Professional Documents
Culture Documents
LIÊN QUAN CẤU TRÚC TÁC DỤNG THUỐC CHẸN THỤ THỂ AT1
LIÊN QUAN CẤU TRÚC TÁC DỤNG THUỐC CHẸN THỤ THỂ AT1
Trong valsartan, vòng imidazole của losartan đã được thay thế bằng một axit amin được acyl
hóa.
Một số nhóm thế đã được thử ở vị trí 4 và 5 trên vòng imidazole. Chloro và hydroxymethyl tại
các vị trí này trong losartan có lẽ không quan trọng nhiều trong việc gắn kết với thụ thể vì các
ARB khác không mang các nhóm chức năng này mà vẫn có ái lực liên kết tương đương hoặc tốt
hơn losartan. Irbesartan có một nhóm cacbonyl ở vị trí 5, hoạt động như một chất nhận liên kết
hydro thay cho nhóm hydroxymethyl của losartan, dẫn đến liên kết lâu hơn với thụ thể. Cấu trúc
của eprosartan là cấu trúc khác biệt nhất với các ARB khác, nhóm biphenyl-metyl thông thường
đã được thay thế bằng nhóm cacboxy benzyl bắt chước gần giống hơn với gốc phenol của Tyr4
của Ang II. Sự thay đổi này dẫn đến liên kết mạnh hơn với thụ thể nhưng các hoạt tính không
được cải thiện đáng kể. Telmisartan có axit cacboxylic ở vị trí 2 của nhóm biphenyl-metyl và
mạnh hơn chất tương tự tetrazole.
Người ta cho rằng imidazol có nhóm hydroxymethyl và carboxy ở vị trí 4 và 5, có hoạt tính đối
kháng mạnh, gây ra bởi liên kết hydro và tính ưa nước của nhóm hydroxymethyl.
Nhóm hydroxy ở vị trí 4 trên vòng imidazole, đóng một vai trò quan trọng trong ái lực liên kết
và bù đắp cho nhược điểm tính thân dầu của nhóm alkyl cồng kềnh.
Những kết quả này cho thấy nhóm hydroxy alkyl cỡ trung bình, chẳng hạn như CHMeOH và
CMe2OH, là những nhóm thế tốt cho nhóm vị trí 4 trên vòng imidazole. Hơn nữa, nhóm ion hóa
là thuận lợi cho ái lực liên kết.
Candesartan và olmesartan có ái lực cao nhất với thụ thể AT1, tiếp theo là irbesartan và
eprosartan. Valsartan, telmisartan và EXP 3174 tương tự nhau đều có ái lực yếu hơn
candesartan khoảng mười lần. Losartan có ái yếu lực nhất. Ái lực của ARB đối với thụ thể AT2
thường thấp hơn nhiều (khoảng 10.000 lần) so với AT1. Do đó, chúng cho phép việc
Angiotensin II kích thích thụ thể AT2 không bị cản trở .
Các thuốc đều có tính acid của vòng tetrazol (pKa = 6) và nhóm carboxylat (pKa = 3-4).
• Ở pH sinh lý, tetrazol và nhóm acid carboxylic tồn tại ở dạng ion.
• Các thuốc chứa vòng tetrazol có ái lực mạnh hơn với thụ thể và thân dầu hơn
• Các thuốc đều có thể dùng với thức ăn, sinh khả dung đường uống thấp đến trung bình (15 –
33%), trừ irbesartan, telmisartan.
• Các thuốc đều có tỷ lệ gắn protein huyết tương cao, thời gian bán thải dài nên dùng 1 – 2 lần/
ngày.
Câu hỏi: Tại sao Losartan có thời gian bán thải ngắn nhưng chỉ dùng 1 lần/ngày ?
• Candesartan, olmesartan, azilsartan dạng ester đều bị thuỷ phân thành dạng có hoạt tính ở ruột.
• Các thuốc khác được đào thải dạng không đổi (80%). Tuy nhiên, irbesartan, telmisartan,
eprosartan được chuyển hoá thành dạng glucuronid carboxylic không có hoạt tính.
Câu hỏi: Có nên phối hợp các thuốc thuộc nhóm ức chế men chuyển với chẹn thụ thể AT1 trong
điều trị tăng huyết áp hay không?