Professional Documents
Culture Documents
NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức
là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguốn của sông suối – “cũng như
sông thì có nguốn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo dức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”. Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ “viết lên trán chữ cộng
sản mà ta được họ mến yêu. Quần chúng chỉ quý mến những người có tu cách, đạo đức”. “Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người
viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận thức sâu sắc Đảng phải trong sạch, vững mạnh, sức chiến đấu cao mới đảm đương được vai
trò lãnh đạo. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới
chạy”. Để được như vậy, mối quan tâm hàng đầu là xây dựng Đảng về đạo đức.
Trong Di chúc, để xây dựng đất nước ta sau chiến tranh “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, ngoài việc phải
huy động được sức mạnh của nhân dân, Đảng có kế hoạch, chủ trương, đường lối đúng, thì điều quan
trọng và cần thiết là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng danh và ngang tầm nhiệm vụ
cách mạng. Chính vì vậy, trong Di chúc, Người đã căn dặn ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, “Việc làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, với mục đích là làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Có đạo đức
cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.Người chỉ rõ "tuy năng lực và công việc của mỗi người
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì
vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành
động và hiêu quả trên thực tế. Người nói: “phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất
và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô
trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
Mặc dù coi đạo đức là gốc, chiếm vị trí hàng đầu trong thang giá trị nhân cách người cách mạng nhưng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức và tài năng trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động và
quy định lẫn nhau. Bởi vì, nhờ có phẩm chất và năng lực, đức và tài mà cán bộ, đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, vì nhân dân phục vụ, quyết tâm đưa cách mạng
Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa tài và đức Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: "Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két
thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người"
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên phải
không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người , yêu cầu đạo đức người cán bộ cần có
là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thương yêu con người, sống có
tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh
niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức
sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp,
ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu
chi lý tưởng đó trở thành hiện thực.Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc
tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài
của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở
thành một sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời thường của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế
giới. Tấm gương đó từ lâu là nguốn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại
tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2.QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG
a) Trung với nước,hiếu với dân:
"Trung với nước, hiếu với dân" trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải là những điều mới được
đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong tư tưởng đạo đức truyền thống phương
Ðông nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng.“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ,
phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất: “trung với vua, hiếu với cha
mẹ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm “trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đưa vào
đó nội dung mới: “trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo
đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Theo Người, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu
tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của toàn dân tộc
chứ không phải của riêng ai, và chính mỗi người dân là những "chủ nhân ông" của đất nước. Mối quan hệ
nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Về chữ hiếu, theo Người , là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như
người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của
nước. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"(1); "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có
nghĩa như thế. Từ khi có Ðảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn:
không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân"(2); "Người kiên quyết cách mạng
nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình
mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò.Mình không những cứu bố mẹ
mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa...Chữ tình, chữ hiếu, cũng phải hiểu một
cách rộng và hiểu như thế mới là đúng"...(3)
Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách
mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Dù
mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng khác nhau, nhưng yêu cầu về trung, hiếu luôn nhất
quán và là tiêu chí chung cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện.Chúng ta
có thể thấy rõ điều này ngay từ những ngày đầu cách mạng. Khi mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ
đầu tiên của Ðảng (ở Quảng Châu, Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên đồng chí Nguyễn Ái
Quốc quan tâm là, đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là để "giữ chủ
nghĩa cho vững", tuyệt đối trung thành với sự nghiệp lớn của Ðảng, biết đoàn kết và tổ chức quần chúng
thực hiện.
Khi Ðảng ta được thành lập, Người luôn nhắc nhở : "Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên
xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Ðảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ
nhân dân chứ không phải là "quan" nhân dân"(4). Khi Ðảng ta trở thành Ðảng cầm quyền, lãnh đạo toàn
dân vừa kháng chiến vừa kiến quốc, dù ở đâu, làm gì, Người cũng chỉ tâm niệm một điều rằng: "Ðảng ta
là Ðảng cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Ðảng ta không có lợi ích gì khác", "Chính sách của Ðảng
và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân"(5)... Vì vậy, Người luôn chỉ rõ cho
mọi người thấy và hiểu rõ vấn đề cốt lõi của đạo đức cách mạng là: Việc gì lợi cho dân phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân phải hết sức tránh.
Chính trong quá trình ấy, Người đã nêu tấm gương sáng về lòng "tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Lòng trung, hiếu ở Người là nhất quán, trước sau như một. Ngay từ những ngày đầu ra đi tìm đường cứu
nước, hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, cơm no áo ấm cho đồng bào, Người đã vượt qua bao khó
khăn, thử thách. Trong lao tù của bọn thực dân, đế quốc, lòng kiên trung bất khuất, quyết tâm giải phóng
dân tộc, cơm no áo ấm cho đồng bào càng được bồi đắp thêm. Khi đất nước giành được độc lập, Người
"tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào", không muốn "dính líu gì với vòng danh lợi"
mà "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" .
Sau Ðại thắng Mùa Xuân 1975, nhân dân cả nước cùng chung sức xây dựng đất nước. Hậu quả nặng nề
sau chiến tranh và những biến động sâu sắc của tình hình thế giới đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng
kinh tế-xã hội kéo dài, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhiệm vụ của Ðảng là lãnh đạo quần chúng chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đời sống
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, một lần nữa tinh thần "trung với nước, hiếu với dân" của đội ngũ những
người cách mạng được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trung với nước, hiếu với dân trong giai đoạn hiện nay trước hết là trung thành với con đường cách mạng
mà Ðảng ta và Bác Hồ đã chọn, là trung thành với sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là sự thể hiện lương tâm và trách nhiệm của mỗi người trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.
b)Cần,kiệm,liêm,chính,chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí
Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng
không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi của chúng.Ngày nay, ta đề
ra cần kiệm liêm chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho
dân. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội
dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ
trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp
và đưa vào những nội dung mới đáp ứng những yêu cầu của cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm của đạo đức
cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất
có bốn phương, Bác viết:
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh
thần tự lực cánh sinh, không lười biến, không ỉ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.Hiểu sâu sa hơn thì Cần cũng có nghĩa là
làm để nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc lâu dài, để đạt được mục đích đề ra, bởi:
“Nếu mỗi người, mỗi ngày làm thêm một tiếng đồng hồ thì: Mỗi tháng sẽ thêm 300 triệu giờ. Mỗi năm
thêm lên 3.600 triệu giờ… Cứ tính một giờ làm đáng giá một đồng bạc, thì mỗi năm nước ta đã có thêm
được 3.600 triệu đồng. Đưa số tiền đó thêm vào kháng chiến, thì kháng chiến ắt mau thắng lợi, thêm vào
kiến quốc, thì kiến quốc ắt mau thành công”.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của nước, của bản thân mình, tiết
kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức,
…”. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “KIỆM mà không CẦN thì
không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của
cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”. Vì thế, thời giờ
cần tiết kiệm và đó cũng là Cần; “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, cũng
giống như “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi
ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới
đúng là kiệm”
Liêm là phẩm chất của người cán bộ trong thi hành công vụ.LIÊM “là trong sạch, không tham lam” và
“tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”. Chữ LIÊM
phải đi đôi với chữ KIỆM, cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ CẦN, vì “có KIỆM mới LIÊM được.
Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Tham lam sẽ dẫn đến BẤT LIÊM, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM
trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “trước nhất là cán bộ các cơ quan,
các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là
có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư” và “Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết,
không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra LIÊM. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của
mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”.Vì “pháp luật phải thẳng tay trừng
trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành
liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người
không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối
với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ
được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh.Việc gì dù lợi cho mình, phải xét
nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm
một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365
việc.Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to. Cả 20 triệu đồng bào đều làm như vậy, thì nước ta nhất định mau
giàu, dân ta nhất định nhiều hạnh phúc. Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt”.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư
huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Muốn “chí công vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo,
người “giữ cán cân công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính dẫn đến
chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.Đối
với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể
hiện sự văn minh, tiến bộ. Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào
thi đua yêu nước.
Để góp phần chống nạn đói năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào cả nước nêu cao tinh thần tương thân,
tương ái, nhường cơm, sẻ áo: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không
khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn
một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những
người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”. Không chỉ gương
mẫu nhịn ăn, để dành gạo cho vào hũ gạo cứu đói, Người còn bán chiếc áo lụa đồng bào tặng lấy tiền mua
áo ấm tặng cho chiến sỹ trong mùa đông giá rét và đem số tiền tiết kiệm ít ỏi vốn là tiền nhuận bút của
mình để mua nước ngọt tặng cho các chiến sỹ trực phòng không trong những ngày hè nóng bức năm
1967. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện lưu giữ một hiện vật đặc biệt (đăng ký 4875-Gi-1026) -
Đó chính là thư chuyển số tiền 16.000 đồng của Chủ tịch Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng cục Chính trị
để mua thêm nước uống cho bộ đội phòng không trực chiến bên mâm pháo, làm nhiệm vụ bảo vệ bầu trời
của Tổ quốc. Món quà của Người tuy nhỏ nhưng đã kịp thời động viên tinh thần, tiếp thêm sức mạnh cho
các chiến sỹ phòng không, giúp họ vượt qua mùa hè nóng nực và lập nhiều chiến công xuất sắc, bắn rơi
nhiều máy bay Mỹ… Tấm lòng, tình yêu thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào, chiến sỹ
không chỉ thể hiện sâu sắc những giá trị đạo đức cách mạng mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng và tu
dưỡng mà còn thể hiện đậm nét cuộc sống “CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” của Người.
Yêu thương con người được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất tốt đẹp nhất.
Tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp làm nên giá trị vô giá về nhân
cách, phẩm giá, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Tấm gương, di sản mà Người để lại cho hậu thế vẫn
trường tồn với thời gian. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế sâu rộng thì việc học tập và làm theo Bác nói chung, học tập và làm theo tấm gương về tình yêu thương
con người của Bác nói riêng lại càng đặt ra bức thiết.Bác đã từng khẳng định người cách mạng là người
giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con
người mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm áo ấm no và hạnh phúc cho con
người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người
bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng:"Nếu
như không có tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.". Vì vậy, phải hết lòng giúp dân, giúp nước để đem lại tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Đó cũng là mong ước lớn lao của Bác: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.Đó là thông điệp Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến quốc dân đồng
bào, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người.
Tình thương yêu con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối
quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em…nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với
mình; rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng
con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ dĩ hoà vi quý, không phải
hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có
tình, có nghĩa. Năm 1968, khi làm việc với cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách
“Người tốt, việc tốt” nhằm tuyên truyền sâu rộng những gương điển hình tiên tiến trong lao động sản
xuất, trong ứng xử giữa những con người, Bác đã nhắc nhở: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với
nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
nghĩa Mác-Lê nin được”.
Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật giản dị mà cao quý. Tình yêu thương đó
không phải bằng lời nói cao sang hay những khẩu hiệu hô hào chung chung mà bằng chính hành động, lời
nói và việc làm cụ thể. Ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng còn non trẻ
lại phải đối phó với muôn vàn khó khăn, thử thách trước cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng với hạn hán,
thiên tai, lũ lụt, Nhân dân ta rơi vào tình cảnh chết đói ở khắp mọi nơi. Vì vậy, để khắc phục nạn đói,
Người đề nghị Hội đồng Chính phủ phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc quyên góp
cứu đói. Ngày 07/12/1945, trong thư gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản
xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là cách thiết thực để chúng ta giữ vững quyền tự
do, độc lập".Trong khi chờ đợi thu hoạch ngô, khoai, sắn… Người đề xướng phong trào quyên góp “hũ
gạo cứu đói”, kêu gọi đồng bào cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo cứu dân nghèo và Bác đã tự
gương mẫu thực hiện trước. Tại buổi khai mạc cuộc quyên góp tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội, Bác đã
đem phần gạo nhịn ăn của mình quyên góp trước tiên.
Tình thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự chăm sóc, lo lắng đối với đồng
bào, đồng chí, các cụ phụ lão, các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng, các chiến sĩ ngoài mặt trận… Người
đã dành trọn số tiền tiết kiệm của mình mua nước giải khát cho bộ đội phòng không uống. Người chia quà
cho các cháu thiếu nhi vào dịp tết Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi. Mỗi khi có gió mùa Đông Bắc về,
Người nhắc nhở chống rét cho các em nhỏ, các cụ già. Người quan tâm đến những ngày giáp hạt của nông
dân, thấu hiểu nỗi vất vả, khó nhọc của những người lao động và tìm mọi cách để góp phần cho cuộc
sống người dân bớt đi phần vất vả. Những khi làm việc đêm khuya, có bát chè bồi dưỡng, Bác cũng xẻ
đôi cho người chiến sĩ bảo vệ cùng ăn. Lúc đi chiến dịch biên giới, Bác không chịu một mình cưỡi ngựa.
Bác bảo cả bảy người cùng đi bộ, để ngựa thồ hành lý cho anh em đỡ mệt… Những lúc bớt bận rộn, Bác
thường dành thời gian đến thăm các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người nghèo khổ. Thấy các cháu
nhỏ sức khỏe yếu, Bác đề nghị những nhà lãnh đạo địa phương phải chăm lo đến đời sống người dân từ
việc nhỏ nhất.
Bác đã dành tình cảm đặc biệt cho thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Là Chủ tịch nước, dù bận
trăm công ngàn việc, nhưng cứ đến ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, Bác đều gửi thư thăm hỏi thương, bệnh
binh, gia đình liệt sĩ. Những lá thư của Bác chân tình mộc mạc, ai đọc lên cũng cảm nhận được tình
thương yêu vô bờ bến của Người. Trong thư gửi gia đình bác sĩ Vũ Đình Tụng (tháng 01/1947), Bác cảm
ơn gia đình bác sĩ “đã đem món quà quý báu nhất là con mình hiến dâng cho Tổ quốc”. Bác viết: “Tôi
không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt
Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi mất một đoạn ruột…”
Tấm lòng nhân ái, bao dung, tình yêu thương con người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng, tình cảm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho tới trước lúc đi xa, về với “thế giới người hiền”, trong lời Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các
đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”
d)Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt
nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia, dân
tộc.Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhiệt thành, một chiến sĩ quốc tế vĩ đại. Người không chỉ giáo
dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung mà còn là hình mẫu của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ nghĩa
yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Khi bàn về mối quan hệ Việt – Trung, Bác nói: “Mối
tình hữu nghị Việt –Trung/ Vừa là đồng chí vừa là anh em”, nói về mối quan hệ Việt – Lào Bác đã khẳng
định: “Việt, Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”, nói về tình anh em vô sản
thế giới Người từng nhắc nhở “Quan san muôn dặm một nhà/ Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu
biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các
nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền...Hồ
Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư bản cũng như
thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và Nhân Dân lao động, đồng thời
cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai cấp tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận
thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị
áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thôi: tình hữu ái vô sản. Kết luận này cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức
giai cấp đã vươn từ tầm nhìn quốc gia lên tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư
tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người cần lao trên thế giới, luôn gắn liền
lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị Vécxây “Bản yêu sách của Nhân Dân An Nam”, lần đầu tiên xuất
hiện trên vũ đài quốc tế, Người đã thể hiện tư tưởng sát cánh cùng các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự
bình đẳng. Mười năm đầu trong chuyến hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Người đã sớm xác định
cuộc đấu tranh của Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua (12-1920) trở đi, Người
luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân tộc bị áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh
đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Người đã chỉ rõ: các nước thuộc
địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân thì chỉ bằng cách
đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung. Cũng là một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng,
sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ.
Trong những năm tháng Nhân Dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và bảo vệ nền độc lập của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở
châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự ủng hộ
của Nhân Dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của Nhân Dân các nước vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội. Đồng thời, Người còn luôn nhắc nhở Nhân Dân Việt Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của Nhân Dân các nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc
mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận
trước bất cứ một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của
họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”. Đây chính là một bước
phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Vì lẽ đó, Người luôn động viên Nhân
Dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ
vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em .
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: Đối thoại thay cho đối đầu,
nhằm kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bao nhiêu câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói
đi đôi với làm, tự mình làm trước.Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân tiết
kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: "Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin
thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để
cứu dân nghèo”.Những năm Hồ Chí Minh sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế khó khăn, đời
sống nhân dân còn nghèo khó, mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn, Người đề nghị nhà bếp: Cán bộ,
nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, nấu cơm độn cho Người từng ấy, giống như cán bộ, nhân dân.
Trong các chuyến đi thăm các địa phương, nhất là các chuyến đi trong ngày, Người thường mang theo
cơm nắm với muối vừng vì không muốn phiền hà đến cơ sở.Về chỗ ở, Người khước từ ở ngôi nhà sang
trọng của Toàn quyền Ðông Dương trước đây mà chỉ ở ngôi nhà của người công nhân phục vụ; đi dép
lốp, mặc áo vá vai, dùng chiếc ô tô cũ, mà coi đó là “cái phúc của dân, đừng bỏ cái phúc đó đi”. Mùa hè
nóng bức, Hồ Chí Minh dùng chiếc quạt lá cọ, “để dành điện phục vụ cho sản xuất, dành điện phục vụ
sinh hoạt cho nhân dân”.Hồ Chí Minh làm những việc như thế để thực hiện điều Người nói: Cơm chúng
ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy,
chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ mai mãi về sau.
Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ thi đua nhứng tấm gương của những người
tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có
ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: “Người tốt,
việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.Như vậy,
một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo
đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của mỗi người và của toàn xã hội.
4.Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo
đức của mỗi cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng
này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”; là cái cầu nối giữa các thế hệ -
“người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh
niên tương lai”. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên
đã được Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm.
Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định: “thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví
như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì
ích lợi cho xã hội, mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại
gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.Người chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong
đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo
sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách.Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...Khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, không hủ hoá”.
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội, Hồ Chí Minh không phân
biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ, trong
xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng
ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Cũng như các cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp thanh niên, sinh viên trí
thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn
đấu rèn luyện. trong bài nói với Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7 -5 – 1958), những phẩm chất
đó được người tóm tắt trong “sáu cái yêu”:
Yêu tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu thì phải làm sao cho tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giảu
mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhâhn dân còn khổ cực như thế nào, biết
chia sẽ những lo lắng, những buồn vui, những công tác nặng nhọc của nhân dân.
Yêu Chủ nghĩa xã hội: Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
Yêu lao động: Một thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì
không có lao động chỉ là lời nói suông
Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật.
Theo Người, để có những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như:
trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải hỏi nước
nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn
luyện phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. chống thói
quên xem thường lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. chống cách sinh hoạt ủy
mị. chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?
Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?...Người chỉ rõ: “Đối với người, ai làm
gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất cứ ai làm gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức
là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. những
tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù...Điều gì phải,thì phải cố làm cho kỳ
được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”