Professional Documents
Culture Documents
Động cơ đốt trong bao gồm nhiều cơ cấu. Cơ cấu chính trong máy là cơ cấu tay quay-con trượt
OAB (Hình 1. 2) làm nhiệm vụ biến chuyển tịnh tiến của pistông (3) thành chuyển động quay
của trục khuỷu (1).cơ cấu tay quay con trượt OAB (hình 1.2) có 4 khâu: Trục khuỷu (1), thanh
truyền (2), pittông (3) và xi lanh (4) gắn liền với vỏ máy. Trong hệ
quy chiếu gắn liền với khâu (4) (vỏ máy), mỗi khâu có chuyển động
riêng biệt: Khâu (1) quay xung quanh tâm O, khâu (2) chuyển động
song phẳng, khâu (3) chuyển động tịnh tiến, khâu (4) cố định.
2. Chi tiết máy: Mỗi chi tiết máy là một bộ phận hoàn chỉnh, không
thể tháo rời nhỏ hơn được nữa của máy. Ví dụ:Trục khuỷu là
một chi tiết máy độc lập. Thanh truyền gồm nhiều chi tiết máy
như thân, bạc lót, đầu to, bu lông, đai ốc... ghép cứng lại với
Hình 1. 2
nhau.
Số bậc tự do tương đối giữa hai khâu là số khả năng chuyển động độc lập tương đối của khâu
này đối với khâu kia (tức là số khả năng chuyển động
độc lập của khâu này trong một hệquy chiếu gắn liền
với khâu kia). Bậc tự do còn là số thông số độc lập cần
thiết để xác định vị trí của cơ cấu.
- Số bậc tự do tương đối giữa hai khâu cũng chính là số thông số vị trí độc lập cần cho trước
để xác định hoàn toàn vị trí của khâu này trong một hệ quy chiếu gắn liền với khâu kia
(hình 1.5). Để xác định vị trí của khâu (2) trong hệ quy chiếu R gắn liền với khâu (1), cần
biết 6 thông số:
o Ba tọa độ xO2, yO2, zO2 của gốc O2 của hệ quy chiếu R2 trong hệ R.
Để tạo thành cơ cấu, người ta phải tập hợp các khâu lại với nhau bằng cách thực hiện các phép
nối động. Nối động hai khâu là bắt chúng tiếp xúc với nhau theo một quy cách nhất định trong
suốt quá trình chuyển động. Nối động hai khâu làm hạn chế bớt số bậc tự do tương đối giữa
chúng. Chỗ trên mỗi khâu tiếp xúc với khâu được nối động với nó gọi là thành phần khớp động.
Tập hợp hai thành phần khớp động của hai khâu trong một phép nối động gọi là một khớp
động.
Căn cứ vào số bậc tự do tương đối bị hạn chế đi khi nối động (còn gọi là số ràng buộc của
khớp), ta phân khớp động thành các loại: khớp loại 1, loại 2, loại 3, loại 4, loại 5 lần lượt hạn
chế 1, 2, 3, 4, 5 bậc tự do tương đối. Không có khớp loại 6, vì khớp này hạn chế 6 bậc tự do
tương đối giữa hai khâu, khi đó hai khâu là ghép cứng với nhau. Không có khớp loại 0, vì khi
đó hai khâu để rời hoàn toàn trong không gian (liên kết giữa hai khâu lúc này được gọi là liên
kết tự do).
Căn cứ vào đặc điểm tiếp xúc của hai khâu khi nối động, ta phân khớp động thành các loại:
Khớp cao: nếu thành phần khớp động là các điểm hay các đường (hai khâu tiếp xúc
nhau theo điểm hoặc đường)
Ví dụ, Hình 1. 6thanh truyền (2) trong động cơ đốt trong được nối
với tay quay (1) và với pittông (3) bằng các khớp quay, các thành
phần khớp động trên thanh truyền là các mặt trụ trong có đường
trục song song với nhau. Kích thước động của thanh truyền là
khoảng cách li
giữa hai đường
trục của các khớp quay.
Hình 1. 6
Mỗi khâu có thể có một
hay nhiều kích thước động. Ví dụ, khâu 3 trên
Hình 1. 7 Hình 1. 7được nối động với ba khâu 6, 2 và 4
bằng ác khớp quay D, C, E. Khâu 3 có ba kích thước động, đó là khoảng cách
trục lEC, lDE, lDC giữa các khớp quay. Khâu được biểu diễn bằng các lược đồ gọi là lược đồ
động của khâu, trên li đó thể hiện các kích thước động của nó và lược đồ các khớp động nối
nó với các khâu khác.
Chuỗi động là tập hợp các khâu được nối với nhau bằng các khớp động trong một hệ thống.
Dựa trên cấu trúc chuỗi động, ta phân chuỗi động thành hai loại: chuỗi động hở và chuỗi động
kín.
Chuỗi động hở là chuỗi động trong đó các khâu chỉ được nối với một khâu khác.
Hình 1. 8
Dựa trên tính chất chuyển động, ta phân biệt chuỗi động
không gian và chuỗi động phẳng. Chuỗi động không
gianlà chuỗi động có các khâu chuyển động trên các
mặt phẳng không song song với nhau.
Chuỗi động phẳng là chuỗi độngcó tất cả các khâu chuyển động trên những mặt phẳng song
song với nhau.
Cơ cấu
Cơ cấu là một chuỗi động, trong đó một khâu được chọn làm hệ quy chiếu (gọi là giá, coi giá
là cố định), các khâu còn lại có chuyển động xác định trong hệ quy chiếu này (và gọi là các
khâu động). Tương tự như chuỗi động, ta cũng phân biệt
cơ cấu phẳng và cơ cấu không gian.
W = W 0–R (1- 1)
Xác định W0: trường hợp tổng quát, một khâu để rời trong không gian có 6 bậc tự do tương
đối so với giá, nên nếu cơ cấu có n khâu thì số bậc tự do tương đối sẽ là
W0 = 6n (1- 2)
Xác định R:
Đối với các cơ cấu mà lược đồ không có một đa giác nào cả, tức là không có khớp nào là khớp
đóng kín, sau khi nối n khâu động lại với nhau và với giá bằng pj khớp loại j, mỗi khớp loại j
hạn chế j bậc j tự do tương đối, nghĩa là tạo ra j ràng buộc, tổng số các ràng buộc bằng:
R=∑ (1-3)
Khi đó = 6 ∑
= (∑ ) (1- 4)
= 6
Một khâu có nhiều nhất 3 bậc tự do so với giá. Nên tổng số bậc tự do của n khâu sẽ là
W0 = 3n
Trong cơ cấu phẳng thường chỉ dùng ba loại khớp trên nên tổng số các ràng buộc do các
khớptrong cơ cấu phẳng tạo ra:
R = 2p5+p4
W = 3n (2p5+p4)(1- 5)
Ví dụ, cơ cấu 4 khâu bản lề phẳng:
Tuy nhiên, kể đến các ràng buộc trùng, ràng buộc thừa và bậc tự do thừa, công thức tổng quát
để tính bậc tự do của cơ cấu phẳng như sau:
W = 3n−(2p5+p4−Rtrung−Rthua)−Wthua
Khâu bị dẫn Ngoài giá và khâu dẫn ra, các khâu còn lại đợc gọi là khâu bị dẫn.
Khâu phát động Khâu phát động là khâu được nối trực tiếp với nguồn năng lượng làm cho
máy chuyển động. Ví dụ, với động cơ đốt trong hình 1.1, khâu phát động là pittông.
Khâu dẫn thường là khâu có vận tốc góc không đổi hay theo yêu cầu làm việc phải có vận tốc
góc không đổi, ở đây chọn trục khuỷu làm khâu dẫn. Khâu phát động có thể trùng hay không
trùng với khâu dẫn, tuy nhiên thông thường người ta chọn khâu dẫn trùng với khâu phát động.
Theo phương pháp phân tích cấu tạo cơ cấu của Át-xua:
nếu một cơ cấu có W bậc tự do thì bao gồm W khâu dẫn
và những nhóm có bậc tự do bằng không. Nói cách khác,
các khâu trong một cơ cấu được chia làm 2 loại:
Loại thứ nhất là khâu dẫn có qui luật chuyển động biết
trước, số khâu loại này bằng số bậc tự do của cơ cấu.Loại
thứ hai là các khâu bị dẫn tập hợp thành những nhóm tĩnh
định có bậc tự do bằng không, còn gọi là nhóm Át-xua. Hình 1. 12
W = 3n - 2p5 = 0
Đây là một nhóm tĩnh định vì khi cho trước vị trí của các khớp chờ thì vị trí của khớp trong
C hoàn toàn xác định.
Vì số khâu và khớp phải là số nguyên nên các nhóm được phân loại như sau
Nhóm tĩnh định chỉ có hai khâu và ba khớp được gọi là nhóm Atxua hạng II. Có năm loại nhóm
Atxua hạng II như sau (Hình.1-15).Nhóm gồm có hai khâu và ba khớp trượt không phải là một
nhóm tĩnh định vì bậc tự do của nhóm bằng 1.
Hình 1. 14
Nhóm Atxua có hạng cao hơn II: Nếu các khớp trong của một nhóm tĩnh định tạo thành một
đa giác thì hạng của nhóm Atxua được lấy bằng số đỉnh của đa giác, nếu tạo thành nhiều đa
giác thì hạng của nhóm lấy bằng số đỉnh của đa giác nhiều đỉnh nhất. Ví dụ cơ cấu trên hình
1.17 có thể tách thành khâu dẫn 1 nối giá
bằng khớp và một nhóm tĩnh định
BCDEG (hình 1.18). Các khớp chờ là
khớp B, E, G. Các khớp trong là khớp C,
D, E. Nhóm này có một đa giác khép kín
là CDF có ba đỉnh nên là nhóm hạng III.
Hình 1. 15
Nhóm 4 khâu 6 khớp gọi là nhóm loại 3 (H.1-16).
+ Nhóm Atxua có hạng cao hơn II: Nếu các khớp trong của một nhóm tĩnh định tạo thành
một đa giác thì hạng của nhóm Atxua được lấy bằng số đỉnh của đa giác, nếu tạo thành nhiều
đa giác thì hạng của nhóm lấy bằng sốđỉnh của đa giác nhiều đỉnh nhất. Ví dụ cơ cấu trên hình
Việc xếp hạng cơ cấu có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu các một số bài tính động học
và lực học của cơ cấu.
Phân tích động học cơ cấu là nghiên cứu chuyển động của cơ cấu khi cho trước cơ cấu và
quy luật chuyển động của khâu dẫn. Cụ thể: cho trước lược đồ cơ cấu, quy luật chuyển động
của khâu dẫn, cần phải:
- Xác định vị trí của các khâu và quỹ đạo của các điểm trên khâu trong quá trình cơcấu
chuyển động. Đây là bài toán vị trí và quỹ đạo.
- Xác định vận tốc của các điểm trên khâu và vận tốc góc các khâu tại từng vị trí và quy
luật vận tốc các điểm trên khâu, vận tốc gĩc các khâu khi cơ cấu chuyển động. Đây là
bàitoánvận tốc.
- Xác định gia tốc của các điểm trên khâu, gia tốc góc các khâu tại từng vị trí và quy luật
gia tốc các điểm trên khâu, gia tốc giữa các khâu khi cơ cấu chuyển động. Đây là bài
toángia tốc.
Khi nghiên cứu động học cơ cấu ta không để ý đến nguyên nhân của chuyển động và thường
giả thiết khâu dẫn chuyển động đều.
2.1.1. Nội dung bài toán phân tích động học cơ cấu phẳng
Nội dung bài toán phân tích động học cơ cấu: