣa thống nhất và hoàn thiện. Vấn đề
này đã gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng, ngƣời có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự khi giải quyết các vụ án ma túy. Hiện nay, trên
phạm vi cả nƣớc chỉ có Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an đủ điều kiện giám
định hàm lƣợng các chất ma túy. Các Phòng Kỹ thuật hình sự ở Cơ quan Công an
các địa phƣơng chƣa có điều kiện để xác định hàm lƣợng các chất ma túy, mà chủ
yếu là xác định loại chất ma túy và định lƣợng các chất ma túy. Khi có yêu cầu
giám định hàm lƣợng các chất ma túy, Cơ quan Công an các địa phƣơng đều phải
gửi mẫu thử đến Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an để thực hiện việc giám định.
Điều này vừa làm mất nhiều thời gian vừa gây ra nhiều khó khăn cho quá trình điều
tra, giải quyết các vụ án về ma túy nói chung và các vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép các chất ma túy nói riêng. Từ thực tế này, các cơ quan chức năng
cần có nghiên cứu cụ thể để đƣa các chất gây nghiện có trong các sản phẩm nhƣ
shisha và “tem giấy” và một số chủng loại ma túy mới xuất hiện ở Việt Nam (như
các dạng viên nén thành phần vừa có Methamphetamine (chấ t gây nghiê ̣n tổ ng
hợp), vừa có Ketamine (chấ t gây tê) vào trong danh mục các chất ma túy, đồng thời
xác định số lƣợng tối thiểu, chất lƣợng và hàm lƣợng các chất ma túy cụ thể để làm
cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép các chất gây nghiện này.
Trong thời gian gần đây, Thông tƣ liên tịch số: 08/2015/ TTLT-BCA-
TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 14/11/2015 đã đƣợc ban hành để sửa đổi, bổ sung
một số điểm của Thông tƣ liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 24/12/2007 quy định về việc hƣớng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chƣơng XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 nhằm khắc
phục và tháo gỡ những khó khăn, tồn tại, hạn chế và bất cập trong việc giải quyết

88
các vụ án về ma túy. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một giải pháp tình thế có tính chất
tạm thời. Xét về lâu dài thì việc nghiên cứu và đƣa ra một khái niệm khoa học rõ
ràng về chất ma túy trong quy định của pháp luật hình sự là một việc làm thật sự
cần thiết nhằm bảo đảm tính ổn định, chính xác và thống nhất trong việc áp dụng
pháp luật cũng nhƣ trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy nói chung, tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
Thứ hai: Vừa qua, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015
vào ngày 27/11/2015. Theo đó, Điều 194 trong Bộ luật hình sự hiện hành đã chính
thức đƣợc các nhà làm luật tách thành các điều luật riêng biệt để quy định về từng
tội danh cụ thể. Việc thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) lần này là một việc làm
cần thiết, hợp lý và rất có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Khi tách biệt các
tội danh trong Điều 194 trong Bộ luật hình sự năm 1999 thành các điều luật riêng
đối với từng hành vi phạm tội, với những dấu hiệu đặc trƣng của từng tội phạm cụ
thể sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành
tố tụng trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Khi đó, việc xử lý, truy
cứu trách nhiệm hình sự và xét xử đối với những hành vi phạm tội “tàng trữ chất ma
túy”, “vận chuyển chất ma túy”, “mua bán trái phép chất ma túy” sẽ đƣợc thực hiện
một cách khoa học, chính xác, rõ ràng và tính thuyết phục, răn đe, giáo dục đối với
ngƣời phạm tội cũng nhƣ đối với toàn xã hội sẽ cao hơn, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, khi Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2016 thì ngành Tòa án cần phải ban hành các văn bản hƣớng dẫn áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử một cách cụ thể hơn, thống nhất hơn và đồng bộ
hơn, trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp, đánh giá những khó khăn, thuận lợi trong suốt
quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985. Bởi lẽ, trƣớc khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999 nhƣ hiện nay, những hành vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép chất ma túy đã từng đƣợc quy định thành các tội phạm riêng biệt và cụ
thể tại các Điều 185c, Điều 185d và Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985. Trong quá
trình thực hiện Bộ luật hình sự năm 1985 (và các Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc Quốc hội thông qua vào các ngày 28/12/1989,

89
ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997), Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và một số cơ quan
chức năng khác cũng đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tƣ liên ngành, Thông tƣ
liên tịch để hƣớng dẫn chi tiết, cụ thể việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1985. Qua đó, pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, các chế định về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đã từng bƣớc đƣợc xây
dựng một cách tƣơng đối đầy đủ, chặt chẽ và rõ ràng. Hơn nữa, những kinh nghiệm
về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ xây dựng và thực thi Bộ luật hình sự năm 1985
và Bộ luật hình sự năm 1999 chắc chắn sẽ trở thành những bài học quý giá, hữu ích
cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 có hiệu lực
thi hành. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là hoàn thiện hệ thống các văn bản hƣớng
dẫn thi hành Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 một cách đồng bộ, thống nhất, khoa
học và hiệu quả. Để thực hiện tốt vấn đề này, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và các cơ quan chức năng
hữu quan cần phải có hƣớng dẫn cụ thể về một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, số lƣợng tối thiểu, chất lƣợng và hàm lƣợng các chất ma túy để làm cơ
sở xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cần phải đƣợc xác định một
cách rõ ràng, cụ thể.
Theo quy định hiện hành thì: Trong trƣờng hợp kết luận của cơ quan tiến hành
giám định xác định chất nghi là ma túy bị bắt giữ không phải là chất ma túy hoặc
không phải là một trong những chất ma túy thuộc danh mục các chất ma túy do
Chính phủ ban hành, nhƣng lại nằm trong danh mục kiểm soát ma túy quốc tế, thì
ngƣời thực hiện hành vi mua bán trái phép chất đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự (theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự hiện hành), nếu có cơ sở chứng minh
đƣợc rằng ý thức của ngƣời thực hiện hành vi mua bán tin tƣởng đó là chất ma túy.
Nhƣ vậy, việc tiến hành giám định để xác định chủng loại ma túy hoặc chất lƣợng
và hàm lƣợng chất ma túy trong trƣờng hợp này là không có nhiều ý nghĩa đối với
việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với ngƣời đã thực hiện hành vi mua bán trái phép

90
chất (đƣợc cho là hoặc nghi là) ma túy. Ngoài ra, Điều 251 Bộ luật hình sự (sửa đổi)
năm 2015 cũng không quy định chất lƣợng và hàm lƣợng chất ma túy cụ thể để làm
cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh mua bán trái phép chất ma túy. Do
đó, những trƣờng hợp nào không cần phải giám định hàm lƣợng chất ma túy và
trƣờng hợp nào cần phải giám định hàm lƣợng chất ma túy khi xử lý trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời phạm tội đều phải đƣợc quy định, hƣớng dẫn một cách cụ thể,
đồng bộ và thống nhất.
Hai là, theo quy định của pháp luật hiện hành, trong mọi trƣờng hợp khi thu
giữ đƣợc các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy thì đều phải trƣng cầu giám định để xác định loại ma túy, hàm lƣợng,
trọng lƣợng chất ma túy, tiền chất, nhƣng phần lớn các vụ án về ma túy không đƣợc
giám định hàm lƣợng moocphin. Nguyên nhân là vào thời điểm hiện nay, chỉ có
Viện Khoa học hình sự Bộ Công an mới có đủ điều kiện và trang thiết bị hiện đại để
tiến hành giám định hàm lƣợng moocphin.
Mặc dù đã có nhiều thay đổi về định lƣợng chất ma túy đối với các tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, nhƣng Bộ luật hình sự (sửa đổi)
năm 2015 cũng không quy định về định lƣợng tối thiểu chất ma túy để làm cơ sở xử
lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Do
đó, Tòa án nhân dân tối cao cần phải nghiên cứu và ban hành văn bản hƣớng dẫn cụ
thể về định lƣợng tối thiểu chất ma túy để làm cơ sở xác định cấu thành tội phạm
đối với tội danh mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 Bộ luật
hình sự (sửa đổi) năm 2015.
Ba là, Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 có bổ sung quy định “đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm” nhƣ một điều kiện của cấu thành tội phạm để xử lý trách
nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội vận chuyển trái phép chất
ma túy theo khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 250. Nhƣ vậy, trình tự, thủ tục, thời
hạn và thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cũng nhƣ việc lƣu trữ, quản lý, tra
cứu, cung cấp và sử dụng thông tin đối với các trƣờng hợp đã bị xử phạt vi phạm

91
hành chính về hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy cần phải đƣợc
hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ và có tính
hệ thống cao. Để thực hiện tốt vấn đề này, thì ngoài việc ban hành các văn bản
hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015, Nhà nƣớc
cần phải đầu tƣ thỏa đáng về phƣơng tiện kỹ thuật, xây dựng hệ thống thông tin, dữ
liệu đồng bộ và phải đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các cơ
quan chức năng và của chính quyền các cấp nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng
hình sự cũng nhƣ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống
tội phạm ma túy và tội phạm tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng
đạt hiệu quả cao.
Bốn là, trong phần lớn các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy, các đối tƣợng phạm tội bị bắt giữ, xử lý đều không khai báo về những đối
tƣợng chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, tổ chức các đƣờng dây vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy. Do đó, chính sách hình sự đối với ngƣời phạm tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy cần phải thể hiện rõ hơn sự khoan hồng của
Đảng, Nhà nƣớc và pháp luật đối với những trƣờng hợp ngƣời phạm tội thành khẩn
khai báo và tích cực giúp đỡ các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra và xử lý các
đối tƣợng chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, tổ chức thực hiện tội phạm hoặc vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy với số lƣợng lớn.
Cụ thể hơn, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và các cơ quan chức năng hữu quan cần có những
hƣớng dẫn cụ thể về việc thực hiện chính sách khoan hồng, áp dụng pháp luật và
quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy khi có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhƣ:“Người
phạm tội tự thú”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải”,
“Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều
tra tội phạm” và “Người phạm tội đã lập công chuộc tội” theo quy định tại các
điểm r, điểm s, điểm t và điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm
2015. Chính sách khoan hồng này chắc chắn sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng và là

92
động lực mạnh mẽ thúc đẩy ngƣời phạm tội thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác,
giúp đỡ các cơ quan chức năng phát hiện, điều tra và xử lý tận gốc các băng, ổ,
nhóm và các đƣờng dây ma túy lớn. Thông qua đó, hoạt động xét xử của ngành Tòa
án cũng nhƣ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, phòng chống tội
phạm ma túy và tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói
riêng sẽ đạt đƣợc hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, tại phiên họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII vừa qua, Quốc hội cũng đã
thông qua Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015 với nhiều nội dung đƣợc sửa
đổi, bổ sung theo hƣớng bảo vệ quyền con ngƣời và quy định trình tự, thủ tục chặt
chẽ hơn đối với các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; quy định cụ thể hơn
về nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ phối hợp, chế ƣớc giữa các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, đồng thời quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của những ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng nhƣ quyền và nghĩa
vụ của ngƣời tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Những thay đổi này chắc chắn sẽ tạo ra
những thuận lợi cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội
phạm ma túy và tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói
riêng. Tuy nhiên, ranh giới giữa các hoạt động tố tụng hình sự nhằm thực thi pháp
luật một cách nghiêm minh, bình đẳng và công bằng với việc bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân cũng cần phải phân định một cách rõ ràng, cụ thể.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể về quyền con ngƣời, về quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó:
Quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trƣờng hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng [2, tr. 185], [37, Điều 14]; Mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp
luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội [2, tr. 185], [37, Điều 16]; Ngƣời bị buộc tội
đƣợc coi là không có tội cho đến khi đƣợc chứng minh theo trình tự

93
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” và
“Ngƣời bị buộc tội phải đƣợc Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn
luật định, công bằng, công khai [2, tr. 189], [37, Điều 31].
Với những quyền hiến định cơ bản trên đây, thì việc Tòa án đƣa ra xét xử lƣu
động đối với các vụ án hình sự nói chung, đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng cần phải đƣợc nghiên cứu, cân nhắc một
cách kỹ lƣỡng, thận trọng khi thi hành Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 và Bộ
luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015. Trên thực tế (nhƣ đã đƣợc phân tích, chứng
minh tại Chƣơng 2 của luận văn này), hoạt động xét xử lƣu động của Tòa án không
đem lại hiệu quả nhƣ mong đợi của một số quan điểm ủng hộ hoạt động này. Về
nguyên tắc, việc xét xử lƣu động đối với các vụ án hình sự nói chung không bảo
đảm đƣợc tính công bằng và quyền bình đẳng trƣớc pháp luật mà Hiến pháp năm
2013 đã quy định. Ít nhất là sự công bằng và quyền bình đẳng trƣớc pháp luật của
mọi công dân đã bị ảnh hƣởng nghiêm trọng nếu đem so sánh trƣờng hợp của các bị
cáo bị đƣa ra xét xử lƣu động với các bị cáo bị đƣa ra xét xử tại Trụ sở của Tòa án
theo luật định. Đó là chƣa kể đến những vấn đề khác phát sinh trong quá trình tổ
chức xét xử lƣu động các vụ án hình sự nói chung nhƣ: gây tốn kém, lãng phí về tài
chính, vật lực và nhân lực; tạo ra những ảnh hƣởng không tốt về tâm lý, tình cảm
đối với bản thân các bị cáo và những ngƣời thân của các bị cáo bị đƣa ra xét xử lƣu
động, đồng thời gây thêm nhiều khó khăn cho ngƣời bị kết án khi tái hòa nhập với
cộng đồng, xã hội. Hơn nữa, mọi biện pháp hạn chế quyền con ngƣời, quyền công
dân trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự phải đƣợc quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự. Một khi Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015 không quy định
về việc xét xử lƣu động đối với các vụ án hình sự, thì ngành Tòa án cần phải có văn
bản hƣớng dẫn cụ thể nhằm loại bỏ ngay hoạt động này khi Bộ luật hình sự (sửa
đổi) năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Tóm lại, việc nghiên cứu để loại bỏ hình thức xét xử lƣu động đối với các vụ án
hình sự nói chung, đối với các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy nói riêng cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của
ngành Tòa án trong thời gian tới.

94
Thứ tư, Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 2015 đã bổ sung quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân và các chế định có liên quan đến việc xử lý trách nhiệm hình
sự đối với pháp nhân. Vấn đề đặt ra là cần phải phân định rõ ranh giới giữa trách
nhiệm hình sự của pháp nhân với trách nhiệm hình sự của cá nhân đối với tất cả các
trƣờng hợp có dấu hiệu “lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” để thực hiện hành vi
phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy khi Bộ luật hình sự (sửa
đổi) năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Nhƣ vậy, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp và các cơ quan chức năng hữu quan cần phải phối hợp,
ban hành các văn bản hƣớng dẫn cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động
hơn và tiến hành các hoạt động tố tụng hiệu quả hơn trong việc phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử đối với loại tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội và trốn
tránh sự trừng phạt của pháp luật.
3.3.5. Một số giải pháp khác
Việc giám định hàm lƣợng chất ma túy đối với ma túy tổng hợp ở thể rắn, thể
lỏng, các chất ma túy mới nhƣ “ma túy đá”, “nƣớc biển” hay giám định hàm lƣợng
chất ma túy chứa trong một số loại thuốc tân dƣợc (nhƣ tranxene, valium…) hoặc
các loại thuốc gây nghiện khác chƣa có sự thống nhất và phải chờ kết quả phân tích,
kết luận giám định của các cơ quan chuyên môn. Tuy nhiên, việc giám định hàm
lƣợng chất ma túy còn gặp khó khăn do chƣa có đủ trang thiết bị kỹ thuật để giám
định. Điều này dẫn đến việc khởi tố, truy tố và xét xử một số vụ án về ma túy chƣa
đảm bảo tính chính xác, khách quan và thời gian điều tra các vụ án về ma túy cũng
thƣờng bị kéo dài. Do đó, việc đầu tƣ đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật cho các cơ quan
chuyên môn để thực hiện tốt việc giám định xác định hàm lƣợng chất ma túy hoặc
tiền chất ma túy là một việc làm cần thiết và đáng đƣợc quan tâm.
Ngoài ra, trong đấu tranh ngăn chặn và phòng chống tội thạm nói chung, tội
phạm về ma túy và tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý
nói riêng, công tác thống kê có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc dự báo về tình

95
hình tội phạm. Tỷ lệ tội phạm ẩn càng thấp thì độ chính xác của các dự báo về tình
hình tội phạm càng cao và ngƣợc lại. Do đó, các cơ quan chức năng cần phải tổ
chức và thực hiện tốt công tác thống kê tội phạm về ma túy, đồng thời nâng cao
hiệu quả hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân các cấp cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng xét xử của Tòa án nhân dân các cấp
nhằm tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ
tội phạm ẩn có liên quan đến ma túy.
Khi các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự hiện
hành đƣợc tách ra thành các điều luật riêng nhƣ trong Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm
2015, việc thống kê tội phạm sẽ chính xác hơn, phản ánh đúng và đầy đủ hơn tình
hình tội phạm trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng sẽ kịp thời
triển khai các chƣơng trình, kế hoạch cụ thể và các biện pháp chủ động nhằm đấu
tranh một cách có hiệu quả đối với từng tội phạm cụ thể. Đối với vấn đề này, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ
pháp và các cơ quan chức năng khác cần phải xây dựng hệ thống các tiêu chí thống
kê, phƣơng pháp thống kê, quy trình thu thập, lƣu trữ, khai thác và sử dụng thông
tin, dữ liệu thống kê một cách thống nhất, đầy đủ và cụ thể, đồng thời ban hành các
văn bản hƣớng dẫn thực hiện một cách thống nhất và đồng bộ nhằm nâng cao vai
trò và hiệu quả của công tác thống kê trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án
cũng nhƣ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tội phạm ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy nói riêng đang có xu hƣớng quốc tế hóa ngày càng sâu rộng với những
thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt cùng với sự liều lĩnh và manh động có tính
chất thƣờng xuyên hơn, nguy hiểm hơn. Do đó, các cơ quan chức năng cần phải
tăng cƣờng sự phối kết hợp với lực lƣợng phòng chống ma túy quốc tế, các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới nhằm triệt phá một cách có hiệu quả và triệt để các
đƣờng dây, tổ chức vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy xuyên quốc gia.
Trong thời gian gần đây, các lực lƣợng chức năng trên cả nƣớc đã liên tiếp phát
hiện, bắt giữ và xử lý nhiều vụ tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy

96
tại các khu vực biên giới, bằng đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng biển và cả đƣờng hàng
không. Các vụ án ma túy có ngƣời nƣớc ngoài tham gia phạm tội cũng đang ngày
càng nhiều. Để ngăn chặn kịp thời các tổ chức, đƣờng dây tội phạm ma túy xuyên
quốc gia, các quốc gia cần phải tăng cƣờng hợp tác hơn nữa trong việc trao đổi
thông tin, nghiệp vụ cũng nhƣ kinh nghiệm xây dựng và thực thi pháp luật.
Ở cấp độ địa phƣơng, các cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Đà Nẵng
cũng cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
- Chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; giữ vững an ninh, ổn định
chính trị và rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa các thành
phần dân cƣ; giải quyết tốt công ăn, việc làm cho ngƣời dân; tạo điều kiện thuận lợi
cho các đối tƣợng nghiện ma túy và tội phạm ma túy hoàn lƣơng, tái hòa nhập với
cộng đồng và xã hội.
- Kiểm soát chặt chẽ các cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện; nắm chắc tình
hình tội phạm ma túy từ các đơn vị hành chính cấp cơ sở; kịp thời phát hiện và giáo
dục, xử lý các đối tƣợng có biểu hiện nghi vấn có liên quan đến tệ nạn ma túy và tội
phạm ma túy.
- Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các đối tƣợng trong các cơ quan
công quyền có biểu hiện che giấu tệ nạn ma túy hoặc che giấu tội phạm ma túy.
- Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục và vận động nhân dân tích
cực tham gia ngăn chặn, phòng chống tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy nói
chung, tham gia ngăn chặn, phòng chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chấ t ma túy nói riêng.
- Tăng cƣờng phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong việc phòng
chống, ngăn chặn tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy.

97
KẾT LUẬN

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra nhiều chủ trƣơng, chính
sách và chỉ đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy, đồng thời
triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp. Nhờ vậy, công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, góp
phần từng bƣớc kiềm chế tệ nạn ma túy; công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội
phạm ma túy, trong đó có tội phạm vận chuyển, mua bán ma túy xuyên quốc gia,
thu đƣợc những kết quả đáng khích lệ, góp phần ngăn chặn tình trạng thẩm lậu ma
túy qua biên giới; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đƣợc thực hiện nghiêm minh,
kịp thời; hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy đƣợc tăng cƣờng và đẩy mạnh.
Mặc dù vậy, những kết quả thu đƣợc mới chỉ là bƣớc đầu, chƣa thực sự vững chắc,
công tác phòng, chống ma túy còn có những hạn chế, bất cập. Trong khi đó, tình
hình tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy ở Việt Nam hiện nay vẫn đang và sẽ còn
tiếp tục diễn biến phức tạp, liên tục gia tăng về số lƣợng, quy mô và tính chất, mức
độ nguy hiểm. Tội phạm về ma túy thƣờng xuyên thay đổi phƣơng thức, thủ đoạn
cũng nhƣ địa bàn hoạt động và mang tính quốc tế cao hơn. Số ngƣời sử dụng các
loại ma túy tổng hợp, tân dƣợc gây nghiện và các loại ma túy mới có xu hƣớng gia
tăng và tập trung nhiều vào đối tƣợng là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên ở các
khu vực đô thị.
Mặc dù không phải là địa bàn trọng điểm, tệ nạn ma túy và tội phạm về ma
túy tại thành phố Đà Nẵng cũng chịu tác động trực tiếp từ sự gia tăng đó, nhƣng sự
gia tăng này mang những nét đặc thù của một thành phố trẻ và năng động. Các
nguồn ma tuý thẩm lậu vào thành phố nhƣ cần sa, hêrôin chủ yếu từ các tỉnh phía
Bắc, còn ma túy tổng hợp thì từ nhiều tuyến nhƣ các tỉnh phía Bắc, tuyến hành lang
kinh tế Đông - Tây (qua 4 nước Myanmar - Thái Lan - Lào - Việt Nam với cửa ngõ
hướng ra biển Đông là thành phố Đà Nẵng) và các tỉnh phía Nam mà đặc biệt là từ
thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Nam. Đối tƣợng buôn bán trái phép chất ma
túy chủ yếu vẫn là ngƣời địa phƣơng, đối tƣợng ngoài thành phố chỉ chiếm 10%. Tỷ
lệ hơn 91% tội phạm là ngƣời sử dụng trái phép các chất ma tuý. Đáng chú ý là có

98
đến 89% đối tƣợng phạm tội ở độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi và phần lớn ngƣời nghiện
ma túy đang có xu hƣớng dịch chuyển từ sử dụng cần sa, hêrôin sang sử dụng các
loại ma túy tổng hợp.
Thực tế tại thành phố Đà Nẵng đã cho thấy: Tình hình tội phạm ma túy đang
có chiều hƣớng diễn biến ngày càng phức tạp hơn, nguy hiểm hơn. Các đối tƣợng
phạm tội ma túy ngày càng hoạt động tinh vi, xảo quyệt và manh động hơn. Trong
quá trình thực hiện hành vi phạm tội, các đối tƣợng phạm tội có xu hƣớng quốc tế
hóa hoạt động phạm tội, hình thành các đƣờng dây, tổ chức tội phạm và cấu kết rất
chặt chẽ với nhau. So với các loại tô ̣i phạm khác, các đối tƣợng phạm tô ̣i tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chấ t ma túy thƣờng hoạt động dƣới hình thức là
các đƣờng dây, ổ, nhóm, tổ chức vận chuyển, mua bán sỉ hoặc bán lẻ chất ma túy.
Các số liệu thố ng kê về tổ ng số vụ án và số lƣợng đố i tƣơ ̣ng bị bắ t giữ cho thấy,
trung bình có khoảng 2 đố i tƣơ ̣ng tham gia thực hiện hành vi phạm tội trong một
vụ án vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Do thƣờng đƣơ ̣c thƣ̣c hiê ̣n dƣới
hình thƣ́c đồ ng phạm nên tính chấ t nguy hiể m và mƣ́c đô ̣ tinh vi trong các vụ án
mua bán trái phép chất ma túy luôn cao hơn các vụ án khác. Trong đó, nhiề u vụ án
mua bán trái phép chấ t ma túy có tính chấ t đă ̣c biê ̣t nghiêm trọng và hoạt
đô ̣ng trong thời gian dài với nhiề u đố i tƣơ ̣ng, số lƣơ ̣ng ma túy lớn mới bị phát hiê ̣n
trong thời gian gần đây.
Để ngăn ngừa và đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm ma túy, các cơ quan
chức năng của thành phố Đà Nẵng đã tập trung thực hiện nghiêm túc đƣờng lối, chủ
trƣơng của Thành ủy Đà Nẵng về việc tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng
chống, kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Theo
đó, các cơ quan chức năng đã liên tục mở nhiều đợt tấn công, trấn áp tội phạm, triệt
phá các tổ chức, tụ điểm mua bán trái phép chất ma túy; tiến hành rà soát lại địa
bàn, kịp thời phát hiện các đối tƣợng nghiện ma túy để tập trung cai nghiện và có
giải pháp quản lý sau cai nghiện; không áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt
dƣới khung hình phạt, hạn chế xét giảm án hằng năm, không đƣa vào diện xét đặc
xá các loại tội phạm liên quan đến ma túy, đồng thời tăng cƣờng quản lý các quán

99
bar, vũ trƣờng… không để các cơ sở này bị lợi dụng làm địa điểm tổ chức sử dụng,
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy và thƣờng xuyên tiến hành
kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh thuốc tân dƣợc có liên quan đến các chất gây
nghiện. Mặc dù vậy, những khó khăn trong việc ngăn chặn, phòng chống tệ nạn ma
túy và tội phạm về ma túy nói chung, tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy nói riêng vẫn đang là một trở ngại không nhỏ đối với thành phố
Đà Nẵng trong nỗ lực hƣớng tới mục tiêu “không có ngƣời nghiện ma túy trong
cộng đồng” và hƣớng đến một cuộc sống bình yên, an toàn, hạnh phúc.
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chấ t ma túy trong Luật hình sự Việt Nam, luận văn đã phân tích và tìm ra
những nguyên nhân dẫn đến một số tồn tại, bất cập trong hoạt động xét xử của Tòa
án các cấp tại thành phố Đà Nẵng đối với loại tội phạm này kể từ năm 2011 đến
năm 2015, đồng thời đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng
xét xử của ngành Tòa án và khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác
phòng chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chấ t ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Với những kết quả đã đạt đƣợc, tác giả hy vọng rằng đề tài này sẽ đóng góp
đƣợc một phần nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử đối với tội
phạm về ma túy nói chung, đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chấ t ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Qua đó, những đóng
góp của đề tài cũng sẽ tạo đƣợc niềm tin cho mọi ngƣời về một cuộc sống tƣơi đẹp,
bình yên, không có tệ nạn về ma túy và không có tội phạm về ma túy trong một
tƣơng lai không xa.

100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt


1. Ba Công ƣớc của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy (2000), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
2. Báo Nhân dân (2014), Hiến pháp năm 2013 – Sự kết tinh ý chí, trí tuệ toàn
dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ
Tƣ pháp (2007), Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-
VKSNDTC-BTP ngày 24/12/2007 quy định về việc hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự
năm 1999, Hà Nội.
5. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: lý luận, hướng dẫn
mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Chính phủ (2001), Nghị định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2003 quy định
về việc ban hành Danh mục các chất ma túy và tiền chất, Hà Nội.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số: 58/2003/NĐ-CP ngày 29/5/2003 quy định về
kiểm soát nhập khẩu, xuất khẩu chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần, Hà Nội.
9. Chính phủ (2003), Nghị định số: 133/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 quy định
bổ sung vào Danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm theo Nghị
định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2003, Hà Nội.
10. Chính phủ (2007), Nghị định số: 163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 quy định
sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số chất thuộc Danh mục chất ma túy và
tiền chất ban hành kèm Nghị định số: 67/2001/NĐ-CP ngày 1/10/2001, Hà Nội.

101
11. Chính phủ (2009), Nghị định số: 45/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 quy định về
việc hướng dẫn nhập khẩu mẫu, lấy mẫu, quản lí, sử dụng mẫu các chất ma
túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần về mục đích quốc phòng,
an ninh, Hà Nội.
12. Chính phủ (2011), Nghị định số: 17/2011/NĐ-CP ngày 22/2/2011 quy định về
bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học đối với một số chất thuộc Danh mục các
chất ma túy và tiền chất ma túy, ban hành kèm theo Nghị định số:
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 và Nghị định số: 163/2007/NĐ-CP ngày
12/11/2007, Hà Nội.
13. Chính phủ (2013), Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 ban hành
các chất ma túy và tiền chất, Hà Nội.
14. Chủ tịch nƣớc (1997), Quyết định số: 798/QĐ-CTN ngày 01/09/1997 về việc
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia ba Công ước của Liên
hợp quốc về kiểm soát ma túy, Hà Nội.
15. Lê Ngọc Cƣờng, Trần Văn Luyện (2007), “Pháp luật phòng chống ma túy qua
từng giai đoạn cách mạng Việt Nam” trong sách: Phòng chống ma túy – Cuộc
chiến cấp bách của toàn xã hội, do Vũ Hùng Vƣơng chủ biên, Nxb Lao động,
Hà Nội.
16. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2007), Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ
án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc
sĩ luật học.
17. Quốc Cƣờng và Thanh Thảo (2009), (Sƣu tầm và hệ thống hóa), Pháp luật
Việt Nam về phòng, chống ma túy và công tác điều tra tội phạm, Nxb Lao
động –Xã hội, Hà Nội.
18. Phạm Đình Cửu (2010), “Các chất ma túy và một số giải pháp phòng chống”,
Tạp chí Phòng chống ma túy - Ủy ban Quốc gia phòng, chống Aids và phòng,
chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Hà Nội.
19. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp
trong thời gian tới, Hà Nội.

102
20. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số:48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 2/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
22. Trần Văn Đƣợm (2005), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm, Tập I, Chương VIII), Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
23. Đinh Bích Hà (1998), “Những điểm sửa đổi và bổ sung trong Luật hình sự của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về
Luật hình sự của một số nƣớc trên thế giới), Hà Nội.
24. Nguyễn Phong Hòa (1998), Các tội phạm về ma túy đặc điểm hình sự; dấu hiệu
pháp lý; các biện pháp phát hiện và đấu tranh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Trần Minh Hƣởng (2009), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2009 (Tập I), Nxb Lao động, Hà Nội.
26. Hoàng Thế Liên (Chủ nhiệm đề tài, 1997), Tổng mục lục văn bản pháp luật (1975-
1996), Bộ Tƣ pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Hà Nội.
27. Trần Văn Luyện (1999), Phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án
Tiến sĩ luật học.
28. Trần Văn Luyện (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần
các tội phạm, Chương XVIII), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Uông Chu Lƣu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt
Nam 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Mai Nga (2006), Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát điều tra trong giải quyết các vụ án ma
túy, Luận văn Thạc sĩ luật học.

103
32. Nguyễn Thị Mai Nga (2009), Những điều cần biết cho công tác xử lý vi phạm,
tội phạm về ma túy (Tái bản lần thứ ba có bổ sung), Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
33. Hƣơng Nhung (2008), “Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị tập
huấn Thông tƣ liên tịch số: 17/2007/TTLT về hƣớng dẫn áp dụng một số điều
tại Chƣơng XVIII “Các tội phạm về ma túy””, Tạp chí Kiểm sát - Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
34. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm, Tập IV), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
36. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
38. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
39. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999), Hà Nội.
40. Quốc hội (2000), Luật phòng, chống ma túy, Hà Nội.
41. Quốc hội (2008), Luật phòng, chống ma túy (được sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
42. Lê Thị Sơn (2003), “Chƣơng 10: Các tội phạm về ma túy”, trong Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
43. Lê Thị Sơn (2006), “Chƣơng XXIV: Các tội phạm về ma túy”, trong Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam do Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
44. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự (đã ban
hành đến ngày 31-12-1974), Hà Nội.
45. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là
Bộ Công an) (1998), Thông tư liên tịch số: 01/TTLT ngày 02/01/1998 và
Thông tư liên tịch số: 02/TTLT ngày 05/8/1998 hướng dẫn áp dụng Chương
VIIA quy định “Các tội phạm về ma túy”, Hà Nội.

104
46. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số: 03-NQ/HĐTP ngày 17/2/2003
của Hội đồng Thấm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
hình sự, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Công văn số: 234/TANDTC-HS ngày
17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Tòa án các địa phương
giải quyết án ma túy, Hà Nội.
48. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm
2010 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2011, Đà Nẵng.
49. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm
2011 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2012, Đà Nẵng.
50. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm
2012 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2013, Đà Nẵng.
51. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm
2013 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2014, Đà Nẵng.
52. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2014), Báo cáo tổng kết công tác năm
2014 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015, Đà Nẵng.
53. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm
2015 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2016, Đà Nẵng.
54. Hoàng Minh Thành (2009), “Một số giải pháp đấu tranh ngăn chặn các thủ
đoạn cất giấu, vận chuyển trái phép chất ma túy ở nƣớc ta”, Tạp chí Phòng
chống ma túy - Ủy ban Quốc gia phòng, chống Aids và phòng, chống tệ nạn
ma túy, mại dâm, Hà Nội.
55. Hoàng Minh Thành (2011), Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ
quan Cảnh sát điều tra trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy,
Luận văn Thạc sĩ luật học.
56. Đặng Khắc Thắng (2015), Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng,
“Chính sách hình sự đối với tội phạm về ma túy trong triều đại phong kiến
Việt Nam”, (http://tiengchuong.vn), truy cập ngày 20/8/2015, Hải Phòng.

105
57. Nguyễn Ngọc Thế (2013), Tội phạm, cấu thành tội phạm những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
58. Trần Đức Thìn (2010), “Giáo án điện tử Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm)”, ebook.edu.vn.
59. Nguyễn Mạnh Thƣởng (2004), Hệ thống hóa văn bản pháp luật về phòng,
chống ma túy, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
60. Trần Quốc Trọng (2012), Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005-2010, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
61. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Kiểm sát viên (được sửa đổi,
bổ sung), Hà Nội.
62. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
63. Nguyễn Ngọc Vân (2010), “Ban hành, sửa đổi, bổ sung danh mục các chất
ma túy, tiền chất ma túy và các loại cây có chứa chất ma túy phục vụ công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm”, Cảnh sát phòng chống tội phạm, Hà Nội.
64. Nguyễn Quốc Việt (1998), “Bộ luật hình sự mới của Liên bang Nga”, Dân
chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về Luật hình sự của một số nƣớc) Hà Nội.
65. Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
66. Vũ Quang Vinh (2003), Hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy của lực
lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân.
67. Vũ Quang Vinh (chủ biên, 2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
68. Đặng Thành Vinh (2008), “Một số điểm mới trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm về ma túy theo hƣớng dẫn của Thông tƣ liên tịch
số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP”, Thông tin khoa học,
Viện Khoa học xét xử, Hà Nội.

106
69. Vũ Hùng Vƣơng (chủ biên, 2007), Phòng, chống ma túy - Cuộc chiến cấp
bách của toàn xã hội, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
70. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
71. Nguyễn Xuân Yêm và TS. Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên (2003), Mại
dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Yêm (2004), Luật Phòng chống ma túy và phòng chống ma túy
trong nhà trường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
73. Nguyễn Xuân Yêm và Trần Văn Luyện (2002), Hiểm họa ma túy và cuộc
chiến mới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
74. Phạm Thị Yến (2015), Trung tâm Lƣu trữ quốc gia IV, “Vua Minh Mạng
trong việc phòng chống tệ nạn buôn bán và hút thuốc phiện qua tài liệu Mộc
bản”, (http://kienthuc.net.vn), truy cập ngày 20/8/2015, Hà Nội.

II. Trang tin điện tử


75. http://www.archives.gov.vn.
76. http://www.hvcsnd.edu.vn.
77. http://www.kienthuc.net.vn.
78. http://www.tand.hochiminhcity.gov.vn.
79. http://www.tiengchuong.vn.

107

You might also like